Một thanh niên Mỹ khoác áo quân nhân bước vào cuộc chiến Việt Nam ở độ tuổi 22. Sau 10 năm khói đạn chiến chinh, anh từ giã nơi này trong cương vị một giới chức CIA tự mình di tản hàng trăm người miền Nam chạy nạn vào những ngày cuối, khi Sài Gòn trong cơn ‘hấp hối.’
Jim Parker nằm trong số những toán lính Mỹ đầu tiên được phái sang Việt Nam và trở thành giới chức sau cùng rời khỏi cuộc chiến sau khi cãi lệnh trên, tự nguyện lưu lại để cứu những nhân viên cấp dưới của mình và gia đình họ thoát khỏi sự trả thù hay giết hại từ phe ‘thắng cuộc,’ cộng sản Bắc Việt.
Như những thanh niên đồng trang lứa trong giai đoạn tiền khởi của cuộc chiến, Parker lên đường sang Việt Nam vào năm 1965, được đưa tới nhận công tác tại khu vực trải dài từ Tây Bắc Sài Gòn ra tận Tây Ninh. Trong suốt 10 năm tham chiến, Parker đã ‘lăn xả’ nhiều nơi, từ khu vực châu thổ Cửu Long cho tới tận vùng Đông Bắc Lào, với nhiệm vụ ngăn cản bước tiến của quân cộng sản ở Đông Nam Á nói chung và tại Việt Nam, nói riêng.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông và vài đồng đội đã lái trực thăng chở 122 người Việt ra chiến hạm USS Vancouver, rồi từ đó tiếp tục đưa họ sang thương thuyền Pioneer Contender để rời khỏi Việt Nam.
Trong đêm 29, trên đường lái chiếc Giang đỉnh LSD đến cảng Vũng Tàu, ông còn cứu vớt thêm hàng trăm người di tản đang tìm cách trốn chạy trên các thuyền đánh cá nhỏ, đưa họ từ các cửa sông ra Vũng Tàu, trước khi tàu ông chính thức nhổ neo hướng về Philippines rạng sáng ngày 1/5.
Ông cũng chính là tác giả của hai cuốn sách nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam nhan đề ‘Last Man Out’ và ‘The Vietnam War Its Ownself’ ghi lại những hình ảnh về cuộc chiến, về đất nước và con người Việt Nam.
42 năm nhìn lại sự kiện lịch sử 30/4, Parker vẫn còn nhớ như in những thời khắc cuối cùng đó : "Rất hỗn loạn. Tôi nhớ lúc đó đang đứng trên chiếc Pioneer Contender. Đó là con tàu lớn cuối cùng còn neo đậu ở Vũng Tàu. Người di tản được đưa lên tàu ồ ạt. Khi tàu đã quá nặng, thuyền trưởng ra lệnh ngưng và chúng tôi là những người sau cùng rời khỏi Vũng Tàu. Chúng tôi nhổ neo vào sáng sớm. Trước khi tàu nhổ neo, tôi nhìn xung quanh, cảm nhận cảnh tai ương, những tiếng ồn, tiếng gào thét của những người tị nạn cuối cùng tìm cách leo lên chuyến tàu cuối. Mọi thứ chìm trong hỗn loạn. Tôi nghĩ tới những đồng đội của mình".
Ông Parker kể sáng 28/4, đồng đội của ông lên Sài Gòn để xin phép đưa những nhân viên người Việt di tản. Lúc đó, ông có sẵn 2 trực thăng chờ lệnh. Phòng đại sứ đóng cửa và đại sứ không tiếp ai. Người đồng đội đã trao đổi với trợ lý của đại sứ, giải thích và thuyết phục. Vị trợ lý nói lệnh không cho phép hỗ trợ di tản hoặc bắt đầu di tản. Hết cách, đồng đội của Parker đã thốt lên rằng ‘Không còn nhiều thời gian nữa,’ và người trợ lý bảo ‘Vậy thì chúc các ông may mắn.’
Chỉ cần có thế, ông Parker và đồng đội lập tức bắt tay vào việc, dùng trực thăng đi vớt người di tản từ nhiều điểm tập trung khác nhau và lần lượt đưa thẳng ra hàng không mẫu hạm USS Vancouver.
Thuyền trưởng chiến hạm khẳng định với Parker rằng ‘Không có lệnh cho phép di tản’ và giải pháp cuối cùng được đưa ra : Parker và đồng đội phải chuyển mọi người sang thương thuyền Pioneer Contender gần đó.
"Tôi đếm có tổng cộng 122 người. Số thống kê của Thủy quân Lục chiến là 117, không đúng. Mọi việc diễn ra một ngày trước khi đại sứ quán Mỹ được di tản", Parker nói.
Trong tác phẩm của mình, cựu giám đốc CIA vùng 4, Jim Parker, đã trải lòng rất nhiều về điều mà ông nói là ‘Chúng tôi có thể thắng, nhưng Washington DC đã không để cho chúng tôi thắng’ trong cuộc chiến Việt Nam.
"Tôi không biết liệu chiến thuật Mỹ đã dùng ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ có đúng hay không. Chiến thuật đúng lẽ ra phải là tiến sang Lào và thiết lập một vị thế ‘ngăn bước quân thù’ để quân cộng sản Bắc Việt không thể tiến vào bên trong Lào và Campuchea. Tôi nghĩ người Mỹ lẽ ra phải chiến đấu trong cuộc chiến này một cách khác. Chúng ta kéo dài cuộc chiến 10 năm và trong thời gian đó, thế giới đã thay đổi. Hiệp định Geneva 1962 cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cộng sản Bắc Việt. Chiến thuật chúng ta dùng không đúng", Parker chia sẻ với VOA Việt ngữ.
10 năm thử thách với bom đạn chiến tranh ở một đất nước không chỉ cách trở về địa lý mà còn xa lạ cả về văn hóa lẫn ngôn ngữ là quảng thời gian ‘dấu ấn’ trong cuộc đời Parker, lúc bấy giờ là một thanh niên tràn đầy sức sống và triển vọng tương lai. Nhưng Parker nói ông không hề tiếc nuối thời tuổi trẻ tham chiến tại Việt Nam trong lý tưởng đẩy lùi sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản :
"Tôi từng bị thương ở đó, từng trải qua nhiều đêm sợ hãi. Tôi đã hết sức cật lực và chiến đấu hết mình để ngăn bước cộng sản. Tôi không hối tiếc gì cả. Tôi chưa hề thắc mắc hay lo lắng gì cả, không bao giờ đắn đo về lý do mình tới đó. Tôi nghĩ tôi đã làm đúng khi đứng lên đáp lời kêu gọi của quốc gia. Tôi biết mục đích của tôi đến đó là để hỗ trợ các đồng minh miền Nam Việt Nam. Có điều tôi không hài lòng về kết cục của cuộc chiến".
Một thời gian dài sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, một số người Mỹ phản chiến vẫn còn bất mãn về cuộc chiến này, nhưng đối với ông Parker và đồng đội, đó là quảng thời gian đáng nhớ nhất, đáng tự hào nhất của họ.
"Giá trị thật sự của việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam là ngăn chủ nghĩa cộng sản thế giới. Chúng tôi đã ‘giữ cương’ 10 năm tại Việt Nam", ông nói.
Ông Parker hy vọng cuộc chiến Việt Nam sẽ được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy cho thế hệ trẻ ở Mỹ, để họ hiểu đầy đủ ý nghĩa, nguyên nhân và kết cục của cuộc chiến.
Kể từ sau cuộc chiến, hằng năm đến ngày 30/4, người Việt có người hân hoan đón mừng, có người đau buồn tưởng niệm sự kiện này. Còn người Mỹ, dù chiến tranh Việt Nam đã là một phần trong lịch sử Mỹ, nhưng họ không đánh dấu hay kỷ niệm cuộc chiến này ngoại trừ những bản tin truyền thông hay một vài phim ảnh gợi nhớ.
Ông Parker nói 30/4 cũng nên là dịp để người Mỹ tưởng nhớ một phần của lịch sử, tưởng nhớ những người đã nằm xuống vì lý tưởng, và để ghi dấu sự hiện diện và phát triển của cộng đồng người Việt tị nạn tại Mỹ.
Còn đối với bản thân ông, một người lính xông pha nơi chiến trường, kinh nghiệm trong cuộc chiến Việt Nam là kinh nghiệm trưởng thành. "Tôi đã kết bạn và cùng làm việc với người dân Đông Nam Á. Tôi yêu quý cuộc đời mình hơn vì những kinh nghiệm có được từ cuộc chiến Việt Nam", ông Parker cho biết.
Với thế hệ trẻ Mỹ chưa từng biết đến Việt Nam và cuộc chiến Việt Nam, Parker khuyến khích họ nên sang thăm Việt Nam, không chỉ vì Việt-Mỹ có chung một khúc quanh lịch sử mà còn để cảm nhận rằng người dân Việt Nam là những người bạn chân thành với người dân Mỹ.
Ông hiện vẫn tiếp tục tìm kiếm những cựu nhân viên, những người đã được ông giúp di tản vào những ngày cuối tháng tư 42 năm trước và mong được bắt nhịp liên lạc với họ từ trang web cá nhân (1).
Vợ chồng ông Parker không có con. Người con trai, con gái đã trưởng thành của họ bây giờ là hai trẻ Việt Nam được họ nhận làm con nuôi từ tấm bé.
Kết thúc câu chuyện với chúng tôi, giới chức CIA này nhắn nhủ ông chỉ muốn được mọi người biết đến như một trong những người lính Mỹ đầu tiên đặt chân tới và là người cuối cùng rời khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
"Tôi rất thích người Việt Nam, rất tôn trọng văn hóa của họ. Những người tới Mỹ tạo dựng lại cuộc sống và tương lai, tôi tự hào góp một phần nhỏ trong hành trình của họ", ông nói.
Trà Mi
Nguồn : VOA, 29/04/2017
(1) http://www.muleorations.com/
*************************
30/4 : Người Mỹ vẫn bị giằng xé về cuộc chiến tại Việt Nam (VOA, 29/04/2017)
Hơn 4 thập kỷ sau khi cuộc chiến tranh làm gần 2 triệu người thiệt mạng, những người Mỹ, dù tham gia cuộc chiến hay không, vẫn còn cảm nhận vết thương chiến tranh để lại.
Lá cờ Mỹ bên cạnh tên của những người lính Mỹ đã hy sinh trong cuộc chiến ở Việt Nam trên bức tường tưởng niệm ở Washington DC. Sau hơn 4 thập kỷ nhưng nhiều người Mỹ vẫn cảm nhận vết thương mà chiến tranh để lại.
Những người Mỹ từng tới Việt Nam lần đầu hoặc trở lại sau chiến tranh đều cho rằng những dấu vết của chiến tranh không còn tồn tại ở đây nữa. Họ chỉ cảm nhận được một xã hội đang bận rộn với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và hai quốc gia cựu thù nay đã trở thành bạn. Tuy nhiên, họ nói cuộc chiến tranh lẽ ra không nên có, và một một sự giằng xé vẫn còn hiện diện trong họ.
Mội cựu binh quân đội Mỹ từng tham gia chiến đấu tại Việt Nam. Theo giáo sư David Cortright của Đại học Notre Dame, người từng phục vụ trong hải quân Mỹ thời gian chiến tranh, nói người Mỹ vẫn bị giằng xé và chia rẽ về cuộc chiến này.
David Cortright, hiện là một giáo sư của trường Đại học Notre Dame ở Indiana từng phục vụ trong hải quân Mỹ trong thời gian chiến tranh, là một trong số những người đó. Ông trở lại Việt Nam 4 năm sau khi cuộc chiến kết thúc với một tổ chức nhân đạo.
Ông nói : "Người Mỹ vẫn còn bị giằng xé về cuộc chiến tranh. Chúng tôi vẫn bị chia rẽ về một số phương diện. Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà người Mỹ thua cuộc. Và nhiều người Mỹ vẫn không muốn tìm hiểu tại sao và để học một bài học. Và với cảm nhận đó, đất nước của chúng tôi vẫn tiếp tục mắc sai lầm bằng việc xâm chiếm Iraq và cuộc chiến ở Afghanistan. Chúng tôi cứ nghĩ rằng nếu chúng tôi tiếp tục xâm chiếm và tấn công những nước khác để có được những kết quả tốt hơn. Và thường thì nó chỉ làm cho vấn đề tệ hơn vì nó tạo ra những thiệt hại không cần thiết".
Giáo sư của Đại học Notre Dame nói những người lãnh đạo chính trị của Mỹ không đại diện cho ý chí của người dân Mỹ muốn chấm dứt cuộc chiến.
Đồng tình với ý kiến đó, David Hughes – một diễn viên kiêm nhà hoạt động chống chiến tranh – cho rằng chỉ một phần nhỏ những người Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh này và phần lớn trong số họ không tham gia vào việc ra quyết định. "Chúng ta có thể nói rằng chính quyền và chính phủ đã không học được từ sai lầm đó. Với phần lớn dân chúng, đó là việc khác. Trong một số trường hợp, họ còn không biết những nước đó ở đâu. Do vậy những lỗi lầm tiếp tục bị mắc phải và ở một cấp độ cao hơn những người dân bình thường".
Năm 1994, Mỹ bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam và một năm sau đó quan hệ giữa 2 nước được bình thường hóa. Trong những thập kỷ tiếp theo, quan hệ này ngày càng được cải thiện, đặc biệt dưới thời Tổng thống Barack Obama khi ông xóa bỏ cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam, một động thái mà nhiều chuyên gia cho rằng là bước cuối cùng để mối quan hệ giữa 2 nước trở nên toàn diện. Sự nồng ấm của mối quan hệ Việt-Mỹ được tăng lên phần lớn trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường sức mạnh trên biển Đông và bành trướng ra thế giới.
Cựu tổng thống Barack Obama trong chuyến thăm tới Hà Nội tháng 5/2016. Quan hệ Việt Nam-Mỹ được cải thiện và trở nên nồng ấm hơn dưới thời của chính quyền Obama.
"Việt Nam giờ đây là những người bạn của chúng tôi. Các công ty Mỹ giờ đây đang đầu tư vào Việt Nam và tôi luôn nghĩ rằng đáng lẽ ra chúng tôi đã phải làm điều này từ những năm 1945-46 ngay sau cuộc chiến tranh Thế giới thứ 2 và không phải trải qua những đau đớn của các cuộc chiến tranh chống Pháp và của người Mỹ và làm bạn với Việt Nam ngay từ lúc đó", theo ông Cortright.
Vẫn theo lời giáo sư Cortright, mối quan hệ được cải thiện giữa Mỹ và Việt Nam đang giúp làm lành vết thương chiến tranh khi "nhiều người cựu chiến binh có thể quay trở lại để gặp những người Việt Nam hay con cái những người mà họ từng chống lại trong chiến tranh".
Theo thống kê của Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ, một số lượng lớn các cựu chiến binh tham gia chiến đấu tại Việt Nam vẫn bị hậu sang chấn tâm lý. Người sáng lập quỹ Loose Cannons ủng hộ nạn nhân chất da cam Dick Hughes nói việc những người từng chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam được trở lại và gặp những người Việt Nam từng đứng bên kia chiến tuyến giúp hàn gắn vết thương chiến tranh.
Tấm ảnh chụp tháng 5/1966 cho thấy một máy bay của không lực Hoa Kỳ đang rải chất độc hóa học xuống 1 khu rừng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Mỹ đã đền bù khoảng 2 tỷ đô la cho những cực chiến binh Mỹ bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam nhưng nhiều người Mỹ cho rằng chính phủ của họ chưa làm đủ trong việc đền bù cho nạn nhân ở Việt Nam.
Ông Hughes từng nói rằng ông "là một trong những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam" sau khi chiến tranh kết thúc. Ông đến Việt Nam trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh và đã ở lại để giúp đỡ trẻ em đường phố trong thời gian cuối thập kỷ 1960 đầu thập kỷ 1970. Khi trở lại Việt Nam vào những thập kỷ sau đó và gần đây nhất là năm 2016, ông Hughes – người từng tham gia các vai diễn trong 1 số bộ phim nổi tiếng của Mỹ bên cạnh Leonardo DiCaprio – ngạc nhiên với sự phát triển của Việt Nam và "mối quan hệ Việt-Mỹ đang tập trung vào hướng tới tương lai". Nhưng theo ông, vẫn cần phải giải quyết những vấn đề còn tồn đọng thì "mới có thể làm lành vết thương chiến tranh" như vấn đề chất độc màu da cam.
Ron Carver, một người Mỹ sống ở Washington DC, cũng từng tới thăm Việt Nam năm ngoái, cho rằng chính phủ Mỹ đã chưa làm đủ để đền bù cho những nạn nhân chất da cam. Mỹ đã chi trả 2 tỷ đô la cho những nạn nhân nhưng phần lớn là những cựu chiến binh của Mỹ. Trong khi đó 2 triệu nạn nhân của Việt Nam không được đền bù, theo The Guardian.
Ông Carver nói với VOA Việt Ngữ rằng ông "đã gặp những người thân của những nạn nhân chất độc màu da cam. Không ai trong số họ được nhận đền bù của chính phủ Mỹ. Tôi không nghĩ là Mỹ đang có trách nhiệm (về việc này). Tôi nghĩ vậy vì các chính phủ và chính quyền kế nhiệm đã thấy xấu hổ vì 1 thực tế là Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến đó".
Một cựu chiến binh Mỹ chơi đàn violin trong một lễ tưởng niệm cuộc thảm sát ở Mỹ Lai, Quảng Ngãi. Gần 500 thường dân của khu làng này đã bị giết hại trong cuộc thảm sát.
Nhưng giờ đây, những người Mỹ khi tới thăm Việt Nam không có cảm nhận về một sự thù hận. Trong chuyến trở lại Việt Nam vào năm 1979, ông Cortright đã đến thăm khu làng diễn ra cuộc thảm sát Mỹ Lai năm 1968, trong đó gần 500 thường dân Việt Nam thiệt mạng, và cho biết ông đã rất xúc động. "Nó làm cho mọi thứ rất đáng buồn vì đất nước của chúng tôi đã gây ra nhiều những thiệt hại như vậy chẳng vì một lý do gì hay ho nào cả. Tôi thực sự muốn khóc khi nghĩ rằng cộng đồng (này) đã bị tàn phá một cách tàn bạo bởi những người lính Mỹ lại đón nhận những người Mỹ đến đây bây giờ".
Những cựu chiến binh này đều mong muốn quay trở lại Việt Nam.
"Tôi hy vọng sẽ được quay trở lại", ông Cortright mong muốn như vậy. Ông Carver sẽ có chuyến đi thứ 2 vào mùa hè này để trở lại Việt Nam. Ông nói "Tôi muốn quên đi tất cả những nỗi buồn và chỉ để thưởng thức các món ăn của Việt Nam". Còn ông Hughes thì cho biết ông cam kết bản thân với một nhiệm vụ giúp đỡ những nạn nhân chất độc màu da cam ở Việt Nam.