‘Hòa’ thế nào khi không muốn giải !
Trân Văn, VOA, 01/05/2020
Cho dù cả giọng điệu lẫn âm lượng của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông chính thức về sự kiện "Giải phóng miền Nam" đã giảm đáng kể nhưng mạng xã hội và các diễn đàn điện tử về ngày 30 tháng 4 vẫn rất nóng, thậm chí còn nóng hơn nhiều năm trước...
Một cuộc duyệt binh nhân ngày 30 tháng Tư tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2015.
Số người nhận thức lại về cuộc chiến "Giải phóng miền Nam", đặc biệt là những người có liên quan chặt chẽ với "bên thắng cuộc", càng lúc càng đông. Thời điểm sự kiện "Giải phóng miền Nam" tròn 45 năm, nhiều ngàn người chia sẻ và bày tỏ sự tán thành ý kiến của Abraham Lincoln được dịch ra tiếng Việt kèm chân dung của ông (1) :
Khi viên đạn găm vào môt người lính thuộc về bất kỳ bên nào thì nó cũng xuyên vào trái tim một người mẹ…
Tại sao lại ăn mừng chiến thắng ? Những kẻ bại trận chẳng phải là đồng bào của chúng ta hay sao ?
***
Tháng trước, Tho Nguyen, sau tháng 4 năm 1975 được biệt phái vào Nam tiếp quản Đài Truyền hình Huế, từng bày tỏ : Đại dịch Covid-19 đang tạo cơ hội để ngày 30 tháng 4 năm nay, 45 năm kết thúc chuyện huynh đệ tương tàn, sẽ không phải là ngày trống giong cờ mở, pháo hoa sáng trời của bên này đồng thời là ngày nuốt nước mắt của bên kia…
Tuần này, Tho Nguyen, vừa mới viết tiếp về những suy nghĩ của ông đối với cuộc chiến ấy : Trong khi cả thế giới chìm trong chiến tranh lạnh thì Việt Nam trở thành chiến trường thi thố sức mạnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta coi nhau như anh em một nhà, quyết không bắn giết nhau thì không đế quốc nào có thể nhảy vào Việt Nam. Cuộc chiến khốc liệt đã nổ ra chính vì số người Việt thích bạo lực, coi trọng đấu tranh ý thức hệ nhiều hơn số người nghĩ đến quyền lợi dân tộc. Cuộc chiến đó đã khiến chúng ta mất Hoàng Sa, một phần Trường Sa và nếu tiếp tục chia rẽ, thù ghét nhau, sẽ mất thêm nhiều thứ khác (2)…
Trong status mới nhất, Tho Nguyen kể chuyện tướng Wojciech Jaruzelski (Ba Lan) và trung tá Harald Järger (sĩ quan an ninh Đông Đức) như những dẫn chứng.
Khi Công đoàn Đoàn kết trở thành lực lượng đe dọa sự nghiệp của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan và chính quyền cộng sản Ba Lan, tướng Jaruzelski – lúc ấy là Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Nhà nước đã chọn con đường đàm phán với Lech Walesa – Thủ lĩnh Công đoàn Đoàn kết, chứ không cậy đến Liên Xô – luôn muốn kềm giữ Ba Lan trong nanh vuốt của mình. Nhờ vậy, Jaruzelski và Walesa vốn từng không đội chung Trời nhưng không vì thế mà "đốt cháy Ba Lan" đã trở thành bạn của nhau.
Tương tự, Järger đã cấm thuộc cấp nổ súng vào dân Đông Đức ùn ùn đổ tới Bức tường Berlin. Đã vậy còn tự tay nâng thanh chắn cho dân Đông Đức chạy sang Tây Đức vào đêm 9/11/1989, dù điều đó, đồng nghĩa với sự nghiệp của Jäger cũng như hàng ngàn sĩ quan an ninh Đông Đức khác sẽ tiêu tan.
Tho Nguyen tin rằng, những kết thúc có hậu như thế chính là nhờ dân Ba Lan không sùng bái bạo lực, không để khuynh hướng bạo lực thắng thế, cũng như nhờ dân trí lành mạnh mà những sĩ quan an ninh Đông Đức giữ được tính người, lý trí. Đó cũng là lý do khi nước Đức còn bị phân chia, tuy khác biệt về thể chế chính trị nhưng dân Đông Đức vẫn dán mắt vào những trấn đấu của đội tuyển bóng đá Tây Đức và vẫn thường hét vang : Nước Đức, nước Đức… Tho Nguyen kể thêm, ngày thống nhất nước Đức, Thủ tướng Đức Willy Brand tuyên bố : Giờ đây những gì thuộc về nhau, lại gắn kết với nhau. Liệu càng ngày càng nhiều người Việt sẽ nghĩ như vậy (3) ?
***
Tham gia cuộc thảo luận sôi nổi về sự kiện "Giải phóng miền Nam" trên mạng xã hội và các diễn đàn điện tử từ cuối tháng ba đến nay, ông Nguyễn Khắc Mai, cựu Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu của Ban Dân vận thuộc Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nhận định : 30/4/1975 là thời điểm khởi đầu của tiến trình "phi cộng" mà những người cộng sản Việt Nam không cưỡng lại được.
Ông Mai cho rằng : Sự tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa trong một phần tư thế kỷ đã để lại nhiều dấu ấn, nhiều giá trị của một nền kinh tế thị trường thật chứ không nửa dơi nửa chuột, một xã hội dân trị tuy chưa đạt đến đỉnh cao nhưng là hiện thực, một nền văn hóa, giáo dục khá trưởng thành với nhiều giá trị và kinh nghiệm lành mạnh…
Theo ông : Đó chính là những nhân tố thúc đẩy tiến trình "phi cộng". Khi tiến nhanh, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thất bại, phải từng bước xóa bỏ kinh tế kế hoạch hóa, tập thể hóa nền kinh tế… Tuy nhiên không vứt bỏ cái vòng kim cô giáo điều Mác – Lênin, cái ốp che mắt ngựa thì không thể có tư duy tử tế, lành mạnh để suy nghĩ.
Khi kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam là kinh tế tư bản hoang dã có màu đỏ nhưng không đỏ như son mà là đỏ máu dân, ông Mai dẫn lại thắc mắc mà Triết gia Nguyễn Mạnh Tường từng nêu : Chủ nghĩa anh hùng của các ông có giúp các ông dám hy sinh đảng trên bàn thờ của Tổ quốc và Nhân dân ? - kèm cảnh báo : Nếu tiếp tục bảo thủ, tiếp tục để các nhóm lợi ích thao túng, nhân dân sẽ "tỉnh dậy, thấy mình là nô lệ, là con rối, con mồi của những tham vọng mới" và họ sẽ hành động (4)…
***
30 tháng 4 là dịp mà Lưu Trọng Văn, một nhà báo nghỉ hưu, viết vài mẩu chuyện nhỏ về những cuộc trò chuyện với người của phía bên kia. Những mẩu chuyện tiếp tục khắc họa thêm diện mạo của phía bại trận, về một hệ thống được xây trên nền tảng giáo dục theo tiêu chí "nhân bản – dân tộc – khai phóng", khác hẳn tuyên truyền của "bên thắng cuộc". Trong những mẩu chuyện ấy, có cuộc đối thoại với một đại tá của Việt Nam Cộng hòa, từng bị "cải tạo" mười năm, còn vợ con thì mất tích khi vượt biên bị chết, rằng : Làm thế nào để thống nhất lòng người ? Vị đại tá ấy đáp rất gọn : Chính quyền cứ thật sự tử tế vì dân thì lòng dân tự khắc thống nhất (5).
"Hòa hợp, hòa giải dân tộc" đã trở thành khẩu hiệu suốt hàng chục năm nhưng chỉ trong vài tháng gần đây, tiếp tục có thêm hàng chục người bị bắt, bị kết án chỉ vì nói khác kiểu, kháng giọng với những người lớn tiếng gọi "hòa". "Hòa" như thế là hòa… thật hay hòa… giả. "Hòa" như thế thì làm sao "giải" hết cả oán hận lẫn bất đồng ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 01/05/2020
Chú thích
(1) https://www.facebook.com/thanhbinh.bui.520/posts/1373475022839696
(2) https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/4024534787564564
(3) https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/4032800063404703
(4) https://baotiengdan.com/2020/04/30/30-thang-4-cot-moc-dien-bien-cua-cong-san-viet-nam/
(5) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=2638170569841497&id=100009457401127
*******************
Đừng khoét thêm vào nỗi đau Tháng Tư nữa !
Nguyễn Tường Thụy, RFA, 01/05/2020
Kỷ niệm 30/4 năm nay, tôi không định viết gì vì năm nào cũng viết rồi. Thế nhưng đã qua ngày 30/4, đây đó trên mạng xã hội vẫn còn những giọng miệt thị, giễu cợt đồng bào trốn chạy cộng sản đợt 30/4/1975.
Nước măt và nỗi đau của mẹ Việt Nam vẫn chưa ngừng
Có mấy lý do cần chấm dứt chỉ trích nhằm vào đồng bào phải bỏ nước ra đi :
Việt Nam Cộng hòa là bên thua cuộc nhưng họ không có lỗi và càng không có tội. Dịp 30/4 năm nay, có ý kiến gọi là bên bỏ cuộc. Cách gọi này phản ảnh khá sát bản chất của vấn đề mong mọi người suy nghĩ thêm, nhưng trong bài viết xin cứ gọi theo chữ quen dùng là bên thua cuộc đã.
Việt Nam Cộng hòa thua cuộc nhưng không thể trách được họ trước một đối phương mạnh và đông hơn hẳn. Đội quân ấy lại được sự tiếp sức tiền của và phương tiện chiến tranh khổng lồ từ khối xã hội chủ nghĩa trong đó có 2 cường quốc cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc, trong khi Việt Nam Cộng Hòa bị Mỹ bỏ rơi từ sau Hiệp định Pa ri.
Sau 45 năm, có nhiều học giả nhìn nhận lại bản chất cuộc chiến tranh. Về cơ bản, đó là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn do miền Bắc phát động. Hiệp định Pari bị xé bỏ thay vì thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Trong một cuộc chiến tranh, thua thắng có khi chỉ là nhất thời và tương đối. Bây giờ ý nghĩa của chiến thắng 30/4 như thế nào ? Nhìn vào thực trạng đất nước 45 năm sau đã rất nhiều người ngộ ra.
Việt Nam Cộng Hòa đã xây dựng được một nền dân chủ cộng hòa đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, giáo dục, an sinh xã hội về nhân quyền, dân chủ mà Việt Nam ngày nay còn lâu mới đạt được. Tuy chưa phải là khuôn mẫu tiên tiến nhất nhưng đó là chế độ mà đa phần nhân loại đang theo đuổi.
Và điều quan trọng nhất là Việt Nam Cộng Hòa không gây nên cuộc chiến này.
Vì vậy, bên thắng cuộc chẳng có gì phải tự hào, kiêu hãnh cả, càng không có lý do để sỉ nhục phía bên kia.
*
Điều cần nói là việc hạ nhục bên thua cuộc không chỉ là dư luận viên. Nó được phát ra cả từ những kẻ có những lời chỉ trích chế độ. Việc này, giới xã hội dân sự gọi là "vừa hợp tác, vừa đấu tranh". Giọng lưỡi từ những người này mới nguy hiểm. Thà rằng một bề bảo vệ đảng như những dư luận viên, trận tuyến truyền thông hai phía rõ ràng. Từ ngữ họ dùng để miệt thị phe thua trận thật là ghê tởm, rằng thua chạy te tua, chạy vãi cức, chạy tụt quần, không còn gì trong tay mà đòi này đòi nọ...
Thế nhưng đám dư luận viên hai mặt chưa hẳn là những người có công với chế độ. Ngày 30/4/1975 có thể họ còn bé tí hoặc chưa sinh ra nhưng cũng tự nhận mình thuộc bên thắng cuộc để lên giọng kẻ cả, phát ra những lời tanh tưởi. Nó thể hiện một tâm địa hẹp hòi, bần tiện, vô nhân bản.
Số này còn ghê gớm hơn cả nhiều lãnh đạo cộng sản có công đầu trong công cuộc gọi là "giải phóng miền Nam". Tại dinh Độc Lập ngày 2/5/1975 ông Trần Văn Trà nói với tướng Dương Văn Minh : "Đối với chúng ta, không có kẻ thua, người thắng mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta thắng Mỹ". Còn ông Võ Văn Kiệt nói trong dịp kỷ niệm 60 năm quốc khánh : "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu.
Có thể ông Trà và ông Kiệt nói mang tính mị dân hoặc những ai nói ra được như hai ông này còn ít nhưng cũng nhằm xoa dịu bớt nỗi đau của bên thua cuộc. Vậy mà những dư luận viên hai mặt là gì mà xúc phạm bên thua cuộc như vậy ?
Đó là đám dư luận viên hai mặt. Còn về phía nhà nước thì sao ?
Cần xác nhận rằng gần đây, các hoạt động mừng ngày "giải phóng miền Nam" có giảm dần qua mỗi năm. Tuy vậy họ vẫn không bỏ được chuyện ăn mừng chiến thắng. Năm nay cũng vậy. Nhưng thông tin về hoạt động này tìm qua ở công cụ tìm kiếm cũng khoảng 80 tin bài. Điển hình là tin "Thành ủy - HĐND - UBND - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" để "ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước". Thấy có cả Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng bay từ Hà Nội vào để dự, chắc là thay mặt đảng và nhà nước.
Bao giờ thì nhà nước thôi kỷ niệm 30/4 trong tâm thế ăn mày dĩ vãng. Bao giờ thì những từ "ngụy quân", "ngụy quyền" thôi chấm dứt trên cửa miệng những người dân vẫn đang tiếp nhận và chỉ trung thành với thông tin một chiều ? Bảo làm sao mà đến giờ vẫn chưa hòa giải, hòa hợp dân tộc được. Lòng người vẫn ly tán và chia rẽ sâu sắc.
Nếu vẫn cái kiểu tiểu nhân đắc chí như thế, chắc chắn số người vui giảm xuống, số người buồn tăng lên thậm chí tăng lên cả số người khinh bỉ, căm ghét và căm thù.
*
Nhắc đến hòa giải và hòa hợp dân tộc, người ta thường nhắc lại cách cư xử của bên thắng cuộc miền Bắc đối với bên thua cuộc miền Nam nhưng mà là chuyện của... nước Mỹ trong cuộc nội chiến 1861-1865.
Với Việt Nam, bên thắng cuộc phải cư xử sao cho nhân bản, đúng tư thế của người chiến thắng. Hãy cúi xuống mà nâng bên thua cuộc đứng dậy. Đừng làm cho nỗi đau của đồng bào miền Nam kéo dài thêm, cứa mãi, đau day dứt, dai dẳng như xẻo thịt bằng con dao cùn và lấy sự đau đớn ấy làm niềm vui, niềm tự hào, kiêu hãnh của mình.
Nguyễn Tường Thụy
Nguồn : RFA, 01/05/2020 (nguyentuongthuy's blog)
*********************
‘Mình là ván cờ thí để họ đi ván khác’
Hoàng Đức Nhã, VOA, 01/05/2020
Hoàng Đức Nhã nhìn lại biến cố 30/4
45 năm sau khi Sài Gòn thất thủ, những nhân vật từng đóng một vai trò trong giai đoạn dẫn tới biến cố lịch sử này ngày càng thưa dần… Trong những nhân chứng lịch sử hiếm hoi còn lại có ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Thông tin, dân vận và chiêu hồi Việt Nam Cộng Hòa.
Ông Nhã, cựu Bí thư và Tham vụ Báo chí của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhìn lại biến cố lịch sử 30/4/1975 trong cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ.
Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi Việt Nam Cộng Hòa tại hội thảo ở trường Đại học Oregon 14-15/10/2019
Hoàng Đức Nhã : "30 tháng Tư là một tổng hợp của rất nhiều yếu tố đã được cấu kết và thi hành từ bao năm, trước khi người Mỹ muốn ra khỏi cuộc chiến Việt Nam, không phải do họ thiếu năng lực mà vì lúc đó họ đổi đường hướng, muốn có những sự dàn xếp ở cấp cao với Trung Quốc, với Nga, trên cục diện địa chính trị- geopolitics.
Ông nói khi quân đội Bắc Việt tràn vào chiếm miền Nam, thì Việt Nam Cộng Hòa không còn súng đạn mặc dù trước đó 2 năm, chính phủ miền Nam đã ký hiệp định dựa trên lời hứa của Tổng thống Nixon, cam kết sẽ giúp Việt Nam Cộng Hòa tồn tại, và sẽ cung cấp vũ khí cho miền Nam theo phương thức "thay một đổi một", nếu phía Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Thế nhưng người Mỹ không giữ lời hứa, dẫn tới tình trạng miền Nam "không còn đủ phương tiện để chiến đấu".
Hiệp định mà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã vạn bất đắc dĩ ký dưới áp lực của Mỹ, vào tháng Giêng 1973 là một bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam. Ông Hoàng Đức Nhã nói hai năm trước đó, người Mỹ đã có ý định rút ra khỏi Việt Nam vì Mỹ muốn mang tù binh về "để ông Nixon có thể chứng tỏ với dân là ông đã giữ lời hứa sẽ đưa con em người Mỹ về nước".
Cựu Bí thư của Tổng thống Thiệu nói điều ‘vô cùng đáng tiếc’ là 30/4 xảy ra trong bối cảnh miền Nam đang đạt được nhiều tiến bộ.
"Lúc đó quân lực của mình đã bắt đầu mạnh, trong nước guồng máy hành chánh đã bắt đầu làm việc đúng mức, theo tôi nghĩ cộng sản họ thấy nếu để miền Nam có thì giờ thì ngày sẽ càng mạnh, lúc đó mình đã bắt đầu có dầu lửa, lúc đó đã sắp sửa xuất cảng được gạo trở lại, tất cả những yếu tố để phát triển, xây dựng đất nước đã có..".
Vụ tai tiếng Watergate
Nước Mỹ lúc bấy giờ phải đối phó với những vấn đề nội bộ đang làm lung lay chiếc ghế của Tổng thống Nixon, liệu vụ tai tiếng Watergate có ảnh hưởng tới quyết định của người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam ?
Ông Hoàng Đức Nhã nói vụ Watergate ảnh hưởng tới sự khẩn trương trong chính trị nội bộ của Mỹ, ảnh hưởng dây chuyền tới miền Nam và việc Mỹ giữ cam kết hay không vì ông Nixon lúc đó hoàn toàn phải đối phó với vụ Watergate. Ông giải thích :
"Lúc đó, quốc hội Mỹ do Đảng Dân chủ Mỹ kiểm soát rồi. Hai viện thì họ thấy cơ hội để dí ông Tổng thống Nixon và họ lựa vấn đề Watergate mà tiếp tục tấn công. Ngày mà Tối cao Pháp viện buộc ông Nixon phải giao cuộn băng đó, là ngày chính tôi thấy rõ thế nào miền Nam cũng phải chịu ảnh hưởng của chuyện này".
Viết về ông Hoàng Đức Nhã, báo New York Times mô tả ông là người đàn ông quyền lực nhất tại miền Nam, chỉ đứng sau Tổng thống Thiệu. Tờ báo nói ông Nhã cùng lúc đóng vai của 3 nhân vật quan trọng chính phủ Mỹ đương thời : cố vấn Kissinger, Tham vụ báo chí Ron Spiegler và Charles G. (Bebe) Rebozo, một người bạn tín cẩn của ông Nixon.
Ông Nhã là em họ của Tổng thống Thiệu, nhưng ông nói ông được ông Thiệu tin tưởng không phải vì có liên hệ bà con mà là nhờ ông hiểu người Mỹ, và biết phân tích tình hình.
"Tôi đi Mỹ học từ nhỏ, tôi biết tánh của người Mỹ khi họ áp dụng cái gì mà thấy con đường đó không trúng là họ bỏ đi, không tình cảm gì hết, mặc dù họ đã bỏ cả tỉ đôla đầu tư, không ăn thua gì cả… Tổng thống Thiệu là một ông Trung tướng, tướng là phải nghe hết những phân tách đầy đủ rồi mới lấy quyết định. Tôi làm việc với ông ấy được ông ấy tín nhiệm ngay cả về các vấn đề không thuộc phạm vi của tôi. Là Bí thư, tôi đâu có ăn thua gì về làm ngoại giao nhưng mà tôi phân tách được, đó là lý do tại sao tôi làm một lúc 3 công việc mà tờ New York Times có nhắc đến".
Về Tiến sĩ Kissinger
...sau khi ông Kissinger đi Bắc Kinh, rồi Tổng thống Nixon đi Bắc Kinh, dàn xếp với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông… Mình là một ván cờ họ thí để họ đi một ván cờ khác".
Ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Thông tin, dân vận và chiêu hồi Việt Nam Cộng Hòa
Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn an ninh của Tổng thống Nixon, là người đóng vai trò chủ chốt trong các cuộc thương lượng dẫn tới hiệp định Paris. Với các hoạt động ngoại giao ‘con thoi’ mang tính thực dụng, ông Kissinger thúc đẩy Mỹ mở cửa với Trung Quốc, làm thay đổi trật tự thế giới với những hệ quả còn kéo dài cho tới ngày nay. Có người tin rằng ông Kissinger phải chịu trách nhiệm lớn về kết cuộc của chiến tranh Việt Nam. Bí thư của Tổng thống Thiệu nhận định :
"Đồng ý ! Chính ông ấy là người thương thuyết một hiệp định rất là tai hại, ép buộc mình, không nghe, không chú ý, không quan tâm đến những ước vọng của miền Nam. Ông ấy chỉ thực thi những gì mà ông cho là trúng, mà chưa chắc gì ông Nixon đồng ý với ông ta nhưng mà vì ông Nixon bị vấn đề Watergate chi phối, ông không có thì giờ nghĩ tới. Ông Kissinger nói OK, để tôi ký cái hiệp định rồi là tôi là anh hùng rồi, tôi đem được tù binh Mỹ về rồi, chấm dứt".
Là người trực tiếp đối đầu với Kissinger để đòi các điều kiện tốt hơn cho miền Nam, ông Hoàng Đức Nhã bị coi là một cái gai trước mắt khi Kissinger sang Việt Nam hối thúc Tổng thống Thiệu chấp nhận giải pháp "chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam" mà ông ta đã điều đình với Hà nội trong các cuộc đi đêm với Lê Đức Thọ. Trong hồi ký "The White House Years", ông Kissinger mô tả Hoàng Đức Nhã là cao ngạo, bướng bỉnh, khó ưa, và dùng những từ ngữ nặng nề khác để nói về ông Hoàng Đức Nhã. Ông Nhã nói :
"Thực ra ông Kissinger không thích tôi là bởi vì tôi đi guốc trong bụng ông, ông là giáo sư danh tiếng mà ông thấy cái thằng nhóc con này mà tại sao nó dám chỉnh ông ?"
Trong hồi ký, Kissinger phản bác chỉ trích của ông Nhã cho rằng người Mỹ chỉ mặc cả để có một "decent interval"- một thời gian đủ lâu để Mỹ có thể thoái lui ‘trong danh dự’.
"Chính cái đó là điều làm cho ông Kissinger và phía Mỹ ghét tôi. Tôi là người biết phân tách tình hình, hồi đó tôi dùng danh từ ‘một thời gian thỏa đáng’ vì những tin tức sau khi ông Kissinger đi Bắc Kinh, rồi Tổng thống Nixon đi Bắc Kinh, dàn xếp với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông… Mình là một ván cờ họ thí để họ đi một ván cờ khác".
Lịch sử
Ông Hoàng Đức Nhã, Tham vụ báo chí và cố vấn của Tổng thống Thiệu, bắt tay Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn Elleworth Bunker, ngày17/8/1972, trước cuộc họp giữa Tổng thống Thiệu và Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ Henry A Kissinger
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam giờ đã thuộc về lịch sử, mà lịch sử thường nằm trong tay của bên thắng cuộc.
"Ai viết lịch sử ? Người thắng cuộc thì viết theo họ nói là người miền Nam không chịu bảo vệ lãnh thổ, chuyện đó là chuyện sai lầm, giải thích là người đồng minh không giữ lời cam kết đối với miền Nam, đưa đến ngày 30/4".
Ông Hoàng Đức Nhã rời Sài Gòn ngày 28/4/1975 giữa lúc thành phố Sài Gòn đang bị dội bom. Ông nghĩ gì khi ngoái nhìn quê hương lần cuối từ trên máy bay đưa ông ra nước người sống lưu vong ?
"Lúc máy bay cất cánh, tôi thấy mấy quả pháo rơi vào phi trường Tân Sơn Nhứt, lúc đó tôi rất buồn, không biết ngày nào trở về… Khi tới Guam nghe ông Dương Văn Minh đầu hàng, buồn vô tận. Bấy giờ thì mình nói rằng thôi, con cái của mình lớn lên không được cái cơ hội sống như mình đã sống, không được đi những nơi, ăn những món… thành ra lúc đó rất là buồn".
Hoài Hương thực hiện
Nguồn : VOA, 01/05/2020
*****************
Nhìn lại Hiệp định Paris 45 năm sau chiến tranh Việt Nam
Hoài Hương, VOA, 30/04/2020
Chiến tranh Việt Nam kết thúc khi Sài Gòn thất thủ vào tháng Tư năm 1975, nhưng theo một số sử gia thì số phận của miền Nam Việt Nam đã được định đoạt từ hơn hai năm trước, khi các bên tham chiến đạt được hiệp định hòa bình ở Paris. Được ký kết ngày 27/1/1973 giữa 4 bên : Hoa Kỳ, hai miền Nam và Bắc Việt Nam, và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, trên thực tế ‘không chấm dứt chiến tranh mà cũng chẳng mang lại hòa bình’, theo nhận định của sử gia Larry Berman, tác giả của quyển "No Peace, No Honor : Nixon, Kissinger and the Betrayal in Vietnam" – "Không Hòa bình, Không Danh dự : Nixon, Kissinger và sự Phản bội tại Việt Nam".
Ký kết hiệp định hòa bình Paris- Ảnh Tư liệu
Khi những chiếc máy bay trực thăng di tản những nhà ngoại giao và binh sĩ Mỹ cuối cùng ra khỏi Sài Gòn ngày 30/4/1975, câu hỏi được nhiều người đặt ra là : Chẳng lẽ hàng chục ngàn người Mỹ và hàng triệu người Việt Nam ở cả hai bên đã nằm xuống trong cuộc chiến, đều chết một cách vô nghĩa ?
Giáo sư Larry Berman nói khi Sài Gòn sụp đổ, câu trả lời đã rõ. Ông nói ngay cả ông Kissinger cũng biết rằng cái mà ông gọi là hiệp định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, và cho là sẽ mang lại "hòa bình trong danh dự" cho người Mỹ, thực ra chỉ mang lại một thứ "hòa bình giả tạo- sham peace", dựng lên nhằm đánh lạc hướng dư luận Mỹ với những lời hoa mỹ về ‘danh dự của Mỹ’ (trang 261).
Giáo sư Berman gọi thỏa thuận lập lại hòa bình ở Việt Nam là một thỏa thuận phi lý- "Jabberwocky Agreement" bởi vì trên thực tế thỏa thuận này không phải là một thỏa thuận hòa bình, mà chỉ là một cách để Hoa Kỳ có thể rút ra khỏi Việt Nam mà không phải nhìn nhận rằng Mỹ đã thất bại.
Trong quyển "No Peace, No Honor", Giáo sư Larry Berman đã dùng các tài liệu mật của Mỹ sau này được giải mật, về các cuộc đàm phán bí mật giữa cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ, cố vấn cao cấp Đoàn Đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, và ông mang các thông tin đó ra đối chiếu với các tài liệu của miền Bắc, ghi chép đầy đủ các cuộc đàm phán bí mật với ông Kissinger.
Lúc bấy giờ, Tổng thống Nixon và cố vấn Kissinger quyết tâm chấm dứt sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam. Mỹ chỉ có hai mục tiêu chủ yếu, chính là triệt thoái lực lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam, và vận động thả tù binh chiến tranh Mỹ để họ được trở về đoàn tụ với gia đình.
Số phận của miền Nam Việt Nam, nguyên do mà Hoa Kỳ tham gia chiến tranh Việt Nam, không được quan tâm đúng mức, thể hiện qua những cố gắng của ông Kissinger và Tổng thống Nixon, tăng sức ép buộc Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký hiệp định mà sử gia Berman cho là một "hiệp định tự sát", khi đồng ý cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ, sử gia Larry Berman nói chỉ có một từ duy nhất để miêu tả hành động của Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger đối với đồng minh Việt Nam Cộng Hòa và hàng chục ngàn binh sĩ đã chiến đấu và nằm xuống trên chiến trường Việt Nam : đó là "phản bội".
Ông Lê Đức Thọ, Cố vấn cao cấp Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Tiến sĩ Henry Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ tại Hội nghị Paris
Ông nói hành động phản bội khởi sự ngay từ khi ông Kissinger quyết định đi đêm với ông Lê Đức Thọ và hoàn toàn gạt Tổng thống Thiệu sang một bên.
Giáo sư Berman nói :
"Giải pháp ông ta bí mật điều đình mà không hề tham khảo ý kiến của đồng minh Nam Việt Nam, về cơ bản, là một ‘thỏa thuận tự sát’ đối với đất nước từng được gọi là Nam Việt Nam".
Sau cùng, ông Kissinger nhượng bộ hầu hết mọi đòi hỏi của miền Bắc, đơn phương triệt thoái lực lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng đồng ý để miền Bắc duy trì ước lượng 160 ngàn quân ở miền Nam. Theo Giáo sư Berman, khi phát hiện ra những nhượng bộ của ông Kissinger với miền Bắc, Tổng thống Thiệu đã hết sức giận dữ, ông Nixon rốt cuộc phải viết thư mật, bảo đảm Mỹ sẽ lập tức điều máy bay ném bom B52 ngay để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa nếu Hiệp định Paris bị vi phạm.
Ông Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, nói với VOA :
"Người Mỹ hứa hẹn với miền Nam Việt Nam sẽ phản ứng một cách hết sức mạnh mẽ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định Ba-Lê, đồng thời sẽ giúp Việt Nam chống đỡ trước các cuộc tấn công của miền Bắc, thì Hoa Kỳ đã không giữ và vì vậy cho nên miền Nam mới bị đặt vào trường hợp năm 1975 : thiếu súng đạn, thiếu tất cả mọi thứ, trong khi người miền Bắc được tiếp tế bởi Liên Xô và Trung Cộng, thành thử về phương diện quân sự nó rõ ràng bị chênh lệch, thì tình trạng của Hiệp định Paris đưa đến tình trạng năm 1975, thì nó rõ ràng là như vậy".
Giáo sư Larry Berman nói ông không tin là Tổng thống Nixon có ý định nuốt lời hứa với Tổng thống Thiệu :
"Không có cách chi Tổng thống Nixon chấp nhận để cho lịch sử viết rằng miền Nam Việt Nam đã sụp đổ trong khi ông đang nắm quyền ở Washington. Theo tôi, ông Nixon đã thực hiện lời hứa nếu không xảy ra vụ Watergate. Nhưng ông Kissinger thì khác, ông cố vấn ông Nixon rằng người Mỹ đã làm đủ rồi. Như tôi đã viết trong cuốn ‘No Peace, No Honor,’ đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ mà chúng ta để cho một đồng minh rơi vào tình trạng thiếu đạn dược, giữa lúc đồng minh đang chiến đấu để bảo vệ đất nước họ".
Giáo sư Berman nói thật là oái ăm là các cuộc điều đình bí mật dẫn tới hiệp định Paris, và sau này kéo theo sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, đã khiến ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ được Hội đồng Nobel chọn để trao Giải Nobel Hòa Bình.
Tiến sĩ Berman nói việc hai nhà ngoại giao đã ‘đi đêm’ với nhau được trao giải Nobel Hòa Bình là một điều khôi hài. Ông nói :
"Đáng chú ý là Henry Kissinger nhận Giải Nobel Hòa Binh, trong khi đối tác của ông trong các cuộc thương lượng, Lê Đức Thọ, từ chối, không nhận Giải. Bởi vì không có một giây phút hòa bình nào đã đến với Việt Nam".
Theo tài liệu của Người Kể Sử của Việt Nam, ông Lê Đức Thọ từ chối Giải Nobel Hòa bình "với lý do hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam".
Quả vậy, trước khi chữ ký trên văn kiện lịch sử này ráo mực, Hiệp định Paris đã bị vi phạm bởi cả hai bên trong cuộc chiến, với những vụ lấn đất giành dân, và chiến tranh lại tiếp diễn ngày càng dữ dội, để rốt cuộc dẫn tới biến cố 30/4/1975, khi miền Bắc xua quân thôn tính miền Nam trong hành động "vi phạm trắng trợn cuối cùng", theo sử gia Berman.
Hoài Hương
Nguồn : VOA, 30/04/2020
**********************
45 năm nhìn lại : Hiệp định Paris có giúp Mỹ ‘rút lui trong danh dự’ ?
VOA, 30/04/2020
Được ký kết ngày 27/1/1973 giữa 4 bên : Hoa Kỳ, hai miền Nam và Bắc Việt Nam, và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, trên thực tế đã ‘không chấm dứt chiến tranh mà cũng chẳng mang lại hòa bình’, theo nhận định của sử gia Larry Berman, tác giả của quyển "No Peace, No Honor : Nixon, Kissinger and the Betrayal in Vietnam" – "Không Hòa bình, Không Danh dự : Nixon, Kissinger và sự Phản bội tại Việt Nam".
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger, trái, và ông Lê Đức Thọ, phải, Cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu miền Bắc tại Hội nghị Paris, tại Gif-sur-Yvette, ngoại ô Paris, ngày 23/11/1972, ngay trước các cuộc điều đình bí mật.
Ngày 30/4/1975, khi máy bay trực thăng Mỹ đưa những binh sĩ cuối cùng ra khỏi Sài Gòn, câu hỏi được đặt ra là : Chẳng lẽ hàng chục ngàn người Mỹ và hàng triệu người Việt Nam ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến, đều chết một cách vô nghĩa ?
Giáo sư Larry Berman nói sau khi Sài Gòn sụp đổ, câu trả lời đã rõ. Ông nói ngay cả ông Kissinger cũng biết rằng cái gọi là hiệp định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam mà ông ấy đã ký và ca ngợi là mang lại "hòa bình trong danh dự" chỉ mang lại một thứ "hòa bình giả tạo- sham peace" được dựng nên nhằm đánh lạc hướng dư luận Mỹ với những lời hoa mỹ về ‘danh dự của Mỹ’ (trang 261).
Giáo sư Berman đặt tên thỏa thuận lập lại hòa bình ở Việt Nam là "Jabberwocky Agreement", vì tính cách phi lý của nó, vì thỏa thuận này không phải là một thỏa thuận hòa bình, mà chỉ là một cách để Hoa Kỳ rút ra khỏi Việt Nam mà không phải thừa nhận đã thất bại.
Trung tâm Washington của Đại học California cho rằng trong quyển "No Peace, No Honor", Giáo sư Larry Berman tiết lộ những sự thật chôn kín trong các tài liệu mật về các cuộc thương thuyết kín dựa trên những tài liệu của Mỹ được giải mật đối chiếu với các tài liệu của miền Bắc, ghi chép đầy đủ các cuộc đàm phán bí mật với ông Kissinger.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ, GS Berman nói oái ăm thay, các cuộc đàm phán bí mật đưa đến thỏa thuận phi lý đó đã dẫn tới quyết định của Hội đồng Nobel chọn trao Giải Nobel Hòa Bình cho ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ.
Giáo sư Berman kết luận rằng chỉ có một từ duy nhất để miêu tả những hành động của Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger đối với đồng minh Việt Nam Cộng Hòa và hàng chục ngàn binh sĩ đã chiến đấu và nằm xuống trên chiến trường Việt Nam : đó là "phản bội".
Ông Berman nói hành động phản bội khởi sự ngay từ khi ông Kissinger chỉ điều đình riêng với ông Lê Đức Thọ và hoàn toàn gạt ông Thiệu sang một bên.
Giáo sư Berman nói với VOA :
"Giải pháp ông ta bí mật điều đình mà không hề tham khảo ý kiến của đồng minh Nam Việt Nam, về cơ bản, là một ‘thỏa thuận tự sát’ đối với đất nước từng được gọi là Nam Việt Nam".
Sau cùng, ông Kissinger nhượng bộ hầu hết mọi đòi hỏi của miền Bắc, đơn phương triệt thoái lực lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam, nhưng đồng ý để miền Bắc duy trì ước lượng 160 ngàn quân ở miền Nam. Theo Giáo sư Berman, khi phát hiện ra những nhượng bộ của ông Kissinger với miền Bắc, Tổng thống Thiệu đã hết sức giận dữ, ông Nixon rốt cuộc phải viết thư mật, bảo đảm Mỹ sẽ lập tức điều máy bay ném bom B52 ngay khi Hiệp định Paris bị vi phạm.
Ông Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, cho VOA biết thêm chi tiết :
"Người Mỹ hứa hẹn với miền Nam Việt Nam sẽ phản ứng một cách hết sức mạnh mẽ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định Ba-Lê, đồng thời sẽ giúp Việt Nam chống đỡ trước các cuộc tấn công của miền Bắc, thì Hoa Kỳ đã không giữ và vì vậy cho nên miền Nam mới bị đặt vào trường hợp năm 1975 : thiếu súng đạn, thiếu tất cả mọi thứ, trong khi người miền Bắc được tiếp tế bởi Liên Xô và Trung Cộng, thành thử về phương diện quân sự nó rõ ràng bị chênh lệch, thì tình trạng của Hiệp định Paris đưa đến tình trạng năm 1975, thì nó rõ ràng là như vậy".
Giáo sư Larry Berman nói ông không tin là Tổng thống Nixon có ý định nuốt lời hứa với Tổng thống Thiệu :
"Không có cách chi Tổng thống Nixon chấp nhận để cho lịch sử viết rằng miền Nam Việt Nam đã sụp đổ trong khi ông đang nắm quyền ở Washington. Theo tôi, ông Nixon đã thực hiện lời hứa nếu không xảy ra vụ Watergate. Nhưng ông Kissinger thì khác, ông cố vấn ông Nixon rằng người Mỹ đã làm đủ rồi. Như tôi đã viết trong cuốn ‘No Peace, No Honor,’ đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ mà chúng ta để cho một đồng minh rơi vào tình trạng thiếu đạn dược, giữa lúc đồng minh đang chiến đấu để bảo vệ đất nước họ".
Tiến sĩ Berman nói việc ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ, hai nhà ngoại giao đã ‘đi đêm’ với nhau để đạt thỏa thuận dẫn tới Hiệp định Paris, được trao giải Nobel Hòa Bình là một điều khôi hài.
"Đáng chú ý là Henry Kissinger nhận Giải Nobel Hòa Binh, trong khi đối tác của ông trong các cuộc thương lượng, Lê Đức Thọ, từ chối, không nhận Giải. Bởi vì không có một giây phút hòa bình nào đã đến với Việt Nam".
Quả vậy, trước khi chữ ký trên văn kiện lịch sử này ráo mực, Hiệp định Paris đã bị vi phạm bởi cả hai bên trong cuộc chiến, với những vụ lấn đất giành dân, và chiến tranh lại tiếp diễn ngày càng dữ dội, để rốt cuộc dẫn tới biến cố 30/4/1975, khi miền Bắc xua quân thôn tính miền Nam trong hành động "vi phạm trắng trợn cuối cùng", theo sử gia Berman.
Nguồn : VOA, 30/04/2020