Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

13/05/2020

Kiện Trung Quốc, cần tìm lý do gì ?

Trương Nhân Tuấn - Trương Hoàng Phương

Vụ Trung Quốc ra lịnh cấm đánh cá...

Trương Nhân Tuấn, 13/05/2020

Nếu Việt Nam thực sự muốn "kiện" Trung Quốc thì lịnh "cấm đánh cá" của Trung Quốc trên Biển Đông là lý do cụ thể để Việt Nam đi kiện.

bando1

Lịnh "cấm đánh cá" của Trung Quốc trên Biển Đông là lý do cụ thể để Việt Nam đi kiện. Ảnh minh họa

Lịnh cấm đánh cá của Trung Quốc bắt đầu áp dụng từ năm 1999, thời gian mỗi năm kéo dài từ 1 tháng năm đến hết ngày 16 tháng tám. Lịnh cấm đánh cá có hiệu lực ở Biển Đông, trong vùng từ 12 độ vĩ Bắc trở lên, phát sinh từ vùng "kinh tế độc quyền - EEZ" tính bờ biển Phúc Kiến đến Quảng Đông, vùng EEZ của Tây Sa (Hoàng Sa) và EEZ của Trung Sa (Scarborough và Macclesfield).

Rõ ràng lịnh cấm đánh cá của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam trong vùng kinh tế độc quyền, phát sinh từ bờ biển Việt Nam.

Lịnh cấm đánh cá của Trung Quốc ngang ngược tương tự cấm Việt Nam đánh cá trên "ao nhà" của Việt Nam.

Việt Nam ngoài việc phản đối miệng "quan ngại" thì hoàn toàn không có biện pháp cụ thể nào khác.

Tình hình "càng để lâu càng khó". "Cứt trâu để lâu hóa bùn". Hành vi "khẳng định chủ quyền" của Trung Quốc lâu ngày được quốc tế nhìn nhận như "việc đã rồi".

Cái "khó" của Việt Nam không phải vì không có lý do phản biện trước tòa, mà khó vì học giả Việt Nam đã tự trói tay mình.

Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm 14 tháng chín 1958 của Phạm Văn Đồng ở khoản "hải phận 12 hải lý".

Học giả Việt Nam vịn lý do Công hàm Phạm Văn Đồng không nhắc tới Hoàng Sa và Trường Sa, do đó Trung Quốc không thể "suy diễn" là Việt Nam nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở hai quần đảo này.

Lịnh cấm đánh cá bắt đầu từ năm 1999. Đến nay Việt Nam vẫn không thể đi kiện. Lý do không (hay chưa) đi kiện là vì xác suất thua cao hơn thắng.

Tập quán quốc tế cho thấy Việt Nam có thể giải quyết các tranh chấp "từng phần" với Trung Quốc, như thỏa thuận "vùng đánh cá chung" (như Trung Quốc với Nhật vùng biển Hoa Đông hay Việt Nam và Trung Quốc trong vùng Vịnh Bắc Việt). Đến nay hai bên không thỏa hiệp để có vùng "đánh cá chung" khu vực biển Hoàng Sa (và vùng cửa vịnh Bắc Việt) hiển nhiên là Việt Nam đứng vào thế (rất) yếu.

Bởi vì khi Việt Nam chủ trương nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, mặc dầu chỉ ở khoản "hải phận 12 hải lý", thì mặc nhiên đã nhìn nhận "hiệu lực trên toàn bộ" công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng.

Khác biệt giữa hai bên là "cách diễn giải" nội dung công hàm Phạm Văn Đồng "nhìn nhận và tán thành" cái gì ?

Dĩ nhiên là công hàm Phạm Văn Đồng "nhìn nhận và tán thành" nội dung Tuyên bố của Trung Quốc : hải phận 12 hải lý của Trung Quốc ở Tây Sa và Nam Sa.

Học giả Việt Nam tưởng rằng Việt Nam có thể "trụ" được ở khoản "nhìn nhận hải phận 12 hải lý". Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa nếu thuộc về Trung Quốc thì Việt Nam cũng không mất nhiều.

Học giả Việt Nam "quên" tính một điều là nếu qui chiếu theo "Công ước Vienne 1969 về Luật các công ước", Luật Quốc tế về Biển 1982 sẽ thay thế Luật Quốc tế về Biển 1958.

Luật biển năm 1958 chỉ có khái niệm về "lãnh hải 12 hải lý" và chưa có khái niệm về hải phận "kinh tế độc quyền" và thềm lục địa 200 hải lý. Công ước Vienne 1969 cho phép Trung Quốc có quyền mở rộng hải phận 12 hải lý ra 200 hải lý, sao cho phù hơp với Luật Biển 1982.

Thấy có học giả hiện nay đang viết bài chứng minh các đảo Hoàng Sa không có cái nào được tính là "đảo", theo điều 121 khoản 1 của Luật biển.

Làm việc này là "tự bắn vào chân", Việt Nam mặc nhiên từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa, bởi vì yêu sách của Việt Nam qua bản đồ "bụng chửa" đã từng chủ trương Hoàng Sa và Trường Sa có hiệu lực của "đảo", theo điều 121.1.

bando2

Bản đồ chủ quyền lãnh hải Biển Đông của các quốc gia đang tranh chấp

Trước Tòa Việt Nam có thể yêu cầu Tòa "giải thích và cách áp dụng luật Biển ở Hoàng Sa". Nhưng Việt Nam không thể "chứng minh" các đảo Hoàng Sa không có hiệu lực là "đảo" theo điều 121.1. Nếu Hoàng Sa là của Việt Nam thì người Việt Nam không ai làm vậy.

Trong khi đó "lý thuyết" của tôi nhằm hóa giải công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, đề nghị từ hơn 20 năm nay, thuyết "quốc gia chưa hoàn tất".

Theo thuyết "quốc gia chưa hoàn tất" Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không phải là "quốc gia độc lập có chủ quyền". Cả hai Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đều thuộc vào một "quốc gia duy nhứt, độc lập có chủ quyền và thống nhứt lãnh thổ", đúng theo qui định của hai hiệp định Genève 1954 và Paris 1973.

Lập luận của tôi cực kỳ đơn giản, "chủ quyền" của quốc gia là "duy nhứt và bất khả phân". Vì vậy "Việt Nam" theo qui định của hai hiệp định Ganève 1954 và Paris 1973 là "Quốc gia - State - Etat" không thể phân chia thành "hai quốc gia" Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

"Quốc gia -State - Etat" có hai phần : phần thể xác và phần linh hồn. Thể xác là "lãnh thổ, dân chúng, chính phủ và có khả năng thiết lập bang giao với các quốc gia khác". Phần "thể xác có thể phân chia. Phần "hồn" là "chủ quyền", là đối tượng (hay chủ thể) của Luật quốc tế. Phần "hồn" chỉ có một, duy nhứt và tối thượng, không thể phân chia.

Quốc gia có "quyền lợi và nghĩa vụ", đúng theo qui định của công ước Montevideo 1933 và Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1948. Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không phải là "quốc gia". Ta có thể gọi hai thực thể này là "quốc gia chưa hoàn tất". Bởi vì hai thực thể Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không hề là "đối tượng" hay là "chủ thể" của Luật quốc tế.

Việt Nam Cộng Hòa lúc 1974 bị Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chạy "hết cách" cũng không thể triệu tập Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc để khiếu nại và kiện Trung Quốc trước Tòa Công lý quốc tế. Lý do thất bại là vì Việt Nam Cộng Hòa không có "tư cách quốc tế" và không phải là "đối tượng" của Luật quốc tế. Ngay cả lúc Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đưa vào vòng nguy khốn tháng tư 1975, Việt Nam Cộng Hòa vẫn không thể cầu cứu Liên Hiệp Quốc.

Việt Nam Cộng Hòa không phải là "quốc gia", không có "tư cách quốc tế", không phải là đối tượng của Luật quốc tế nên không có "quyền" yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Các quốc gia khác cũng không có nghĩa vụ phải giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa.

Tương tự, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng không phải là "quốc gia". Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có "tư cách quốc tế" và cũng không phải là đối tượng của Luật quốc tế. Hiển nhiên công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng không phải là một "công văn", theo nghĩa ràng buộc của công pháp quốc tế. Công hàm 1958 không thể xét dưới ánh sáng của Luật quốc tế.

"Lý thuyết quốc gia chưa hoàn tất", tôi có đề cập sơ lược trong lá thư 2014 gởi lãnh đạo Việt Nam, nhân vụ giàn khoan HD 981. Dĩ nhiên việc làm của tôi không hề có ý giúp cho Đảng cộng sản Việt Nam mà chỉ nhằm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ quyền và lợi ích của các thế hệ Việt Nam trong tương lai.

Lá thư của tôi như viên đá ném chìm trong ao nước, không có một tiếng động hồi âm, cho tôi dịp để phân tích lý thuyết của tôi ra sao.

Đảng cộng sản Việt Nam tin tưởng vào học giả "đỉnh cao" của mình, tự đưa mình vào thế kẹt, không thể kiện Trung Quốc.

Nếu nói Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là "hai quốc gia độc lập có chủ quyền, Việt Nam sẽ bị Tòa bác đơn ngay từ đầu. Đơn giản vì lập luận ngược nội dung hai hiệp định Genève 1954 và Paris 1973.

Còn nếu chứng minh các đảo Hoàng Sa không có hiệu lực đảo theo điều 121.3, Việt Nam bị "estopped", bác đơn ngay từ đầu. Việt Nam đã từng chủ trương y chang như Trung Quốc. Việt Nam không thể "cấm" Trung Quốc có chủ trương giống như mình.

Ngoài học giả Ngô Vĩnh Long Ngo Vinh LongViệt Hoàng, Đinh Kim Phúc Phuc Dinh Kim... cùng các học giả thuộc nhóm "Quĩ nghiên cứu Biển Đông" là những người tôi "biết", có chủ trương "có hai quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa độc lập, có chủ quyền" và "công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng nhìn nhận hải phận 12 hải lý". Không biết tôi có sót tên những ai khác hay không ?

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 13/05/2020

********************

Ai mới là kẻ tàn phá nguồn cá ở Biển Đông

Trương Hoàng Phương, RFA, 13/05/2020

Ngày 11/5, cơ quan truyền thông của Trung Quốc dẫn tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng Việt Nam "không có quyền" bình luận về lệnh cấm đánh bắt cá mùa Hè của Trung Quốc ở Biển Đông vì biện pháp này thuộc về cái gọi là "các quyền hành chính của Trung Quốc".

bando3

Biểu tình phản đối Trung Quốc ở Manila, Philippines hôm 18/6/2019 - AFP. Hình minh họa.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Xuân Oánh phát biểu như trên sau khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng phản đối lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc và yêu cầu Bắc Kinh không làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông.

Các nguồn tin của Trung Quốc nhắc lại : Lệnh cấm đánh bắt cá năm nay bắt đầu vào ngày 1/5 và dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 16/8 ở các vùng nước phía Bắc kéo đến 12 độ Vĩ Bắc của Biển Đông, với việc lực lượng bảo vệ bờ biển (Hải Cảnh) và nhà chức trách ngư nghiệp Trung Quốc khởi động việc thực thi pháp luật.

Tin cũng cho biết, tại cuộc họp báo, bà Hoa Xuân Oánh còn tuyên bố "không thể chối cãi rằng quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) là một phần của lãnh thổ Trung Quốc", "Trung Quốc được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán ở vùng biển có liên quan của Biển Đông theo luật pháp quốc tế và luật pháp trong nước của Trung Quốc", "việc thực hiện lệnh cấm đánh bắt cá mùa Hè ở vùng biển có liên quan của Biển Đông là một biện pháp hợp pháp của Trung Quốc để thực hiện các quyền hành chính và thực hiện các nghĩa vụ quốc tế có liên quan theo luật pháp"…

Cũng trong ngày 11/5, một người phát ngôn khác của Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Triệu Lập Kiên tuyên bố Việt Nam "không được quyền phản đối lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở Biển Đông và không có quyền khuyến khích ngư dân xâm phạm cái gọi là lợi ích và quyền lợi của Trung Quốc ở vùng biển này".

bando4

Tàu cá ngư dân ở đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi hôm 10/4/2012 - Reuters. Hình minh họa.

Theo truyền thông Trung Quốc, Triệu Lập Kiên phát biểu như trên "để đáp lại sự phản đối của Hiệp hội Nghề cá Việt Nam đối với lệnh cấm đơn phương của Trung Quốc". Triệu Lập Kiên nói thêm rằng, theo luật pháp quốc tế và luật pháp Trung Quốc, Trung Quốc được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với một số phần cụ thể của Biển Đông.

Triệu Lập Kiên nhấn mạnh 50.000 tàu cá sẽ phải dừng hoạt động đánh bắt trong thời gian 3,5 tháng và dọa rằng "Việt Nam không được khuyến khích ngư dân xâm phạm chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc".

Ai là người tàn phá nguồn thủy sản ở Biển Đông ?

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tiếp tục khẳng định lệnh cấm mà Trung Quốc đơn phương đưa ra là biện pháp có lợi cho việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và phát triển bền vững ở Biển Đông ; đồng thời cho rằng, Việt Nam không nên khuyến khích ngư dân xâm phạm cái gọi là quyền và lợi ích của Trung Quốc và làm suy yếu sự phát triển bền vững của các nguồn lợi thủy sản ở Biển Đông.

Trong khi đó, theo nhà nghiên cứu Greg Poling, Giám đốc tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải Châu Á, lệnh cấm của Trung Quốc bao trùm 1,3 triệu km2, nhưng chỉ có 28% là vùng biển đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Phần còn lại, 25% là vùng biển tranh chấp với các nước khác, 18% là vùng biển quốc tế, 18% là vùng biển đặc quyền kinh tế của Philippines và 10% là vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Theo một tổ chức quốc tế chuyên theo dõi về tình trạng đánh bắt cá lậu (IUU) trên thế giới, với những số liệu họ thống kê thì Trung Quốc quốc gia đứng đầu thế giới về số lượng các tàu cá đánh bắt vi phạm trên thế giới.

Còn theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, trụ sở tại Washington) khẳng định việc khai thác ngao khổng lồ ở quy mô lớn và nạo vét để xây dựng đảo nhân tạo là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng tận diệt sinh vật biển, mà trong số này, phải đặc biệt kể đến những "hoạt động" của Trung Quốc.

Tin dẫn lời ông Gregory Poling khẳng định Trung Quốc đã phá hủy khoảng 40.000 mẫu rạn san hô để xây dựng các đảo nhỏ. Ông còn dẫn số liệu từ báo chí Philippines cho biết, năm ngoái, các hoạt động thu hoạch ngao khổng lồ của tàu thuyền Trung Quốc đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các rạn san hô quanh bãi cạn ở phía tây đảo Luzon ở Philippines.

bando5

Hải quân Philippines kiểm tra tàu cá Trung Quốc đánh bắt nghêu khổng lồ ở bãi cạn Scarborough hôm 11/4/2012 AFP - Hình minh họa.

Ông Hunter Stires của Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Hàng hải Hoa Kỳ John B. Hattendorf (thuộc Đại học Hải chiến Hoa Kỳ) công bố cùng số liệu mà ông Greg Poling đưa ra : "Trung Quốc khét tiếng cả thế giới với việc ‘lát gạch’ trên hàng nghìn mẫu rạn san hô để tạo ra một loạt đảo nhân tạo được quân sự hóa ở quần đảo Trường Sa".

Ông Hunter Stires nói thêm rằng hoạt động đánh bắt bằng lưới cào của các đội tàu đánh cá khổng lồ của Trung Quốc đã phá hủy những đáy biển ở vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác. Trung Quốc thậm chí đã dùng tàu lắp hệ thống chân vịt để phá hủy các rạn san hô ở bãi cạn Scarborough (mà Philippines tuyên bố chủ quyền) với mục tiêu đánh bắt loài ngao khổng lồ đang bị đe dọa tuyệt chủng.

Không chấp nhận "lệnh cấm"

Trong những ngày qua, tuyên bố của Việt Nam bác bỏ quyết định của Trung Quốc đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông đã được hàng loạt hãng tin khu vực và quốc tế như BenarNews (tin tức Đông Nam Á), Nationalpost.com (Canada), Nikkei Asia Review (Nhật Bản), Reuters (Anh), Bloomberg và voanews.com (Mỹ), Koreatimes (Hàn Quốc)… đưa tin.

Trước lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương của Trung Quốc, cùng với hành vi hung hăng của lực lượng bảo vệ bờ biển nước này trong những tháng gần đây, một số hiệp hội ngư dân trong khu vực, trong đó có Việt Nam và Philippines, đang kêu gọi chính phủ phản ứng.

Tại Manila, các tổ chức thủy sản địa phương đã kêu gọi chính phủ Philippines không nhượng bộ hành vi "bắt nạt" này. Ông Fernando Hicap, Chủ tịch Liên đoàn các tổ chức ngư dân nhỏ, nói : "Chính phủ Philippines không nên lãng phí thời gian và để cho các cảnh sát biển của Trung Quốc bắt giữ ngư dân của chúng ta".

Theo ông Gregory Poling, khoảng 4 triệu ngư dân Trung Quốc có thể sẽ tuân theo lệnh cấm của Trung Quốc, nhưng ngư dân từ các quốc gia khác sẽ không như vậy vì họ không công nhận yêu sách của Trung Quốc.

Bộc lộ âm mưu "chủ nghĩa Đại Hán"

Khi Bắc Kinh đưa ra lệnh cấm đánh cá, Tân Hoa xã loan báo lực lượng Hải cảnh nước này được lệnh "thi hành nghiêm ngặt" lệnh cấm đánh bắt thủy sản, có nghĩa là họ sẽ gia tăng bắt giữ, đâm chìm các tàu đánh cá và khai thác các loại thủy sản của ngư dân Việt Nam ở trong phạm vi "đường 9 đoạn" quanh vùng biển Hoàng Sa.

Ông Hunter Stires tại Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Hàng hải Hoa Kỳ cho rằng đằng sau "lệnh cấm đánh bắt cá" là mưu toan của Trung Quốc tiến tới một trật tự "khép kín, không tự do và theo chủ nghĩa Đại Hán (tức là coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới )" ở Biển Đông.

Ông nói : "Để biến tầm nhìn tham vọng của mình thành hiện thực, Trung Quốc đang nỗ lực áp đặt ý chí và luật pháp của nước này với ngư dân của các quốc gia khác".

Kể từ năm 199, Trung Quốc đều đặn ban hành lệnh cấm nói trên, nhưng trong bối cảnh của năm 2020, động thái này có một ý nghĩa mới.

Trả lời tờ The Diplomat, ông Gregory Poling bình luận : Các hành vi quấy rối tại Biển Đông của Trung Quốc hoàn toàn phù hợp với chính sách và hành vi lâu dài của nước này. Tuy nhiên, trong bối cảnh các nước đang phải bận tâm đối phó với những hậu quả nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, hành động của Trung Quốc làm trầm trọng thêm những sự bất bình cụ thể, dù muốn hay không, cũng đều vô nghĩa.

Trong khi đó, tờ South China Morning Post, có trụ sở tại Hong Kong, cảnh báo, lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc có nguy cơ làm gia tăng căng thẳng với các bên tranh chấp ở Biển Đông. Kang Lin, một thành viên nghiên cứu của Đại học Hải Nam, nói rằng trong tương lai gần sẽ không có khủng hoảng lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, nếu đại dịch tiếp tục xấu đi và xuất khẩu thực phẩm bị cấm nhiều hơn, các quốc gia trong khu vực có thể gửi thêm tàu đánh cá đến vùng biển để đảm bảo an ninh lương thực. Trong trường hợp đó, lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc sẽ vấp phải sự phản đối ngày càng mạnh mẽ.

Trong bối cảnh thế giới đang phức tạp như vậy, cùng với việc Trung Quốc đang gia tăng các hành động để thực hiện mưu toan của họ trên Biển Đông. Tất cả các quốc gia có liên quan đều cần tỏ rõ thái độ một cách quyết liệt để có thể ngăn chặn bớt các hành động đơn phương hung hăng kiểu như vậy của Trung Quốc.

Trương Hoàng Phương

Nguồn : RFA, 13/05/2020

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Trương Nhân Tuấn, Trương Hoàng Phương
Read 554 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)