'Việc trục xuất tàu Mỹ mà Trung Quốc tuyên bố hoàn toàn bịa đặt'
Carl Thayer, Tina Hà Giang, BBC, 05/05/2020
Nhận định về tuyên bố đã "trục xuất" tàu Mỹ khỏi vùng Biển Đông gần đây của Trung Quốc, Giáo sư Carl Thayer nói rằng điều này hoàn toàn là một bịa đặt có tính cách tuyên truyền.
Tàu khu trục USS Barry của Mỹ tuần tra trên biển - Ảnh minh họa
Hôm 28/4, Trung Quốc cáo buộc tàu chiến USS Barry của Mỹ đã đi vào vùng đảo Hoàng Sa ở Biển Đông, nơi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, mà "không được Trung Quốc cho phép". Trung Quốc cũng nói họ sau đó đã thiết lập một thủ tục để theo dõi, theo dõi, xác minh, xác định và trục xuất USS Barry ra khỏi Biển Đông.
Nhưng ngay sau đó, một quan chức của Hải quân Hoa kỳ nói rằng USS Barry không hề bị trục xuất như Trung Quốc tuyên bố, và tàu khu trục, được đặt theo tên của "Cha đẻ của Hải quân Mỹ", đã tuần tra theo đúng kế hoạch mà không gặp phải bất kỳ hành vi không an toàn hoặc không chuyên nghiệp nào từ máy bay hoặc tàu chiến của Trung Quốc.
Trao đổi với BBC News tiếng Việt qua email từ Canberra, Úc, nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế giải thích rằng Trung Quốc tuyên bố như thế với mục đích tuyên truyền và cảnh báo các quốc gia khác trong khu vực.
Carl Thayer : Mỗi khi Hải quân Hoa Kỳ thực thi quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, Trung Quốc lại đưa ra loại tuyên bố tương tự là họ đã theo dõi, kiểm soát và "trục xuất" tàu chiến Hoa Kỳ. Đây hoàn toàn là những lời ngoa ngữ, cường điệu.
Trung Quốc có phương tiện giám sát để xác định khi nào tàu chiến của Hoa Kỳ đi vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố là của riêng họ. Và mỗi lần như thế Trung Quốc thường điều một máy bay để rình rập tàu chiến Mỹ trên biển. Thường thì tàu chiến Hoa Kỳ và nhân sự của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (People's Liberation Army Navy - PLAN) có liên lạc với nhau trong những lần nghênh chiến đó. Sau khi tàu chiến Hoa Kỳ hoàn thành nhiệm vụ và rời khỏi vùng biển do Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc tuyên bố sẽ họ vừa "trục xuất" tàu Mỹ.
Trung Quốc đang sử dụng chiến tranh thông tin để cảnh báo các quốc gia trong khu vực là họ sẽ chịu chung số phận này, nếu tàu của họ xâm nhập vào vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Công bố cường điệu này của Bắc Kinh cũng nhằm vào đối tượng trong nước để chứng minh rằng chế độ Tập Cận Bình đang bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc một cách kiên quyết chống lại chủ nghĩa quân phiệt của Hoa Kỳ.
Người phát ngôn của Hạm đội 7 Hoa Kỳ chắc chắn đã công bố rõ nếu Trung Quốc có bất kỳ động thái quân sự không chuyên nghiệp nào với tàu chiến USS Barry (DDG-52). Ví dụ, trong việc liên quan đến một tàu chiến của PLAN nhào đến tàu chiến USS Decatur một cách nguy hiểm hồi tháng 9/2018, Hoa Kỳ đã công bố khúc phim về cuộc chạm trán này để chứng minh quan điểm của mình.
Trong trường hợp USS Barry, một phát ngôn viên của Hải quân Hoa Kỳ tuyên bố rằng, hoạt động của tàu được tiến hành theo kế hoạch mà không gặp phải bất kỳ hành vi không an toàn hoặc không chuyên nghiệp nào từ máy bay hoặc tàu chiến của Trung Quốc.
Chúng ta không nên đánh giá là những tuyên bố của Trung Quốc và Hoa Kỳ có giá trị ngang nhau. Khi Trung Quốc sử dụng thuật ngữ "trục xuất", thì đó là một điều bịa đặt trong việc tuyên truyền của PLAN.
BBC : Theo giáo sư thì sự duy chuyển của USS Barry trong thời gian đó ở Biển Đông có tầm quan trọng gì ? USS Barry đến đó theo một lộ trình thường xuyên, hay với một mục đích nào khác ?
Carl Thayer : USS Barry có cuộc tuần tra với mục đích thực thi quyền tự do hàng hải (FONOP) để thách thức những gì Hoa Kỳ cáo buộc là yêu cầu bất hợp pháp của Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam là phải báo trước cho những nước này biết trước khi vào vùng biển gần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã vẽ những đường cơ sở quanh quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi không có thông tin chi tiết về đường đi chính xác của USS Barry, nhưng có khả năng đó là hành động thách thức yêu sách quá mức của Trung Quốc đối với vùng biển bên ngoài Hoàng Sa dựa trên các đường cơ sở này.
Hiện dưới sự lãnh đạo của quyền Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper, Hoa kỳ rõ ràng đã có một sự thay đổi trong chính sách FONOP's, để hoạt động hải quân phù hợp hơn với Chiến lược Quốc phòng được ban hành năm 2018 của nước này. Tài liệu của chính sách Quốc phòng 2018 kêu gọi các lực lượng quân sự Hoa Kỳ phải làm sao để thể hiện châm ngôn "chiến lược đoán được, nhưng hành tung khôn lường". Chuyến tuần tra của USS Barry, được tháp tùng ngay ngày hôm sau bởi việc thực thi quyền tự do hàng hải chưa từng có của USS Bunker Hill (CG-52) ở vùng biển quanh Đá Lạc (Gaven Reef) ở Trường Sa.
Tàu khu trục USS Bunker Hill (CG-52) tuần tra trên biển - Ảnh minh họa.
BBC : Ông nghĩ gì về thái độ khá lớn lối của Bắc Kinh khi bảo quân đội Hoa Kỳ hãy "về nhà và tập trung vào phòng ngừa Covid-19 đi", thay vì đi "gây bất ổn cho hòa bình và an ninh khu vực" ?
Carl Thayer : Hành động quan trọng hơn lời nói. Hòa bình và an ninh khu vực ở Đông Nam Á, chưa kể trên toàn cầu, đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi virus corona xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Quốc. Rõ ràng là ngay từ đầu, Trung Quốc đã đàn áp những báo cáo trong nước về Covid-19, và không minh bạch trong việc truyền đạt cho cộng đồng quốc tế rằng virus này có thể lây truyền giữa người và cực kỳ nguy hiểm. Các hành động chỉ vì tư lợi của Trung Quốc đã dẫn đến sự lây lan của Covid-19, khiến hơn 3,4 triệu người bị lây nhiễm tại ít nhất 187 quốc gia, gây ra cái chết của gần 250.000 người.
Hai chuyến tuần tra thực thi quyền tự do hàng hải gần đây nhất của Hoa Kỳ đã đến và đi mà không tạo bất kỳ suy giảm nào trong an ninh khu vực. Trên thực tế, hoàn toàn ngược lại, Trung Quốc đang bị chỉ trích nặng nề là đã lợi dụng đại dịch để khẳng định mạnh mẽ hơn các tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông và khu vực, và các nước nhỏ quanh vùng hoan nghênh sự hiện diện của Hải quân Hoa Kỳ.
BBC : Nhắc đến virus corona, thì ngoài mục đích thực thi quyền tự do hàng hải, Hoa Kỳ còn có động cơ nào khác khi đưa hai tàu chiến USS Barry và USS Bunker Hill đến Hoàng Sa giữa lúc hai nước đang căng thẳng vì Mỹ buộc tội Trung Quốc xử lý sai và giữ bí mật về sự bùng phát virus khi nó vừa xảy ra ?
Carl Thayer : Cũng có một động lực khác. Thủy thủ Hoa Kỳ trên tàu USS Theodore Roosevelt và tàu USS Kidd đã bị nhiễm virus corona. Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc lợi dụng thời cơ này để lập luận rằng Hoa Kỳ đang hoạt động ở một vị trí yếu kém. Trong khi đó Hoa Kỳ đang cố gắng khắc phục một trở ngại về quan hệ công cộng, bằng cách chứng minh rằng Hoa Kỳ có thể duy trì sự hiện diện của hải quân nước này ở Biển Đông.
Về mặt này, USS Barry đã tuần tra hai lần qua Eo biển Đài Loan vào tháng Tư trước khi triển khai đến Hoàng Sa. USS Bunker Hill đã tham gia với USS America ở vùng biển ngoài khơi Đông Malaysia để chứng minh sự hiện diện của Hoa kỳ khi Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Trung Quốc và tàu khoan Hai Yang Dizhi 8 đang quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của Petronas, công ty dầu khí của nhà nước Malaysia.
Tina Hà Giang thực hiện
Nguồn : BBC, 05/05/2020
******************
Biển Đông : Kế sách nào giúp Việt Nam đối phó với Trung Quốc ?
Trọng Nghĩa, RFI, 05/05/2020
Một loạt động thái mới đây của Trung Quốc tại Biển Đông cho thấy là Bắc Kinh lại thừa cơ thế giới bận đối phó với đại dịch Covid-19 để bắt nạt các nước Đông Nam Á – đặc biệt là Việt Nam - đang cố bảo vệ chủ quyền của mình trên vùng biển mà Trung Quốc tự nhận làm của riêng. Thế yếu của Việt Nam về mặt quân sự trước Trung Quốc đã thúc đẩy nhiều chuyên gia lên tiếng đề nghị những kế sách nhằm giúp Việt Nam đẩy lùi tham vọng của Bắc Kinh.
Hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt ghé cảng Đà Nẵng ngày 05/03/2020, bắt đầu chuyến thăm Việt Nam lần thứ hai trong vòng 3 năm của một tàu sân bay Mỹ. Ảnh minh họa. Reuters - Nguyen Huy Kham
Trong bài phân tích đăng trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 05/05/2020, chuyên gia phân tích quốc phòng Derek Grossman thuộc RAND Corporation, giảng viên trường Đại Học Mỹ University of Southern California, một người theo dõi sát tình Biển Đông, đã cho rằng trong bối cảnh Trung Quốc không từ bỏ "thái độ xấu xa", Việt Nam cần phải tính tới một số phương án mới để đối phó.
Bài viết mang tựa đề "Rà soát lại các phương án ‘đấu tranh’ của Việt Nam tại Biển Đông (Reviewing Vietnam’s ‘Struggle’ Options in the South China Sea).
Việt Nam tiếp tục bị Trung Quốc bắt nạt ở Biển Đông
Trước hết, tác giả đã nêu bật ba sự kiện gần đây nhất của Trung Quốc ở Biển Đông mà Việt Nam là nạn nhân trực tiếp.
Sự kiện đầu tiên là vụ một tàu Hải Cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu đánh cá Việt Nam hôm 03/04 ở vùng biển tranh chấp ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.
Sự kiện thứ hai diễn ra 10 hôm sau, vào ngày 13/04, khi Bắc Kinh lại cho chiếc tàu khảo sát địa chất Hải Dương Địa Chất 8 xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (trên đường đi xuống vùng biển ngoài khơi Malaysia). Chính chiếc tàu này vào năm ngoái đã được Bắc Kinh cử đến khảo sát hàng tháng trời tại khu vực Bãi Tư Chính và vùng biển ngoài khơi miền Trung, sâu bên trong vùng thềm lục địa của Việt Nam.
Qua ngày 18/04, Bắc Kinh tuyên bố đã thiết lập quyền kiểm soát hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp bằng quyết định thành lập hai quận đảo tại các khu vực này.
Phản đối suông không thay đổi được hành vi xấu của Trung Quốc
Các hành vi gây căng thẳng của Trung Quốc đã bị Việt Nam công khai phản đối, nhưng theo chuyên gia Mỹ, các tuyên bố đó vẫn không thay đổi được "hành vi xấu xa" của Bắc Kinh.
Vì vậy, câu hỏi hiển nhiên là ngoài việc công khai tỏ thái độ bất bình, Việt Nam có thể làm gì khác để kiềm chế sự quyết đoán của Trung Quốc trong tương lai ?
Chuyên gia Grossman nhắc lại rằng trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chủ trương "vừa hợp tác, vừa đấu tranh", tức là luôn luôn tìm cách duy trì quan hệ song phương hữu hảo và hữu ích với Bắc Kinh, nhưng đồng thời kháng lại Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông và một số vấn đề khác.
Vấn đề mà chuyên gia Mỹ đặt ra là vế hợp tác đã được Việt Nam coi trọng hơn trong quan hệ với Trung Quốc, vốn đã được nâng lên thành quan hệ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện". Trong số 3 đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam (Trung Quốc, Ấn Độ và Nga), duy nhất Trung Quốc được ghi nhận là đối tác "hợp tác".
Tuy nhiên, rõ ràng là sau cuộc đối đầu Việt Trung kéo dài hàng tháng trời vào năm ngoái ở khu vực Bãi Tư Chính, Hà Nội cần phải suy tính đến những phương thức mới trong việc đấu tranh chống Trung Quốc.
Nên đình chỉ một số hợp tác với Trung Quốc để tỏ thái độ
Một trong những phương thức mới mà ông Grossman đề xuất là công khai tỏ thái độ bằng cách đình chỉ một số hợp tác với Trung Quốc.
Chuyên gia Mỹ ghi nhận là cho đến nay, Việt Nam vẫn chủ trương tách biệt vấn đề Biển Đông ra khỏi các lãnh vực hợp tác khác với Bắc Kinh, không để cho phản ứng của mình đối với hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông phá vỡ các phần khác trong quan hệ song phương.
Hủy bỏ tuần tra chung, không tham gia Con đường tơ lụa
Một ví dụ : Ngày 21 và 23/04 vừa qua, Việt Nam quyết định vẫn cùng với Trung Quốc tiến hành các cuộc tuần tra bảo vệ bờ biển thường niên trong Vịnh Bắc Bộ. Theo ông Grossman, mặc dù Hà Nội và Bắc Kinh vào năm 2000 đã đạt thỏa thuận về việc phân định Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam không có nghĩa vụ phải tiếp tục các cuộc tuần tra chung này. Thay vào đó, Hà Nội có thể gửi một thông điệp rõ ràng tới Bắc Kinh rằng các lĩnh vực khác của quan hệ sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, đặc biệt là trong lĩnh vực nhạy cảm của chính sách trên biển.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể quyết định chấm dứt tham gia vào sáng kiến Một vành đai, Một con đường của Trung Quốc, một dự án mà chính Hà Nội cũng rất nghi kỵ, cả ở Việt Nam lẫn ở các láng giềng Lào và Cam Bốt.
Đối với chuyên gia Grossman, Việt Nam còn có nhiều lựa chọn khác để gửi tín hiệu đến Trung Quốc.
Kiện Trung Quốc trước tòa án quốc tế, giảm cấp quan hệ đối tác
Hà Nội chẳng hạn có thể biến thành thực tế lời đe dọa gợi lên vào tháng 11 là sẽ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, như Philippines đã làm vào năm 2013 và được Việt Nam hỗ trợ vào năm 2014. Chuyên gia Grossman cho biết là đã nghe thấy được từ một số nguồn tin từ chính phủ Việt Nam rằng khả năng kiện Trung Quốc đang được xem xét nghiêm túc.
Trong một lãnh vực khác, Việt Nam cũng có thể quyết định là thôi không kiểm duyệt, để cho các phương tiện truyền thông trong nước nói về các hành vi quyết đoán của Trung Quốc, qua đó hun đúc tinh thần chống Trung Quốc, có thể đe dọa đến lợi ích kinh doanh của Trung Quốc tại Việt Nam.
Hà Nội cũng có thể hạ thấp vị thế đối tác của Trung Quốc, chỉ đơn giản là "đối tác chiến lược toàn diện" để cho thấy rằng quan hệ song phương đang bị ảnh hưởng do các hành động của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Học tập thái độ cứng rắn của Indonesia
Trong lĩnh vực quân sự, chuyên gia Mỹ cho rằng Việt Nam có thể học tập cách Indonesia đối phó với Trung Quốc trong vụ Natuna, sẵn sàng leo thang quân sự để buộc Bắc Kinh lùi bước.
Trong một thời gian ngắn vào cuối tháng 12/2019 và đầu tháng 01/2020 ở vùng biển xung quanh quần đảo Natuna, quân đội Indonesia đã phản ứng mạnh mẽ trước việc lực lượng hải cảnh và tàu cá Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia. Jakarta đã cho triển khai tàu Hải Quân và máy bay chiến đấu đến khu vực và tàu Trung Quốc đã rút lui ngay sau đó.
Theo ông Grossman, một phản ứng tương tự của Việt Nam có thể sẽ liên quan đến việc cho triển khai các tàu khu trục lớp Gepard, tàu ngầm lớp Kilo và chiến đấu cơ Su-30MMK để chứng tỏ quyết tâm, mặc dù làm như vậy sẽ có nguy cơ xung đột rộng hơn và do đó cần có chừng mực cẩn thận.
Ở mức thấp hơn, Việt Nam có thể triển khai lực lượng Cảnh Sát Biển và Dân Quân Biển (vừa được xây dựng) để tuần tra thường xuyên tại các vùng bị tranh chấp, giống như cách mà Bắc Kinh đã làm trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, phương án này rất tốn kém cho các nguồn lực vốn hiếm hoi của Việt Nam.
Tận dụng chức chủ tịch ASEAN và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Đối với chuyên gia Grossman, trên bình diện đa phương, Hà Nội cũng có nhiều phương án khả thi để tăng cường đấu tranh.
Năm nay, Việt Nam vừa là chủ tịch ASEAN vừa là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Cho dù hồ sơ phối hợp hành động chống dịch Covid-19 về cơ bản đã chiếm lĩnh chương trình nghị sự của ASEAN vào năm 2020, Hà Nội vẫn có thể tìm cách thúc đẩy các thành viên hướng tới việc hoàn tất Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông mang tính ràng buộc về pháp lý, có lợi cho an ninh của Việt Nam.
Hiện đang có tin đồn cho rằng Hà Nội có thể tìm cách gia hạn nhiệm kỳ chủ tịch của mình, cho đến năm 2021, để có thêm thời gian để nắm giữ ảnh hưởng tại diễn đàn quan trọng này.
Còn tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã cho lưu hành một công hàm phản đối yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong tương lại, Việt Nam có thể tiếp tục nêu bật hơn nữa vấn đề thông qua diễn đàn của Hội đồng Bảo an.
Việt Nam cũng có thể tìm cách tiếp tục tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác an ninh với các cường quốc.
Liên kết chặt chẽ với nhóm Bộ Tứ Quad
Ngoài các nước truyền thống như Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp cũng có thể hỗ trợ Hà Nội ngăn chặn sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Mặc dù có rất ít khả năng Việt Nam tham gia nhóm Bộ Tứ Quad - Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ - để cùng tiến hành các cuộc tập trận quân sự hoặc tuần tra để biểu thị quyết tâm đoàn kết chống lại Trung Quốc trên khắp vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhưng Việt Nam có thể đóng vai trò đối tác đối thoại với Bộ Tứ về các vấn đề Trung Quốc. Dẫu sao thì Việt Nam cũng đã tham gia nhóm Quad Plus, cùng với New Zealand và Hàn Quốc, để hợp tác về các nỗ lực chống dịch Covid-19.
Củng cố nhóm nước Đông Nam Á bị Bắc Kinh chèn ép
Ngoài ra, Hà Nội có thể tìm đến các nước ASEAN có cùng chí hướng để được hỗ trợ. Trong những tháng gần đây, Philippines, Malaysia và Indonesia đều đã tức giận trước các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông. Có lẽ ba quốc gia này có thể tiến hành các cuộc tập trận quân sự hoặc tuần tra cùng nhau. Ý tưởng này đang được gợi lên một cách không chính thức ở Philippines.
Cuối cùng, sách trắng quốc phòng mới nhất của Việt Nam, công bố vào tháng 11/2019, đã mở ra cơ hội tăng cường hợp tác an ninh với Hoa Kỳ.
Thắt chặt thêm quan hệ an ninh quốc phòng với Hoa Kỳ
Tài liệu này nhắc lại chính sách quốc phòng "3 không" của Hà Nội - không liên minh, không có căn cứ nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và không liên kết với một nước để chống lại nước thứ ba - nhưng cũng lưu ý rằng, tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, chuyên gia Grossman nhấn mạnh, Việt Nam sẽ xem xét việc phát triển các quan hệ quân sự và quốc phòng phù hợp và cần thiết với các nước khác.
Đối với ông Grossman, trên tinh thần đó, Hà Nội hoàn toàn có thể nhờ Washington hỗ trợ thêm nếu hành vi của Bắc Kinh ở Biển Đông không thay đổi. Hà Nội có thể làm việc này dựa trên đà cải thiện quan hệ đáng kinh ngạc trong những năm gần đây với Washington, mà một cái mốc quan trọng được ghi dấu tháng Ba vừa qua khi Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Theodore Roosevelt ghé cảng Đà Nẵng. Đấy là lần thứ hai trong ba năm mà một tàu sân bay Mỹ đến thăm Việt Nam.
Chuyên gia Grossman kết luận : Việt Nam hiện có nhiều phương án hợp lý khác nhau để đấu tranh chống lại Trung Quốc, vấn đề là Việt Nam cần xác định sẽ đi đến đâu để thành công.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 05/05/2020
********************
Trung Quốc sẵn sàng "hải chiến" với Việt Nam trên Biển Đông ?
Thu Thủy, Thoibao.de, 05/05/2020
Trung Quốc vừa ngang ngược đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè ở Biển Đông
Sở Nông nghiệp và Nông thôn tỉnh đảo Hải Nam, miền Nam Trung Quốc, ngày 30/4 cho biết, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm ở Biển Hoa Nam (Biển Đông) đã bắt đầu từ hôm 29/4 và kéo dài đến ngày 16/8 tới.
Khu vực Trung Quốc đơn phương cấm đánh bắt cá ở Biển Đông
Phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc biển Đông đến 12 độ vĩ Bắc, bao gồm cả một phần vịnh Bắc Bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra, còn có bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép sau cuộc đối đầu với tàu Philippines vào năm 2012.
Theo cơ quan trên, không hoạt động đánh bắt cá nào được phép ở các vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc, ngoại trừ câu cá trong thời gian này. Tất cả các tàu đánh cá đã trở về các cảng ở đảo Hải Nam lúc 0 giờ ngày 29/4.
Theo Tân Hoa xã dẫn thông báo từ lực lượng hải cảnh Trung Quốc, 50.000 tàu cá sẽ dừng hoạt động đánh bắt trong thời gian 3 tháng rưỡi và lực lượng này sẽ thực thi lệnh cấm một cách nghiêm ngặt theo cái gọi là quy định và luật pháp liên quan.
Trong thời gian áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá kéo dài 3 tháng rưỡi, Trung Quốc sẽ tiến hành kiểm tra an toàn ngư lưới cụ và tàu thuyền, đồng thời tập huấn về các quy định và kỹ năng liên quan cho ngư dân.
Trước đó, lực lượng Hải Cảnh và Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc thông báo tăng cường tuần tra và giám sát kể từ ngày 01/5 nhằm bắt giữ tầu thuyền vi phạm.
Báo mạng Anh Express ngày 02/5 cho rằng với lệnh cấm đánh cá ở Biển Đông, Bắc Kinh tự cho quyền bắt giữ tàu cá Việt Nam và Philippines đánh bắt "trái phép", trong khi hai nước Đông Nam Á này luôn bác bỏ và lên án lệnh cấm đơn phương của Trung Quốc.
Kể từ năm 1995, Trung Quốc đã thi hành lệnh cấm đánh bắt cá thường niên để bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học của đại dương khỏi nguy cơ đánh bắt quá mức. Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông bắt đầu được áp đặt đơn phương vào năm 1999.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần liên tục phản đối và kịch liệt bác bỏ việc Trung Quốc đơn phương ra quyết định cấm đánh bắt. Quan điểm của phía Việt Nam là quy chế do chính quyền Bắc Kinh ban hành đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, phía Trung Quốc cũng xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam tại các vùng biển của Việt Nam.
Quan trọng hơn, nếu chiếu theo luật pháp quốc tế, trong đó bao gồm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), quy chế của Trung Quốc cũng bất hợp pháp. Quy chế này đi ngược lại với tinh thần và nội dung quy định trong Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và ASEAN.
Thậm chí, quy chế cấm đánh bắt còn vi phạm Thỏa thuận về những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Việt Nam và Trung Quốc (ký năm 2011).
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng trong nhiều lần phát biểu đã khẳng định : Việt Nam cho rằng những biện pháp bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh vật cần phải được thực hiện phù hợp với những quy định của UNCLOS năm 1982, đồng thời không làm phương hại đến quyền chủ quyền, các quyền tài phán trên biển của tất cả quốc gia liên quan.
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các quyền hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS năm 1982" – bà Hằng nhấn mạnh.
Ngày 4/5, Hội Nghề cá Việt Nam có văn bản gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại trung ương… phản đối phía Trung Quốc ban hành quy chế cấm đánh bắt cá trên biển Đông từ ngày 01/5 đến 16/8.
Tại văn bản này, Hội Nghề cá Việt Nam kịch liệt phản đối việc Trung Quốc có thông báo về quy chế cấm đánh bắt cá trên biển Đông, phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc biển Đông đến 12 độ vĩ Bắc, bao gồm cả một phần vịnh Bắc bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
"Quy chế này xâm phạm chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển của Việt Nam, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý, gây cản trở sản xuất trên biển của ngư dân Việt Nam. Đồng thời vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan" – Hội Nghề cá Việt Nam khẳng định.
"Quy chế này không có giá trị pháp lý đối với các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngư dân Việt Nam hoàn toàn có quyền đánh bắt trên các vùng biển thuộc chủ quyền của mình" – Hội Nghề cá Việt Nam nhấn mạnh.
Hội đề nghị các cơ quan chức năng có biện pháp phản đối mạnh mẽ nhằm ngăn chặn, chấm dứt hành động ngang ngược của Trung Quốc. Cùng với đó, thường xuyên tăng cường lực lượng chấp pháp trên biển để hỗ trợ và bảo vệ ngư dân Việt Nam khi hoạt động trên vùng biển của Việt Nam.
Về phía Hội Nghề cá Việt Nam, hội sẽ tích cực chỉ đạo các hội thủy sản, hội nghề cá địa phương tuyên truyền cho ngư dân hiểu và chấp hành các quy định của pháp luật khi đi đánh bắt trên biển. Đồng thời kêu gọi ngư dân bình tĩnh, yên tâm bám biển, đẩy mạnh sản xuất và kiên quyết thực hiện quyền lợi chính đáng của mình, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Việc thông báo cấm đánh bắt cá nói trên là động thái mới nhất trong chuỗi động thái khiêu khích và ngang ngược gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông.
Hồi đầu tháng 4, một tàu cá của Việt Nam đang hoạt động bình thường tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa thì bị tàu hải cảnh Trung Quốc ngăn cản và đâm chìm, khiến 8 ngư dân Việt Nam gặp nạn.
Chính quyền Trung Quốc hôm 19/4 đã công bố cái gọi là danh xưng tiêu chuẩn của 25 đảo và rạn san hô cùng 55 thực thể ở biển Đông, một ngày sau khi ngang ngược thành lập hai cơ quan hành chính nhằm kiểm soát phi pháp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Trước đó, hôm 16/4, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã bám theo tàu khai thác dầu West Capella của công ty dầu khí Petronas (Malaysia) hoạt động ở biển Đông.
Những hành động liên tiếp mang tính chất hung hăng thời gian gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông bị cộng đồng quốc tế chỉ trích dữ dội nhất là trong thời điểm cộng đồng quốc tế vẫn đang đối phó với đại dịch Covid-19.
Hoa Kỳ không tỏ ra khoanh tay trước những hành động lấn lướt của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt trong thời gian cả thế giới chống dịch Covid-19.
Bốn oanh tạc cơ B-1B cùng với 200 quân nhân từ căn cứ Không Quân Dyess ở Texas đã được điều đến căn cứ Andersen, trên đảo Guam ở Thái Bình Dương, từ ngày 01/5 và chưa rõ thời gian kết thúc. Ba chiếc B-1B bay thẳng đến căn cứ Guam, chiếc còn lại bay đến Nhật Bản tập huấn với Hải Quân của Hoa Kỳ trong khu vực.
Trong thông cáo ngày 01/5 của bộ Chỉ huy Chiến lược Mỹ (STRATCOM), nhiệm vụ của đội máy bay B-1B là hỗ trợ lực lượng tại Thái Bình Dương và đồng minh, tham gia các nhiệm vụ mang tính răn đe chiến lược, ổn định trật tự dựa trên luật lệ ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Trước đó, ngày 30/04, hai chiếc B-1B Lancer, thuộc Không đoàn Ném bom số 28 xuất phát từ căn cứ Nam Dokota (Mỹ), đã có chuyến bay diễn tập trong vòng 33 giờ với trọng tâm là Biển Đông.
Đây là lần đầu tiên oanh tạc cơ hạng nặng trở lại Guam sau khi rời khỏi căn cứ này vào giữa tháng 4/2019, kết thúc chiến dịch 6 tháng của các loại oanh tạc cơ B-52, B-1 và B-2 ở căn cứ Andersen. Loại máy bay ném bom B-1 có khả năng chở nhiều vũ khí nhiều hơn máy bay B-52, trong đó có bom dẫn đường JDAM và tên lửa hành trình chống hạm.
Trước đó, ngày 21/4, Hải quân Mỹ xác nhận đã điều hai tàu chiến ra Biển Đông, trong khi nguồn tin của Reuters nói các tàu này hoạt động gần khu vực được cho là diễn ra sự "đối đầu" giữa Trung Quốc và Malaysia.
Theo giới quan sát, đây được xem là thông điệp cảnh báo gửi đến Bắc Kinh khi tàu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đã bị phát hiện đang tiến hành khảo sát gần khu vực mà tàu thăm dò của công ty dầu khí nhà nước của Malaysia Petronas đang hoạt động. Hành động của Hải Dương Địa Chất 8 giống với những gì tàu này đã làm ở vùng biển Việt Nam vào năm ngoái.
Bà Nicole Schwegman, người phát ngôn Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, ngày 21/4 cho biết tàu tấn công đổ bộ USS America và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill đã được triển khai ở Biển Đông.
"Thông qua sự hiện diện liên tục ở Biển Đông, chúng tôi đang nỗ lực… thúc đẩy tự do hàng hải, hàng không và nguyên tắc quốc tế vốn làm nền tảng an ninh và thịnh vượng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương… Mỹ ủng hộ các nỗ lực của đồng minh và đối tác trong việc quyết định lợi ích kinh tế của riêng mình", bà Schwegman viết trong một tuyên bố bằng email gửi Reuters.
Bộ Quốc phòng Australia ngày 22/4 cũng thông báo, tàu hộ vệ HMAS Parramatta của Australia cùng 3 tàu Mỹ, gồm tàu tấn công đổ bộ USS America, tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill và tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry đã thực hiện cuộc diễn tập chung tại Biển Đông.
Trong hai ngày 28 và 29/4, Mỹ lại tiếp tục điều động máy bay ném bom và tàu chiến hoạt động ở Biển Đông thể hiện một thông điệp mạnh mẽ nhằm thách thức các hành vi gần đây của Trung Quốc.
Hãng tin USNI dẫn thông cáo của Trung tá Reann Mommsen, phát ngôn viên Hạm đội 7 Hải quân Mỹ, cho biết tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill ngày 29/4 đã tiến hành hoạt động "tự do hàng hải" ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Thông cáo nêu rõ, hoạt động này "khẳng định quyền hàng hải và tự do ở quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế". Một quan chức giấu tên của Hải quân Mỹ cho biết, tàu USS Bunker Hill đã di chuyển trong phạm vi 12 hải lý quanh Đá Ga Ven thuộc quần đảo Trường Sa.
Đây là lần thứ hai trong một tuần Hải quân Mỹ thực hiện các hoạt động tuần tra dự do hàng hải ở Biển Đông. Hôm 28/4, tàu khu trục USS Barry cũng tiến hành hoạt động tuần tra gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Đây là một chuỗi trong các hoạt động của Mỹ nhằm thể hiện cam kết trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Rõ ràng Trung Quốc đang thúc đẩy yêu sách phi lý ở Biển Đông lợi dụng bối cảnh các nước phải dồn lực cho cuộc chiến chống Covid-19.
Hành vi phi pháp của Trung Quốc suốt từ nhiều năm qua tại Biển Đông vốn đã liên tục bị phía Việt Nam phản đối. Hơn nữa, Trung Quốc lại tiếp tục hung hăng, đẩy mạnh hành vi ngang ngược của mình vào thời điểm các nước đang phải vật lộn với đại dịch mà ít nhất trong đó có một phần lỗi của Bắc Kinh thì lại càng chứng tỏ sự nguy hiểm và của thể chế độc tài này.
Dã tâm của Trung Quốc là ép các nước Đông Nam Á từ bỏ quyền lợi hợp pháp của mình được quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), ép họ chia sẻ vùng đặc quyền kinh tế với Bắc Kinh. Để làm được điều này, Trung Quốc đang ra sức hợp pháp hóa việc trừng phạt các nước Đông Nam Á khi cố gắng tự khai thác tài nguyên trong vùng chủ quyền của mình.
Nhà cầm quyền Bắc Kinh sẽ khó thực hiện được âm mưu thôn tính lãnh thổ, vì Việt Nam đã hiểu bản chất của những người đồng chí ở phương Bắc, họ sẽ đấu tranh bằng mọi biện pháp, kể cả dùng lực lượng hải quân tự vệ khi bị tấn công.
Mỹ cùng các đồng minh cùng các quốc gia liên đới, cộng đồng quốc tế sẽ không để những hành vi coi thường luật pháp quốc tế tái diễn, đe dọa đến trật tự, an ninh và hòa bình thế giới.
Thu Thủy (Thành phố Hồ Chí Minh)
Nguồn : Thoibao.de, 05/05/2020
**********************
Biển Đông : Việt Nam tìm ngoại lực để đối phó với Trung Quốc
Alexander Vuving, Thu Hằng, RFI, 04/05/2020
Tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc hoành hành trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam từ đầu tháng 07 đến nay, sau khoảng một tuần gián đoạn (07-13/08/2019. Ngày 24/08, tầu Hải Dương Địa Chất 8 còn ngang nhiên tiến sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách bờ biển Phan Thiết khoảng 185 km. - Tạp chí phát lần đầu ngày 27/08/2019.
Sau thời gian đầu im lặng, Việt Nam phản đối ngày càng kịch liệt và huy động lực lượng hải cảnh bám sát hoạt động của đội tầu Trung Quốc. Về mặt ngoại giao, Việt Nam tìm cách vận động công luận quốc tế thông qua những tuyên bố quan ngại tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông đang bị đe dọa.
Trung Quốc có ý đồ gì khi đưa tàu khảo sát quay lại vùng biển Việt Nam ? Việt Nam có khả năng chống trả như thế nào ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương (Asia-Pacific Center for Security Studies, APCSS), Hawai.
RFI :Tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã hai lần thâm nhập khu vực bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và hiện vẫn đang hoạt động trong khu vực này. Trung Quốc có ý đồ gì với sự kiện gây hấn mới nhất này ?
Alexander Vuving : Tôi nghĩ ý đồ lớn nhất của Trung Quốc là họ muốn tiếp tục hiện thực hóa yêu sách "đường lưỡi bò" của họ ở Biển Đông. Yêu sách đó đương nhiên là bị Tòa Trọng Tài Quốc Tế bác bỏ năm 2016. Nhưng Trung Quốc thấy rằng họ gần như muốn làm gì cũng được nên họ tiếp tục hiện thực hóa. Tôi nghĩ là những hành động vi phạm hiện nay của Trung Quốc cũng có ý đồ thiết lập một hiện thực mới ở khu vực Biển Đông. Điều này thể hiện cán cân sức mạnh nghiêng về Trung Quốc.
Thứ hai là họ cũng muốn gây áp lực để Việt Nam và các nước ASEAN phải chấp nhận lập trường của họ về bản Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC). Như chúng ta biết là Trung Quốc và các nước ASEAN vẫn đang thương thảo về bản Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Và mới đây, năm 2018, bộ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc đưa ra đề nghị là phải ký kết bản quy tắc này trong vòng 3 năm tới, có nghĩa là đến năm 2021. Thời gian đó chính là thời gian mà Trung Quốc, có thể nói là "vừa đánh vừa đàm", đặc biệt là sẽ gây áp lực rất mạnh trên thực địa để buộc các nước chấp nhận lập trường của Trung Quốc.
Điều thứ ba mà theo tôi nghĩ, đó cũng là một hình thức Trung Quốc muốn gây áp lực với Việt Nam để Việt Nam lo ngại và không dám nâng cao mối quan hệ với Mỹ lên mức "đối tác chiến lược", hiện mới chỉ là "đối tác toàn diện". Có dự định là Việt Nam và Mỹ sẽ nâng quan hệ lên thành "đối tác chiến lược" khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ vào cuối năm nay (2019).
Những hành động này của Trung Quốc cũng có ý là làm cho lãnh đạo Việt Nam phải cân nhắc lại, suy nghĩ lại, xem là có nên tiếp tục như thế nữa không.
RFI : Trường hợp bãi Scarborough của Philippines bị Trung Quốc chiếm năm 2012 và trường hợp bãi Tư Chính hiện nay của Việt Nam có gì giống và khác nhau ? Philippines có Mỹ là đồng minh vào thời điểm đó, mà vẫn bị mất.
Alexander Vuving : Trường hợp mà hiện nay chúng ta gọi là "bãi Tư Chính", trên thực tế là không có gì xảy ra ở bãi Tư Chính cả. Hiện nay, cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc xảy ra ở hai nơi : một là khu vực Block 06-01, nằm ở phía cao hơn Tư Chính rất là nhiều ; khu vực thứ hai là phía gần đảo Đá Tây của Việt Nam, nơi mà tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đang khảo sát, cũng không dính líu gì đến bãi Tư Chính. Chỉ có điều là ta cứ tạm gọi như thế. Trước hết, phải nói rõ như thế !
Còn khu vực mà mọi người hay gọi là bãi Tư Chính, trên thực tế là có rất nhiều bãi ngầm, trong đó bãi Tư Chính nằm ở phía cực nam, ngoài ra còn có nhiều bãi khác như Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, bãi Huyền Trân… Tất cả những bãi này đều nằm chìm dưới mặt biển, từ khoảng 6-7 mét cho đến hơn 20 mét.
Bãi này khác với Scarborough của Philippines có những mỏm đá nhoi lên và thậm chí là có những lúc có một hồ bên trong. Đối với bãi Scarborough, sự chiếm đoạt cũng tương đối dễ dàng hơn rất nhiều so với những bãi, gọi là bãi nhưng thực ra hoàn toàn chìm dưới biển. Nếu muốn chiếm những bãi đó, cũng rất là khó.
Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã xây dựng mười mấy nhà giàn ở khu vực như bãi Tư Chính, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, Huyền Trân và về phía xa hơn là ngoài bãi Ba Kè. Bây giờ Trung Quốc muốn chiếm những khu vực này, có lẽ cũng phải mang cấu trúc tương tự như nhà giàn của Việt Nam đến và lắp đặt vào đấy. Những công việc này cũng không phải là đơn giản.
Điểm khác biệt thứ hai trong trường hợp Scarborough và "trường hợp tạm gọi là Tư Chính", vấn đề chủ quyền Scarborough vẫn có sự tranh chấp. Đứng về phía trung lập của quốc tế, người ta không rõ ai có chủ quyền. Vào thời điểm năm 2012, chưa có phán quyết của Tòa Trọng Tài vào năm 2016 cho nên bên ngoài vẫn chưa rõ là khu vực này như thế nào.
Nhưng hiện nay, chúng ta đã có phán quyết của Tòa Trọng Tài năm 2016, và vấn đề vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được xác định rất rõ ràng, bởi vì Tòa Trọng Tài nói rằng là không một thực thể nào trong quần đảo Trường Sa có được vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Từ đó suy ra là vùng biển hiện nay, nơi đang có đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà tạm gọi là bãi Tư Chính, là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Và về mặt luật pháp quốc tế, không thể gọi là vùng tranh chấp được.
Đối với những nước thứ ba bên ngoài trung lập, chấp nhận chiểu theo luật pháp quốc tế, họ sẽ phải thừa nhận rằng những vùng này là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc không có lý do gì để đòi hỏi chủ quyền bởi vì "đường lưỡi bò" - yêu sách của Trung Quốc - đã bị bác bỏ bởi Tòa Trọng Tài năm 2016.
Một điểm khác biệt nữa là Philippines có Mỹ là đồng minh, còn Việt Nam không có nước nào là đồng minh cả. Thế nhưng, thời điểm đó, tuy rằng Mỹ là đồng minh của Philippines nhưng chính quyền Obama lại quá ngây thơ về ý đồ và hành vi của Trung Quốc. Do đó, thay vì đứng về phía Philippines để bảo vệ đồng minh, họ lại đóng vai trò trung gian hòa giải. Điều đó dồn Philippines, là một nước nhỏ, vào thế yếu hơn nữa và cuối cùng dẫn đến việc Philippines bị mất bãi Scarborough vào tay Trung Quốc.
RFI : Vậy Việt Nam có nên tin vào hứa hẹn ủng hộ, giúp đỡ của Mỹ không ? Trong khi chính quyền tổng thống Trump hiện nay bắt đầu phàn nàn về nhập siêu trong lĩnh vực thương mại từ Việt Nam.
Alexander Vuving : Tôi nghĩ chính quyền Trump hiện nay không đến nỗi ngây thơ về những ý đồ và hành vi của Trung Quốc như chính quyền Obama. Họ đã lên tiếng, nói rõ rằng họ chống lại việc Trung Quốc bắt nạt Việt Nam ở vùng biển của mình. Và về vấn đề pháp lý, họ thấy rõ rằng vùng đó là thuộc về chủ quyền của Việt Nam.
Chỉ có điều là Mỹ không có quan hệ đồng minh, cũng chẳng có quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ với Việt Nam, như đối với Philippines. Cho nên tôi không nghĩ là Mỹ có hứa hẹn ủng hộ gì Việt Nam hay không ngoài việc tuyên bố. Nhưng việc nâng cấp quan hệ lên "đối tác chiến lược" là việc lâu dài, không nên bị ảnh hưởng bởi chính quyền hiện nay là thế nào.
Bản thân Việt Nam cũng nhận thức được thực tế là họ phải cân bằng mối quan hệ với các nước khi mà họ đã có một mối quan hệ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" với Trung Quốc. Đương nhiên là họ phải có một mối quan hệ đối tác chiến lược khá toàn diện với Mỹ để cân bằng. Nhưng hiện nay, quan hệ với Mỹ lại bị đặt ở cấp thấp, chỉ là "quan hệ toàn diện". Rõ ràng là có độ vênh mà Việt Nam sẽ cần phải lấp vào.
RFI : Việt Nam có những tiềm lực gì về ngoại giao, quân sự để phản đối và đối phó những hoạt động trên, cũng như chiến lược thâu tóm Biển Đông của Trung Quốc ?
Alexander Vuving : Với những mối quan hệ ngoại giao và khả năng quân sự của Việt Nam hiện tại, thì hoàn toàn cán cân sức mạnh, kể cả ngoại giao lẫn quân sự, đều nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Lực lượng của Việt Nam chưa đủ mạnh để có thể thực sự cản phá được những hoạt động của Trung Quốc. Việt Nam, kể cả về ngoại giao lẫn quân sự, đều thiếu khả năng răn đe Trung Quốc. Có thể nói thẳng là như vậy !
Cho nên những gì Việt Nam cố gắng làm ở Biển Đông chỉ là giữ những gì mình đang làm, chẳng hạn những giàn khoan dầu, đã khoan rồi thì tiếp tục giữ. Còn bây giờ, đặt thêm giàn khoan mới cũng không phải dễ dàng. Chúng ta đã biết trong hai năm vừa qua, 2017 và 2018, Việt Nam cũng muốn đưa một số giàn khoan ra để khoan thăm dò, cuối cùng là phải rút về, thậm chí là phải hủy. Lần này đưa ra thì tiếp tục giữ được, nhưng khi tầu Trung Quốc xuống và khảo sát cả một vùng biển lớn như đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thì Việt Nam cũng không ngăn chặn được.
Hy vọng là những sự kiện như này sẽ có tác dụng như những cú hích, giống thời kỳ giàn khoan năm 2014, để Việt Nam thực sự đầu tư, phát triển, tăng cường khả năng chống tiếp cận và cản phá sự lấn lướt của Trung Quốc trên thực địa, cũng như là mở rộng quan hệ ngoại giao.
Nhìn về vấn đề ngoại giao, thì thấy rằng tiềm năng là đủ để Việt Nam có thể cản phá được Trung Quốc vì các nước lớn trong khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ đều có chung lợi ích chiến lược là không để cho Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Vấn đề là những tiềm năng này vẫn chưa được khai phá một cách tương ứng với áp lực và cách thức từ phía Trung Quốc.
RFI : Vậy phải chăng ưu tiên hiện nay là cần tập trung tố cáo Trung Quốc không tôn trọng luật pháp quốc tế, qua đó mới lôi kéo được các nước, như giáo sư vừa nêu, tham gia tích cực hơn để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc ?
Alexander Vuving :Vâng. Tôi nghĩ là trước mắt, Việt Nam vẫn chưa làm đủ mạnh bằng năm 2014. Năm 2014, Việt Nam đưa nhà báo quốc tế ra tận thực địa để quay phim, chụp ảnh, để đưa những bằng chứng về sự ăn hiếp của Trung Quốc ra quốc tế. Và chính điều đó, theo tôi, có tác dụng không nhỏ đến việc buộc Trung Quốc rút giàn khoan sau hai tháng rưỡi.
Bây giờ, rõ ràng là về mặt luật pháp quốc tế, Trung Quốc hoàn toàn sai, Việt Nam là đúng. Tại sao lại không đưa nhà báo quốc tế ra tận nơi ? Tại sao không công bố những hành động của Trung Quốc ở ngoài biển để làm "mất mặt" Trung Quốc trên trường quốc tế ? Tôi thấy rằng những hành động hiện nay của Việt Nam chưa đủ để Trung Quốc buộc phải trả giá.
Chưa nói đến chuyện tăng cường mối quan hệ với những nước lớn (như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ) có thể giúp được Việt Nam và gây áp lực đối với Trung Quốc. Đây là vấn đề không thể giải quyết được ngay bây giờ, nhưng phải làm và đẩy mạnh lên để khi cần thì vận động được các nước đó có hành động giúp mình, chẳng hạn như một chương trình đưa tầu cảnh sát biển của một số nước vào giúp Việt Nam thực thi quyền chủ quyền của mình trong khu vực EEZ của Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Đã có rất nhiều tiền lệ trên thế giới.
Nhưng để làm điều đó thì phải bắt đầu, vào một thời điểm nào đó, nhưng tôi chưa thấy Việt Nam bắt đầu những công việc như này. Có thể nói là tiềm năng thì có rất nhiều nhưng chưa được khai thác đầy đủ.
RFI : Vào đầu tháng 8/2019, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu bàn về hợp tác quốc phòng, hướng tới một thỏa thuận khung nhân chuyến thăm Hà Nội của lãnh đạo ngành ngoại giao Châu Âu Mogherini. Gần đây, hai tướng Không quân Mỹ sang thăm Việt Nam, ủng hộ quyền tự vệ và phòng vệ chính đáng của Việt Nam. Phải chăng Việt Nam công khai mở rộng hợp tác quân sự, mà mục tiêu trước mắt là đối phó với sức mạnh của Trung Quốc ?
Alexander Vuving : Thực ra Việt Nam đã đi nhiều bước để mở rộng hợp tác quân sự với nhiều nước, gồm cả Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Pháp từ nhiều năm nay. Việc này nằm trong sách lược mà Việt Nam gọi là "giữ nước từ xa", tức là một cách để cân bằng các mối đe dọa, đồng thời san sẻ rủi ro, tránh bị phụ thuộc vào một đối tác nhất định.
Chỉ có điều những bước đi đó vẫn còn rất rụt rè, những bước đi vẫn còn rất ngắn, chưa đủ để tạo những hợp tác sâu và mạnh đến mức độ có thể thực sự nâng cao được khả năng của Việt Nam, cũng như là tạo được sức mạnh răn đe đối với Trung Quốc.
RFI tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving.
Thu Hằng thực hiên
Nguồn : RFI, 04/05/2020