Luật sư bào chữa cho thân chủ bị Điều 117 : chưa bao giờ thành công !
Nguyễn Nam, VNTB, 28/12/2020
Một luật sư ở Sài Gòn bình luận với Việt Nam Thời Báo rằng "chưa luật sư nào bào chữa thành công cho thân chủ bị Điều 117 Bộ luật hình sự, nhưng không phải vì luật sư kém cỏi".
Luật sư Đặng Đình Mạnh, Trưởng văn phòng luật mang tên ông, đặt câu hỏi và tự trả lời : "Đâu là ranh giới giữa một bên là sự hành xử quyền tự do ngôn luận theo Hiến pháp, và bên kia là tội hình sự lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước ? Cơ quan an ninh nói ranh giới ấy ở đâu, thì nó ở đó !
Câu trả lời ngay và luôn tiếp theo cũng đã phản ảnh một sự thật đáng buồn mà giới luật sư ít muốn thừa nhận, đó là : Chưa có thân chủ nào bị truy tố với tội danh ở trên mà được luật sư bào chữa thành công cả !
Nói khác, chưa từng có luật sư nào thành công trong việc thuyết phục tòa án rằng hành xử của thân chủ mình vẫn nằm trong ranh giới an toàn, đó là thực hiện quyền tự do ngôn luận mà thôi ! Sự thật phũ phàng tuy có buồn, nhưng không hề xấu hổ, không phải vì giới luật sư kém cỏi, mà vì ngành tư pháp xứ sở này vận hành theo cung cách như vậy !".
Nhóm nhà báo kể trên bị truy tố theo khoản 2, Điều 117 gọi là "trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", với mức án tù từ 10 năm đến 20 năm.
Tuy nhiên, thế nào là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng pháp luật.
Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là những tình tiết tăng nặng định khung quy định tại một số điều của Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp quy định đã được hướng dẫn tại tiểu mục 1.5 và mục 1.6 Phần IV Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT-BNN- BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/3/2007 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn – Bộ Tư pháp -Bộ Công an – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao, về hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản ; một số điều luật khác cũng quy định các tình tiết định khung tăng nặng nêu trên, nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn về "phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng".
Để thống nhất về kỹ thuật lập pháp giữa các điều luật trong Bộ luật Hình sự, cũng như nhận thức và áp dụng trong thực tiễn công tác, cần thiết sửa đổi các điều luật đang bàn theo hướng không quy định các trường hợp "phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng", "phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng" và "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", mà thay vào đó là quy định "phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù…- " như đa số các điều luật.
Đồng thời cần quy định rõ các tình tiết cụ thể trong từng khoản định khung tăng nặng như đã nêu ở phần trên.
Trước mắt, các cơ quan tư pháp Trung ương có thẩm quyền cần ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể nội dung các tình tiết "phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng", "phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng" và "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" trong các điều luật nêu trên.
Một khi chưa có sự rõ ràng về điều luật thì cần thiết áp dụng khung hình phạt cáo buộc ở mức thấp hơn trong cùng nội dung được cho là vi phạm pháp luật.
Nguyễn Nam
Nguồn : VNTB, 28/12/2020
*********************
Tòa án và Đảng lãnh đạo toàn diện
Hà Nguyên, VNTB, 28/12/2020
Có ý kiến, vì Đảng lãnh đạo toàn diện, nên Đảng được quyền chỉ đạo tòa án về xét xử những vụ án nào đó…
Ngày càng có rất nhiều người dân bị buộc tội và kết án bằng điều luật 117 thuộc Bộ luật hình sự hiện hành.
Những nội dung tiếp theo đây là lược ghi ý kiến của thẩm phán N.Q.H., qua đó góp phần biện giải cho thắc mắc vì sao ở các vụ án liên quan cáo buộc Điều 117, Bộ luật Hình sự hiện hành, tức Điều 88 của phiên bản luật hình sự trước đó, tất cả tranh biện của luật sư đều không giúp cải thiện mức án cáo buộc.
Theo thẩm phán N.Q.H., thì nguyên do của mọi nguyên do là chưa có sự rạch ròi về hành lang pháp lý cụ thể của đảng chính trị.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định : Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Về lý thuyết tuyên giáo, thì vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua các nghị quyết, Đảng lãnh đạo về chủ trương và đường lối đối với hoạt động xét xử là cần thiết, nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội.
Cụ thể hơn, mẫu câu thường bắt gặp, là "Đảng chỉ đạo hoặc cho ý kiến về nguyên tắc chung trên cơ sở quy định của pháp luật trong việc giải quyết, xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên, các vụ án nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội, các vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ thuộc diện quản lý của các cấp ủy đảng, các vụ án có liên quan đến quan hệ đối ngoại… và trực tiếp quản lý công tác cán bộ, trong đó có việc xem xét, quyết định nhân sự cán bộ lãnh đạo và Thẩm phán Tòa án các cấp".
Tuy nhiên hiện nay, thứ nhất, chưa có tiêu chí xác định rõ, cụ thể, thế nào là vụ án nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội, các vụ án tham nhũng, các vụ án có liên quan đến quan hệ đối ngoại… từ đó, có thể dẫn đến sự lạm dụng lãnh đạo hoạt động xét xử.
Thứ hai, chưa có cơ chế và hướng dẫn cụ thể trong việc xin ý kiến tổ chức đảng về xử lý một số vụ án cụ thể, nên có thể dẫn đến lạm dụng việc xin ý kiến hoặc ngược lại lạm dụng yêu cầu báo cáo và chỉ đạo.
Thứ ba, chưa có quy định rõ ràng về phạm vi và nội dung việc kiểm tra của các cấp ủy đảng đối với hoạt động xét xử.
Do đó – theo ý kiến của thẩm phán N.Q.H., thì Nhà nước – đúng hơn là Bộ Chính trị, cần phải có các quy định rõ ràng, cụ thể về vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung cũng như đối với từng vụ án cụ thể nói riêng, để bảo đảm nguyên tắc : "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".
Mối quan hệ giữa Tòa án và cơ quan lập pháp cũng là vấn đề cần luận bàn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao về hoạt động xét xử của ngành Tòa án.
Quốc hội có quyền hủy bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao nếu trái với Hiến pháp, luật hoặc nghị quyết của Quốc hội. Quốc hội quyết định phân bổ ngân sách cho ngành Tòa án. Quyền lực nhà nước là tập trung và thống nhất, nên Quốc hội có quyền cho ý kiến và đánh giá lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao – cơ quan xét xử cao nhất mà Hiến pháp quy định.
Như vậy, với tất cả những liệt kê ở trên cho thấy chưa có sự thừa nhận một cách đầy đủ về địa vị pháp lý cũng như về thẩm quyền, tính độc lập của Tòa án trong hệ thống quyền lực nhà nước.
Mối quan hệ giữa Tòa án và cơ quan hành pháp cũng là vấn đề.
Trong thực tế, thành phần cấp ủy các cấp luôn có sự cơ cấu, tham gia của người lãnh đạo cơ quan hành pháp. Cho nên, Tòa án tất yếu phải chịu sự lãnh đạo của cấp ủy tương ứng, và đương nhiên thì lãnh đạo cơ quan Tòa án thường là "cấp dưới" của những người lãnh đạo cơ quan hành pháp.
Mối quan hệ giữa Tòa án và cơ quan hành pháp còn thể hiện ở việc, cơ quan hành pháp có thẩm quyền tham gia hoặc quyết định những vấn đề về ngân sách, cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động của Tòa án. Do đó dẫn đến một thực tế là, cơ quan Tòa án khó có thể độc lập, mà chịu sự chi phối và lệ thuộc cơ quan hành pháp.
Mối quan hệ giữa Tòa án và các cơ quan khác cũng là một khoản trống khác về quản trị.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước chưa có quy định rõ ràng, cụ thể cơ quan nào thực hiện quyền tư pháp. Cho nên thực tế cho thấy, vẫn còn một số trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát cùng cơ quan Tòa án họp bàn thống nhất về đường lối xử lý vụ án trước khi đưa vụ án ra xét xử – quen gọi là họp liên ngành.
Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc không bảo đảm tính độc lập của Tòa án và của Thẩm phán.
Hà Nguyên
Nguồn : VNTB, 28/12/2020
***********************
Tư pháp bao giờ độc lập ?
Hoài Nguyễn, VNTB, 28/12/2020
Thời điểm này ở Việt Nam, dường như bất kỳ cái gì có gắn thêm hai từ "độc lập" đều dễ được xem là nhạy cảm chính trị.
Bài viết này coi như ‘vuốt râu hùm’, khi kêu gọi những chính khách ở Đại hội Đảng XIII sắp tới, xin lưu ý rằng đến tận lúc này, Việt Nam vẫn tiếp tục giấc mơ về tư pháp độc lập.
Nội dung bài viết này không phản động, vì hầu hết đều là đúc kết từ những tiết giảng dạy của giáo sư Nguyễn Đăng Dung, chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực luật học và có trên 30 năm kinh nghiệm giảng dạy bậc đại học.
Xin được lưu ý, bài viết khi dùng từ Việt Nam – hay "nước ta", mong được hiểu là không bao gồm nền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa ở miền Nam Việt Nam trước tháng tư, 1975.
Giáo sư Nguyễn Đăng Dung nhìn nhận hoạt động tư pháp của Việt Nam không hoàn toàn giống như của các nhà nước tư bản, vì nó không chỉ bao gồm có các cơ quan xét xử, mà còn có cả các cơ quan điều tra, công tố và những cơ quan hoạt động bảo trợ tư pháp khác như : công chứng, luật sư, pháp y…
Khái niệm tư pháp của Việt Nam được sử dụng như khái niệm tư pháp của Trung quốc, từ tiếng Hán cổ. Điều này chứng tỏ sự phân quyền của nhà nước Việt Nam không được chuẩn tắc theo các quy định của nhà nước pháp quyền, không có sự phân quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp.
Quyền hành pháp của Việt Nam không bao gồm quyền công tố buộc tội của Viện Kiểm sát.
"Chính phủ – hành pháp trước hết phải được hiểu ở tầm hẹp nhất là phải giữ gìn trị an cho người dân, phòng và chống tội phạm. Muốn thực hiện tốt quyền này mà không có quyền công tố buộc tội thì không thể nào đảm đương được. Chính phủ quản lý rất tốt mọi mặt, trong đó có cả phát triển kinh tế, mà tội phạm đầy rẫy thì cũng không thể nào đứng vững được" – giáo sư Nguyễn Đăng Dung, nhấn mạnh.
Nguyên tắc độc lập của tòa án chưa được tuân thủ một cách triệt để ở nước ta, bởi lẽ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn phải theo nguyên tắc tập quyền. Mà sinh viên trường luật nào nếu học hành tử tế thì ai cũng rõ, nguyên tắc tập quyền không thể là cơ sở cho sự độc lập của tòa án bởi nó dẫn đến việc quyết định của tòa án khó tránh khỏi phụ thuộc vào sự chỉ dẫn, sự can thiệp của các cơ quan nhà nước khác.
Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của tòa án đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa được tất cả các cơ quan Đảng và Nhà nước thực sự tôn trọng và tuân thủ.
Hiện tượng can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án và thẩm phán còn diễn ra khá phổ biến, ở nhiều cấp độ, dưới nhiều hình thức, khiến cho các tòa án và thẩm phán trong nhiều trường hợp không thể quyết định vụ việc một cách khách quan, vô tư, chỉ tuân theo luật pháp.
"Nhìn chung tư pháp ở nước ta vẫn còn mang đặc điểm của thời kỳ chiến tranh, bao cấp ; chưa nghiêng hẳn về bảo vệ công lý. Tòa án không phải là cấp xét xử cuối cùng, vẫn chịu sự giám sát của các cơ quan nhà nước khác. Ở đây, nếu thiếu những điều kiện đảm bảo thực hiện thì sự độc lập của tòa án chỉ là một tuyên bố mà không thể thực hiện trong thực tế" – giáo sư Nguyễn Đăng Dung, nhận xét.
Quá trình xét xử của tòa án ở Việt Nam chưa thực sự theo nguyên tắc tranh tụng, mà vẫn nặng theo nguyên tắc xét hỏi, luật sư chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Mở ngoặc nói thêm là có thể viện dẫn Điều 331 "Tội lợi dụng quyền tự do dân chủ" ở Bộ luật Hình sự hiện hành, tức Điều 258 trước đây của Bộ luật Hình sự phiên bản 1999, ở cả hai phiên bản luật, đến nay chưa có bất kỳ luật sư nào tranh tụng thành công. Tương tự là Điều 117, Bộ luật Hình sự 2015 cùng nội dung với Điều 88, Bộ luật Hình sự 1999, tại tòa, luật sư luôn là thứ yếu.
Trở lại với góc nhìn của giáo sư Nguyễn Đăng Dung, ở đây, không hẳn là việc chuyển hoàn toàn sang mô hình tố tụng tranh tụng là phù hợp với điều kiện ở nước ta, song việc duy trì quá lâu mô hình tố tụng buộc tội, mà chậm cải tổ rõ ràng đang tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử.
Đó là chưa kể hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay vẫn thiên về xu hướng bắt nhầm còn hơn bỏ sót. Vì vậy, người có hành vi mặc dù chỉ ở mức độ phát hiện tội phạm đều có thể bị bắt giam để tiến hành điều tra để buộc tội, mà rất ít khi dựa trên các quyết định có hiệu lực của tòa án.
Nhiều vụ án không có đủ bằng chứng để kết tội phải hoãn phiên tòa để tiến hành điều tra bổ sung. Về các vụ việc dân sự, khi xét xử tòa án chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, nhiều trường hợp có sự can thiệp của Viện Kiểm sát, nhiều trường hợp thẩm phán phải tự đi thu thập các chứng cứ.
"Trong tương lai không xa, các hoạt động của các cơ quan lập pháp và cả hành pháp cũng phải đặt trong vòng xét xử của tòa án.
Khác với thời kỳ chiến tranh, cũng như thời bao cấp, tư pháp chỉ được xem xét như là một trong các ban ngành như các bộ của hành pháp, vì nó chỉ được hiểu là một trong những lĩnh vực cần quản lý của Nhà nước như các lĩnh vực ban ngành khác mà thôi. Hiện tại, nó phải là một ngành độc lập có khả năng xét xử cả các hành vi của lập pháp và hành pháp.
Cuối cùng, cải cách tư pháp cần trao cho tòa án quyền giải thích Hiến pháp và pháp luật, đồng thời phải đặc biệt chú ý đến bảo đảm tính độc lập cho thẩm phán" – giáo sư Nguyễn Đăng Dung, nhận định.
Hoài Nguyễn
Nguồn : VNTB, 28/12/2020
************************
Hội thẩm nhân dân có quyền độc lập hay không ?
Trần Dzạ Dzũng, VNTB, 27/12/2020
Theo cơ chế hiện hành, các hội thẩm nhân dân bị chi phối rất nhiều thứ trong việc thể hiện quyền độc lập khi tham gia phiên tòa.
Trong phiên hình sự sơ thẩm vụ án "Hội Nhà báo độc lập Việt Nam" dự kiến diễn ra vào ngày 5/1/2021 tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, có hai hội thẩm nhân dân là ông Lê Giáo và ông Trần Huỳnh. Hai hội thẩm nhân dân dự khuyết là ông Nguyễn Thành Châu và bà Lê Thị Nhung.
Giả dụ như trong một vài tình huống nào đó đưa đến ‘búa rìu’ công luận phê phán về vai trò chưa tròn của hội thẩm nhân dân trong vụ án, mong rằng cần sự lượng thứ vì trên thực tế, theo như một ghi nhận của bà Trần Thị Thu Hằng, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, thì "vẫn còn nhiều hạn chế trong cơ chế đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm".
Thứ nhất, Hội thẩm có vị trí, vai trò quan trọng đảm bảo tính dân chủ, khách quan của hoạt động xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tòa án diễn ra công bằng, chính xác, khách quan.
Cùng với Thẩm phán, Hội thẩm là những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét xử của mỗi vụ án.
Tuy nhiên, trên thực tế các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm, cơ chế bầu, cử Hội thẩm và thực trạng hoạt động của Hội thẩm còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử của Tòa án còn mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định.
Qua công tác xét xử cho thấy, Hội thẩm chưa phát huy được hết quyền năng của mình, có những Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu kết luận điều tra, bản cáo trạng, hoặc có trường hợp không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại Tòa án, vì vậy, Hội thẩm sẽ rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình chứng minh tội phạm cũng như quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho công chúng nhìn nhận về sự tham gia của Hội thẩm chỉ là hình thức, tham gia cho đủ thành phần.
Hiện nay, pháp luật cũng chưa chính thức giao cho cơ quan nào quản lý thống nhất đội ngũ Hội thẩm của các Tòa án nhân dân. Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm chuẩn bị nhân sự, hiệp thương lập danh sách Hội thẩm để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra Hội thẩm (trừ Hội thẩm quân nhân của Tòa án quân sự các cấp do cơ quan có thẩm quyền cử theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân).
Trong khi đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hầu như rất ít thực hiện giám sát hoạt động của Hội thẩm do mình giới thiệu hoặc bầu ra. Tòa án chỉ quản lý Hội thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử.
Hiện nay, mặc dù các địa phương có thành lập Đoàn Hội thẩm, nhưng là tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tự quản. Ngoài thời gian tham gia hoạt động xét xử, Hội thẩm sinh hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống, nên đối với một số vụ án có tính chất nhạy cảm dễ bị tác động, sức ép và dễ phát sinh tiêu cực.
Thứ hai, Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể bị áp lực khác tác động, khiến họ lúng túng khi tham gia xét xử như hiện tượng can thiệp của chính quyền địa phương, của Chánh án Tòa án, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử.
Hiến pháp hiện hành không quy định mối quan hệ hành chính giữa Tòa án các cấp, mối quan hệ giữa Tòa án các cấp là mối quan hệ tố tụng, điều này có nghĩa là không có Tòa án cấp trên và không có Tòa án cấp dưới, mà chỉ có Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm, các Tòa án thực hiện chức năng giám đốc thẩm và tái thẩm và các Tòa án thực hiện chức năng xét xử độc lập với nhau.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tình trạng can thiệp từ phía lãnh đạo Tòa án vào hoạt động xét xử, trong một số trường hợp đã can thiệp sâu vào công việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm hoặc cũng có trường hợp vì lợi ích cá nhân mà Chánh án chỉ thị, định hướng cho Hội đồng xét xử.
Trên thực tế, tình trạng Thẩm phán tham khảo ý kiến của lãnh đạo Tòa án còn cao. Việc trao đổi ý kiến lãnh đạo về "đường lối giải quyết vụ án" vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong các thẩm phán tỉnh và huyện.
Tòa án nhân dân tối cao đã có yêu cầu nghiêm cấm sự can thiệp vào hoạt động xét xử, nhưng trên thực tế không ít Tòa án địa phương vẫn còn tồn tại cơ chế này.
Tình trạng "báo cáo án", "thỉnh thị án" đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt động tòa án, như "nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập", "nguyên tắc xét xử tập thể", làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không được tôn trọng, làm giảm vai trò của Hội thẩm, phá vỡ nguyên tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử.
Thẩm phán, Hội thẩm đôi khi còn chịu áp lực của công luận khi đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử ; chịu ảnh hưởng và tác động của bản kết luận điều tra hoặc cáo trạng khi nghiên cứu hồ sơ nên có thể không độc lập trong quá trình xem xét và đánh giá chứng cứ.
Thứ ba, không ít Thẩm phán và Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều tra, những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Trong nhiều trường hợp, Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án mà không coi trọng tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng.
Do đó, phán quyết của Hội đồng xét xử còn mang tính áp đặt, còn tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật ; bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị Tòa án cấp trên hủy, sửa nhiều.
Thứ tư, quy trình tuyển chọn Thẩm phán còn nhiều bất cập, việc tuyển chọn Thẩm phán không được pháp luật quy định phải công bố công khai, rộng rãi nên không tạo được tính cạnh tranh.
Thực tế việc tuyển chọn Thẩm phán cơ bản là quy trình khép kín trong nội bộ ngành Tòa án, chưa có cơ chế khuyến khích những người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi hoặc tuyển chọn làm Thẩm phán, vì thế không thu hút được người tài, giỏi.
Hiện tại, bên cạnh những Thẩm phán được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có bề dày kinh nghiệm và kỹ năng xét xử, vẫn còn không ít Thẩm phán hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự tin, sợ trách nhiệm, không tự quyết định được các tình huống khi xét xử.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ năm, chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối với Hội thẩm chưa hợp lý.
Mức lương của Thẩm phán hiện nay là rất khiêm tốn, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ. Điều này sẽ làm cho Thẩm phán không yên tâm công tác, dễ bị những tác động, cám dỗ hoặc tham nhũng khi tham gia hoạt động tố tụng.
Đối với Hội thẩm, ngoài chế độ về trang phục, Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 90.000 đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử. Trong khi đó, pháp luật quy định khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề, thì Hội thẩm lại không được hưởng cũng là không hợp lý.
Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết.
Thực tế đã có nhiều trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những người thân của họ cũng bị đe dọa, trả thù, vì vậy, cần phải có những quy định về bảo vệ đối với tính mạng, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ ngoài thời gian tham gia xét xử để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình, đặc biệt là xét xử những vụ án lớn, vụ án có bị cáo là đối tượng nguy hiểm.
Trần Dzạ Dzũng
Nguồn : VNTB, 27/12/2020