Chiến lược, nhận thức và quan hệ đối tác Ấn Độ-Thái Bình Dương
Cleo Paskal, Phạm Đình Bá, VNTB, 10/04/2021
Trọng tâm chiến lược toàn cầu đã chuyển sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Tóm lược nghiên cứu quan điểm từ bảy quốc gia : Mỹ, Anh, Pháp, Ấn Độ, Tonga, Nhật Bản và Trung Quốc
Covid-19 và sự thúc đẩy chiến lược của Trung Quốc
Nghiên cứu thực địa cho bài này đã kết thúc vào đầu tháng 3 năm 2020, ngay khi các tác động nghiêm trọng trên toàn cầu, chính trị, xã hội và kinh tế của Covid-19 đang xảy ra. Mỗi quốc gia trong số sáu quốc gia kể từ đó đã đối phó với đại dịch theo cách riêng của họ (ví dụ Ấn Độ tiến hành phong tỏa hoàn toàn trong nhiều tháng). Đồng thời, Trung Quốc đã thúc đẩy chương trình nghị sự chiến lược của mình. Trung Quốc đã thông qua luật an ninh ở Hồng Kông, phát động các cuộc tập trận quân sự lớn được thiết kế công khai để huấn luyện cho một cuộc xâm lược Đài Loan, và tăng cường hoạt động, cả trên biên giới Ấn Độ – Trung Quốc (gây tử vong) và ở Biển Đông.
Xem xét lại sự chia rẽ trong mỗi nước, tính bất ổn và phòng ngừa rủi ro
Hiệu quả tổng hợp của các phản ứng quốc gia đối với Covid-19 là sự thay đổi trong ba chủ đề – đó là chia rẽ trong nước, tính bất ổn và bảo hiểm rủi ro. Về mặt chia rẽ trong nước, các hành động của Trung Quốc đã làm gia tăng mối quan tâm của cộng đồng công nghệ, quốc phòng, tình báo và an ninh. Những lo ngại đó đã góp phần tạo ra sự chắc chắn hơn về định vị đối với Trung Quốc, điều này đã dẫn đến việc giảm rủi ro bảo hiểm trong dự luận nội địa ở nhiều nước về các chính sách cần mềm dẻo với Trung Quốc. Tất cả các yếu tố đã có trước khi Covid-19 xuất hiện, nhưng vi rút và cách xử lý chống đại dịch đã đẩy nhanh quy mô thời gian và tạo ra môi trường chiến lược hiện đang kiên quyết hơn nhiều để đối phó với Trung Quốc.
Cụ thể, trong trường hợp chia rẽ trong nước, lập luận chính cho một chính sách hợp tác đối với Trung Quốc là kinh tế. Ví dụ, trong trường hợp của Mỹ, Pháp và Nhật Bản, vấn đề kinh tế là sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong các chuỗi cung ứng. Ở Anh, đây là đầu tư lớn của Trung Quốc vào Thành phố Luân Đôn. Tại các khu vực của Châu Đại Dương, đây là vấn đề kinh tế từ du lịch đến từ Trung Quốc.
Đại dịch đã gây ra một ảnh hưởng kinh tế nghiêm trọng ở cả sáu quốc gia đến mức chi phí của một số chính sách ‘tách rời’ khỏi Trung Quốc có thể trông tương đối nhỏ so với khi so sánh với thiệt hại kinh tế từ đại dịch. Kết quả là, cách tiếp cận chính sách đối xử thận trọng hơn với Trung Quốc do các cộng đồng quốc phòng và chiến lược dẫn đầu đã đạt được sức thu hút và thuyết phục với công dân các nước. Các chính sách kinh tế khác đã được đưa ra mà không thể tưởng tượng được nếu không có đại dịch. Ví dụ, chính phủ Hoa Kỳ viện dẫn Đạo luật Sản xuất Quốc phòng, tước bỏ địa vị kinh tế đặc biệt của Hồng Kông và hủy bỏ kế hoạch đầu tư hàng tỷ đô la của quỹ hưu trí liên bang Hoa Kỳ vào thị trường Trung Quốc.
Về tính bất ổn, sự gia tăng giận dữ của dân chúng đối với Trung Quốc về việc nước này xử lý vụ bùng phát Covid-19 và các hành động tiếp theo của nhà nước Trung Quốc đối ngoại đã khiến nước này trở nên kém khả thi về mặt chính trị ở sáu quốc gia (tất cả đều có các nền dân chủ). Dự luận không muốn ‘mềm mỏng’ với Trung Quốc. Điều này diễn ra gần đây ở Mỹ, với các đảng viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đều cạnh tranh để được coi là đứng lên chống lại Trung Quốc. Vì vậy, yếu tố chi phối hình thành liên minh Ấn Độ – Thái Bình Dương có vẻ chắc chắn hơn.
Kết quả chung là các chính phủ ở sáu nước ít lo về phòng chống rủi ro trong vị trí của các chính phủ nầy về việc cân bằng bang giao của nước họ giữa Mỹ và Trung Quốc. Các quốc gia đang bị buộc phải chọn phe. Ngay cả nước Pháp thường không muốn chọn phe giữa Mỹ và Trung Quốc cũng đang nói về việc rút lui khỏi Huawei, một vấn đề chung. (Tuy nhiên, Pháp vẫn đang cho phép Huawei xây dựng một nhà máy sản xuất ở miền đông nước Pháp.)
Thời đại của các đồng minh và đối tác
Khi các mối quan tâm về quốc phòng, an ninh và tình báo có được ủng hộ trong công dân các nước, đồng thời ít có tính bất ổn và ít lo nghĩ về bảo hiểm rủi ro về các chính sách không thân Trung Quốc, thế giới có khả năng bước vào một kỷ nguyên mới của các liên minh và quan hệ đối tác. Ví dụ, vào năm 2019, Vương quốc Anh đã cho phép sử dụng thiết bị Huawei trong hệ thống viễn thông ở Anh bất chấp những lo ngại về an ninh và ảnh hưởng có thể xảy ra đối với mối quan hệ của họ với Mỹ. Vào năm 2020, London đi ngược lại chính sách trước của chính họ. London đang đề xuất một liên minh D10 gồm các nền dân chủ – bảy thành viên các nước ở G7 cộng với Ấn Độ, Hàn Quốc và Úc – để tạo ra một đối thủ cạnh tranh về 5G với Huawei.
Trong cuộc gọi điện thoại đầu tiên sau bầu cử với Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Tổng thống đắc cử Joe Biden khi đó đã bày tỏ mong muốn ‘củng cố và mở rộng quan hệ đối tác chiến lược Hoa Kỳ-Ấn Độ’ và đặc biệt đề cập đến việc ‘duy trì một Ấn Độ-Thái Bình Dương an toàn và thịnh vượng’. Trọng tâm dự kiến nầy sẽ tiếp tục và sâu hơn.
Trên khắp sáu quốc gia, có mong muốn được hợp tác chặt chẽ hơn với các đối tác cùng chí hướng, mặc dù vẫn có mức độ lo ngại khác nhau về việc bị coi là ‘chống Trung Quốc’, ít nhất là về mặt kinh tế.
Trung Quốc đang cố gắng sử dụng đòn bẩy kinh tế để thiết lập các mối quan hệ đối tác của riêng mình, chẳng hạn như hiệp định thương mại RCEP bao gồm Úc, New Zealand và Nhật Bản. Ấn Độ rõ ràng đứng ngoài RCEP, với lý do lo ngại về khả năng Trung Quốc bán phá giá vào thị trường Ấn Độ. Ngoài ra còn có những câu hỏi về phạm vi tiếp cận và hiệu quả thực tế của RCEP, đặc biệt là nhiều quốc gia liên quan đã có các hiệp định thương mại tự do song phương và một số điều khoản của RCEP không bao gồm các cơ chế tranh chấp, khiến chúng không thể được thực thi một cách dễ dàng.
Trong khi đó, một loạt các ý tưởng để hợp tác hiệu quả giữa các nền dân chủ đang được đưa ra, chẳng hạn như mở rộng "chia xẻ tin tình báo" (Five Eyes) để bao gồm cả Nhật Bản. Một đề xuất khác đang đang lên bắt nguồn từ các chiến lược gia Ấn Độ. Đề xuất là cho một Hiến chương Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, dọc theo các dòng của Hiến chương Đại Tây Dương năm 1941 được ký bởi Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Vương quốc Anh Winston Churchill.
Hiến chương Đại Tây Dương không phải là một hiệp ước chính thức. Nó có tám điểm để "đưa ra một số nguyên tắc chung nhất định trong chính sách quốc gia của các nước để đặt hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn của thế giới". Những điểm đó bao gồm "các quốc gia không tìm kiếm sự tăng cường lãnh thổ hay các lãnh vực ảnh hưởng khác" và "họ tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc được lựa chọn hình thức chính phủ mà họ sẽ sống" ; và "các nước mong muốn được thấy chủ quyền và quyền tự quản được phục hồi ở các nước khi các quyền nầy đã bị tước đoạt bằng vũ lực’. Hiến chương Đại Tây Dương trở thành một trong những văn bản chỉ đạo cho việc thành lập Liên hợp quốc và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Đề xuất hiện tại về Hiến chương Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tìm cách giải quyết nhiều lĩnh vực giống nhau, bao gồm việc tôn trọng quyền của tất cả mọi người trong việc lựa chọn hình thức chính phủ của họ (thí dụ như chế độ dân chủ ở Đài Loan). Hiến chương Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng bổ sung các yếu tố cập nhật như kiểm soát chủ quyền đối với dữ liệu (một vấn đề quốc phòng quan trọng khi lo ngại về việc Trung Quốc sử dụng siêu dữ liệu để cải tiến công nghệ nhân tạo như là một thứ vũ khí để xâm nhập các nước) và thành lập hội đồng an ninh vũ trụ (space security council).
Sự hiểu biết về các nhận thức khác nhau sẽ là điều cần thiết trong các cuộc thảo luận xung quanh các điểm cho một hiến chương mới để đối phó với Trung Quốc. Ví dụ, xuất phát điểm có thể là để Ấn Độ và Nhật Bản đi đầu trong quá trình tham vấn với Nhóm 4-Nước (Quad) và các đối tác khu vực, sau đó mở rộng nó sang các bên ký kết khác. Một nhận thức nhạy cảm khác có thể được giải quyết trong Hiến chương Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là các quốc gia ở bất kỳ quy mô nào đều được coi là thành viên đầy đủ. Ví dụ như nước nhỏ Tonga có thể ký kết một cách tự hào như nước lớn Ấn Độ.
Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bao gồm nhiều quốc gia, với mức độ khác biệt về nhận thức rất rộng. Tuy nhiên, đặc biệt là kể từ Covid-19, ngày càng có nhiều lo ngại về các chính sách kinh tế, chủ nghĩa bành trướng quân sự và vi phạm nhân quyền của Trung Quốc. Kết quả là trong các cộng đồng chiến lược trên khắp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, ngày càng có mong muốn tạo ra sự đồng thuận rộng rãi về hành vi, quy tắc và chuẩn mực được chấp nhận, và về cơ bản, đồng thuận về hoạt động gia tăng trong khu vực.
Hiến chương Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một cách để giảm chia rẽ dư luận trong từng nước, sự bất ổn và phòng ngừa rủi ro bằng cách làm rõ trong nội bộ và quốc tế những gì các quốc gia ký kết, giống như Hiến chương Đại Tây Dương đã làm vào năm 1941. Hiến chương là một phương tiện để tạo ra các liên minh hiệu quả. Mục tiêu của hiến chương là tạo ra quan hệ đối tác đủ mạnh và có đủ đòn bẩy (bao gồm cả kinh tế), để làm nản lòng các quốc gia muốn đơn phương thống trị – ví dụ như Trung Quốc. Điều đó có thể có nghĩa là tẩy chay kinh tế hoặc chuyển hướng chuỗi cung ứng, thay vì phong tỏa hải quân.
Trọng tâm chiến lược toàn cầu đã chuyển sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Cách xử lý của khu vực trong vài năm tới sẽ quyết định xem nó có trở thành cái nôi của các cuộc khủng hoảng hay cung cấp giải pháp để hóa giải xung đột có thể ngấm ngầm diễn ra từ phía Trung Quốc.
Vleo Paskal
Nguyên tác : Indo-Pacific strategies, perceptions and partnerships, Chatham House, 23/03/2021
Phạm Đình Bá biên dịch
Nguồn : VNTB, 10/04/2021
********************
Từ sự kiện Đá Ba Đầu nhìn về chiến thuật "Vùng xám" & "Chiến tranh nhân dân trên biển" của Trung Quốc
Vũ Hồng Lâm, RFA, 08/04/2021
Trung Quốc đã và đang sử dụng chiến thuật "vùng xám", đặc biệt là "Chiến tranh nhân dân trên biển" trong việc thực hiện tham vọng bành trướng của nước này ở Biển Đông. Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, một chuyên gia hàng đầu về vấn đề biển Đông và an ninh Châu Á, thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương Hoa Kỳ (APCSS) cho rằng, để đối phó hiệu quả với những chiến thuật này của Trung Quốc, các quốc gia nhỏ có tuyên bố chủ quyền trong khu vực như Philippines và Việt Nam cần sớm đưa các vi phạm của Trung Quốc ra công luận quốc tế đồng thời kiên trì đấu tranh với Trung Quốc ngay tại khu vực xảy ra xung đột.
Rất nhiều tàu Trung Quốc, được cho là do dân quân biển Trung Quốc điều khiển, neo đậu ở khu vực Đá Ba Đầu ngày 27/3/2021. Ảnh : Cảnh sát Biển Philippines/Reuteurs
RFA : Một số chuyên gia cho rằng Trung Quốc đang thực hiện Chiến tranh nhân dân trên biển (people’s war at sea) trong vụ việc Đá Ba Đầu– một chiến thuật mà cựu Bộ trưởng Quốc phòng Thường Vạn Toàn của nước này đã đề cập tới trong một vài năm gần đây. Ông nghĩ gì về nhận định này và theo ông, Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật này như thế nào để thực hiện tham vọng của họ ở biển Đông ?
Việc Trung Quốc chiếm đóng Bãi cạn Scarborough khiến việc đánh cá của ngư dân Philippines tại ngư trường này gặp nhiều khó khăn. Ảnh chụp ngày 16/6/2016. Ảnh : AFP
Vũ Hồng Lâm : Chiến tranh nhân dân trên biển đúng là một chiến thuật rất quan trọng của Trung quốc ở biển Đông và họ đã thực hiện chiến thuật này từ lâu. Ban đầu họ sử dụng một số quân nhân trá hình giả làm ngư dân. Dần dần họ phát triển lực lượng dân quân biển và bây giờ lực lượng này đã phát triển khá hùng hậu với hàng trăm, hàng ngàn tàu cùng với số lượng người rất lớn. Một số trong lực lượng này là quân nhân phục viên chuyển ngành (ví dụ trước đây từng là lính hải quân) và rất nhiều người vốn là ngư dân nhưng được tuyển dụng làm dân binh.
Trung Quốc đã huy động lính giả dạng làm ngư dân để chiếm các đảo ở Trường Sa từ những năm 1980. Chẳng hạn vào năm 1988, khi xuống Đá Chữ Thập với lý do xây dựng trạm khí tượng, Trung Quốc đã dùng lính hải quân đóng giả ngư dân, dùng tàu cá để đi trinh sát. Sau đó, cũng với chiến thuật này, họ chiếm Đá Vành Khăn vào năm 1995 và gần đây là chiếm Bãi cạn Scarborough vào năm 2012.
Trung Quốc chiếm được bãi cạn này bằng chiến thuật cải bắp với vòng đầu là ngư dân, vòng hai là cảnh sát biển và vòng ngoài là hải quân, hiện diện ở rất xa, ngoài đường chân trời. Tại khu vực vòng đầu, ngư dân Trung Quốc tập hợp thành đám đông vào đánh bắt và xua đuổi ngư dân của Philippines đi, rồi dần dần họ bao vây, không cho thuyền của các nước như Philippines hay Việt Nam ra vào. Sau một thời gian, họ đã chiếm đóng và kiểm soát bãi cạn Scarborough trên thực tế. Đấy là chiến thuật sử dụng dân binh phối hợp với tàu cảnh sát biển đã giúp nước này chiếm các đảo đá ở Trường Sa.
Vừa qua, Trung Quốc tiếp tục sử dụng chiến thuật chiến tranh nhân dân trên biển ở Đá Ba Đầu. Những gì Trung Quốc làm ở Đá Ba Đầu trong tháng 3 cũng là điều họ đã làm ở đây hàng năm vào mùa này vì đây là thời gian biển không động, thời tiết tương đối tốt. Năm nay là lần Trung Quốc sử dụng một số lượng rất lớn, với hơn 200 tàu cá để bao vây khu vực Đá Ba Đầu với mưu đồ thiết lập quyền kiểm soát trên thực tế và xua đuổi ngư dân của các nước khác như Việt Nam và Philippines ra khỏi đây. Đáng lưu ý, Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật này trong hơn 2 năm gần đây tại khu vực gần đảo Thị Tứ do Philippines kiểm soát. Họ cũng sử dụng cả trăm tàu dân binh để bao vây khu vực này, không đánh bắt nhưng cứ neo đậu ở đó để "tạo quyền kiểm soát trên thực tế" đồng thời xua đuổi tàu thuyền nước khác, đặc biệt là tàu thuyền của các nước có tuyên bố chủ quyền trong khu vực.
Như vậy, có thể nói rằng chiến thuật này là sự lặp lại của những gì Trung Quốc đã làm trong lịch sử và đã làm ở khu vực đảo Thị Tứ trong mấy năm gần đây.
RFA : Ông đánh giá như thế nào về hiệu quả của chiến thuật này ?
Rất nhiều tàu cá của Trung Quốc tập trung tại Đá Ba Đầu, quần đảo Trường Sa hôm 23/3/2021. Ảnh Maxar/AP
Vũ Hồng Lâm : Chiến thuật này đặc biệt hiệu quả đối với trường hợp bãi cạn Scarborough và trên thực tế Trung Quốc đã chiếm đoạt được thực thể này. Mặc dù đã có phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế nhưng Trung Quốc vẫn không tuân thủ, họ vẫn xua đuổi ngư dân của Philippines và Việt Nam đến đánh cá và bản thân tàu chấp pháp của Philippines cũng không còn ra vào khu vực này nữa.
Hiện Trung Quốc và Philippines vẫn tranh chấp ở khu vực đảo Thị Tứ, tuy tình hình đã bớt nóng nhưng vẫn còn giằng co. Chiến thuật này thường phát huy hiệu quả khi đối phương không đủ thuyền bè để đối phó, nghĩa là không tạo được sức ép trên thực địa đồng thời giữ im lặng hoặc không tạo được sức ép dư luận quốc tế và do đó dẫn tới mất quyền kiểm soát.
RFA : Theo ông, những nước nhỏ như Việt Nam và Philliplines có thể làm gì để đáp trả chiến thuật chiến tranh nhân dân trên biển cũng như đội ngũ dân binh và cảnh sát biển hùng hậu của Trung Quốc ?
Vũ Hồng Lâm : Để đối phó, chủ yếu mình phải làm được ở hai mặt trận. Một là phải đưa vấn đề này ra công luận quốc tế để tạo lập dư luận và tận dụng sức ép của công luận, đặc biệt từ chính phủ các nước cũng như truyền thông của quốc tế. Hai là, trên thực địa, mình cũng cần có lực lượng để giằng co. Tuy lực lượng của mình mỏng hơn, ít hơn nhưng phải kiên quyết để duy trì sự hiện diện của mình ở đó.
Trong năm 2014, khi Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Việt Nam đã làm đúng hai điều này và đã thành công. Tuy trên biển, lực lượng dân quân và hải cảnh của Việt Nam yếu hơn Trung Quốc rất nhiều nhưng Việt Nam vẫn cương quyết bám trụ. Mặc khác, Việt Nam đã đưa vấn đề này ra quốc tế, thậm chí còn gửi kiến nghị lên Liên Hợp Quốc và mời nhà báo nước ngoài đến tận hiện trường để chứng kiến. Nhờ tất cả những việc làm này, Việt Nam đã khiến Trung Quốc đã phải rút giàn khoan trước hạn.
RFA : Nguy cơ thương vong đối với các nước nhỏ sẽ như thế nào nếu thực hiện theo phương án này thưa ông ?
Trung Quốc Trung Quốc ngăn chặn tàu tuần tra của Cảnh sát biển Việt Nam gần giàn khoan HD 981 của Trung Quốc nằm trong vùng đặc khu kinh tế của Việt Nam. Ảnh chụp 28/5/2015. Ảnh AFP
Vũ Hồng Lâm : Khả năng xảy ra thương vong là có nhưng rất ít vì tính chất của câu chuyện này là tất cả các bên đều cố gắng giữ để xung đột không leo thang thành xung đột vũ trang.
Vì tính chất này nên Trung Quốc thường dùng chiến tranh nhân dân trên biển và chiến thuật vùng xám để lấn dần, chứ không nhắm đến các trận giao tranh lớn bằng vũ trang.
RFA : Chiến tranh nhân dân trên biển và chiến thuật "vùng xám" mà giới chuyên môn gần đây hay đề cập là một hay là hai chiến thuật khác nhau thưa ông ?
Vũ Hồng Lâm : Đây là 2 phạm trù khác nhau. Chiến tranh nhân dân là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh và chiến tranh nhân dân thường có dạng không chính quy như "chiến tranh du kích", "chiến tranh phi quy ước". Chiến tranh nhân dân trên biển của Trung Quốc có khía cạnh chính là sử dụng dân binh và ngư dân tham gia vào cuộc chiến chủ quyền của nước này.
Vùng xám là nơi không có hòa bình nhưng cũng không có chiến tranh. Chiến thuật vùng xám cũng sử dụng một số dạng chiến tranh không quy ước. Chiến tranh nhân dân là một hình thái mà chiến thuật vùng xám sử dụng. Chiến thuật vùng xám còn có nhiều hình thái khác như : "Cắt lát xúc xích (salami slice)" [mỗi hôm lấn chiếm một chút, không để tạo xung đột lớn], "Tạo sự đã rồi" [ví dụ chiếm đóng trong một đêm] hay chiến thuật cải bắp như trong trường hợp Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough như đã phân tích ở trên.
RFA : Ông nói rằng các nước nạn nhân như Philippine cần sớm lên tiếng lên án vi phạm của Trung Quốc. Vậy theo ông, việc Philippines lên tiếng về vụ việc Đá Ba Đầu vừa rồi có bị muộn quá không trong khi nước này đã phát hiện ra tàu cá Trung Quốc neo đậu từ 2 tuần trước đó ?
Vũ Hồng Lâm : Tôi cho rằng Philippines lên tiếng như vậy không hẳn là muộn vì không phải lúc nào nước này cũng biết những gì đang xảy ra cho đến khi họ đi tuần tra. Thêm vào đó, khi lượng tàu của Trung Quốc mới chỉ là một con số nhỏ, 5,7,10 hay 20 tàu thì nếu lên tiếng cũng chưa thích hợp lắm vì chưa rõ ràng, chưa đáng nói.
RFA : Theo ông, chiến thuật này đã và đang gây ra những khó khăn, bất lợi gì cho các nước có tranh chấp liên quan cũng như cho sự can thiệp của các cường quốc, trong đó có Mỹ ?
Vũ Hồng Lâm : Theo tôi, các nước có tranh chấp và các cường quốc có liên quan có bất lợi là họ chưa chuẩn bị kỹ cho chiến thuật vùng xám và chiến tranh nhân dân trong khi đó đây lại là những thế mạnh và truyền thống của Trung Quốc. Ví dụ, trừ Việt Nam, tất cả các nước hiện không có lực lượng dân quân biển vì họ bị ràng buộc bởi luật pháp và học thuyết quân sự của họ, do đó không có khả năng răn đe Trung Quốc ở vùng xám. Việt Nam tuy có dân quân biển nhưng lực lượng này còn nhỏ vì mới chỉ được thành lập từ khoảng chục năm trở lại đây.
Như vậy, có thể thấy về mặt lực lượng quân sự chính quy thì phần nào, Mỹ có thể răn đe được nhờ có tàu sân bay, tàu ngầm, tên lửa nhưng nước này không răn đe được Trung Quốc ở khu vực Vùng xám. Tính chất của vùng xám là "lách luật" nên cứ đàng hoàng dùng "luật" để chơi thì khó hiệu quả.
RFA : Mỹ đã có bài học ở Scarborough và biết rất rõ tính chất của chiến tranh vùng xám. Theo ông, nếu Mỹ thực sự muốn cải thiện tình hình ở Biển Đông thì nước này nên làm điều gì ?
Tập trận chung của Hải quân Mỹ và Philippines tháng 4/ 2019. Ảnh : AFP
Vũ Hồng Lâm : Thực ra dưới thời chính quyền của Tổng thống Trump, có tướng lĩnh Mỹ đã từng tuyên bố sẽ đối xử với tàu dân binh và hải cảnh Trung Quốc giống như đối với tàu thuyền quân sự. Nhưng đó chỉ là tuyên bố nhất thời và cũng không khả thi để biến thành chính sách vì điều này vướng rất nhiều rào cản luật pháp. Có thể nói Mỹ chưa có những bước đi lớn để đối phó với chiến thuật vùng xám cũng như khả năng tham gia chiến thuật vùng xám của Mỹ vẫn còn yếu.
Mặc dầu vậy, tôi nghĩ Mỹ vẫn có thể làm một số việc để cải thiện tình hình khu vực.
Thứ nhất Mỹ có thể đẩy manh hợp tác cảnh sát biển với các nước ven bờ như Việt Nam và Philippines để giúp những nước này nâng cao năng lực bảo vệ vùng biển hợp pháp của họ.
Thứ hai, là giúp đỡ các nước này sử dụng các công cụ kỹ thuật cao (ví dụ máy bay không người lái hoặc những vật thể không phải là vũ khí gây sát thương) để phục vụ việc trinh sát và xua đuổi.
Thư ba là ủng hộ Việt Nam và Philippines phát triển lực lượng dân binh biển của họ. Điều này có thể khiến Mỹ vấp phải những khó khăn về mặt luật pháp, học thuyết quân sự (học thuyết quân sự của Mỹ không có khái niệm dân binh biển) nhưng nếu muốn đối phó hiệu quả với Trung Quốc thì Mỹ phải thay đổi học thuyết quân sự của mình.
RFA : Xin cảm ơn ông !
Nguồn : RFA, 08/04/2021