Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Hà Nội gửi người sang Trung Quốc học lớp cán bộ nguồn : Công chúng lo ngại, chuyên gia nói gì ?

RFA, 30/09/2023

20 cán bộ cấp cao của Thành ủy Hà Nội vừa hoàn thành lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch nguồn cho Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2025-2030, tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

canbo1

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng và đại biểu hai Thành phố dự lễ bế giảng lớp Bồi dưỡng cán bộ nguồn Quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2025-2030 tại Trường Đảng Thành ủy Bắc Kinh.

Học gì bên Trung Quốc ?

Mạng báo Sài Gòn giải phóng  đưa tin này và cho biết thêm rằng, trong bảy ngày của khóa học, từ ngày 19 đến 26/9, các cán bộ của Hà Nội đã được nghiên cứu, trao đổi về tình hình Quảng Châu, tình hình kinh tế vĩ mô của tỉnh Quảng Đông, thực tế Đảng lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ tại Trung Quốc, tình hình xây dựng chính quyền số, luận giải tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.

Thạc sĩ quan hệ quốc tế Nguyễn Thế Phương cho biết cán bộ nguồn là những người có thể được quy hoạch lên làm các chức vụ lãnh đạo từ trung đến cao cấp của tỉnh - thành hoặc trung ương.

Chuyện Việt Nam cử cán bộ đi học tập ở Trung Quốc không có gì là bất thường, mà ngược lại, nó còn xảy ra khá thường xuyên, đặc biệt là ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Bởi vì, ông Phương giải thích, mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc được đặt trên nền tảng là quan hệ chính trị và hai đảng xã hội chủ nghĩa, cho nên Việt Nam thường xuyên cử cán bộ qua học hỏi về lý luận, làm sao để xây dựng tổ chức Đảng và các cơ quan hành chính, làm sao để làm công tác dân vận tốt, làm sao để áp dụng và học hỏi mô hình phát triển lẫn nhau, và trong trường hợp này là Việt Nam học hỏi mô hình phát triển của Trung Quốc ở một số mặt :

"Cái quan trọng nhất ở đây là về mặt lý luận vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình phát triển, đặc biệt là Việt Nam có thể học hỏi gì từ cách mà Đảng cộng sản họ Trung Quốc họ vận hành hệ thống của họ, đặc biệt là Hà Nội là ở cấp độ thành phố.

Ở đây không phải tất cả những gì liên quan đến Trung Quốc đều dở, một số cách mà họ quản trị đáng để học hỏi. Bởi vì nó là một mô hình gần gần với Việt Nam, hai bên có cùng một cái thiết chế và cùng định hướng chính sách chung thì học hỏi kỹ năng quản lý, học hỏi về chính sách phát triển, học hỏi về khả năng hợp tác giữa các thành phố với nhau, học hỏi về mối quan hệ lý luận giữa đảng cầm quyền và người dân…".

Ngoài ra, theo ông Phương, những lần học tập, tiếp xúc giữa cán bộ hai bên cũng là một cơ hội để Việt Nam có thể thu thập thông về tình hình ở Trung Quốc và cũng để xây dựng mối quan hệ cá nhân giữa các lãnh đạo trung và cao cấp giữa hai nước.

Cán bộ được cử đi học ở nhiều nước

Việc cử cán bộ đi học tập, đào tạo ngắn và dài hạn ở nước ngoài không phải là hiếm hoi mà đây chính là chủ trương của Bộ Chính trị. Hồi tháng 8/2022, Bộ này đưa ra mục tiêu mỗi năm cử đi nước ngoài bồi dưỡng khoảng 400 cán bộ cho đến hết năm 2025. Từ năm 2026 - 2030, mỗi năm cử đi nước ngoài bồi dưỡng khoảng 500 cán bộ.

Ông Thế Phương cho biết, mục tiêu của Việt Nam hiện nay là bắt đầu chuyên nghiệp hóa hành chính công nên mở rộng các nước gởi cán bộ sang để đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, đặc biệt là trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, môi trường :

"Gần đây, với mục tiêu là chuyên nghiệp hóa hành chính công thì Việt Nam không chỉ gắn chặt với Trung Quốc nữa mà còn mở rộng ra các nước khác, đặc biệt ở đây là các nước phương Tây ; và Úc nổi lên như là một trong những đối tác quan trọng trong việc trao đổi cán bộ ; nhưng mà Trung Quốc vẫn là đối tác quan trọng nhất bởi vì tính Đảng".

Ngoài Trung Quốc, cán bộ ở tất cả các tỉnh thành còn được cử đi học tập ở các nước như Úc, Anh, Canada, Đức, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nga, Hàn Quốc…

Để thực hiện đề án "Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức Thành phố Hà Nội giai đoạn 2022 - 2025 và định hướng đến năm 2030", Hà Nội cho biết sẽ cử nhiều cán bộ đi học tập  kinh nghiệm tại một số nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Nhật, Singapore… với tổng chi phí khoảng 272,3 tỉ đồng đến hết năm 2025.

Các lĩnh vực được đào tạo bao gồm quản lý công, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, ứng dụng công nghệ thông tin trong chính phủ điện tử, chính quyền số, đô thị thông minh và chuyển đổi số, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách về lĩnh vực khoa học và công nghệ…

Ảnh hưởng gì đến việc bổ nhiệm cán bộ Việt Nam ?

Tuy nhiên, việc cử cán bộ đi học tập ở Trung Quốc khiến dư luận chú ý hơn so với các nước khác. Nhà phân tích tình hình chính trị Việt Nam, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho biết đã có nhiều đợt bồi dưỡng ngắn hạn ở Trung Quốc mà hai đảng đã thỏa thuận với nhau, báo đảng vẫn đưa tin bình thường :

"Còn lần này, vì có Bí thư Thành ủy Hà Nội sang Quảng Châu dự, thì bà con thấy nó mới, lại đăng ở các báo online, nên bà con đọc nhiều".

Ông Thế Phương nhận định, dân chúng quan tâm đến thông tin này là điều bình thường :

"Bởi vì về mặt truyền thông đại chúng mà nói thì người dân không có cảm tình với Trung Quốc và bất cứ một bước đi nào mà công chúng nhận thấy rằng Việt Nam lại gần hơn với Trung Quốc thì họ sẽ có một cảm giác lo ngại, và đây là chuyện hoàn toàn dễ hiểu theo góc độ từ công chúng".

Như vậy, liệu những lo ngại của người dân rằng các lớp học này có ảnh hưởng đến việc quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ cấp cao của Việt Nam trong tương lai hay không.

Theo tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, cán bộ quy hoạch nguồn gồm những cán bộ được đưa vào danh sách để bồi dưỡng để có thể bổ nhiệm hoặc dự kiến bầu vào các vị trí cao hơn :

"Tuy nhiên, quy hoạch là một việc, bổ nhiệm hay không là một việc khác hẳn, ít có liên quan với nhau.

Người ta thường cử các nhóm cán bộ quy hoạch nguồn đi bồi dưỡng ngắn hạn ở nhiều nước, chứ không phải chỉ có đưa sang Trung Quốc. Bồi dưỡng là để mở rộng kiến giải, chứ không phải là để dập khuôn những thứ của Trung Quốc hay của nước nào khác".

Ông Thế Phương cho rằng rất khó để đánh giá về lo ngại của công chúng là những khóa học như thế này có ảnh hưởng gì đến kế hoạch bổ nhiệm cán bộ ở Việt Nam hay không. Tuy nhiên, nó chắc chắn có tác động đến quan hệ hai nước :

"Nó tạo ra một sự kết nối giữa các cán bộ nguồn với nhau. Ví dụ như vấn đề căng thẳng Biển Đông chẳng hạn, thì cái cơ chế giúp Việt Nam và Trung Quốc hạ hỏa chính là nói chuyện giữa Đảng chứ không phải là Nhà nước ; và chính các quan chức cả hai bên đi qua lại thăm viếng lẫn nhau tạo ra mối quan hệ cá nhân và nó tạo ra nhiều kênh liên lạc để có thể hai bên giải quyết những bất đồng, nếu có".

Nguồn : RFA, 30/09/2023

***************************

Ý thức hệ lệ thuộc Bắc Kinh ?

Đông Đô, VNTB, 27/09/2023

Chuyện ý thức hệ lệ thuộc Bắc Kinh không phải là cách nói mơ hồ nữa, mà đó là bài bản với những khóa huấn luyện ở cấp nhà nước giữa hai quốc gia Việt Nam – Trung Quốc. Điều này không lạ, vì cây tre luôn mọc thành bụi. Ngoại giao cây tre cũng được hiểu từ hình ảnh ấy, vì nếu tre lẻ loi thì có lẽ sẽ không có sự vững chãi của nương tựa nữa.

nhansu1

Lễ bế giảng lớp bồi dưỡng quy hoạch nguồn tại Quảng Châu, Trung Quốc đối với 20 cán bộ chủ chốt của Thành phố Hà Nội

Lâu nay không ít ý kiến chỉ trích về ảo tưởng ‘đồng minh ý thức hệ’ giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Sâu xa hơn, hệ lụy trực tiếp của ‘đồng minh ý thức hệ’ không chỉ là những lơ là trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, điều đáng lo ngại là Việt Nam đang lệ thuộc lớn vào đối thủ nguy hiểm nhất của mình về mô hình phát triển, thứ tạo nên nền tảng quyết định tương lai lâu dài của dân tộc Việt Nam.

Những người Việt Nam quan tâm đến Trung Quốc, dù bị chi phối đến đâu bởi lòng tự tôn dân tộc, cũng không thể không nhận thấy những tương đồng căn bản giữa Việt Nam và Trung Quốc trong cả cấu trúc và tổ chức hệ thống chính trị, xã hội lẫn đường lối và chính sách phát triển kinh tế hay nói rộng ra là mô hình phát triển đất nước trong giai đoạn vừa qua.

Sự kiện Việt Nam – Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, tính đến hiện tại thì với những gì đang diễn ra cho thấy vẫn còn nguyên vẹn đó về sự phụ thuộc ý thức hệ của Hà Nội với Bắc Kinh. Điều này chắc chắn còn nằm trong vấn đề cạnh tranh về địa chính trị mà Tập Cận Bình đang ra sức cho giấc mộng bá quyền.

Trung Quốc luôn tuyên bố, biên giới phía Đông của họ trải dài tới Thái Bình Dương, gồm : đảo Đài Loan được coi là "tỉnh ly khai", quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, nhóm đảo Điếu Ngư/Senkaku theo cách gọi của Trung Quốc và Nhật Bản.

Trong khi đó, chính quyền của Tổng thống Joe Biden hoàn toàn bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc và khẳng định quyết tâm bảo đảm an ninh cho Nhật Bản và Philippines theo các hiệp ước đã ký, cũng như có nghĩa vụ lập pháp để bảo vệ Đài Loan trên cơ sở Đạo luật quan hệ với Đài Loan được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1979.

Vì vậy, vùng biển rộng lớn : Biển Hoa Đông và Biển Đông luôn có sự hiện diện của tàu chiến, máy bay của cả Mỹ và Trung Quốc "chạm trán" nhau và luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Cả Mỹ và Trung Quốc đều quyết tâm bảo vệ những gì mà họ xác định là lợi ích chiến lược trong khu vực. Trong khi Trung Quốc luôn chứng tỏ năng lực chiếm hữu và bảo vệ các vùng biển này trước các cuộc phản công có thể xảy ra của Nhật Bản, Đài Loan hay Mỹ, thì Hoa Kỳ luôn phủ nhận tính hợp pháp trong các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc và đảm bảo với thế giới, nhất là các đồng minh rằng, Trung Quốc không thể thực hiện được các yêu sách phi lý đó, kể cả khi họ sử dụng biện pháp quân sự.

Việt Nam thì một mặt lên tiếng phản đối Trung Quốc về những hành động xâm phạm chủ quyền biển, đảo, lãnh hải của Việt Nam, song mặt khác thì lại tiếp tục gửi sang Trung Quốc những "cán bộ nguồn" – "cán bộ được quy hoạch" để Bắc Kinh huấn luyện. Điều này cho thấy có rất ít cơ hội trong thời gian tới về kỳ vọng "thoát Trung" của Đảng cộng sản Việt Nam.

Vì sao cán bộ của Việt Nam lại phải buộc học lớp quản lý theo đường lối của Tập Cận Bình như khóa vừa kết thúc, với tên gọi đầy đủ là "Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch nguồn Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2025-2030 tại Đại học Bách Khoa Hoa Nam, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc" ? (*)

Có ý kiến rằng các thành phần bảo thủ cực đoan trong Đảng cộng sản Việt Nam cho rằng, nếu muốn giữ quyền lực thống trị độc tôn, cách duy nhất là phải học theo cách của Trung Quốc hiện nay. Muốn ổn định chính trị phải nắm giữ quyền lực chính trị, đè bẹp những ai chống đối hay khác chính kiến. Mặc những chính kiến đó có lợi cho quyền lợi quốc gia nhưng nguy hiểm và đe dọa đến quyền lợi cai trị.

Để làm tốt, làm bài bản những công việc giúp giữ quyền lực thống trị độc tôn thì cần có đội ngũ cán bộ được trang bị kiến thức và khả năng ứng xử tương ứng. Vậy thì chọn đưa "cán bộ nguồn" – "cán bộ quy hoạch" của Hà Nội sang để Bắc Kinh huấn luyện là giải pháp tối ưu.

Đông Đô

Nguồn : VNTB, 27/2023

Tham khảo :

(*) Hà Nội Mới – Bí thư Thành ủy Đinh Tiến Dũng dự lễ bế giảng lớp bồi dưỡng cán bộ nguồn tại Quảng Đông (Trung Quốc) – https://hanoimoi.vn/bi-thu-thanh-uy-dinh-tien-dung-du-le-be-giang-lop-boi-duong-can-bo-nguon-tai-quang-dong-trung-quoc-643059.html

*************************

Cán bộ nguồn của Thành ủy Hà Nội được đào tạo tại Trung Quốc

Phú Nhuận, VNTB, 27/09/2023

Trong 7 ngày học tập trung tại Phân hiệu Trường Đại học Bách khoa Hoa Nam, các học viên được nghiên cứu, trao đổi, giới thiệu các chuyên đề về … thực tế Đảng lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ tại Trung Quốc

nhansu2

20 cán bộ chủ chốt của Hà Nội hoàn thành lớp bồi dưỡng quy hoạch nguồn tại Quảng Châu, Trung Quốc

Tin tức "Cán bộ nguồn của Thành ủy Hà Nội được đào tạo tại Trung Quốc" khá sốc với những nhà báo từng là cựu binh tham gia cuộc chiến vệ quốc năm 1978 chống giặc Trung Quốc xâm lược.

"Nếu tui có quyền tui sẽ phạt báo đăng tin này. Một là có thể tin fake : hai, nếu có thiệt thì cũng không nên đăng. Và nếu bạn làm công tác tổ chức, có dám đề bạt những cán bộ nguồn này ?

Tui ở chiến trường K những năm Trung Quốc bắt đầu xâm lược nước ta, số phận những quân nhân dính líu đến ông bạn vàng này ai cũng biết" – một nhà báo đã nghỉ hưu của tờ báo thuộc Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã phản ứng như vậy trong cà phê sáng ở Sài Gòn hôm 26/9-2023.

Theo đó, tờ Hà Nội Mới, cơ quan của Thành ủy Hà Nội có bài báo như sau :

"Chiều 25/9, ông Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố và Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Hà Nội đã dự lễ bế giảng Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch nguồn Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2025-2030 tại Đại học Bách Khoa Hoa Nam, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc".

Tường thuật chi tiết đã đưa đến cảm giác Hà Nội giống như là một tỉnh lẻ trong bộ máy hành chính của Bắc Kinh. Theo bài báo kể trên, "lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch nguồn Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội nhiệm kỳ 2025-2030 tại Đại học Bách Khoa Hoa Nam được tổ chức từ ngày 19/9 đến 26/9-2023. Tham gia lớp học có 20 học viên là cán bộ chủ chốt các sở, ban, ngành thành phố và các quận, huyện, thị được quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2025-2030.

Trong 7 ngày học tập trung tại Phân hiệu Trường Đại học Bách khoa Hoa Nam, các học viên được nghiên cứu, trao đổi, giới thiệu các chuyên đề về tình hình Quảng Châu, tình hình kinh tế vĩ mô của tỉnh Quảng Đông, thực tế Đảng lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ tại Trung Quốc, tình hình phát triển chất lượng cao Vùng Vịnh lớn Quảng Đông, Hồng Kông, Ma Cao, tình hình xây dựng Chính quyền số, luận giải tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới… Ngoài chương trình học lý thuyết, các học viên còn được đi tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát thực tế thông qua các chuyên đề giảng dạy thực địa.

Giảng viên, báo cáo viên lớp học là các chuyên gia, nhà khoa học của Đại học Bách khoa Hoa Nam, Trường Đảng Quảng Châu, Sở Ngoại vụ Quảng Châu có uy tín, trình độ chuyên môn cao.

Phát biểu tại lễ bế giảng, Tổng Thư ký Thành ủy Quảng Châu Biên Lập Minh khẳng định, lớp bồi dưỡng là hoạt động hợp tác thiết thực trong khuôn khổ Bản ghi nhớ tăng cường quan hệ hữu nghị giữa thành phố Hà Nội và thành phố Quảng Châu. Thành phố Quảng Châu với tư cách là cái nôi của cuộc cách mạng dân chủ Trung Quốc và là đội tiên phong trong cải cách và mở cửa của Trung Quốc, hết sức coi trọng cơ hội quý báu này để chia sẻ và trao đổi trực tiếp với thành phố Hà Nội thông qua lớp học lần này.

(…) Ông Đinh Tiến Dũng đề nghị, sau khóa học này, các học viên sẽ tích cực vận dụng sáng tạo, hiệu quả những kiến thức thu được vào thực tiễn công tác, tiếp tục nỗ lực phấn đấu, rèn luyện hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin tưởng, quan tâm của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, sự hỗ trợ, ủng hộ của Thành ủy Quảng Châu.

Không chỉ vậy, với những hiểu biết và tình cảm hữu nghị từ hoạt động này, các ông hãy bắt thêm những nhịp cầu hợp tác giữa hai địa phương và hai nước".

…Từ thực tế trên đã góp phần giải thích vì sao có quá nhiều "cán bộ nguồn" của Việt Nam đã khiến "lò" của Tổng bí thư luôn dư dả củi…

Phú Nhuận

Nguồn : VNTB, 27/09/2023

Tham khảo :

https://hanoimoi.vn/bi-thu-thanh-uy-dinh-tien-dung-du-le-be-giang-lop-boi-duong-can-bo-nguon-tai-quang-dong-trung-quoc-643059.html

****************************

Hà Nội và Bắc Kinh (Trung Quốc) tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực

Trung Sơn-Hà Vũ, Hà Nội Mới, 27/09/2023

Chiều 27/9, tại Thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc), ông Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Hà Nội có cuộc hội đàm với Đoàn đại biểu cấp cao Thủ đô Bắc Kinh do ông Doãn Lực, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Bắc Kinh dẫn đầu.

Thiết kế chưa có tên - 7

Bí thư Thành ủy Bắc Kinh (Trung Quốc) Doãn Lực chào đón Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng tại buổi hội đàm.

Phát biểu tại cuộc hội đàm, ông Đinh Tiến Dũng bày tỏ vui mừng được thăm lại Trung Quốc và Thủ đô Bắc Kinh, chứng kiến nhiều thay đổi to lớn và những thành tựu mới quan trọng của nhân dân Trung Quốc. Trong đó, Bắc Kinh với vai trò là thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng đã có bước phát triển mạnh mẽ, cơ sở hạ tầng hiện đại được đầu tư xây dựng đồng bộ, môi trường sinh thái được cải thiện rõ rệt, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao.

Bí thư Thành ủy Hà Nội tin tưởng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc do Tổng bí thư Tập Cận Bình làm hạt nhân, Đảng cộng sản Trung Quốc, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ tiếp tục mở rộng và làm phong phú con đường hiện đại hóa của Trung Quốc, hoàn thành đúng thời hạn các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội XX Đảng cộng sản Trung Quốc đề ra, thực hiện thắng lợi mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ hai, xây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp.

Ông Đinh Tiến Dũng đim li lch sử quan hệ hữu nghị hai Đảng, hai nước ; bày tỏ cảm ơn sự hỗ trợ to lớn, quý báu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc dành cho Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay.

Ông nhấn mạnh, dưới sự định hướng của hai nhà lãnh đạo cao nhất của hai Đảng trong hơn 10 năm qua, quan hệ hai Đảng, hai nước đã có những bước tiến triển và đạt được nhiều thành quả tích cực, đem lại lợi ích cho nhân dân hai nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Bí thư Thành y Hà Ni nhấn mạnh, chuyến thăm của Đoàn tới Trung Quốc lần này là nhằm tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện nhận thức chung giữa lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước trong chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc từ ngày 30/10 đến ngày 1/11/2022, góp phần duy trì trao đổi, tiếp xúc cấp cao và tăng cường quan hệ giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, trong đó có hai Thủ đô hai nước.

Ông Đinh Tiến Dũng cũng nêu mt s đề xut thúc đẩy quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai Thủ đô trong thời gian tới, như sau :

Một là, tiếp tục duy trì trao đổi, tiếp xúc cấp cao, nhất là cấp cao nhất, nhằm không ngừng củng cố, tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, chỉ đạo và định hướng quan hệ Việt - Trung phát triển lành mạnh, ổn định.

Hai là, tiếp tục quán triệt thực hiện nhận thức chung giữa hai ông Tổng bí thư và Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc, ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao hai bên về phương hướng, biện pháp lớn nhằm tăng cường hợp tác thực chất giữa hai bên trên các lĩnh vực, khuyến khích các địa phương hai nước tăng cường giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi.

Ba là, tập trung thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác giữa hai Thủ đô; nghiên cứu triển khai hiệu quả Bản ghi nhớ hợp tác giữa thành phố Hà Nội và thành phố Bắc Kinh ký năm 2022 vừa qua và các Bản ghi nhớ hợp tác chuyên môn, chuyên đề ký giữa các cơ quan, đơn vị của hai thành phố, tập trung vào các dự án, hoạt động hợp tác cụ thể, phù hợp nhu cầu thực tế và năng lực của mỗi địa phương, đem lại lợi ích thiết thực.

Tăng cường tiếp xúc, giao lưu đối ngoại ở tất cả các cấp; thiết lập và duy trì cơ chế thông tin, trao đổi thường xuyên giữa các cơ quan. Khuyến khích các cơ quan nghiên cứu, đề xuất các hình thức hợp tác mới, linh hoạt. Nhân rộng và xây dựng kế hoạch hợp tác dài hạn đối với các mô hình hợp tác hiệu quả đã được thử nghiệm và khẳng định thực tế. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về ý nghĩa, tầm quan trọng của quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung Quốc cũng như quan hệ hợp tác hữu nghị Hà Nội - Bắc Kinh.

Thúc đẩy giao lưu nhân dân, tăng cường hiểu biết lẫn nhau và củng cố tình cảm hữu nghị. Nghiên cứu triển khai các hoạt động có ý nghĩa kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Hà Nội và Bắc Kinh, tạo không khí phấn khởi, đoàn kết và thúc đẩy một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ giữa hai Thủ đô.

Đại diện các cơ quan hai bên ký kết bản ghi nhớ hợp tác về đào tạo cán bộ, quy hoạch đô thị, y tế, bảo tồn di sản, thể thao, điện ảnh và giao lưu thanh, thiếu niên.

Nht trí cao vi ý kiến của Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng, ông Doãn Lực khẳng định, Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Hà Nội thăm và làm việc tại Trung Quốc, trong đó có Thủ đô Bắc Kinh lần này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 15 năm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện và 29 năm kết nghĩa giữa Hà Nội và Bắc Kinh.

Chia s mc tiêu, nhim v chiến lược phát trin Th đô Bc Kinh trong nhng năm ti, ông Doãn Lc khng định, trong tiến trình phát trin hin nay, Bc Kinh và Hà Nội có nhiều cơ hội và điều kiện tăng cường hợp tác hữu nghị vì lợi ích chung của hai thủ đô, hai đất nước.

Bắc Kinh với bề dày văn hóa và những kinh nghiệm bảo tồn, tôn tạo các công trình di sản, các giá trị văn hóa lịch sử và phát triển đô thị, đặc biệt là phát triển hạ tầng giao thông, xây dựng và vận hành hệ thống 27 tuyến đường sắt đô thị sẵn sàng chia sẻ, hợp tác với Hà Nội.

Ông Doãn Lực đánh giá cao việc hai thủ đô đã thống nhất ký kết bản ghi nhớ tăng cường hợp tác trên 6 lĩnh vực; nhất trí cao cùng với Hà Nội thúc đẩy hợp tác đi vào chiều sâu, tăng cường giao lưu nhân dân cùng vun đắp nền tảng hữu nghị vững chắc dựa vào nhân dân.

Tiếp đó, lãnh đạo hai thành ph đã chng kiến l ký kết 6 Bn ghi nh hp tác chuyên đề trong các lĩnh vc đào to cán bộ, quy hoạch đô thị, y tế, bảo tồn di sản, thể thao, điện ảnh và giao lưu thanh, thiếu niên.

Trung Sơn – Hà Vũ

Nguồn : Hà Nội Mới, 27/09/2023

Published in Diễn đàn

Việt Nam "nhún nhường" hay lệ thuộc Trung Quốc trong vấn đề thương mại ?

Hồ Bá Kiện, RFA, 14/09/2021

Ngôn ng qu lụy

Gn đây, trong nhng ln các lãnh đo Vit Nam gp lãnh đo Trung Quc thì báo chí đu đưa tin vic lãnh đo Vit Nam có mt ip khúc", đó là : ngh Trung Quc to thun li v th tc thông quan cho hàng hóa Vit Nam, đc bit là nông sn qua các ca khu biên gii, m rng các mt hàng hoa qu xut khu chính ngch ca Vit Nam, góp phn cân bng cán cân thương mi song phương, duy trì chui cung ng và sn xut ca hai nước ; phi hp thúc đy các d án hp tác như tuyến đường st trên cao Cát Linh - Hà Đông và mt s d án v dân sinh do Trung Quc vin tr đt tiến trin thc cht và sm đưa vào s dng" (1).

thoattrung1

Container hàng hóa xếp hàng ở cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn chờ sang Trung Quốc hôm 20/2/2020 - Reuters

Nhiu người s bin minh rng, Vit Nam là mt nước nh, li là láng ging ca Trung Quc nên vic Vit Nam nhún nhường trước Trung Quc đ đt được li ích cho mình. Tuy nhiên, nhún nhường đ giành li ích thì cn khuyến khích, nhưng l thuc vào thương mi Trung Quc thì li là mt vn đ khác. Vi các phát ngôn ca lãnh đo Vit Nam như trên cho thy s tht là Vit Nam đang rt l thuc vào thương mi vi Trung Quc.

Vũ khí thương mi ca Trung Quc

Trung Quc có truyn thng s dng thương mi như mt vũ khí đ trng pht các quc gia có tranh chp vi h. Ví d, năm 2010, Bc Kinh đã áp lnh cm xut khu đt hiếm sang Nht Bn sau khi Tokyo bt gi thuyn trưởng tàu cá Trung Quc gn qun đo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chp. Cui năm đó, Trung Quc đã phn ng d di khi y ban trao gii Nobel Hòa bình có tr s ti Oslo tiết l rng h s vinh danh nhà bt đng chính kiến Trung Quc Lưu Hiu Ba, dn ti vic Na Uy phi dng xut khu cá hi đông lnh sang Trung Quc. Trong thi gian đi đu bãi cn Scarborough năm 2012, Trung Quc đã áp đt các bin pháp hn chế nhp khu đi vi chui t Philippines. Sau khi Hàn Quc cho phép M trin khai H thng tên la phòng th tm cao giai đon cui (THAAD) năm 2017, Trung Quc đã thc hin chiến dch tr đũa kinh tế mnh m, bao g m vic hn chế khách du lch Trung Quc đến Hàn Quc và hn chế phân phi các sn phm ca Hàn Quc như thiết b gii trí, m phm và xe hơi trên th trường ni đa. Sau khi Th tướng Australia Scott Morrison kêu gi tiến hành mt cuc điu tra quc tế v ngun gc ca đi dch Covid-19 năm 2020, Trung Quc lin áp đt lnh cm nhp khu tôm hùm t Australia, nh hưởng đến 96% tng lượng tôm hùm mà nước này xut khu sang th trường Trung Quc. Sau đó, Trung Quc còn áp đt các bin pháp hn chế nhp khu than, tht, bông, len, lúa mch, lúa mì, g, đng, đường và rượu vang t Australia.

Lá bài thương mi đ kim chế Vit Nam trong vn đ Biển Đông

Vit Nam đã l thuc thương mi vào Trung Quc trong mt thi gian dài, k t khi quan h hai nước được bình thường hóa. Ch sau khi S kin Giàn khoan HD 981, Vit Nam mi cm nhn được tính cp bách ca vic đa dng hóa quan h kinh tế đ gim s l thuc vào Trung Quc và có th gim thiu ri ro do Bc Kinh to ra. Tháng 5/2014, Bc Kinh đã đưa giàn khoan khng l HD 981 vào vùng đc quyn kinh tế (EEZ) ca Vit Nam, gây ra làn sóng biu tình chng Trung Quc Vit Nam. Trung Quc đã ban hành cnh báo du lch và sơ tán nhiu công dân nước này. S lượng khách du lch Trung Quc đến Vit Nam đã gim mt na trong nhng tháng tiếp theo. Cuc khng hong đã làm dy lên nhng tho lun công khai chưa tng có v mc đ và hu qu ca nhng tn tht kinh tế mà Vit Nam phi gánh chu do l thuc vào Trung Quc.

thoattrung2

Biu tình phn đi Trung Quc môt khu công nghip ti Bình Dương hôm 14/5/2014. Reuters

S kin Giàn khoan năm 2014 không ch là căng thng duy nht trong quan h Vit - Trung v vn đ Biển Đông. Hàng lot các hành vi hung hăng ca Trung Quc ngày càng gia tăng trên Biển Đông khiến Vit Nam lo ngi. Vit Nam đã nhiu lúc mun đi theo con đường ca Philippines đã làm, đó là khi kin Trung Quc ra trước Tòa án quc tế, nhưng các lãnh đo Vit Nam vn luôn do d bi e ngi s trng pht t Bc Kinh, trong đó có trng pht thương mi.

V cơ bn, Vit Nam vn là mt quc gia nông nghip vì thế, nông sn là mt hàng xut khu ni tri trong tng kim ngch xut khu Vit Nam thi gian qua. Nhng năm gn đây, nông sn Vit Nam mc dù đã xut khu đi nhiu nước trong khu vc và thế gii, nhưng vn ph thuc khá nhiu vào th trường Trung Quc. Mi khi th trường hơn mt t dân này "ht hơi, s mũi", hàng nông sn Vit li b ùn ti các ca khu.

Bin pháp đ Vit Nam thoát khi s l thuc vào Bc Kinh

Vit Nam đang có cơ hi thoát ra khi s l thuc thương mi vào Trung Quc. Mt trong nhng gii pháp hiu qu nht đ gim ph thuc kinh tế vào Trung Quc là đa dng hóa th trường. Chính vì vy, k t năm 2014 tr li đây, Hà Ni đã n lc ch đng gim ph thuc thương mi vào Bc Kinh. Đc bit, Vit Nam đã ký mt lot Hip đnh thương mi t do (FTA) vi nhiu quc gia nhm đa dng hóa quan h kinh tế và gim thiu nguy cơ tn tht v kinh tế trước nh hưởng ca Trung Quc.

Vi quan h Vit - M đang phát trin mnh m, M đang thay thế Trung Quc tr thành th trường quan trng cho các mt hàng nông sn ca Vit Nam. S liu t B Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết M đã vượt qua Trung Quc, tr thành th trường xut khu nông lâm thy sn ln nht ca VN, trong khi trước đây v trí này luôn thuc v Trung Quc. C th, kim ngch xut khu nhng mt hàng này sang M đt khong 2,04 t USD, tăng hơn 57% so vi cùng k năm ngoái. Trong khi đó, kim ngch xut khu sang Trung Quc ước ch đt 1,88 t USD (2).

Tuy nhiên, trong mt nghiên cu mi đây(3), tác gi Tran T Bich đã cho biết, nhng n lc ca Vit Nam nhm gim ph thuc thương mi vào Trung Quc thông qua các FTA vn chưa mang li kết qu như mong đi. Sau mt năm thc hin CPTPP, thâm ht thương mi ca Vit Nam vi Trung Quc trong năm 2019 tiếp tc tăng và đt mc cao k lc 32 t USD, tăng 36% so vi năm 2018. Cũng trong năm 2019, Vit Nam nhp khu 35,73 t USD tư liu sn xut và 26,60 t USD hàng hóa trung gian t Trung Quc, ln lượt chiếm 47,26% và 35,20% tng kim ngch nhp khu t Trung Quc.

Điu này được tác gi Tran T Bich lý gii là vì c CPTPP và EVFTA mi ch có hiu lc trong mt thi gian ngn, nên Vit Nam có th cn nhiu thi gian hơn đ khai thác mt cách hp lý li ích t các hip đnh này. Trong khi đó, Vit Nam cn ch đng thc hin các bin pháp nhm nâng cao mc đ khai thác li ích ca hai hip đnh này. Ngoài ra, Vit Nam cũng cn đy mnh ci cách th chế và kinh tế trong nước phù hp vi các cam kết nhm tăng cường kh năng phc hi kinh tế tng th ca mình.

Kết lun

Trong nn kinh tế toàn cu, Vit Nam không th đc lp hoàn toàn vi Trung Quc và ngược li. Tuy nhiên, đ tránh ri ro cho an ninh ca chính mình, Vit Nam không th l thuc quá nhiu vào Trung Quc. Trước mt, Vit Nam cn phi c gng t sn xut nhng hàng hóa tiêu th hàng ngày, dn to ni lc tiến ti hình thành các chui cung ng hàng hóa, to ra các sn phm xut khu có giá tr gia tăng cao. Đ làm được điu này, cn có s góp sc, quyết tâm ca toàn xã hi. Cùng vi s ng h ca người tiêu dùng Vit Nam, cn b thói quen mua hàng r, hàng kém cht lượng và không an toàn ca Trung Quc, h tr, dùng hàng Vit Nam nht là trong bi cnh Trung Quc đang nhòm ngó, tranh giành vùng bin đo ca Vit Nam. Và quan trng hơn hết là Vit Nam cn tái cơ cu, ci c ách th thế cho phù hp vi nhp đ phát trin ca thế gii. Chính ph cn quyết tâm loi b các"ung nht" ra khi cơ th, chp nhn khó khăn ban đu đ tng bước có th đng vng trên đôi chân ca mình.

Hồ Bá Kiện

Nguồn : RFA, 14/09/2021

**********************

Nông sản nội địa ùn ứ, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng mạnh

RFA, 14/09/2021

Hàng chc nghìn tn nông sn trong nước ùn do nh hưởng bi giãn các xã hi đang cn h tr tiêu th gp. Báo Nhà nước đưa tin ngày 13/9.

thoattrung3

Cảnh buôn bán ở một chợ rau sỉ năm 2019. AFP

Tin cho biết, nhiu mt hàng nông sn, rau, c qu, gia cm và thy sn vi khi lượng hàng chc nghìn tn trên đa bàn tnh Vĩnh Long đã thu hoch nhưng không tiêu th được vì giãn cách xã hi. C th, mi ngày có trên 1.900 tn hoa qu tươi ; trên 300 tn khoai lang tím ; gn 70 ngàn con gia cm ; hơn 2.000 tn hi sn ; hơn 535 tn go, thóc cn tiêu th. Mt s h thng phân phi ln như Saigon Co.op, Bách hóa xanh, Big C đã liên kết vi các h nông dân trên đa bàn tnh Vĩnh Long đ h tr tiêu th trung bình mi ngày 20 tn nông sn khoai lang, nhãn, rau c qu

Trong khi đó, ch trong 8 tháng năm 2021, các mt hàng nông lâm thu sn nhp khu t Trung Quc tăng hơn 50% so vi cùng k năm ngoái. Hin Trung Quc là th trường xut khu nông sn sang Vit Nam ln th 3, chiếm chiếm 7,3% tng giá tr nhp khu nông sn 8 tháng qua vi kim ngch đt 2,1 t đô la.

C th, hàng rau qu nhp khu t Trung Quc đt 236 triu USD tăng 34,4% ; thy sn đt gn 103 triu USD, tăng 39%. Trên mng, rau qu Trung Quc như táo, nho, lu, dưa đang được rao bán tràn lan, có loi giá ch vài ngàn đng mt ký như táo đá.

Vi mc giá ch khong 10.000 đng cho mt ký táo này, người mua t mua tng thùng v ăn. S tiêu th qua dân buôn được nói hàng tn, thm chí c gn chc tn táo mi ngày.

Nguồn : RFA, 14/09/2021

Published in Diễn đàn

Bà Kamala Harris đến 2 nước Đông Nam Á đ xác đnh : "Chúng tôi không mun xung đt, nhưng có nhng vn đ như vùng Bin Nam Hi chúng tôi cn phi lên tiếng".

thoat1

Bà Harris hp báo ti Hà Ni trước khi ri Vit Nam v M, 26 tháng Tám.

Ti Singpore, bà Harris t cáo Bc Kinh chiếm đot bt hp pháp vùng bin Đông Nam Á bng "cưỡng ép và đe da" (coercion and intimidation) ; cho nên các nước trong vùng cn chng li mnh hơn.

Hà Ni, Harris tiếp tc "phn đi chính sách chèn ép ca Trung Quốc đ chiếm đot các vùng bin". Mt cách c th, "Chúng ta phi tìm cách to áp lc, tăng thêm áp lc (to pressure, raise the pressure), buc Bc Kinh phi tuân th Công ước Lut Bin ca Liên Hip Quc (UNCLOS).

Năm 2013, Philippines đ đơn thưa kin ti Liên Hip Quc không cho Trung Quốc áp đt mt "biên gii m rng" bng ường Chín Đon" (Cu đon tuyến). Năm 2016, mt hi đng tài phán, căn c trên UNCLOS, đã phán cho Philippines thng kin. Trung Quốc t chi tôn trng phán quyết này mc dù h đã tham d đàm phán v Công ước Lut Bin UNCLOS t 1973 đến 1982, và năm 1996 đã chính thc ký kết.

Bây gi, Bà Harris nhc ti phán quyết Liên Hip Quc đ kêu gi các nước Đông Nam Á cùng to áp lc vi Bc Kinh. Bà chn đến hai nước, vì Vit Nam b Trung Quốc chèn ép thô bo nht và Singpore vn t ra đc lp đi vi Trung Quốc nht. Singpore vn nhn chiến hm M ghé hi cng Changi hàng trăm ln mi năm.

Đáng l Bà Harris phi nhc nh phán quyết Liên Hip Quc vi Philippines. Nhưng

Tng thng Rodrigo Duterte vn chưa dt khoát dù đã hoàn toàn tht vng sau 5 năm b M đ kết thân vi Tp Cn Bình. Trung Quốc ha hn 9 t m kim h tr phát trin (ODA) và 15 t USD đu tư trc tiếp, đ xây dng h tng cơ s. Lúc đu có 55 d án, năm 2017 tăng lên 75 và ba năm sau thành 104 d án nhưng chưa thy kết qu nào đáng k. Con đường xe la mà Duterte mong Bc Kinh tài tr 1,64 t m kim vn chưa thành hình Mindanao, quê hương ca chính ông ta. Ngày 10 tháng Tám, b Tài chánh Philippines tuyên b mi ký hp đng 7,95 t đô la trong chương trình ODA, nhưng trong đó Nht Bn cung cp 6,12 tỷ USD.

Tp Cn Bình vn cho tàu chiến và tàu đánh cá xâm nhp hi phn Philippines. Duterte đang b dân Phi chế nho, gi là mt con "chó cnh" (tuta) ca Bc Kinh. Sang năm ông Duterte s mãn nhim và hiến pháp không cho phép tranh c thêm. M ch người kế nhim thay đi chính sách vi Trung Quốc.

Bà Kamala Harris nhc li phán quyết ca Liên Hip Quc da trên Lut Bin UNCLOS, xác đnh ch trương hành đng theo lut pháp quc tế. Ông Joe Biden đã nhn mnh M mun xây dng mt thế gii da trên lut pháp, thay vì dùng vũ lc, như Nga đã thi th Ukraine và Trung Quốc Tây Tng, Tân Cương và vùng bin Đông Nam Á. M chính thc quay tr li Đông Nam Á Châu, vi Công ước Lut Bin UNCLOS.

Ngoi trưởng Hillary Clinton là người nêu ra khu hiu "chuyn trc v Á Châu" vào năm 2010. Năm 2012, Tng thng Barack Obama chính thc công b chính sách này. Sau đó ông đã đưa thêm mt hàng không mu hm t Đa Trung Hi qua Thái Bình Dương đ tăng cường cho Hm đi 7. Quyết đnh quan trng nht là M ký kết Hip ước Đi Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) vi 11 quc gia, mà không mi Trung Quốc tham d. Ch trương "chuyn trc" sau đó không tiến thêm được vì nước M lo các vn đ Afghanistan, Iraq và vùng Trung Đông, li còn phi đi phó Nga bành trướng thế lc Ukraine và Syria.

Năm 2017 Tng thng Donald Trump đã rút ra khi hip ước TPP. Nhưng 11 nước còn li vn ký kết vi nhau mt hip ước mang tên CPTPP. Trung Quốc cũng vn đng lp vào ch trng vi Tha ước RCEP cùng các nước ASEAN, Nht Bn, Nam Hàn, Australia và New Zealand ; n Đ t chi tham d. RCEP rt lng lo, không đ cao t do cnh tranh, không bo v các nghip đoàn và khuyến khích phát minh, sáng chế như CPTPP. Các nước Đông Nam Á d vào c hai tha ước trên, chng t h không nht thiết tùy thuc M mc dù M vn là th trường hp dn nht.

Hip ước mi CPTPP đã b bt nhiu điu khon trong TPP nhm bo v quyn li công nhân hoc môi trường sng vì M ép các nước khác phi chp nhn ; cho nên bây gi chính ph M không th tham d.

Nhưng Joe Biden đã cho thy chính sách chuyn trc thi Obama s tiếp tc. B trưởng Quc phòng Lloyd Austin và Th trưởng Ngoi giao Wendy Sherman đã đến thăm Vit Nam.

Biết các nước Đông Nam Á đang trông đi gì M ; cho nên Bà Harris chn mt ngày nói chuyn v bnh dch Covid-19, trong mt phiên hp trc tuyến vi các b trưởng y tế các nước ASEAN. Bà khai trương mt tr s vùng ca Trung tâm Kim soát và Phòng nga bnh Dch (CDC) ti Hà Ni. Đó cũng là mt cách nhc nh mi người nh căn bnh này phát xut t Vũ Hán mà chính quyn Bc Kinh tìm cách che giu quá lâu cho nên c thế gii b lâm vào cnh bt ng. Văn phòng CDC ca M đt ti Hà Ni s có th dùng làm nơi cung cp các th thuc tr bnh dch và vaccine trong thi gian ti. Đó cũng là mt vũ khí cnh tranh hu hiu vi Trung Quốc.

Kamala Harris đã ha vin tr thêm cho Vit Nam mt triu liu thuc chng Pfizer-BioNTech sau 2 triu liu Moderna đã tng. Trong ngày bà đến thăm Vin V sinh và Bnh Truyn nhim, Hà Ni, 270,000 liu thuc được đưa ti ; Harris đng bên cnh các thùng thuc này, nhc nh đây là "vin tr vô điu kin !".

Hin nay Vit Nam là nước chng vacine ít nht trong vùng, ch có 2 đến 3% dân s 98 triu. Trước khi bà Harris đến, đi s Trung Quốc Hà Ni đã ha hn tng Vit Nam 2 triu liu thuc chng ; chng t Trung Quốc lo lng đi phó vi cuc "tn công" vaccine ca M. Nhưng dân Vit không my tin tưởng vào hiu qu ca các vaccine Sinovac và Sinopharm.

Nếu chính quyn Biden mun gim bt gánh nng min Trung Đông, chuyn trc tr li Đông Nam Á, h nên tng vaccine M cho tt c các nước trong vùng. Người ta s so sánh mt cường quc vi tiến b khoa hc y tế sn sàng giúp các nước khác ngăn bnh dch, trong khi nước láng ging cng sn đ cho bnh dch n ra thì ch đè nén các nước khác !

Bà Harris đã nói công khai rng chính ph M mun mi bang giao chuyn t "hp tác toàn din" sang "hp tác chiến lược", nghĩa là có th hp tác quân s. Bà ha M s đưa nhiu chiến hm và hàng không mu hm ghé bến Vit Nam đ chng t quyết tâm bo v vic thông thương t do, bác b Đường Chín Đon ca Bc Kinh. Bà cũng ha giúp Vit Nam vi 24 tàu tun duyên ; giúp hun luyn nhân viên và hp tác thao din tăng cường sc mnh đ tun tiu gi an ninh trên bin. Báo chí trong nước vi vàng nhc li ch trương "ba không", trong đó Vit Nam không liên minh vi mt nước đ chng nước khác.

Nhưng Vit Nam có th thúc đy vic chuyn trc ca M nhanh hơn đ được li. Trước hết là thay thế hàng Trung Quc đang b M cm. S hàng t Vit Nam sang M đã chiếm 30% tng s xut cng trong tháng Tư năm nay.

Vit Nam đang tr thành mt cái nút quan trng trong Dây chuyn Tiếp liu cht bán dn, bù đp cho cnh thiếu ht vì chui tiếp liu t Trung Quc b ngưng tr trong mùa đi dch. Tháng Giêng 2021 Công ty Intel đã b vào thêm 475 triu đô la, sau khi đã đu tư mt t đô la đ xây dng nhà máy sn xut và th nghim các con "chíp" thuc loi tân tiến nht Saigon Hi-Tech Park, dùng trong các h thng 5G. Năm 2020 Intel đã chuyn 2 t đơn v chíp t Vit Nam đi các nước khác.

Nhưng kinh tế Vit Nam vn còn l thuc Trung Quốc, sau na thế k đóng vai chư hu không dám dt b. Giao thương vi Trung Quc vn ln nht so vi tt c các nước khác. Phn ln máy móc thiết b và nguyên liu sn xut vn tùy thuc nước cng sn đàn anh. Không phi ch có người dân Vit mun "Thoát Trung" mà c nn kinh tế Vit Nam nếu mun tiến b cũng cn dt khoát "Thoát Trung !" M chuyn trc tr li Á Châu là mt cơ hi thc hin ước vng này.

Ngô Nhân Dụng

Nguồn : VOA, 30/08/2021

Published in Diễn đàn

Việt Nam từ năm 1954 đến nay luôn tự hào là một nước "độc lập, tự do" nhưng thực chất không có độc lập bao nhiêu đối với anh láng giềng lớn Trung Quốc. Vì thế, mấy năm gần đây, rất nhiều vị nhân sĩ trí thức đã bàn tới vấn đề "thoát Trung" một cách hết sức khẩn thiết và tâm huyết, coi đây như một trong những điều kiện chính trị quan trọng để Việt Nam có thể định hướng lại đường lối chính sách phát triển đất nước của mình một cách tự chủ hợp lý hiệu quả hơn thay vì nếu để ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc cứ tiếp tục úp chụp lên đầu mình như một vòng kim cô thì Việt Nam muốn cựa quậy theo ý riêng gì cũng không thể cất đầu lên được.

thoattrung0

Ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc cứ tiếp tục úp chụp lên đầu mình như một vòng kim cô thì Việt Nam muốn cựa quậy theo ý riêng gì cũng không thể cất đầu lên được.

Trước hết, cần xác định thật rõ, thoát Trung không có nghĩa là chống Trung Quốc. Xu hướng chính của thời đại toàn cầu hóa hiện nay là hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi chứ không phải tìm cách chống nhau, gây khó khăn cho nhau. Hơn nữa, kinh nghiệm đời cho thấy, họ hàng xa không bằng láng giềng gần, sống hòa bình hợp tác với láng giềng thì bao giờ cũng có lợi cho người dân của cả hai phía.

Trong quan hệ cả về lịch sử lẫn địa lý, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước rất gần gũi, có chung đường biên giới dài gần 1500 km ở phía Bắc, với những mối quan hệ mật thiết từ lâu đời về các mặt văn hóa, chính trị, kinh tế… Trong quá khứ, phải khách quan thừa nhận Trung Quốc là nước lớn đàn anh, có nhiều mặt mạnh hơn so với Việt Nam, nên Việt Nam qua các triều đại phong kiến phải chịu đóng vai thần phục và triều cống Trung Quốc theo đạo quân thần, cũng giống như Nhật Bản, Triều Tiên, Miến Điện, Lào, Thái Lan… xưa kia vậy. Trong trật tự phong kiến đó, sự chấp nhận ngôi thiên tử của nước lớn Trung Quốc được coi như điều tự nhiên không ai thắc mắc ; nhưng ngược lại, thiên tử cũng có trách nhiệm với nước nhỏ theo đạo "nhu viễn" nghĩa là mềm mỏng vỗ về các dân tộc hoặc nước phương xa làm cho họ chấp nhận theo về với mình, để các bên đều có lợi. Chính sách này cũng đã được các triều đại phong kiến Việt Nam áp dụng y chang đối với một số nước lân cận nhỏ hơn (như Chiêm Thành, Chân Lạp, Vạn Tượng, Thủy Xá, Hỏa Xá…), chứ không có chuyện nước lớn đem giàn khoan hay tàu hải giám, hải cảnh… ngang nhiên xâm lấn lãnh hải các nước nhỏ trong khu vực biển Đông như nhà cầm quyền Trung Quốc bây giờ đang làm.

Xem sách Thanh thực lục, chúng ta sẽ thấy được chính sách "nhu viễn" của các nhà cầm quyền Trung Quốc thời xưa có vẻ khôn ngoan nhân đạo hơn đường lối "bá đạo" bá quyền hiện nay của họ. Chẳng hạn, khi nghe quan địa phương báo cáo về chuyện tranh chấp vài miếng đất nhỏ ở vùng biên giới Trung-Việt (bắc Việt Nam), vua Khang Hi (một vua tài giỏi được nhân dân Trung Quốc rất kính phục) liền hạ ngay chiếu chỉ, đại khái nói : "Ðất này quả có lợi ư, thế thì Thiên triều lẽ nào lại nên tranh lợi với nước nhỏ ? Nếu không có lợi ư, thế thì lại cần gì phải tranh chấp với họ ? Bụng Trẫm chỉ muốn lấy đại công chí chính làm hẹn, coi [mọi người] trong nước ngoài nước đều là con đỏ. Vả lại hai đất giáp giới liền cõi, rất dễ xảy ra xích mích, càng nên khéo xử để vỗ về an ủi tỏ sự quan tâm đến họ, không chỉ làm cho dân nước họ được yên, mà cũng chính là để làm cho dân ta được yên… Những hành động tham lợi muốn cầu may lập công, đều không đáng làm bài học…" (1).

Về phía Việt Nam, theo nhận định rất chính xác của cụ Trần Trọng Kim, viết trong lời Tựa sách Việt Nam sử lược, Thời đại tự chủ của Việt Nam được kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến đầu nhà Hậu Lê, "nước mình từ thời đại ấy về sau là một nước độc lập, tuy đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm phạm đến cái quyền tự chủ của mình" (2).

Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử của thế giới nói chung và của Việt Nam-Trung Quốc nói riêng hiện nay đã có khác. Trung Quốc với gánh nặng đông dân như từ trước tới nay thì khuynh hướng chung của họ là bắt buộc phải bung ra bên ngoài để tìm một sinh lộ, tập trung trước hết vào các nước lân cận ở vùng Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, và đây là chủ trương đã có từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi lãnh tụ Mao Trạch Đông còn đầy quyền uy ở Trung Quốc. Họ đã tiếp nối thực hiện ý đồ này bằng hai cách : vừa trắng trợn đánh chiếm (Hoàng Sa…), vừa áp dụng chính sách xâm thực dần dần dưới hình thức đấu thầu các hạng mục đầu tư khai thác, thuê đất, cho người Trung Quốc tràn vào ở hợp pháp hoặc không hợp pháp dưới sự quản lý rất lỏng lẻo của các nhà cầm quyền địa phương Việt Nam.

Trước đây, các nhà đương cuộc phía Bắc Việt Nam (chứ không phải toàn thể nhân dân Việt Nam) tuy có "mang ơn" nhận viện trợ của Trung Quốc để "chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam", nên có mối ràng buộc lệ thuộc tình nghĩa, nhưng Trung Quốc giúp Việt Nam không phải hoàn toàn vô tư hoặc không có ý đồ bành trướng xấu xa, và lịch sử đã nhiều lần chứng tỏ, họ sẵn sàng lấn lướt xâm phạm lãnh thổ nước ta vì quyền lợi của họ. Cho nên, khi hòa bình lập lại, quan hệ giữa hai nước có thể vẫn cần thân thiện hữu nghị trên cơ sở hợp tác bình đẳng các bên cùng có lợi nhưng không thể là quan hệ chủ-tớ "thần phục" mãi mãi được.

Nay Trung Quốc và Việt Nam, ngoài miệng nói "bốn tốt mười sáu chữ vàng" thì rõ thật đáng buồn cười !Năm 1974, Trung Quốc đã cưỡng chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam ; năm 1979, lại mang đại quân ồ ạt tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam dưới danh nghĩa "dạy cho Việt Nam bài học" nhưng bị nhân dân Việt Nam giáng trả quyết liệt, trong vòng một tháng phải rút về, sau đó họ còn tiếp tục lăm le uy hiếp lai rai Việt Nam ở các vùng biên giới phía Bắc và một số biển đảo, nhưng cái hèn của nhà cầm quyền Việt Nam là giấu tịt đi không muốn cho dân biết. Đợi đến khi Trung Quốc quậy dữ quá ở biển Đông mấy năm gần đây thì mới cho báo chí đưa tin. Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam năm 1980 gọi thẳng Trung Quốc là "bọn bá quyền xâm lược", thì chẳng còn mơ hồ gì nữa, Việt Nam đã có lúc công khai coi Trung Quốc như một mối đe dọa nguy hiểm và thường trực cần phải đề cao cảnh giác với mức độ cao nhất.

Trung Quốc xâm lược Việt Nam thì nhân dân Việt Nam đương nhiên phải chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, như tổ tiên ông bà ta đã làm nhiều lần và bao giờ cũng chiến thắng một cách rất oanh liệt. Trong điều kiện thực tế hiện nay, trước một nước Trung Quốc lớn mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự, thái độ phản kháng có phần khéo léo mềm mỏng của các nhà đương cuộc Việt Nam như hiện nay theo tôi là có yếu tố hợp lý cần thiết nhất định, mà chúng ta thường dân bên ngoài không nắm vững các tin tình báo bí mật thì khó thể đưa ra một phán đoán đầy đủ. Điều này có nghĩa, nói chung không nên quá nóng vội, mà phải kiên trì chờ tranh thủ thêm các điều kiện tương quan quốc tế thuận lợi.

Mặt khác, theo nhận định chung của hầu hết các học giả trên thế giới (kể cả học giả gốc Trung Quốc), Trung Quốc chỉ mạnh một số mặt bên ngoài (sức mạnh quân sự, dự trữ đô la…) nhưng lại yếu về bên trong ; họ không thành công về mặt xây dựng xã hội và văn hóa-đạo đức, chủ yếu do thể chế chính trị lạc hậu độc tài toàn trị gây nên. Họ phải thường xuyên liên lục đối phó với biết bao vấn nạn, như tính chất phong kiến cổ hủ khó sửa của dân tộc họ về mặt văn hóa ("người Trung Quốc xấu xí"…), những vấn nạn về tình trạng tranh chấp quyền lực chính trị nội bộ (đang ở đỉnh cao…), nạn ô nhiễm môi trường rất nặng, nạn thất nghiệp, độ phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc ; mâu thuẫn giữa các dân tộc hoặc giữa các địa phương, giữa Trung Quốc đại lục với bộ phận Hồng Kông, Đài Loan, cũng như tình trạng quốc nạn tham nhũng trầm trọng kéo dài vô phương cứu chữa ; chưa kể đến những trận thiên tai ngày càng hung hãn gây thiệt hại với quy mô rất lớn về nhân mạng và tài sản... Tất cả đều làm cho nước Trung Quốc phải bận tâm nhiều và bị giảm đi một phần sức mạnh đáng kể.

Đặc biệt kể từ sau sự kiện sinh viên biểu tình chống độc tài ở Thiên An Môn 1989, các nhà cầm quyền Trung Quốc luôn phải cảnh giác đối phó với tình trạng bất ổn chính trị-xã hội có khả năng dẫn tới sụp đổ, do đó họ phải tìm mọi biện pháp tăng cường kiểm soát/ trấn áp bên trong, đồng thời "chuyển lửa ra bên ngoài", qua một số động thái quan hệ thô bạo với Việt Nam và Nhật Bản, hai quốc gia đã từng để lại cho Trung Quốc nhiều kỷ niệm đáng nhớ nhưng không mấy vui vẻ trong lịch sử.

Trong bối cảnh cuộc thương chiến quyết liệt Mỹ-Trung đang diễn ra hiện nay, Việt Nam có lẽ cần tiếp tục kiên trì lập trường tương đối mềm mỏng như đã nói trên, để chờ đợi sự xuất hiện thêm của nhiều yếu tố chính trị mới, trong cũng như ngoài Trung Quốc, chẳng hạn khả năng rất dễ bị tổn thương tan vỡ của nhà cầm quyền Trung Quốc dưới sự điều khiển độc tài của Tập Cận Bình. Điều này có nghĩa, vẫn nên tiếp tục khẳng định chủ quyền nhưng với thái độ kiềm chế và thương lượng, cố tránh cho được xung đột vũ trang để sinh linh cả hai bên khỏi bị tàn sát, bằng cách củng cố nội trị ngoại giao, tạo thêm các mối liên kết, chờ thêm thời gian để có độ chín muồi của các điều kiện tương quan quốc tế.

Sau trận đại dịch Covid-19, đã xảy ra và đang tiếp diễn, Trung Quốc càng mất thêm nhiều đồng minh trên trường quốc tế, chỉ trừ việc họ chinh phục được vài nước nhỏ như Campuchia và Lào bằng cách dùng sức mạnh đồng tiền để xâm nhập chi phối. Nhưng Trung Quốc không phải hễ cứ muốn là được, để tiếp tục ngang nhiên trái luật làm mưa làm gió đối với Việt Nam cũng như với một vài nước khác trong khu vực biển Đông, và ta có thể tin nhà cầm quyền Việt Nam cũng có thừa kinh nghiệm chính trị để đối phó, vì phải chân thật nhận rằng : Đảng cộng sản Việt Nam mưu mô cũng không kém gì Đảng cộng sản Trung Quốc, còn trong chiến tranh thì phía Việt luôn luôn thắng, khiến Trung Quốc phải gờm. Một khi Trung Quốc "yếu" đi rồi, thậm chí chế độ chính trị có thể sụp đổ nếu họ khư khư không chịu sửa đổi, như cả thế giới đang nhìn vào dự đoán, thì Việt Nam có thể thu hồi Hoàng Sa, Trường Sa một cách dễ dàng theo kiểu "bất chiến tự nhiên thành" mà chẳng cần tốn viên đạn, sau đó hai nước còn có thể hợp tác khai thác kinh tế lâu dài trong điều kiện hòa bình và trên cơ sở các bên cùng có lợi, thay vì cứ choảng chửi nhau hoài chẳng ai còn làm ăn gì được.

Trở lại vấn đề thoát Trung, như trên đã nói, thoát Trung không có nghĩa là chống Trung Quốc. Có trường hợp hiểu không đúng vấn đề : Khoảng năm 1980, sau cuộc đụng độ năm 1979 ở biên giới phía Bắc, Bộ Giáo dục Việt Nam có công văn chỉ thị hủy bỏ tất cả những bài học trong sách giáo khoa có nội dung liên quan Trung Quốc, như bài "Vịt Bắc Kinh" ở một lớp tiểu học, các bài về Kinh Thi, Đường thi, Tây du ký… ở mấy lớp trung học. Một cách chống hay thoát Trung rất tiểu nông nhỏ mọn, không phân biệt được đâu là giá trị văn hóa đích thực lâu dài thuộc tinh hoa nhân loại, với đâu là những mâu thuẫn chính trị thường chỉ có tính nhất thời… Trái lại muốn thoát Trung thì lại cần phải nghiên cứu kỹ để hiểu biết sâu sắc hơn về người Trung Quốc cùng với nền văn hóa của họ với cả mặt tốt lẫn mặt xấu.

Thoát Trung vì vậy chỉ có nghĩa đơn giản là thoát khỏi những ảnh hưởng xấu của Trung Quốc vào nội tình chính trị Việt Nam. Đó là tư tưởng bá quyền nước lớn, chủ nghĩa giáo điều, tình trạng độc tài đảng trị, các thủ thuật thâm độc trấn áp dân chủ, phương sách tuyên truyền láo khoét, thói huênh hoang tự đại của các nhà lãnh đạo cấp cao v.v. Trong khi đó, một số mặt tốt của họ về kinh nghiệm cải cách kinh tế và phát triển khoa học-kỹ thuật thì chúng ta vẫn phải tham khảo học hỏi theo phương châm gạn đục khơi trong.

Trước hết cần phân biệt và tách rời khái niệm giữa nhân dân Trung Quốc với nhà cầm quyền Trung Quốc, trong sự chia sẻ rằng, nhân dân Trung Quốc cũng đang chịu sự khốn khổ nhiều mặt dưới chế độ độc tài toàn trị, và thực chất là vẫn đang đối lập với chế độ này. Họ phải cắn răng chịu đựng như vậy vì cũng giống như Việt Nam có cùng thể chế chính trị, hễ nổi lên chống lại là bị công an đàn áp liền !

Việt Nam cũng có thể thoát Trung theo kiểu khôn ngoan của tổ tiên mình trong thời quân chủ phong kiến : một mặt vẫn kiêng nể hợp tác với Trung Quốc, ưu đãi cho Trung Quốc một số quyền lợi vừa phải ở mức chấp nhận được (xưa là triều cống theo định lệ), nhưng mặt khác vẫn phải giữ tư thế độc lập tự chủ và bình đẳng, như lời khẳng định hào hùng của nước Đại Việt xưa trong bài Bình Ngô đại cáo : "Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, gây nền độc lập ; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương".

Như chúng ta đều biết, nếu chỉ tính từ năm 1954, Việt Nam là một bản sao y của Trung Quốc về kỹ thuật điều hành kinh tế-chính trị-văn hóa. Các nhà cầm quyền Việt Nam hầu như không có sáng kiến trị nước gì mới, mà chỉ một mực rập khuôn theo Trung Quốc, như một cách chắc ăn nhằm mục đích duy trì địa vị cá nhân của nhóm lãnh đạo chóp bu cùng với tổ chức cầm quyền của họ, vì đều không đủ chính nghĩa, do không được nhân dân lựa chọn bầu lên một cách tự nguyện theo thể thức bầu cử dân chủ. Một sự rập khuôn mù quáng kiểu vậy như trong thời kỳ cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông nghiệp đã đẩy nhân dân miền Bắc vào vòng tăm tối giai đoạn 1954-1975 và cả nhân dân hai miền Nam Bắc giai đoạn sau 1975 khi hòa bình lập lại. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã mô phỏng theo Trung Quốc từng bước một, dựa theo mô hình Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông cho tới Đặng Tiểu Bình, rồi Tập Cận Bình, mà chủ yếu là dùng đủ loại hình thức, thủ đoạn để hạn chế hoặc trấn áp dân chủ trong nước. Nhiều tài liệu còn lưu giữ trên báo Cứu Quốc, báo Nhân Dân… và trên các xuất bản phẩm cũ giai đoạn 1954-1960 cho thấy rất rõ điều này, với kết quả của cả hai bên Trung Quốc, Việt Nam là gần gần giống nhau, tuy có làm cho kinh tế tăng trưởng nhưng tất cả những gì tệ hại nhất trong xã hội thì đều có đủ, tiêu biểu là tình trạng tranh giành quyền lực mua quan bán chức hình thành thiểu số các nhóm lợi ích để chia quyền tham nhũng ; nói "đả hổ diệt ruồi" hay "đốt lò" nhưng thực chất người ta có thể dễ dàng lợi dụng danh nghĩa để thanh trừng phe phái nội bộ trong một nền tư pháp thiếu hẳn sự minh bạch ; rồi đến những hiện tượng bất công xã hội, khủng hoảng môi sinh và xuống cấp văn hóa… đã đạt tới mức lâm nguy vô phương cứu chữa.

Cho nên gọi thoát Trung, có nghĩa Việt Nam phải làm khác Trung Quốc, thoát khỏi cách thực hành chính trị của Trung Quốc trong quá trình xây dựng đất nước ; những gì xấu xa tệ hại của họ gây bất mãn trong dân thì Việt Nam rút kinh nghiệm đừng làm, mặc dù vẫn có thể cơ bản tiếp tục đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng phải là một thứ chủ nghĩa xã hội có nội dung đổi mới, chứ không rập khuôn theo mô hình Trung Quốc như từ trước. 

Ngày nay, trong thời đại thông tin Internet, tình hình thế giới và các mối tương quan chính trị quốc tế đã có nhiều biến đổi, Việt Nam đã có thể chủ động đi trước Trung Quốc một bước trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, từ đó thay đổi dần nội dung chủ nghĩa xã hội, mà mô hình có thể tham khảo ở một vài xứ Bắc Âu (Thụy Sĩ, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch…), hoặc một quốc gia tiến bộ nào khác ở Châu Á (như Singapore…). Trong hơn chục năm gần đây, Trung Quốc ngày càng lấn lướt xâm lược biển đảo của Việt Nam thì đây chính là điều kiện và thời cơ lịch sử tốt nhất để Việt Nam "thoát Trung", bằng con đường đi trước Trung Quốc một bước cải cách chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng Hiến pháp và những luật pháp hiện có. Như vậy, Việt Nam sẽ có cơ phòng chống được quốc nạn tham nhũng đang hoành hành nghiền nát đất nước và cả hệ thống chính trị, thậm chí còn có thể tạo ảnh hưởng tác động tích cực trở lại cho nhân dân Trung Quốc đứng lên đòi hỏi chính quyền của họ phải đáp ứng các nhu cầu về thực thi dân chủ. Đây cũng là một trong những điều kiện tiên quyết và cũng là lộ trình để thoát Trung một cách an toàn và hiệu quả, mà không cần phải chống Trung, cũng không gây nên bất kỳ đột biến chính trị nào. Vì thoát Trung, như trên đã nói, không phải chống Trung, mà chỉ cần chủ động tách khỏi ảnh hưởng của đường lối chính trị lạc hậu kiểu Mao kiểu Tập, vốn đã và đang bị chính nhân dân Trung Quốc cực lực lên án.

Nhân khi Trung Quốc còn lẹt đẹt phía sau về đổi mới chính trị, Việt Nam mạnh dạn sáng tạo đi trước một bước chính là làm gương ngược lại cho phía Trung Quốc, khiến họ phải phản tư phản tỉnh, chẳng khác nào người học trò non trẻ xưa kia nay đã trở nên tài giỏi, vượt hơn lão thầy già đã lẩm cẩm không còn sức sống và khả năng tư duy mạch lạc. 

Lộ trình biến đổi có thể không cần đến những biện pháp quá nhanh mạnh có thể gây nên tình trạng xáo trộn xã hội ảnh hưởng xấu đến công cuộc phát triển kinh tế. Đại khái, chỉ cần thi hành thực chất Hiến pháp Việt Nam 2013 và một số luật, bộ luật hiện có do chính các nhà đương cuộc hiện tại đặt ra chứ chẳng phải ai khác, với một số điều khoản đã được quy định về các quyền tự do dân chủ, như tự do bầu cử ứng cử, tự do báo chí, lập hội, biểu tình…

Cần sớm soạn thảo và thông qua Luật Biểu tình (như đã ghi ở Điều 25 Hiến pháp 2013) để tập cho nhân dân có thói quen sinh hoạt dân chủ, trở thành lực lượng phản biện và đối trọng có tác dụng góp phần xây dựng một hệ thống chính quyền lành mạnh thật sự do dân và vì dân.

Công việc tiếp theo là phải tu chính hiến pháp, bầu lại Quốc hội theo thể thức thật sự dân chủ, đúng luật (như Điều 7 Hiến pháp 2013 quy định, "Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân", không có nạn cơ cấu, hiệp thương… như một thủ đoạn xếp đặt sẵn trước) ; sửa lại một số điều sẵn có trong Hiến pháp, đặc biệt cần loại bỏ Điều 51 "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo", và Điều 53 "Đất đai… thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý" vì đây là hai điều khoản dã man nhất chống lại sự phát triển đúng hướng của nền kinh tế thị trường hiện đại, và cũng là nguyên nhân chủ yếu gây nên quốc nạn tham nhũng từ rất lâu nay đe dọa sự tồn tại bền lâu của chế độ. Soạn thêm một vài luật mới cho phù hợp với công cuộc cải cách chủ nghĩa xã hội, thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa lần thứ hai. Trước mắt, trên cơ sở thực tế hiện có, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội nhưng là một thứ chủ nghĩa xã hội cải cách theo chiều hướng dân chủ hóa đời sống xã hội, đi trước Trung Quốc và khác với Trung Quốc, đồng thời có thể nghĩ đến việc đổi lại tên nước có hai chữ "dân chủ" cho phù hợp với đường hướng phát triển mới.

Những người trầm tĩnh hiểu biết bên ngoài đều cho rằng, đa số các vị lãnh đạo đứng đầu đất nước hiện nay đều biết rõ cái "tẩy" bá quyền nước lớn của Trung Quốc là nguy hại cho đất nước như thế nào, cũng như đều hiểu rõ nhu cầu bức thiết cần phải cải cách thể chế chính trị cho hợp với kinh tế thị trường theo một lộ trình tiệm tiến thích hợp, nhưng như tôi đã nói trong một bài viết trước (3), "người cộng sản Việt Nam vừa là tội đồ, vừa là nạn nhân của chính họ, bị mất hết mọi quyền tự do !", nên biết đó mà chẳng ai dám ho he, buộc phải né tránh nhiều thứ sự thật, do khiếp sợ trông thấy tấm gương tày liếp vết xe đổ vào năm 1990 của Trần Xuân Bách, khi nhân vật ủy viên Bộ Chính trị này can đảm dám nói lên trước những người đồng sự khác về đa nguyên đa đảng !Quả thật là đại bi kịch của một thể chế chính trị không có tự do dân chủ !

Nhưng trước thực tế bức bách hiện nay, không cho phép cứ ù lì mãi được. Do sự dồn tích mâu thuẫn từ những yếu tố bất lợi kéo dài trong hơn nửa thế kỷ, Việt Nam đã và đang đứng trước lắm mối nguy cơ, trong ngoài đều có. Nó như một con tàu sắp chìm, một chiếc xe sắp chết máy, hay như một con bệnh trầm kha trong cơn hấp hối, sở dĩ duy trì được chủ yếu chỉ nhờ ở hệ thống công an trấn áp, như đã động đại binh giết chết ông Lê Đình Kình 84 tuổi đời 56 tuổi đảng trong vụ án Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) diễn ra hồi tháng 1 năm 2020 ; hay như việc bắt nhà báo nữ hoạt động đấu tranh dân chủ Phạm Đoan Trang trong tháng 10 vừa qua. Những cách làm thô bạo và thất nhân tâm này chính là chống lại nhân dân, chà đạp Hiến pháp do chính mình làm ra, tuy có thể tạm thời duy trì được chế độ chính trị trong một thời gian ngắn hi vọng nào đó, nhưng hết sức nguy hiểm, hệt như đang đi trên lớp băng mỏng, vì như thế cũng chính là lấy bất ổn này chồng lên bất ổn khác, dẫn đến mâu thuẫn xã hội sẽ ngày càng tăng nặng cho đến khi tức nước vỡ bờ như một quy luật tất yếu không thể nào tránh khỏi.

Trần Văn Chánh

Nguồn : Viet-studies, 09/12/2020

(1) Thanh thực lục : Việt Nam Miến Điện Thái Quốc Lão Qua sử liệu trích sao, "Thế Tông thực lục", bản chữ Hán, q. 31, tr. 28-31

(2) Nhà xuất bản Văn Học, 2017, tr. 25

(3) "Nhà đương cuộc cộng sản Việt Nam không phạm sai lầm và cũng không đổi mới ", đăng Vietstudies, 25/6/2020

Published in Diễn đàn

Tiến trình này cụ thể ra sao thì đến nay vẫn chưa ai rõ ; thậm chí người ta còn hoài nghi việc ‘thoát Trung’ rất có thể chỉ là chiêu thức tuyên truyền, vì hai quốc gia có một điểm chung là đồng minh cộng sản.

scri1

Ấn Độ, Nhật Bản, Australia lập chuỗi cung ứng đối phó với Trung Quốc. Ảnh minh họa : Reuters

Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đang hướng tới một nỗ lực ba bên mới nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng toàn cầu và giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc dự phòng trường hợp có một thảm họa khác như Covid-19 xảy ra trong tương lai. Chương trình này có tên là Sáng kiến phục hồi chuỗi cung ứng (Supply Chain Resilience Initiative - SCRI).

‘Thoát Trung’ từ đại dịch Covid-19

"Việc chỉ tập trung vào một thị trường duy nhất là Trung Quốc khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam lao đao mỗi khi việc xuất khẩu sang thị trường này gặp khó". Mẫu câu này rất quen thuộc và hầu như mùa nào, năm nào trên báo chí Việt Nam người ta cũng bắt gặp rất nhiều bài viết có câu từ như thế, và người ta lại yêu cầu cần mạnh mẽ ‘thoát Trung’ hơn nữa.

Đại dịch Covid-19 khiến nhiều quốc gia nhận diện rõ nguy cơ khi các chuỗi cung ứng của họ quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam càng thấm đòn, khi hàng loạt doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất vì thiếu nguyên liệu và tắc đầu ra.

Trong quan hệ thương mại, về mặt sản xuất, có sự khác biệt rõ giữa hai nước : trong khi chi phí trung gian của Việt Nam có 8% đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc, Trung Quốc chỉ sử dụng 0,1% đầu vào là sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam. Điều này nói lên mức độ quan trọng tương đối của các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc với nền sản xuất của Việt Nam, lớn hơn hẳn so với chiều ngược lại. Đây là sự phụ thuộc rất đáng chú ý.

Khi bàn chuyện về phương thức giảm sự lệ thuộc vào Trung Quốc, người dân có quyền hoài nghi về những giá trị đích thực từ các hiệp định thương mại gọi là "FTA thế hệ mới" mà Việt Nam đã ký kết (*). Hoài nghi vì người ta vẫn thấy rằng quanh đi, quẩn lại thì nền kinh tế của Việt Nam vẫn chịu chi phối của Trung Quốc ; thậm chí là chi phối luôn cả các quyết sách về điều hành quốc gia.

Sở dĩ có hoài nghi cho chuyện ‘thân Trung’ hơn là ‘thoát Trung’, vì cho đến nay người ta chưa thấy được vấn đề cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam ra sao trước những yêu cầu của các FTA mà Việt Nam đã ký kết.

Cải cách thể chế vẫn là từng bước dọ dẫm ?

Trước tiên, thể chế có thể được hiểu là những yếu tố tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác ; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ…

Cải cách thể chế kinh tế là một khái niệm chính trị học liên quan đến sự vận hành của nhà nước đối với mọi nền kinh tế sản xuất hàng hóa.

Một vấn đề mà lâu nay được nêu ra song vẫn chưa có bước tiến triển nào rõ rệt, đó là định vị lại vai trò của ba trụ cột trong một thể chế kinh tế thị trường hiện đại là : Thị trường, Nhà nước và Xã hội ; trong đó : (1) Thị trường giữ vai trò quyết định trong việc phân bổ nguồn lực ; (2) Nhà nước sử dụng các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những bất cập của thị trường, thực hiện chức năng kiến tạo phát triển và chiến lược tăng trưởng bao trùm ; (3) Xã hội đóng vai trò phản biện và giám sát.

Một đơn cử để dễ hình dung : Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).

Về cơ sở pháp lý để ký kết hiệp định, theo Điều 1.1 của Hiệp định này, việc thành lập khu vực thương mại tự do phù hợp với Điều XXIV GATT (General Agreement on Tariffs and Trade) và Điều V GATS (General Agreement on Trade in Services). Theo các quy định này, các cam kết trong EVFTA sẽ không được tạo thêm rào cản thương mại đối với các thành viên khác của WTO đồng thời phải dỡ bỏ gần như toàn bộ rào cản đối với thương mại nội khối.

Ngoài ra, lời nói đầu của EVFTA còn viện dẫn thêm các cơ sở pháp lý khác bao gồm Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) năm 2012 ; Hiến chương Liên Hợp quốc 1945 ; Tuyên ngôn nhân quyền thế giới 1948 ; Hiệp định thành lập WTO và các hiệp định, thoả thuận song phương, khu vực và các hiệp định đa phương khác mà các bên là thành viên. Tuyên bố về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 1998, mặc dù được viện dẫn trong Chương 13 của Hiệp định này, nhưng không được nhắc đến trong Lời nói đầu như một cơ sở pháp lý cho toàn Hiệp định.

Các nội dung liên quan đến lao động nói chung và quyền tự do lập hội nói riêng được quy định tại Chương 13 EVFTA về Thương mại và Phát triển bền vững. Các quy định tại chương này nhằm thúc đẩy phát triển bền vững thông qua việc tăng cường cải thiện các khía cạnh liên quan đến thương mại và đầu tư của các vấn đề môi trường và lao động.

Vì sao lại tiếp tục chờ đợi đến năm 2023 ?

EVFTA dẫn chiếu đến các quy định của Tuyên bố ILO về nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động năm 1998 (ILO Declaration on Fundamental Principles and Rights at Work).

Tuyên bố ILO xác định bốn nguyên tắc và quyền cơ bản của người lao động gồm quyền tự do lập hội và quyền thương lượng lao động tập thể, quyền tự do không bị cưỡng bức hay bắt buộc lao động, xoá bỏ một cách có hiệu quả lao động trẻ em, và quyền không bị phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Bốn quyền và nguyên tắc cơ bản này được thể hiện trong bốn cặp công ước của ILO gồm Công ước 87 và 98 về tự do lập hội và thương lượng lao động tập thể ; Công ước 29 và 105 về xoá bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc, công ước 138 và 182 về xoá bỏ lao động trẻ em, Công ước 100 và 111 về xoá bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. EVFTA dẫn chiếu lại cả bốn nguyên tắc này.

Về quyền tự do lập hội , Điều 13.4 khoản 2 EVFTA quy định :

"2. Mỗi bên khẳng định các cam kết của mình, phù hợp với các nghĩa vụ trong ILO và Tuyên bố ILO về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động […], sẽ tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc liên quan đến quyền cơ bản trong lao động, cụ thể là :

(a) quyền tự do hội họp và ghi nhận một cách có hiệu quả quyền thương lượng tập thể […]".

Như vậy, nếu Việt Nam mạnh mẽ trong ‘thoát Trung’ hơn nữa, thì có lẽ luật về quyền lập hội đã được rốt ráo thảo luận để sớm đi đến ban hành ; đặc biệt là đã sớm sửa lộ trình phê chuẩn Công ước 87 ngay trong năm 2020, hoặc muộn lắm cũng là trong năm 2021, ngay nhiệm kỳ mới của Quốc hội Việt Nam. Trong khi đó thì trên trang web của Bộ Lao động, thương binh và xã hội vẫn tiếp tục ghi rằng phải đến năm 2023, Quốc hội Việt Nam mới phê chuẩn Công ước 87.

Bánh ít chưa đi, thì bánh quy chưa lại – đó là luật chơi chung của các FTA thế hệ mới.

Võ Hàn Lam

Nguồn : VNTB, 24/08/2020

Chú thích :

(*) Hiệp định thương mại tự do (FTA – Free Trade Agreement) được hiểu là các hiệp định hợp tác kinh tế được ký giữa hai hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản với phần lớn hoạt động thương mại, đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên với nhau.

Published in Diễn đàn

Liệu tân tổng bí thư khóa 13 của Việt Nam có kế sách gì hữu hiệu cho chuyện ‘thoát Trung’ mạnh mẽ và toàn diện hơn hay không ?

baucu1

Biden hiện là ứng cử viên tổng thống chính thức của đảng Dân chủ và đang dẫn trước Tổng thống Donald Trump trong các cuộc thăm dò. © Hình ảnh Getty

Tờ Nikkei Asian Review hôm 21/8, trong bài báo "US allies must brace for tougher China stance from Biden" (*) có đoạn : Dựa vào cương lĩnh của Đảng Dân chủ có thể rút ra ba điều chính quyền Biden sẽ làm với Trung Quốc :

(1) Không cho phép Trung Quốc tiếp tục các hành vi thương mại không công bằng, tấn công tin tặc và mở rộng ảnh hưởng trên biển bằng quân sự ;

(2) Phản đối mạnh mẽ hơn các hành vi của Trung Quốc trong lĩnh vực nhân quyền, bao gồm vấn đề người Duy Ngô Nhĩ ;

(3) Tìm kiếm hợp tác với Trung Quốc trước những thách thức toàn cầu, chẳng hạn như biến đổi khí hậu.

Giả dụ như điều tương tự kể trên cũng đang nằm trong dự thảo của báo cáo đại hội đảng lần thứ 13 của Việt Nam, rất có thể sẽ thế này :

(1) Chấm dứt việc lệ thuộc phần lớn khâu nguyên liệu đầu vào phải nhập từ Trung Quốc cho chuỗi sản xuất hàng hóa xuất khẩu, và tiêu thụ nội địa của Việt Nam ;

(2) Cứng rắn hơn trong pháp lý đối với bất kỳ hành vi xâm lược nào của Trung Quốc đối với biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam ;

(3) Thể chế chính trị của Việt Nam, không chịu bất kỳ sự phụ thuộc với các quốc gia khác, đặc biệt là không chịu bất kỳ sự can thiệp, sự chi phối nào của Đảng cộng sản Trung Quốc.

Xoay quanh ít nhất từ 3 vấn đề nêu trên, cương lĩnh trong nhiệm kỳ mới của Đảng cộng sản Việt Nam, phải giải quyết hiệu quả yêu cầu "thoát Trung" vốn đã được đặt ra từ thập niên trước đó trong nền kinh tế hàng hóa Việt Nam.

Ở Việt Nam có hiến định là Đảng cộng sản chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo toàn diện của mình trong quản trị quốc gia. Như vậy, rất cần thiết có những phiên điều trần của các ứng viên trong Bộ Chính trị về việc nếu khi họ được tín nhiệm, thì họ sẽ có những giải pháp gì để thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất các yêu cầu mà cương lĩnh đảng nhiệm kỳ mới đặt ra.

Việc điều trần này không diễn ra ở nội bộ đảng viên tham dự đại hội 13, mà có thể là một "điều trần trực tuyến" để người dân trực tiếp theo dõi, trực tiếp có ý kiến, thậm chí người dân có thể biểu quyết qua hình thức bầu chọn trực tuyến. Điều đó còn chứng minh được khả năng ‘hùng biện’ của ứng viên tổng bí thư, người sẽ đứng đầu quốc gia trong suốt nhiệm kỳ mới của Đảng cộng sản Việt Nam.

Chắc sẽ có ý kiến phản biện, rằng việc so sánh trong bầu cử người đứng đầu quốc gia tại Mỹ là khác hẳn Việt Nam về mức độ lựa chọn dân chủ, hơn nữa thể chế chính trị ở Việt Nam là độc đảng toàn trị.

Việt Nam độc đảng, nhưng những người đứng đầu đảng luôn khẳng định là họ không hề độc tài, và đảng viên của đảng luôn hiểu rõ lời huấn thị của người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam : "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không còn lợi ích nào khác. Đảng là đầy tớ của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật".

Như vậy, với tư cách nhân dân, lẽ tất yếu là bất kỳ người dân cụ thể nào đó cũng được quyền phải biết những ứng viên tổng bí thư ở nhiệm kỳ mới của đảng là ai ; những ứng viên tổng bí thư này đưa ra được những đường lối cụ thể ra sao để có thể thực hiện tốt nhất cương lĩnh ở nhiệm kỳ mới của đảng ; và người dân được thể hiện quyền của mình đến đâu khi "Đảng là đầy tớ của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật" ?

Trên mạng xã hội đang đưa ra dự báo các ứng viên cho vị trí tổng bí thư đảng, như Trần Quốc Vượng, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Bình Minh, Vương Đình Huệ, Phạm Minh Chính…, và có thể luôn cả ông Nguyễn Phú Trọng ‘tái cử’. Ai sẽ quản trị đất nước tốt nhất khi được trao quyền lực tối cao quốc gia ?

Để có sự lựa chọn, cần thiết có những phiên điều trần trước bàn dân thiên hạ, tương tự như cựu phó tổng thống Mỹ Joe Biden, như đương kim tổng thống Donald Trump ở hiện tại.

Có thể thấy mặc dù ở Mỹ là đa đảng, song chủ nghĩa tư bản vẫn là lựa chọn chung của các đảng phái.

Tương tự, Việt Nam chỉ có một đảng và chủ nghĩa xã hội là lựa chọn. Cho dù một đảng, song về nguyên tắc, không hề giới hạn cho quyền được lựa chọn ai sẽ là người đứng đầu để giúp đất nước phát triển tốt đẹp, phát triển đúng như những gì mà lý thuyết của chủ nghĩa xã hội hướng đến.

Bởi rất có thể với ông Nguyễn Phú Trọng thì "đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa" (**) ; nhưng đâu hẳn với các chính khách khác họ cũng bi quan như vậy.

Và có lẽ trong chuyện hoạch định đại hội đảng lần thứ 13 của Đảng cộng sản Việt Nam, cũng cần tiên liệu việc dịch Covid còn kéo dài.

Nguyễn Nam

Nguồn : VNTB, 23/08/2020

___________________

Chú thích :

(*)https://asia.nikkei.com/Spotlight/Comment/US-allies-must-brace-for-tougher-China-stance-from-Biden

(**)https://thanhnien.vn/thoi-su/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-phat-bieu-tai-to-ve-du-thao-sua-doi-hien-phap-1992-469414.html

Published in Diễn đàn

"Muốn bảo vệ tự do cho nước Mỹ và tự do cho Thế giới, Trung Quốc phải có tự do" chính là tóm tắt chiến lược "thoát Trung" được giải thích qua 4 bài phát biểu của 4 vị lãnh đạo hành chánh Mỹ gần đây.

thoat1

"Muốn bảo vệ tự do cho nước Mỹ và tự do cho Thế giới, Trung Quốc phải có tự do"

Mỹ thụ động và ngây thơ …

Ngày 24/6/2020, Cố vấn an ninh quốc gia Robert O’Brien nêu lên một sự thật phũ phàng là gần nửa thế kỷ qua các chính trị gia cả hai đảng, các nhà khoa bảng, nhà giáo dục, nhà báo, nhà kinh doanh Mỹ đều thụ động và ngây thơ (passivity and naivety) trước Trung Quốc.

Người Mỹ không biết sự khác biệt giữa người dân Trung Hoa và Đảng cộng sản, một tổ chức theo chủ nghĩa Marxist-Leninist, mà Tập Cận Bình là hiện thân của Joseph Stalin.

Đảng cộng sản không đại diện cho người dân Trung Hoa nên phải sử dụng bạo lực và tuyên truyền để kiểm soát cuộc sống của người dân, họ kiểm soát về kinh tế, về chính trị, về thể xác và quan trọng nhất là kiểm soát suy nghĩ của người dân.

Mỹ ảo tưởng khi Trung Quốc giàu hơn, Đảng cộng sản sẽ thay đổi, người dân Trung Hoa sẽ được hưởng thành quả lao động và những giá trị tự do cũng như người Mỹ.

Trung Quốc giàu hơn và mạnh hơn thì ngược lại Đảng cộng sản vi phạm nhân quyền thô bạo hơn.

Mỹ càng phụ thuộc vào thương mãi với Trung Quốc thì Mỹ càng làm ngơ trước những vi phạm nhân quyền, quay đầu với những giá trị tự do của người Mỹ.

Khi Trung Quốc giàu hơn, họ bỏ tiền tỷ, dùng ngay chính hệ thống giáo dục, truyền thông, mạng xã hội, điện ảnh Hollywood tuyên truyền về sự thành công của chủ nghĩa cộng sản, thay đổi cách suy nghĩ và cách sống của người Mỹ.

Đảng cộng sản cho tin tặc xâm nhập những kho tài liệu cá nhân đánh cắp thông tin của người Mỹ để kiểm soát dân Mỹ cũng như họ đã kiểm soát người dân Trung Hoa.

Khi Trung Quốc giàu và mạnh hơn, họ bỏ tiền mua chuộc các quốc gia nhỏ bé và kiểm soát các tổ chức quốc tế bao vây nước Mỹ, thực hiện tham vọng bá chủ thế giới.

Vì không hiểu chủ nghĩa cộng sản nên Mỹ tự bỏ cuộc hay thua cuộc chiến tranh ý thức hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc.

Mỹnhắm, bịt tai…

Ngày 7/7/2020, Giám đốc Cục Điều Tra Liên Bang Mỹ (FBI) Christopher Wray cho rằng người Mỹ không thể tiếp tục nhắm mắt, bịt tai trước mối đe dọa của việc Trung Quốc dùng thủ đoạn gián điệp kinh tế và an ninh tình báo để vượt mặt Mỹ trở thành cường quốc số một trên thế giới.

Cuộc chiến chống gián điệp Trung Quốc diễn ra trên mọi lãnh vực : từ chính trị, đến các ngành công nghiệp, nông nghiệp, khoa học, hàng không, robot, chăm sóc sức khỏe, xảy ra trên từng địa phương, từng đại học, từng cơ quan nghiên cứu, từng công ty Mỹ và ngay tại Quốc hội Mỹ.

Trung Quốc cho cả giải phóng quân trong vỏ bọc những khoa học gia đến Mỹ để đánh cắp thông tin về thuốc chủng ngừa dịch cúm Vũ Hán, do các Viện đại học và các Viện dược phẩm Mỹ nghiên cứu và phát triển.

Có khoảng 2.500 cuộc điều tra đang được FBI tiến hành về việc đánh cắp công nghệ Mỹ của tình báo Trung Quốc và cứ mỗi 10 giờ FBI phải mở một cuộc điều tra mới chống lại tình báo Trung Quốc.

Trung Quốc vừa chiêu dụ vừa đe dọa người Mỹ gốc Hoa, cũng như tìm mọi cách gây ảnh hưởng trên các chính trị gia, các nhà khoa học, các nhà giáo dục, nhà báo, và dư luận Mỹ để phục vụ cho tham vọng bá quyền đi ngược lại quyền lợi của nước Mỹ.

Mỹ bị bao vây kinh tế và chính trị…

Ngày 16/7/2020, tại Bảo tàng Tổng thống Gerald Ford, Bộ trưởng Tư pháp William Barr nhắc đến việc 50 năm về trước hai Tổng thống Nixon và Ford mở cửa giúp Trung Quốc vực dậy nền kinh tế.

Nhưng thay vì cạnh tranh tự do và công bằng với Mỹ, Trung Quốc đã sử dụng các chiến thuật thao túng tiền tệ, thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp nhà nước, bán phá giá, tấn công mạng, trộm cắp trí tuệ và gián điệp kinh tế.

Trung Quốc đã giết chết các công ty công nghệ Mỹ, xâm chiếm và thống trị thị trường Mỹ, buộc nước Mỹ lệ thuộc vào hàng hóa và chuỗi cung ứng của Trung Quốc.

Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ về sản lượng sản xuất trong năm 2010 và họ muốn xuất cảng chủ nghĩa tư bản nhà nước để xây dựng các chế độ độc tài trên thế giới.

Toàn cầu hóa không phải lúc nào cũng theo hướng thị trường tự do, thương mại tự do hoặc trao đổi ý tưởng tự do.

Các công ty điện ảnh Hollywood, đến cả Disney, trước đây là trung tâm của tự do sáng tạo, nhưng ngày nay vì lợi nhuận ngắn hạn trên thị trường 1,4 tỷ người Trung Hoa nên đã tự kiểm duyệt, đã cúi đầu khuất phục trước nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh.

Công ty Cisco đã giúp Đảng cộng sản xây dựng bức tường lửa ngăn chặn người dân Trung Hoa không vào được mạng lưới truyền thông toàn cầu Internet, các công ty Google, Microsoft, Yahoo và Apple đều đã cộng tác với nhà cầm quyền cộng sản.

Lãnh đạo nhiều công ty của Mỹ còn tự đảm nhận vai trò vận động hành lang và nhiều chính trị gia Mỹ đã tiếp tay ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi nước Mỹ.

Trung Quốc còn dùng tiền kiểm soát hoặc đồng tổ chức một số các viện nghiên cứu học thuật của Mỹ, hay tìm cách ảnh hưởng đến việc nghiên cứu và việc giảng dạy của các Viện đại học tại Mỹ.

Trung Quốc tập trung quyền lực xây dựng một chủ nghĩa xã hội vượt trội hơn chủ nghĩa tư bản, sáng kiến Made in China 2025 là một kế hoạch thống trị các ngành công nghệ thông tin tiên tiến, robot, hàng không và xe điện, sáng kiến "Vành đai Con đường" và mạng toàn cầu 5G nhằm kiểm soát cơ sở hạ tầng cho các công ty nhà nước Trung Quốc xây dựng mạng lưới bao vây Mỹ và thống trị toàn cầu.

Đã có lúc người Mỹ cần hiểu rõ sự thâm độc của Trung Quốc, cần coi mình là người Mỹ, cần tự hào bảo vệ quyền lợi và giá trị tự do của Mỹ.

Chiến lược Trung Hoa tự do…

Ngày 23/7/2020, tại Thư viện Nixon tiểu bang California, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã nói về cộng sản Trung Hoa và tương lai của Thế giới.

Năm 1972 khi đi thăm Trung Hoa Tổng thống Nixon mong ước sự hợp tác giữa Mỹ với Trung Quốc sẽ tạo ra một tương lai đầy tươi sáng cho thế giới.

Nên Mỹ đã giúp hồi sinh nền kinh tế đang trên đà sụp đổ của Trung Quốc, nhưng đến nay kết quả là nhà cầm quyền Bắc Kinh đã ăn cháo đá bát phản bội thiện chí của Mỹ và các quốc gia tự do.

Ông Mike Pompeo tổng kết 3 bài phát biểu của Cố vấn an ninh quốc gia Robert O’Brien, Giám đốc FBI Christopher Wray và Bộ trưởng Tư pháp William Barr về mối đe dọa của Trung Quốc đối với nền kinh tế và nền tự do của Mỹ và thế giới.

Ông nói ra một điều mà gần như người Việt thuộc nằm lòng là đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm (…communist China is to act not on the basis of what Chinese leaders say, but how they behave).

Ông cho biết đã đến lúc phải thay đổi, nên vừa rồi Mỹ đã bác bỏ yêu sách đường chữ U của Bắc Kinh về Biển Đông và Bộ Quốc phòng đã gia tăng nỗ lực tự do hoạt động hàng hải ở Biển Đông, Biển Hoa Đông, và Eo biển Đài Loan.

Mỹ cũng đã ra lệnh trừng phạt các quan chức Trung Quốc vi phạm nhân quyền, thu hồi tư cách đặc biệt của Hồng Kông về ngoại giao và thương mại, tuyên bố đóng cửa lãnh sự quán tại Houston vì đây là một trung tâm gián điệp và trộm cắp tài sản trí tuệ và đang cứu xét không cấp visa vào Mỹ cho các đảng viên Đảng cộng sản và gia đình.

Mỹ không thể bỏ qua các mối đe dọa của Trung Quốc, nhưng không muốn đơn phương hành động nên kêu gọi các quốc gia có cùng chí hướng tạo thành một liên minh mới của các quốc gia tự do và dân chủ.

Mỹ đã nhận thức được sự khác biệt giữa người dân Trung Hoa và Đảng cộng sản, nhận thức được việc thay đổi Trung Quốc không chỉ là sứ mệnh riêng của người dân Trung Hoa, mà cả các quốc gia tự do cũng cần phải nỗ lực để bảo vệ tự do.

Đề tài tranh cử…

Cả bốn bài phát biểu được phổ biến trong mùa tranh cử và đều nêu lên một điều là nếu Mỹ không thay đổi Trung Quốc, Đảng cộng sản chắc chắn sẽ thay đổi Mỹ và thế giới.

Ngoại trưởng Mike Pompeo cho biết chiến lược của Chính phủ Donald Trump là Trung Quốc phải có tự do thì Mỹ mới bảo vệ được tự do cho chính mình và cho thế giới.

Ứng cử viên Joe Biden, một chính trị gia đã tham gia chính trị liên bang Mỹ từ 3/11/1970, từng trải trong việc hoạch định chính sách Mỹ-Trung, nên chắc rằng trong các cuộc tranh luận sắp tới sẽ cho chúng ta biết những nhận định cá nhân, cũng như chiến lược của đảng Dân chủ Mỹ đối với một Trung Quốc đang trỗi dậy muốn thống trị toàn cầu.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Úc Đại Lợi, 31/7/2020

Published in Diễn đàn

Làm gì để nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc ?

Đinh Hoàng Anh, RFA, 21/05/2020

Báo cáo của Nhà Trắng vừa mới đây, với tựa đề "Cách tiếp cận chiến lược của Hoa Kỳ đối với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa" đã nêu bật các lo ngại của phía Hoa Kỳ trước các thách thức và đe doạ từ Trung Quốc, trong đó có các đe doạ về kinh tế.

thoat1

Một em học sinh Việt Nam cầm cờ Trung Quốc và Việt Nam tại lễ đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Hà Nội hôm 12/11/2017 Reuters

Phần các biện pháp cần thiết để thực hiện việc bảo vệ nền kinh tế Hoa Kỳ trước các đe doạ từ Trung Quốc, có nhắc tới một biện pháp quan trọng là Chính phủ Hoa Kỳ sẽ tăng cường khả năng và sức mạnh của Ủy ban Đầu tư nước ngoài ở Hoa Kỳ (CIFIUS) nhằm bảo vệ an ninh kinh tế Hoa Kỳ trước sự đe doạ từ các doanh nghiệp Trung Quốc.

Trông người lại ngẫm đến ta

Gần đây, báo chí Việt Nam đang hồ hởi đăng các thông tin về việc các địa phương đua nhau xây dựng các khu công nghiệp để đón làn sóng đầu tư từ nước ngoài, đặc biệt từ Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc trong cuộc "chiến tranh thương mại".

Dư luận Việt Nam có vẻ hồ hởi khi kỳ vọng về một sự thu hút đầu tư nguồn vốn từ Trung Quốc tràn sang. Một số báo chí nước ngoài còn cho rằng Việt Nam là quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất trong "Thương chiến Mỹ - Trung".

Tuy nhiên, "ngày vui ngắn chẳng tày gang", trong thực tế, cho tới nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn lệ thuộc rất nhiều vào Trung Quốc. Chính vì vậy, những rủi ro rất lớn đang đe doạ nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trước bối cảnh Việt Nam "sẵn sàng" đối đầu với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.

Những con số không phản ánh thực chất

Số liệu trên báo chí cho biết, năm 2019 ghi nhận đã có 125 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Hàn Quốc vẫn dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 7,92 tỷ USD, chiếm 20,8% tổng vốn đầu tư. Hồng Kông đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 7,87 tỷ USD (trong đó, có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào Công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội, chiếm 48,9% tổng vốn đầu tư của Hồng Kông), Singapore đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 4,5 tỷ USD. Tiếp theo là Nhật Bản, Trung Quốc…

Bộ kế hoạch đầu tư nhận xét là đầu tư từ Trung Quốc tăng gần 1,65 lần, từ Hồng Kông tăng 2,4 lần so với cùng kỳ 2018 và nhận định : "đầu tư từ Trung Quốc, Hồng Kông có xu hướng tăng so với cùng kỳ do tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung".

Một tờ báo chuyên về kinh tế đã đánh giá về sự tăng trưởng từ dòng vốn đầu tư nước ngoài năm 2019 như sau :

"1. vốn góp mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào doanh nghiệp trong nước là 10,4 tỉ đô la, tăng 82,3% so với cùng kỳ năm 2018 nhưng là tăng trưởng không thực chất vì chỉ là nhà đầu tư "chuyển từ tay trái sang tay phải".

2. Hà Nội thành địa phương thu hút vốn đầu tư FDI lớn nhất qua 9 tháng với tổng số vốn đăng ký 6,15 tỉ đô la song thực chất cũng chỉ là thu hút đầu tư trên giấy vì thực chất cũng là xử lý số liệu như trên.

3. Những e ngại hay đánh giá khả quan về tình hình góp vốn tăng mạnh của doanh nghiệp ngoại vào doanh nghiệp nội qua hình thức mua cổ phần, góp vốn do nhìn những số liệu thống kê trên cũng không có cơ sở, bởi như đã nói là doanh nghiệp trong cùng hệ sinh thái ThaiBev chuyển đổi vốn cho nhau. Còn thực chất, 9 tháng đầu năm, vốn đăng ký FDI cấp mới không có dự án lớn nào vượt quá 300 triệu đô la".

Như vậy, số liệu thống kê về dòng vốn đầu tư nước ngoài chỉ cho thấy một mảnh ghép nhỏ trong một bức tranh rộng lớn của kinh tế Việt Nam. Đó chưa phải là tăng trưởng thực sự. Tuy nhiên, số liệu lại chỉ cho ta thấy sự đáng lo ngại trước nguồn vốn từ Trung Quốc, thông qua các nhà đầu tư trung gian từ Hồng Công, Thái lan…

Mới đây, đánh giá về việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam, Giáo sư kinh tế Trần Văn Thọ cho biết kinh nghiệm trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (Viết tắt là FDI), thường phải đảm bảo 4 vấn đề trong đó, bao gồm :

Một là, thu hút FDI phải được đặt trong một kế hoạch tổng thể. Những ngành cần thu hút FDI là những ngành mà doanh nghiệp chưa có khả năng nhưng sẽ là ngành phát triển trong tương lai. Đặc biệt là các ngành sử dụng hàm lượng tri thức cao.

Hai là, khuyến khích thu hút FDI dưới hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước. Bởi vì không chỉ tạo điều kiện thu hút FDI mà còn phải tạo điều kiện để phát triển doanh nghiệp trong nước một cách song hành.

Ba là, khuyến khích các doanh nghiệp FDI sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa. Từ đó mới kéo toàn bộ nền sản xuất phát triển.

Bốn là, ưu tiên các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc tôn trọng các quy định về lao động, môi trường.

Xét trên bốn tiêu chí trên thì việc thu hút FDI ở Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu này. Thậm chí, Giáo sư Trần Văn Thọ cũng chỉ ra những lo ngại về nguồn vốn FDI từ Trung Quốc đối với nền an ninh quốc gia. Theo đó, trong 100 công ty đa quốc gia lớn nhất của Trung Quốc hiện nay thì có tới 81 là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần nhưng nhà nước Trung Quốc chi phối. Vì thế, với những tham vọng lãnh thổ và cách thực hiện "phương cách kinh tế cưỡng đoạt", thì các hoạt động của các doanh nghiệp Trung Quốc luôn ẩn giấu đằng sau là các âm mưu của chính quyền Trung Quốc.

Thêm nữa, hình thức FDI ra nước ngoài chính của doanh nghiệp Trung Quốc là mua bán và sáp nhập (M&A). Đây là hình thái xâm nhập, sở hữu kinh doanh nhanh chóng nhất ở thị trường nước ngoài. Báo chí Việt Nam mới đây cho biết nhiều nhà máy điện đã bị nhà đầu tư Trung Quốc thâu tóm. Đây là lĩnh vực nhạy cảm đối với an toàn năng lượng. Ngoài ra, mới đây Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng chỉ rõ các tư nhân Trung Quốc núp bóng hoặc thâu tóm để sở hữu các bất động sản có vị trí quân sự quan trọng.

Doanh nghiệp trong nước bị vắt kiệt

Việc thu hút FDI là cần thiết, nhưng phải nằm trong sự kiểm soát và song song với đó, phải tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước phát triển. Trong suốt thời gian qua, kể từ khi mở cửa nền kinh tế, Chính quyền Việt Nam chỉ tập trung vào việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Còn các doanh nghiệp trong nước thì bị kỳ thị, chèn ép và hành hạ bởi bộ máy chính quyền.

Cho tới nay, sau hơn 30 năm thu hút vốn FDI thì lượng vốn FDI thực hiện khoảng 211,78 tỷ đô. Con số này là ngang ngửa với tài sản nhà nước hơn 7,79 triệu tỷ đồng (gồm : tổng nguồn vốn của Nhà nước là trên 4,65 triệu tỷ đồng ; tổng nợ Nhà nước phải trả là 3,14 triệu tỷ đồng).

Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam nhỏ về quy mô so với mức trung bình tại các nước ASEAN. Quy mô vốn hóa trung bình của các công ty niêm yết, đại diện điển hình về những công ty tư nhân tốt nhất của Việt Nam, chỉ đạt mức khoảng 190 triệu USD. Trong khi đó, con số này là 810 triệu USD tại Indonesia, 840 triệu USD tại Thái Lan, 1,16 tỷ USD tại Singapore và 1,2 tỷ USD tại Philippines.

Quy mô nhỏ của các doanh nghiệp Việt Nam khiến cho các hoạt động đầu tư về nghiên cứu phát triển, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất gặp nhiều khó khăn. Trình độ về quản trị công ty của các doanh nghiệp Việt Nam cũng thua xa so với các doanh nghiệp trong khu vực ASEAN.

Sự yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu từ trong chính sách của Nhà nước Việt Nam. Chính sách phát triển doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay đặt trọng tâm nhiều hơn tới hình thức thay vì quan tâm đến chất lượng của doanh nghiệp Việt Nam.

Một rào cản quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam đó là tư duy phát triển bị lạc hậu khi chuyển đổi sang kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Từ đó đi đến các chính sách kiểu "bao cấp" và thậm chí quan điểm "bao cấp" chỉ ưu tiên một số nhóm doanh nghiệp. Đó là điều kiện tạo môi trường cho tham nhũng, nhất là đất đai, tài sản công và gây ra tình trạng nhũng nhiễu doanh nghiệp, với cơ chế "xin - cho".

Vì vậy, yêu cầu đòi hỏi là xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và thích ứng với quá trình chuyển đổi. Các quy định trong Luật Doanh nghiệp cho thấy vẫn còn tư tưởng gây cản trở, phiền hà để "hành" doanh nghiệp với các quy định quá rườm rà.

Sau luật đến hàng loạt thông tư, nghị định cũng rất chậm, thậm chí có một số điều bị "gài" để cán bộ các ban ngành, địa phương có quyền "hành" doanh nghiệp và người dân do quyền "anh", quyền "tôi" rất phổ biến hiện nay. Thậm chí, các ngành, địa phương đến cấp thấp nhất cũng ra các "quy chế" gây khó dễ cho doanh nghiệp.

Chính vì vậy, muốn xây dựng nền kinh tế phát triển để thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, từ đó có thể dẫn đến những hệ luỵ nguy hiểm đối với an ninh quốc gia thì một mặt, Chính quyền Việt Nam cần phải tìm cách hạn chế "sự cưỡng đoạt kinh tế" từ phía Trung Quốc. Mặt khác, cần tạo điều kiện để cho doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân được tạo điều kiện để phát triển bình đẳng so với các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp nhà nước. Làm được như vậy, nền kinh tế Việt Nam mới có bước phát triển thực sự.

Đinh Hoàng Anh

Nguồn : RFA, 21/05/2020

*******************

Việt Nam khó thu hút các nhà đầu tư phương tây !

Diễm Thi, RFA, 20/05/2020

27 công ty Mỹ sẽ di dời nhà máy từ Trung Quốc tới Indonesia. Địa điểm di dời các nhà máy Mỹ sẽ là khu vực rộng 4.000 hecta ở Công viên công nghiệp Brebes tại tỉnh Trung Java. Mạng tin Policy Times cho biết như vừa nêu.

thoat2

Tổng thống Pháp Jacques Chirac, đệ nhất phu nhân Bernadette và bộ trưởng tài chính Thierry Breton trong ngày khởi công xây dựng nhà máy Peugeot-Citroen tại thành phố Vũ Hán, 27 tháng 10 năm 2006. AFP

Thông tin này khiến nhiều người Việt Nam quan tâm bởi ngay khi có thông tin các công ty nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, sẽ rời Trung Quốc trong tương lai, Việt Nam cũng hy vọng sẽ là điểm đến hấp dẫn.

Cậu Ba, một doanh nhân Mỹ gốc Việt trong lĩnh vực thực phẩm, chia sẻ với RFA qua ứng dụng facebook messenger về việc này sáng 20/5 :

"Indonesia rất nhạy trong việc lobby (vận động). Cũng có thể do chiến tranh thương mại nên những công ty kia đã chuẩn bị trước. Indonesia là nước cũng có chữ cái alphabet như Việt Nam nhưng cơ sở hạ và thượng tầng tốt hơn. Điều đáng lưu ý là Việt Nam bị vấn nạn các công ty Trung Quốc núp bóng làm mất uy tín".

Khác với nhiều nền kinh tế tại Châu Á, Indonesia không dựa hoàn toàn vào xuất khẩu. Tăng trưởng chủ yếu dựa vào tiêu dùng nội địa.

Theo chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Việt Nam đừng có hy vọng thu hút được nhiều công ty Mỹ về vì nhiều yếu tố. Đầu tiên là cơ sở hạ tầng, đường xá, bến cảng, số nhân công, tay nghề công nhân, hệ thống pháp lý, pháp luật… trong khi Indonesia là một nước dân chủ, dân số đông gấp hai lần rưỡi dân số Việt Nam và nền kinh tế Indonesia lớn gấp 4 lần kinh tế Việt Nam hiện nay. Ông phân tích thêm :

"Cái ít tốn kém nhất là phải cải thiện về mặt quản lý nhà nước, tức là luật pháp phải nghiêm chỉnh. Nhưng cái này lại đụng vào chuyện độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam nên không phải dễ. Phải cải cách thể chế về mặt kinh tế và cả về mặt chính trị. Quan trọng hơn là phải tăng cường đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề.

Mình cố gắng hết sức nhưng hy vọng vào chuyện các nước chuyển dịch khỏi Trung Quốc vào Việt Nam là chuyện ảo vọng. Phải nhìn vào thực tiễn".

Với cái nhìn của một doanh nhân đi về Việt Nam kinh doanh thường xuyên, Cậu Ba lạc quan hơn. Theo nhà đầu tư này thì ‘làn sóng’ di chuyển mới chỉ bắt đầu. 27 công ty quyết định nhanh có thể do họ tìm hiểu trước và do Indonesia quá giỏi. Tuy nhiên có hàng ngàn công ty khác cần phải ‘mồi chài’. Đừng nhìn vào con số 27 mà nản chí.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia tài chánh quốc tịch Mỹ, hiện đang làm việc tại Việt Nam cho rằng, quyết định chọn nước nào để đầu tư sau Trung Quốc có lẽ dựa vào tiêu chí riêng của các nhà đầu tư Mỹ. Việc 27 nhà đầu tư Mỹ không chọn Việt Nam hay các nước Đông Nam Á khác mà chọn Indonesia đủ thấy Indonesia có những tiêu chí phù hợp với họ. Ông nói thêm :

"Tiêu chí thứ nhất là luật lệ của nước nhận đầu tư phải đủ thông thoáng để họ đầu tư, làm ăn một cách dễ dàng ; tiêu chí thứ hai là họ chọn những quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào đáp ứng yêu cầu khắt khe của họ về mặt kỹ thuật, về mặt kinh doanh ; tiêu chí thứ ba là tất cả những chính sách, luật lệ về hối đoái, về đầu tư phải thuận tiện cho các nhà đầu tư cả khi họ vào lẫn khi họ ra. Nhà đầu tư nào cũng quan tâm chiến lược để rút lui (Exit strategy). Không nhà đầu tư nào dại dột đến nỗi chỉ nhắm đường vào mà không có đường thoát".

Ông Nguyễn Trí Hiếu nêu một vấn nạn mà một số nước Châu Á, trong đó có Việt Nam, xem nhẹ và coi đó là một điều kiện kinh doanh không chính thức, chi phí được xem như chi phí đầu tư, đó là vấn nạn tham nhũng.

thoat3

Giám đốc điều hành Apple, Tim Cook, tại Diễn đàn Phát triển Trung Quốc tổ chức tại Bắc Kinh vào ngày 23 tháng 3 năm 2019. AFP

Khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung xảy ra, tiếp theo là đại dịch Covid-19, không chỉ Mỹ, nhiều quốc gia khác cũng có kế hoạch chuyển các nhà máy ở Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á.

Indonesia là nước có nhiều động thái giữ chân các công ty đa quốc gia của Mỹ khi tổ chức các cuộc trao đổi trực tiếp với Tổng thống Trump cùng những người đứng đầu các công ty Mỹ…

Chính phủ Nhật Bản gần đây đã dành 2,2 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế 992 tỷ USD nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp rút khỏi Trung Quốc. Việt Nam là một nước Đông Nam Á. Việt Nam phải làm gì để kéo các công ty muốn rời Trung Quốc ?

Nhà kinh doanh, Cậu Ba, nêu ý kiến qua ứng dụng facebook messenger :

"Tìm hiểu thật kỹ công ty họ cần gì, muốn gì để cho họ cái đó và hơn thế nữa. Không khó nhưng dĩ nhiên không dễ. Cứ giảm thuế đi. Tạo mọi điều kiện. Giờ là lúc giải quyết lao động dôi dư và nâng tầm công ty nhỏ và vừa lên làm sub contract.

Tóm lại, cho dù có dịch chuyển công việc từ Trung Quốc qua thì nó vẫn nằm trong tầm trung và dài hạn. Việt Nam hãy ‘quét dọn nhà sạch sẽ, châm trà tiếp khách’. Nếu Việt Nam không khôn ngoan để mở rộng cửa và tạo điều kiện triệt để để cạnh tranh thì mất cơ hội vàng".

Tại phiên họp thứ 45 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng 15/5/2020, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày báo cáo của Chính phủ. Báo cáo cho biết thời gian qua, quan hệ đối ngoại của Việt Nam được tăng cường nhờ các nỗ lực hợp tác quốc tế để đối phó với dịch Covid-19 và đã được đánh giá cao. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia dự báo có một số điểm sáng.

Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả thuộc Bộ Tài chính cho rằng, muốn thu hút các công ty nước ngoài đến Việt Nam thì phải tạo điều kiện kinh doanh tốt và lành mạnh.

"Với cơ hội Covid-19 thì chính phủ Việt Nam cũng đang hy vọng. Nhưng để hy vọng trở thành hiện thực thì phải rà soát lại xem những điều kiện gì, như yêu cầu gì mà các doanh nghiệp nước ngoài như Mỹ họ cần. FTA được Quốc Hội thông qua và thực thi thì đó là điều kiện thúc đẩy thể chế của Việt Nam để làm sao phù hợp, cho tương đồng thì mới thu hút nguồn vốn đầu tư đặc biệt từ Mỹ".

Cũng trong phiên họp hôm 15/5/2020, Chính phủ nhấn mạnh yêu cầu xây dựng các kịch bản vực dậy nền kinh tế và các phương án, kế hoạch phục hồi ngay, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững sau dịch.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A kết luận rằng, Việt Nam muốn đi nhanh, thay đổi nhanh cũng không thể được. Ví dụ cải cách về giáo dục cần phải nhiều năm ; xây dựng hạ tầng cơ sở cũng cần nhiều thời gian và tiền bạc. Cải cách thể chế và sửa đổi luật pháp nhìn có vẻ dễ nhưng cũng rất khó bởi vì đụng đến bao nhiêu lợi ích của nhóm này, nhóm kia bên trong Đảng cộng sản Việt Nam.

Lợi thế công nhân giá rẻ hiện nay không còn là yếu tố hấp dẫn hàng đầu của Việt Nam nữa. Đó chỉ là lợi thế tạm thời, trong khi những yếu tố căn bản như hệ thống luật lệ, chính sách minh bạch… vẫn là những điều kiện cần thiết để tạo niềm tin đối với nhà đầu tư.

Diễm Thi

Nguồn : RFA, 20/05/2020

**********************

Tại sao không là Việt Nam ?

Cánh Cò, RFA, 20/05/2020

Trong lúc cả bộ máy chính trị Việt Nam bận rộn đề cao lãnh tụ Hồ Chí Minh qua việc khánh thành công trình "ghi lòng tạc dạ" gia đình nội ngoại ông Hồ cùng lúc với việc bận rộn tổ chức đại hội Đảng nhằm chia ghế trong những vị trí "đắc địa" thì nguồn tin 27 công ty, tập đoàn của Mỹ sẽ ra khỏi Trung Quốc về "định cư" tại Indonesia khiến dân chúng Việt Nam một lần nữa ngỡ ngàng, ngỡ ngàng vì thấy rõ sự đần độn của bộ máy nay đã đến lúc cần tháo ra và… vứt bỏ.

indo1

Bản dự đoán đích đến của những công ty Mỹ sẽ rời khỏi Trung Quốc sau đại dịch Covid-19. Việt Nam là đích đến đông nhất, nhưng… Nguồn: Fox Business

Tin tức từ PolicyTimes cho biết Indonesia đã giành chiến thắng khi nhận được sự gợi ý của Tổng thống Mỹ cho phép 27 công ty của Mỹ vào nước này sau khi rút khỏi Trung Quốc vì Bắc Kinh đã lợi dụng chuỗi cung ứng toàn cầu để tạo sức ép với Mỹ và các quốc gia EU trong đợt dịch Covid-19 vừa qua.

Tuy tờ báo cho biết tên của 27 công ty này chưa được tiết lộ nhưng người ta hiểu rằng đó là những công ty lớn, có ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu và chính quyền của Tổng thống Trump đã quyết tâm kéo chúng ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Trong vài tuần vừa qua thế giới chứng kiến sự giận dữ của Hoa Kỳ trước trò làm ăn tráo trở của Trung Quốc cũng như Bắc Kinh đã thừa dịp dịch họa của thế giới đề ung dung làm những việc mà bất cứ chính thể nào có lương tri đều phải tránh xa ngoại trừ cộng sản. Mỹ đã sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc kể cả bằng vũ lực và việc cùng lúc 27 công ty rút ra khỏi Trung Quốc chỉ là bước dạo đầu của một loạt biện pháp ngăn chặn cơn tham vọng làm chủ trái đất của Bắc Kinh.

Nhưng tại sao Tổng thống Trump lại chọn Indonesia chứ không phải là Việt Nam khi Hà Nội có mặt những công ty khác đang hoạt động tại đây ? Câu hỏi này thật ra không khó nếu tìm hiểu sâu hơn.

Điều dễ hiểu đầu tiên bởi Việt Nam đang là tay chân thân cận với Bắc Kinh và Mỹ hiểu rất rõ về vai trò của Hà Nội đã và đang đóng thế vai cho Bắc Kinh trong những lúc được yêu cầu. Bắc Kinh nói không ở đâu thì Hà Nội cũng nói không ở đó. Bắc Kinh chống Mỹ một thì Hà Nội cũng chống Mỹ có khi còn hơn, mặc dù chỉ trên những tờ báo Đảng. Bắc Kinh không chấp nhận nước nào thì Hà Nội có mặt đưa tay ủng hộ, Bắc Kinh truy bắt người Duy Ngô Nhĩ thì Hà Nội lập tức trao trả những người này khi họ nhập cảnh trái phép vào Việt Nam. Bắc Kinh không chấp nhận Đài Loan thì Hà Nội giơ tay biểu quyết….

Thứ đến Mỹ cũng hiểu rõ Việt Nam không còn nguyên vẹn chủ quyền khi Trung Quốc đã khống chế mọi thứ từ tài chánh tới đất đai, biển cả và nhất là vị trí lãnh đạo trong guồng máy công quyền. Việt Nam nợ Trung Quốc từ những vụ vay mượn ngân hàng trong các dự án cho tới các món nợ chính trị xa xưa từ hồi còn chiến tranh với Mỹ. Chính những món nợ này khiến doanh nghiệp Trung Quốc xem Việt Nam là đất nhà của của họ, vì vậy mọi vấn đề liên quan tới kinh doanh không cần phải lo ngại luật pháp Việt Nam. Hà Nội bắt buộc phải nương tay đối với doanh nghiệp Trung Quốc. Chính điều này làm cho Mỹ đặt dấu hỏi liệu sau này doanh nghiệp Mỹ có được đối xử công bằng với doanh nghiệp Trung Quốc khi có tranh chấp xảy ra hay không ? Và đất nhà Trung Quốc ngay tại Việt Nam có giúp cho Bắc Kinh có thêm cơ hội để tránh những đòn phép thuế quan của Mỹ ?

Việt Nam đã chấp nhận cho doanh nghiệp Trung Quốc chia chát quyền sử dụng đất, vốn là thứ cấm kỵ trong hiến pháp Việt Nam khi lập ra những đặc khu kinh tế trong đó không có hình ảnh nào của phương Tây hiện diện. Những đặc khu đó cho thấy tính chất chính trị mạo danh kinh tế của chính phủ Việt Nam khiến dù có hào phóng cách mấy Mỹ cũng phải chùn chân trước một đất nước không còn chủ quyền trên lĩnh vực đất đai và độc lập trên phương diện chính trị

Tất cả những thứ ấy Mỹ đều thấy và bây giờ tới lượt Mỹ phản ứng có điều kiện với Việt Nam là điều dễ hiểu.

27 công ty này không phải tự ý chọn Indonesia mà do Tổng thống Mỹ chọn lấy. Mặc dù đó chỉ là sự thỏa thuận để được hỗ trợ của chính phủ nhưng điều này cho thấy trong những sự kiện lớn có liên quan tới kinh tế và an ninh quốc gia Mỹ lúc nào cũng có đủ luật lệ để ứng phó. Thoát Trung lúc này là mục tiêu lớn của Mỹ, cả hành pháp và lập pháp, vì nước Mỹ nhận thấy sự nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản đã giúp cho Trung Quốc lừng lững đe dọa toàn thế giới. Chỉ có chế độ cộng sản Trung Quốc với nguyên vẹn hình hài độc tài toàn trị mới đủ sức mạnh khiến hơn 1 tỷ 400 triệu người dân Trung Quốc nằm im dưới xích sắt của những chiến xa thời Thiên An Môn.

Vì Việt Nam là một thể chế cộng sản nên Mỹ không thể đưa tay cho Hà Nội trói như đã từng bị Trung Quốc trói trước đây.

Người ta không ngạc nhiên khi năm ngoái chính Tổng thống Donald Trump đã chỉ đích danh Việt Nam mà nói : "Việt Nam đang lạm dụng thương mại với Mỹ còn tệ hơn Trung Quốc". Tại sao như vậy ? Bởi Việt Nam toa rập với các công ty Trung Quốc xuất khẩu thép vào Mỹ qua con dấu Việt Nam.

Nước Mỹ đủ bản lãnh để biết trên sao hỏa đang xảy ra chuyện gì thì Việt Nam làm sao qua được đôi mắt cú vọ của tình báo kinh tế Mỹ trải ra trên toàn cầu ? Có lẽ Hà Nội đánh giá Mỹ là con cọp giấy nên lờ đi hậu quả thấy trước khi tiếp tục chơi với con cọp Trung Quốc.

Nước Mỹ tự do nhưng nước Mỹ có khuôn phép để làm cho sự tự do đó trở nên có ý nghĩa.

Bất cứ công ty nào của Mỹ cũng có quyền vào Việt Nam nhưng cùng lúc 27 công ty vào Indonesia là một câu hỏi lớn cho những người làm chính sách. 27 công ty là một tập thể, tập thể kinh tế ấy có thể làm tiền đề cho hàng loạt công ty khác theo nhau vào Indo gây ra một bối cảnh tốt đẹp cho kinh tế của nước này. Ngược lại, vì mất lòng tin của nước Mỹ nên Việt Nam đang tự bỏ phiếu đẩy mình ra khỏi quỹ đạo dân giàu nước mạnh.

Rồi đây sau khi cuộc bỏ phiếu trong căn phòng tổ chức Đại hội Đảng thành công tốt đẹp có lẽ Đảng cộng sản Việt Nam sẽ sang trang : Cùng chia sẻ với Trung Quốc sự run sợ đối với con cọp giấy Hoa Kỳ.

Cánh Cò

Nguồn : RFA, 20/05/2020 (canhco's blog)

Published in Diễn đàn

Thoát Trung là gì ?

Gần đây, cách hành xử một cách độc đoán, thô lỗ của Trung Cộng trong Đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều quốc gia trên thế giới kêu gọi tẩy chay Trung Cộng. Trong bối cảnh đó, cũng đã có một số chuyên gia Việt Nam kêu gọi đây là dịp tốt để Việt Nam có thể "Thoát Trung".

thoat1

Người biểu tình phản đối dự luật Đặc khu tại Thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/6/2018 - AFP. Hình minh họa

Vấn đề "Thoát Trung" đã được đặt ra từ năm 2014 với nhiều tranh luận sôi nổi. Ý kiến về nội hàm của khái niệm "Thoát Trung" của nhiều nhà trí thức đưa ra, không hẳn là hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung mà hầu hết các chuyên gia đều đồng ý, đó là "Thoát Trung" cần được hiểu một cách đơn giản là thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào Trung Cộng.

Thế nhưng vấn đề cần đặt ra là liệu Đảng cộng sản Việt Nam có thực sự muốn "Thoát Trung" ?

Lệ thuộc chính trị

Việt Nam hiện nay lệ thuộc vào Trung Cộng nhiều thứ, nhưng về cơ bản, có thể kể ra đó là lệ thuộc về chính trị, kinh tế và đối ngoại.

Về mặt đối ngoại là lĩnh vực mà mọi người cảm thấy có nhiều hy vọng, khi thấy Việt Nam càng ngày càng có xu hướng ngả về phía Mỹ. Quan hệ Việt - Mỹ gần đây hết sức nồng ấm. Nhiều người nghĩ rằng, với việc Việt Nam đang xích về phía Mỹ sẽ khiến Việt Nam thoát khỏi "cái bóng" của Trung Cộng. Tuy nhiên, người cộng sản thường quan niệm "Chính sách đối ngoại là "cánh tay nối dài" của chính sách đối nội", vì thực ra, chính sách đối ngoại lại được quyết định bởi các nhân vật chính trị quan trọng trong nước. Thậm chí, có thể nói, chính sách đối ngoại Việt Nam phụ thuộc vào quyết định của những nhân vật cao cấp trong Bộ Chính trị Việt Nam, vốn có quyền quyết định tất cả vận mệnh của đất nước, chứ không chỉ riêng chính sách đối ngoại.

Về mặt chính trị, sự gần gũi giữa hai Đảng Cộng sản, cộng với những sự tương đồng trong văn hoá, đã khiến bộ máy nhà nước Việt Nam như một bản sao thu nhỏ từ bộ máy nhà nước Trung Cộng. Tất cả các cơ quan nhà nước Việt Nam đều có cấu trúc và tên gọi giống như cơ quan tương tự bên Trung Cộng. Trong chương trình đào tạo các quan chức Việt Nam, có rất nhiều chương trình đưa các cán bộ sang đào tạo tại Trung Cộng. Và đã có chuyên gia lên tiếng cảnh báo việc Trung Cộng tìm cách khai thác, mua chuộc, khống chế cán bộ Việt Nam khi đi học tại Trung Cộng.

Ngay cả việc "nhóm lò" chống tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, người quan sát thấy rõ đây là "phiên bản" của kế hoạch "đả hổ diệt ruồi" của Tổng bí thư Trung Cộng Tập Cận Bình. Mặc dù giương lên ngọn cờ "cao cả" là chống tham nhũng, nhưng thực chất đây là việc tiêu diệt các phe phái đối lập, để phe mình nắm giữ quyền lực.

Kinh tế lệ thuộc vì đâu ?

Về mặt kinh tế, bao lâu nay Chính phủ Việt Nam vẫn lúng túng khi cố tuyên bố tìm cách phát triển kinh tế, tránh lệ thuộc quá nhiều vào Trung Cộng. Vấn đề này đã được nhiều chuyên gia và quan chức công khai đặt ra, nhưng trong thực tế, Nhà nước Việt Nam vẫn loay hoay chưa tìm được lối ra. Vậy lực cản nào đã dẫn đến sự lệ thuộc này ?

Báo chí trong nước mới đây cho biết, khi cử tri Hải Phòng kiến nghị "tình trạng người Trung Cộng mua đất đai gần các khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh hiện nay là rất đáng ngại". Bộ Quốc phòng Việt Nam đã cung cấp số liệu, theo đó, từ năm 2011 đến 2015, trên địa bàn khu vực biên giới biển Thành phố Đà Nẵng có 134 lô, 1 thửa đất liên quan đến cá nhân, doanh nghiệp người Trung Cộng đang sở hữu, "núp bóng" sở hữu và thuê của UBND Thành phố Đà Nẵng.

Bộ Quốc phòng cũng cho biết thêm để sở hữu các lô đất ở Thành phố Đà Nẵng, người Trung Cộng chủ yếu dựa theo 2 hình thức :

Thứ nhất, là thành lập doanh nghiệp liên doanh với Việt Nam. Ban đầu, người Trung Cộng góp vốn thấp hơn người Việt (người Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng đất), doanh nghiệp sẽ do người Việt Nam điều hành. Sau một thời gian, bằng nhiều cách, người Trung Quốc tăng vốn, giành quyền điều hành doanh nghiệp. Do tài sản góp vốn là đất, nên quyền sở hữu các lô đất rơi vào tay người Trung Cộng.

Thứ hai, người Trung Quốc đầu tư tiền cho cá nhân người Việt Nam (chủ yếu người Việt gốc Hoa) để mua đất. Hầu hết các lô đất đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ.

Bộ Quốc phòng cho rằng cử tri và dư luận xã hội thấy "đáng ngại" về việc cơ quan chức năng Thành phố Đà Nẵng cấp chứng nhận quyền sử dụng 21 lô đất cho người Trung Cộng là có cơ sở.

Đây không phải là vấn đề mới, ngay từ giai đoạn 2015 đã có nhiều chuyên gia tỏ ý lo ngại về vấn đề này trên báo chí.

Thêm nữa, báo chí mới đây cũng đưa thêm những thông tin "giật mình". Ngoài việc sở hữu bất động sản có vị trí trọng yếu mà Bộ Quốc phòng vừa chỉ ra, các nhà đầu tư đến từ Trung Cộng đang ồ ạt thâu tóm thêm nhiều dự án của Việt Nam, đặc biệt lĩnh vực liên quan đến năng lượng, tài nguyên, thương mại điện tử..

Trong lĩnh vực năng lượng, có thể kể đến dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 (Bình Thuận) với công suất 1.240 MW, tổng mức đầu tư 1,755 tỉ USD. Dự án này hiện đã thuộc sở hữu của Công ty lưới điện Phương Nam TQ (chiếm 55% vốn), Công ty điện lực quốc tế Trung Cộng (CPIH) 40%, trong khi Tổng công ty điện lực (Vinacomin) chỉ nắm giữ có 5%.

Tại Hà Tĩnh, dự án Nhiệt điện Vũng Áng 2 có tổng mức đầu tư 2,187 tỉ USD, công suất 1.200 MW, cũng đã rơi vào tay Công ty One Energy Asia (Hồng Kông), sau khi công ty này thâu tóm lại cổ phần của Tổng công ty lắp máy VN (LILAMA) 25%, Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) 23%. Chưa dừng lại ở đó, tại dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 3 (Bình Thuận), Công ty One Energy cũng rót 55% vốn để kiểm soát, còn EVN nắm 29% và Tập đoàn Thái Bình Dương nắm 16% vốn.

Còn nhiều thương vụ mua bán - sáp nhập (M&A) khác có giá trị lớn do công ty TQ tiến hành dưới dạng mua cổ phần chi phối, như Tập đoàn China Investment nhận chuyển nhượng 19% cổ phần (96,9 triệu USD) từ một tập đoàn VN để đồng sở hữu liên doanh Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 2 tại Quảng Ninh. Thương vụ đình đám nhất trong lĩnh vực nông nghiệp là vụ thâu tóm C.P VN. Công ty mẹ CPG ở Thái Lan đã chuyển nhượng toàn bộ cổ phần nắm giữ ở C.P VN (71%) sang cho công ty con - Công ty Pokphand (CPP) trụ sở ở Hồng Kông. Khi đó, C.P VN đang nắm thị phần chủ yếu lĩnh vực thức ăn chăn nuôi của VN.

Đáng chú ý là tất cả những vấn đề này đã được các chuyên gia và người dân nói lên nỗi lo ngại của mình từ rất lâu, trên các phương tiện truyền thông chính thống. Việc công dân Trung Cộng mua bất động sản gần căn cứ quân sự đã xảy ra nhiều lần, cụ thể năm 2012, báo chí đã gióng lên hồi chuông báo động khi nhiều người Trung Cộng nuôi cá bè ngay gần cảng quân sự Cam Ranh, dẫn đến những đe doạ về an toàn quân sự đối với quốc phòng Việt Nam. Thế nhưng tất cả vẫn lặp lại, người Trung Quốc vẫn có thể dễ dàng "thâu tóm, khống chế" các doanh nghiệp cũng như toàn bộ xương sống của nền kinh tế Việt Nam, thậm chí dễ dàng mua đất có vị trí quốc phòng quan trọng.

Câu chuyện đặc khu

Năm 2018, Nhà nước Việt Nam đã công bố Dự thảo Luật đơn vị kinh tế hành chính đặc biệt (Gọi tắt là Luật Đặc khu), với ba địa điểm : Vân Đồn ; Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Dự luật này được chuẩn bị một cách vô cùng cẩu thả, sao chép lẫn nhau một cách thô vụng, và không dựa trên những cơ sở thuyết phục. Mặc dù bà Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch quốc hội Việt Nam khẳng định trước Quốc hội rằng "Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật". Tuyên bố này của bà Chủ tịch quốc hội hàm ý Bộ Chính trị là quyết định cao nhất, tất cả nhân dân có nghĩa vụ phải tuân theo.

Sau đó, đã dẫn đến sự kiện người dân cả nước cùng xuống đường biểu tình để tỏ thái độ không đồng ý với Dự luật này. Điều mà tất cả người dân lo ngại là sự đe doạ trước sự "xâm lăng không tiếng súng" của Trung Cộng, đặc biệt với Vân Đồn - một khu vực biển có vị trí tiền tiêu của Tổ quốc. Các chuyên gia cũng đã chỉ rõ khả năng các doanh nghiệp Trung Cộng có thể thâu tóm hoặc mua đất đai khu vực này (Dự luật cho thuê đất tới 99 năm), và như nhiều trường hợp trước đây ở Việt Nam, người Trung Cộng làm gì trong đất đai mà họ nắm giữ đó thì Chính quyền Việt Nam không thể hay biết.

Những tưởng với quyết tâm giữ gìn chủ quyền biển, đảo, Nhà nước Việt Nam phải cảnh giác trước các âm mưu "thực dân mới" của Trung Cộng thông qua các khoản vay, đầu tư và tham nhũng, hối lộ mà "Vành đai, Con đường" là kế hoạch tiêu biểu. Thế nhưng, câu chuyện lại không phải như vậy.

Mới đây, báo chí tỉnh Quảng Ninh tưng bừng công bố Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ về việc thí điểm thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế (KKT) Vân Đồn trực thuộc UBND tỉnh.

Điều đó cho thấy, mặc dù các khuyến cáo, lo ngại của người dân và các chuyên gia, Đảng và Nhà nước vẫn "đánh úp" nhân dân bằng các quyết định "âm thầm" của mình. Dự luật người dân phản đối thì Chính phủ ban Nghị quyết, và chẳng có ai còn hơi sức để phản đối nữa. Và như vậy, câu chuyện đặc khu Vân Đồn lại được tiếp tục. Rồi có thể 5 hoặc 10 năm nữa, các cơ quan như Bộ Quốc phòng lại công bố một loạt các thông tin "chấn động" khi Trung Cộng đã "làm chủ" toàn bộ đặc khu này. Và nếu người dân phản đối thì lại "Đảng và Nhà nước biết hết rồi, có phương án hết cả rồi" hay "chúng ta chỉ chống lại hay khởi kiện Trung Cộng khi nào chúng ta đủ mạnh, thoát khỏi sự lệ thuộc từ Trung Cộng đã". Tuy nhiên, với các kế hoạch như hiện nay của Nhà nước Việt Nam, việc thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Cộng là mãi mãi không thể.

Trong một bài trả lời phòng vấn gần đây, Tiến sĩ Trần Đình Thiên cho rằng "thoát Trung cũng chính là hàm nghĩa "thoát Ta". Ý kiến này xem ra rất đúng. Có lẽ, ông Trần Đình Thiên chưa thể nói thẳng ra được rằng, muốn "Thoát Trung", lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam cần thoát khỏi các lợi ích cá nhân của chính họ đi đã. Phải đặt lợi ích của đất nước và dân tộc lên trên, chứ cứ chỉ tập trung vào lợi ích cá nhân của chính "Ta" thì muôn đời cũng chẳng "Thoát Trung" được.

Hải Đăng

Nguồn : RFA, 19/05/2020

Published in Diễn đàn

Đại dịch Covid-19 đang làm thay đổi trật tự thế giới, làm căng thẳng sự đối đầu chế độ chính trị khác biệt ý thức hệ : Trung Quốc và Phương Tây. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc, mặc dù sự lựa chọn sẽ là một khó khăn.

mohinh1

Đại dịch Covid-19 đang làm thay đổi trật tự thế giới, Việt Nam có dám buông mô hình Trung Quốc ?

Để đi tìm câu trả lời, tôi xin đề cập hai ‘công thức chính trị’ sau đây về quá trình vận hành mô hình chế độ toàn trị trong hai giai đoạn lịch sử nhằm khái quát tính tất yếu thay đổi, và hơn thế, bối cảnh hiện nay mở ra cơ hội cải cách xoay chuyển với Việt Nam, mà Đại hội 13 là một thời điểm.

Trước hết, về công thức chính trị đến từ phương Tây của Lenin, Vladimir Lenin (1890 - 1924) là lãnh tụ cách mạng vô sản Nga, người vận dụng chủ nghĩa Marx trong điều kiện nước Nga tư sản đầu thế kỷ 20. Ông cùng với Friedrich Engels (1820 - 1895), trưởng thành từ xã hội tư sản Đức, sau này qua quốc gia tư bản khác là Anh quốc hoạt động, được coi là hai nhà tư tưởng về học thuyết nhà nước nói chung và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.

Theo Lenin, nước Nga Sa hoàng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là ‘mắt xích yếu nhất’ của chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản… Ông lãnh đạo đảng Bolshevik tiến hành thành công cuộc cách mạng tháng 10 Nga và thành lập nên nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Đó là chính quyền xô viết, một mô hình thể chế chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại được thiết lập để xây dựng và tiến tới xã hội cộng sản.

Công thức biểu tượng, mô hình sụp đổ

Lần lại nguồn gốc, có thể thấy Lenin đã khái quát cái xã hội lý tưởng mà ông tin tưởng bằng một công thức mang tính biểu tượng :

Chủ nghĩa cộng sản bằng (=) Chính quyền Xô Viết cộng với (+) Điện khí hóa toàn quốc

Tôi gọi đây là một công thức chính trị. Chính quyền xô viết, một một mô hình nhà nước, tước đoạt và quốc hữu hóa toàn bộ tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu tư nhân, thay mặt nhân dân quản lý và vận hành nền kinh tế bằng công cụ kế hoạch hóa tập trung với năng suất cao để xây dựng xã hội lý tưởng trong đó ‘của cải tuôn ra dào dạt’, ‘làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu’…

Tuy nhiên, trong quá trình thực tế vận hành, mô hình xô viết đã không thể đáp ứng ý chí của các lãnh tụ cộng sản. từ ‘mọi chính quyền đều thuộc về nhân dân !’ (вся властъ народам !) nhà nước đã suy thoái bởi quyền lực tập trung bị tha hóa khi nhân dân ngoài cuộc, động lực làm việc bị triệt tiêu và năng suất kinh tế thấp kém…

Đó là nguyên nhân cơ bản khiến mô hình xô viết sụp đổ. Lenin từng nói rằng ‘năng suất lao động là yếu tố quyết định cho sự chiến thắng của chế độ mới, xã hội chủ nghĩa đối với chế độ cũ ‘tư bản chủ nghĩa’.

Lenin trên cương vị lãnh tụ và lãnh đạo nhà nước, đảng cộng sản Liên Xô, đã mất sớm vào năm 1924, và không được chứng kiến những gì đã diễn ra trong thực tế, đó chính là sự sụp đổ mô hình nhà nước do ông đề xuất đã dẫn đến chế độ dân chủ và sự phát triển cho nhiều quốc gia.

Công thức chính trị thời chuyển đổi

Một số ít nước theo ‘con đường xã hội chủ nghĩa’, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc, sau khi hệ thống Xã hội Chủ nghĩa tan rã, đã chọn chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường trong khi vẫn duy trì sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản. Mô hình này chưa có tiền lệ khi tình thế buộc chế độ phải tìm cách duy trì sự cai trị.

Đảng Cộng sản Trung Quốc thực thi chính sách ‘cải cách và mở cửa’ từ cuối những năm 1970 với chiến lược thực dụng ‘mèo đen, mèo trắng không quan trọng miễn bắt được chuột’. Chính sách này đã thích nghi trong bối cảnh toàn cầu hoá, khi điều kiện để đón và hấp thụ có hiệu quả làn sóng đầu tư tư bản nước ngoài được chuẩn bị tốt. Nhờ đó, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng cao suốt hơn 30 năm, với quy mô GDP hiện tại khoảng 14 nghìn tỷ đô la Mỹ khiến Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới…

Trung Quốc đã là ‘biểu tượng’ cho một số nước đang phát triển, trong đó Việt Nam với sự tương đồng ý thức hệ, noi theo. Mô hình cũng dần suy thoái trong quá trình vận hành, tham nhũng nặng nề, chênh lệch giàu nghèo, quá tải đô thị, ô nhiễm môi trường… Kết quả là một nhà nước ‘tư bản thân hữu’ với đặc điểm là quan chức thoái hóa trong bộ máy đặc quyền cấu kết với các doanh nghiệp để chiếm đoạt tài sản công và chia chác đặc lợi dưới nhiều hình thức. Một tác giả, Giáo sư Minxin Pei, mô tả tình trạng này trong cuốn sách hay năm 2016 : ‘Tư bản thân hữu Trung Quốc’, đã được xuất bản ở Việt Nam.

Thực tế vận hành mô hình Trung Quốc có thể được khái quát như sau : Chế độ đảng cộng sản toàn trị cộng với (+) thị trường bằng (=) Nhà nước Tư bản thân hữu

Công thức chính trị thời chuyển đổi diễn tả hiệu ứng tất yếu của sự ghép nối tình thế, không theo quy luật vận động.

Thị trường tạo nên sức mạnh kinh tế chứ không phải từ bản chất chế độ. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt. Và hậu quả là sự suy giảm tốc độ tăng trưởng đồng thời với xu hướng tập trung hóa quyền lực.

Tỷ lệ tăng GDP của Trung Quốc giảm liên tục từ trên 10% xuống dưới 6% diễn ra đồng thời với Tập thâu tóm quyền lực vào tay cá nhân. Ông ta thanh trừng phe phái trong chiến dịch chống tham nhũng ‘đả hổ, giệt ruồi’, tự cho mình là ‘hạt nhân lãnh đạo’, sửa đổi điều lệ đảng và hiến pháp, loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ để có thể kéo dài sự cai trị lâu dài.

Tương lai ‘xã hội chủ nghĩa mang bản sắc Trung Quốc’ là sự tuyên truyền hơn là việc vận hành mô hình này có thể dẫn đến.

Cơ hội cải cách, xoay chuyển

Trong khi hai mô hình chính trị làm rõ cải cách thể chế là tất yếu thì bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay nhấn mạnh đây là cơ hội cải cách xoay chuyển, đột phá mà Việt Nam cần nắm bắt thấu đáo và kịp thời.

Biết rằng Việt Nam cải cách theo mô hình Trung Quốc sau khoảng 10 năm, khu vực tư bản tư nhân chiếm khoảng 40% GDP, nhưng thực trạng ’thân hữu’ đã rất nghiêm trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định ‘một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên’ đã suy thoái nặng nề về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nguyên trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng đã từng lên tiếng cảnh báo sự suy thoái này gắn với ‘lợi ích nhóm’ và ‘nhóm lợi ích’ từ nhiều năm trước.

mohinh2

Năm 2019, ngư dân Việt Nam được chính phủ động viên ra khơi bám biển trong thời gian Trung Quốc áp lệnh cấm đánh bắt cá, nhưng các tàu có giấy phép khai thác chung trên biển được khuyến cáo không đi quá sang phía Đông đường phân định Vịnh Bắc Bộ

Thực tế đang diễn ra hiện nay trên thế giới chứng tỏ nhận định trên. Mô hình Trung Quốc đã không phù hợp trong bối cảnh mới đã đặt ra yêu cầu tạo ra khác biệt trong cải cách thể chế ở Việt Nam.

Triết lý ‘tăng trưởng kinh tế thúc đẩy dân chủ’ ở chế độ cộng sản đã bị coi là sự ngộ nhận, khi Tổng thống Donald Trump đặt lại vấn đề ‘nước Mỹ trên hết’. Covid-19 là lúc các nước phương Tây nhận rõ bản chất hung hăng của chế độ chuyên quyền. Đối đầu ý thức hệ trong mọi vấn đề quốc tế có nguy cơ dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh 2.0, trong đó thay vì làm sụp đổ chế độ ở Trung quốc thì sự chiếm đoạt chính trị sẽ là tâm điểm trong trật tự thế giới mới.

Tham vọng địa chính trị của chính quyền Bắc Kinh, sự chiếm đoạt Biển Đông đe dọa sự toàn vẹn lãnh hải đang tạo lực đẩy lớn hơn về phía Mỹ để bảo vệ chủ quyền và tham gia ‘Tứ giác kim cương +’, bao gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ, Hàn Quốc, New Zeland và Việt Nam, và chuẩn bị điều kiện đón nhận sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu ra khỏi Trung Quốc…

Trong bối cảnh đó những đòi hỏi cải cách thể chế chính trị trong nước trở nên mạnh mẽ hơn. Chuyển giao quyền lực lãnh đạo đang gặp khó khăn trong thể chế bất ổn. Quyền tự do kinh doanh được nới rộng làm tăng các nhu cầu quyền dân sự được hiến định khác, đặc biệt quyền tham gia chính trị như giám sát quyền lực đảng và nhà nước. Chiến dịch chống tham nhũng thúc đẩy thay đổi lập pháp và tư pháp…

Hai công thức chính trị được trình bày trên đây khẳng định vai trò quyết định của nhân dân trong phát triển. Cả hai mô hình đều không tạo ra các thể chế phù hợp với quy luật để cụ thực chất hóa vai trò này của nhân dân. Khi mô hình Xô Viết sụp đổ, mô hình Trung Quốc thể hiện như biến thể, có bản chất tình thế để duy trì chế độ, thay vì lộ trình cải cách hướng tới chế độ dân chủ.

Thị trường là sản phẩm tự nhiên, tất yếu trong quá trình phát triển loài người, đã sản sinh thời kỳ khai sáng và các cuộc cách mạng công nghiệp, tăng trưởng kinh tế song hành với chế độ dân chủ là minh chứng trong thực tế. Chế độ chính trị là sản phẩm của con người, nếu phù hợp với thị trường thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại.

Bởi vậy, theo tôi nhiệm vụ chủ yếu trong cải cách chuyển đổi ở Việt Nam là tạo khác biệt về bản chất với hai mô hình trên, thoát khỏi sự níu kéo bởi ý thức hệ giáo điều và chế độ chuyên quyền, xây dựng thể chế dân chủ cho phù hợp và thúc đẩy kinh tế thị trường. Hơn thế và giữ được chủ quyền quốc gia. Bối cảnh quốc tế và trong nước tạo sức đẩy các nhà lãnh đạo cần nắm bắt cơ hội vàng để vừa phát triển vừa giữ được chủ quyền đất nước. Liệu Đại hội 13 là thời điểm thích hợp ?

Phạm Quý Thọ

Nguồn : BBC, 18/05/2020

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam.

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 2