Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

27/11/2020

Nỗ lực hiện đại hóa quân đội của Việt Nam

Bich T. Tran

Từ năm 2003 đến năm 2018, chi tiêu quân sự của Việt Nam đã tăng khoảng 687%. Tuy nhiên, bản thân con số này, tuy ấn tượng, nhưng không nói lên toàn bộ câu chuyện Việt Nam đã có thể biến quân đội từ một lực lượng thiện chiến nhưng thiếu kỹ thuật thời Chiến tranh Việt Nam thành một quân đội tương đối hiện đại và có năng lực như thế nào.

quan00

Các lực lượng vũ trang của Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài kể từ những năm sau Chiến tranh Việt Nam.

Chương trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam đã được ươm trồng ngay sau khi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập vào năm 1976, khi đất nước bị xâm lược bởi nước láng giềng khổng lồ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vào tháng 2 năm 1979, Bắc Kinh đã cho hàng trăm nghìn quân đến biên giới phía bắc Việt Nam, sau khi Hà Nội lật đổ chế độ Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn ở Campuchia một tháng trước đó. Cuộc chiến ngắn ngủi nhưng tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người, trong đó có vô số thường dân.

Khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới để cải cách và mở cửa nền kinh tế vào năm 1986, các nhà lãnh đạo của đất nước đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường an ninh biên giới và hiện đại hóa quân đội. Họ mong muốn xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thành lực lượng chính quy, tổ chức hợp lý, cân đối, tinh gọn, vững mạnh để bảo vệ chủ quyền quốc gia toàn dân, giữ vững an ninh biên giới, vùng trời, hải đảo và vùng biển xung quanh.

Tuy nhiên, chi phí liên quan đến việc giải ngũ các lực lượng vũ trang của Việt Nam và việc mất hỗ trợ quân sự của Liên Xô khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đã khiến ngân sách quốc phòng hàng năm của Việt Nam bị cắt giảm đáng kể, từ 1,31 tỷ USD năm 1987 giảm xuống còn 431 triệu USD vào năm 1994.

Vào thời điểm đó, tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm một số điểm ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam, trong đó có một vụ tấn công bạo lực khiến 64 quân nhân Việt Nam bị thiệt mạng.

Hiện đại hóa quân đội để tự cường

Năm 1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam thừa nhận rằng chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình đất nước. Ví dụ, sức mạnh chiến đấu của quân đội, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chất lượng huấn luyện của một số đơn vị còn thấp. Một lần nữa, Việt Nam đặt mục tiêu hiện đại hóa quân đội với lợi ích bảo vệ lợi ích quốc gia, đặc biệt là trước một Trung Quốc ngày càng giàu có và hùng mạnh.

Nhấn mạnh chính sách đối ngoại độc lập và tự cường, Việt Nam lần đầu tiên đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc bằng cách bắt đầu một chương trình cải thiện lực lượng hải quân và không quân khiêm tốn vào giữa những năm 1990. Từ năm 1995 đến 1999, Hà Nội đã đặt mua 6 máy bay chiến đấu, 6 máy bay chiến đấu/cường kích mặt đất và 40 tên lửa chống hạm.

Mãi đến năm 2001, các nhà lãnh đạo Hà Nội mới quyết định đầu tư thích đáng vào ngành công nghiệp quốc phòng và trang bị công nghệ hiện đại cho quân đội. Từ năm 2001 đến 2005, Việt Nam đã trang bị cho mình một kho vũ khí gồm 2 hệ thống tên lửa đất đối không (SAM), 75 tên lửa SAM, 50 tên lửa SAM di động, 50 tên lửa không đối không tầm ngắn, 100 tên lửa đất đối không, 270 tên lửa chống hạm, hai tàu tuần tra, 4 máy bay chiến đấu/tấn công mặt đất và 8 tàu ​​tn công nhanh. Tt c đều được mua t Nga, minh chng cho s gn bó lâu dài gia Hà Nội và Moscow trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, Việt Nam đã mua 2 máy bay tuần tra hàng hải của Ba Lan và 13 máy bay chiến đấu/tấn công mặt đất của ​​Czech và Ukraine.

Báo cáo chính trị năm 2006 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam mong muốn đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực. Quy hoạch kéo theo việc phát triển hệ thống cảng biển, giao thông vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản và dịch vụ biển. Để đạt được điều này, Việt Nam cần xây dựng và thực hiện một chiến lược toàn diện cả về phát triển kinh tế và đảm bảo kiểm soát các khu vực biển xung quanh.

Từ năm 2006 đến năm 2010, Việt Nam đã tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng từ 1,28 tỷ USD lên 2,67 tỷ USD. Nước này củng cố thêm khả năng phòng thủ của mình bằng cách mua hai hệ thống phòng thủ bờ biển, 5 hệ thống SAM, 200 tên lửa chống hạm, 200 rocket và bom dẫn đường, 160 ngư lôi, 6 tàu tuần tra, 6 tàu ngầm và 20 máy bay chiến đấu/tấn công mặt đất.

Gia tăng năng lực hải quân

Đáng chú ý, sau khi Trung Quốc đính kèm bản đồ có "đường chín đoạn" vào công hàm gửi Liên Hợp Quốc vào tháng 5 năm 2009, Hà Nội đã ký hợp đồng trị giá 2 tỷ USD với Moscow để mua 6 tàu ngầm lớp Kilo. Những tàu ngầm tối tân này, được cho là êm nhất thế giới, mang lại cho Việt Nam khả năng tiến hành các nhiệm vụ chống tàu ngầm, chống hạm và trinh sát tổng hợp cũng như các nhiệm vụ tuần tra.

quandoi02

Vào thời điểm chiếc tàu ngầm cuối cùng trong đội quân 6 tàu ngầm vào tháng 1/2017, Việt Nam sở hữu hạm đội tàu ngầm hiện đại nhất Đông Nam Á. Hà Nội cũng trang bị cho các tàu Kilo tên lửa hành trình siêu thanh 3M-14E Klub của Nga, có khả năng tấn công đất liền Trung Quốc.

Kể từ đó, sức mạnh hải quân là trọng tâm ưu tiên của chương trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam. Trong Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 2011, các nhà lãnh đạo đã cam kết đảm bảo các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại, "trước hết là cho hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh và tình báo". Từ năm 2011 đến 2015, Hà Nội đã bổ sung vào kho vũ khí của mình 2 khinh hạm, 4 tàu tuần tiễu, 4 hệ thống tìm kiếm trên không, 30 radar tìm kiếm trên không, 12 máy bay FGA, 5 hệ thống SAM và 30 tên lửa chống hạm, cùng các hoạt động mua lại khác.

Giai đoạn này cũng đồng thời với sự gia tăng sóng gió trên Biển Đông. Kể từ năm 2014, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo quy mô lớn và quân sự hóa các khu vực có tranh chấp ở quần đảo Trường Sa. Nước này cũng đã triển khai một loạt tên lửa và khí tài quân sự trên các đảo nhân tạo của họ, có thể được sử dụng để ngăn các nước khác tiếp cận các vùng hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Hơn nữa, vào tháng 5 năm 2014, Bắc Kinh đã triển khai một giàn khoan dầu trong vùng biển tranh chấp cách bờ biển Việt Nam khoảng 222 km.

Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016, các nhà lãnh đạo Việt Nam nêu rõ cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật cho Quân đội nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Sau sự cố giàn khoan dầu năm 2014, cũng khiến có sự thay đổi trong chiến lược của Việt Nam. Bên cạnh các nỗ lực tự lực, Việt Nam đã tăng cường hợp tác quốc phòng với các cường quốc. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước khác đã giúp Việt Nam nâng cao năng lực thực thi pháp luật và an ninh hàng hải. Trong số các hạng mục lớn, Hàn Quốc đã đồng ý bán một tàu hộ tống Po Hang cho Việt Nam vào năm 2017, sẽ được giao vào năm sau. Hải cảnh Hoa Kỳ đã chuyển giao một tàu tuần dương cắt lớp Hamilton cho Cảnh sát biển Việt Nam vào tháng 5 năm 2017 và hứa sẽ giao chiếc thứ hai vào năm 2020.

Tình huống trớ trêu

Bất chấp những nỗ lực hiện đại hóa của Việt Nam, ngân sách quốc phòng của nước này vẫn chỉ bằng một phần nhỏ ngân sách quốc phòng Trung Quốc. Bắc Kinh đã chi 253,5 tỷ USD cho quân sự trong năm 2018, nhiều hơn gấp 44 lần so với 5,8 tỷ USD mà Việt Nam chi.

Mặc dù chi tiêu quân sự của Việt Nam đã tăng gần bảy lần kể từ năm 2003, nhưng vẫn dao động khoảng 2,34% GDP và tương quan với GDP là 98,5%. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì theo Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam, ngân sách quốc phòng được xác định trên cơ sở tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội.

Do sự phụ thuộc lớn về kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc, quá trình hiện đại hóa quân đội trong tương lai của Việt Nam thể hiện một tình huống trớ trêu, trong đó quan hệ kinh tế với Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam – chính điều đó mang lại cho Việt Nam nguồn lực để chống lại sự quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Bich T. Tran

Nguyên tác : Understanding Vietnam’s Military Modernization Efforts, The Diplomat, 25/11/2022

Anh Khoa dịch

Nguồn : VNTB, 27/11/2020

Nguồn

*Bich T. Tran is ứng cử viên tiến sỹ tại Đại học Antwerp, thành viên nghiên cứu thỉnh giảng tại Trung tâm Nghiên cứu Các Vấn đề Toàn cầu ở Kyoto và là cựu Nghiên cứu sinh về Châu Á thỉnh giảng tại Trung tâm Đông Tây ở Washington.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Bich T. Tran, Anh Khoa
Read 609 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)