Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

10/06/2021

Tại sao Việt Nam cần áp dụng Chiến lược Phòng thủ Sinh học ?

Phuong Pham

Mặc dù đạt được thành công ban đầu, Covid-19 đã bộc lộ sự thiếu chuẩn bị của Việt Nam đối với các mối đe dọa sinh học.

sinhhoc1

Từng được coi là mô hình mẫu ngăn chặn thành công Covid-19, Việt Nam hiện đang trong làn sóng dịch thứ tư , đợt dịch tồi tệ nhất kể từ khi bắt đầu đại dịch. Tệ hơn nữa, các biện pháp nghiêm ngặt trước đây đã giúp Việt Nam kiểm soát vi rút đã không có mấy hiệu quả, thể hiện qua sự gia tăng các ca lây nhiễm kể từ cuối tháng Tư. Điều này đặt ra mối quan ngại lớn đối với Việt Nam không chỉ về Covid-19 mà còn về khả năng chống lại các mối đe dọa sinh học trên diện rộng. Với suy nghĩ này, Việt Nam nên thiết lập một chiến lược quốc gia về phòng thủ sinh học để giúp chống lại các mối đe dọa sinh học hiệu quả hơn, trong bối cảnh khả năng phòng thủ sinh học còn thiếu thốn hiện nay.

Nghị định 81/2019 của Chính phủ việt nam về ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt phân loại các mối đe dọa sinh học trong số bốn loại mối đe dọa hủy diệt hàng loạt : hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân. Trong năm 2018 , Liên Hiệp Châu Âu đã giúp Việt Nam hoàn thiện Kế hoạch Hành động Quốc gia  về ngăn chặn các mối đe dọa hạt nhân. Tuy nhiên, cả nghị định và kế hoạch hành động quốc gia đều chỉ là hướng dẫn chung chung, nếu không muốn nói là mơ hồ, để giải quyết các mối đe dọa hạt nhân mà không có bất kỳ kế hoạch chuyên sâu nào về cách đối phó với các loại mối đe dọa cụ thể. Hơn nữa, mặc dù đã có cơ quan chuyên trách đối phó với một số loại mối đe dọa hạt nhân, như Đội Hóa học Quân đội nhân dân Việt Nam và Cơ quan An toàn bức xạ và hạt nhân Việt Nam, Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chịu trách nhiệm chống lại các mối đe dọa sinh học.

Ít nhất, một chiến lược an toàn sinh học quốc gia sẽ thiết lập một tầm nhìn rõ ràng về cách đối phó với các mối đe dọa sinh học – điều mà Việt Nam còn thiếu cho đến nay. Việt Nam đã phản ứng với các mối đe dọa sinh học một cách thụ động, chỉ sau khi bị ảnh hưởng. Điều này thể hiện rõ trong phản ứng đối với hai đợt bùng phát lớn : SARS năm 2003 và Covid-19 vào năm 2020. Trong trường hợp COVID, mặc dù Việt Nam đã giải quyết tốt cuộc dịch bệnh và nhận được lời khen ngợi quốc tế nhờ các biện pháp kiểm dịch và cách lychặt chẽ, Việt Nam đã phải vật lộn để đối phó với làn sóng dịch mới nhất.

Điều này cho thấy Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước các mối đe dọa sinh học. Trên thực tế, Việt Nam đã phải hứng chịu các cuộc tấn công sinh học trong quá khứ, cụ thể là trong chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, việc Việt Nam không có một chiến lược phòng thủ sinh học cho thấy họ thiếu tầm nhìn về vấn đề này. Những hành động mà Việt Nam đã thực hiện cho đến nay đối với Covid-19 về cơ bản là mang tính chiến thuật, làm dấy lên lo ngại về việc liệu nó có thể đối phó tốt với làn sóng mới trước đây hay không, trong bối cảnh gia tăng số ca mắc mới và số ca tử vong hiện tại. Chỉ có một chiến lược với tầm nhìn toàn diện mới giúp Việt Nam có thể thực hiện các biện pháp ứng phó trước các mối đe dọa sinh học một cách hiệu quả hơn.

Ngoài ra, việc có một chiến lược an toàn sinh học quốc gia sẽ tăng cường bộ máy an ninh nói chung của Việt Nam. Theo ông Alexander Vuving tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương, các mối đe dọa sinh học không được liệt kê trong số Các ưu tiên an ninh chính của Việt Nam. Tương tự, Sách trắng Quốc phòng năm 2019 chưa nêu cách đối phó với các mối đe dọa sinh học, cho thấy sự thiếu chuẩn bị của Việt Nam trên mặt trận này.

Hơn nữa, Nghị định 81/2019 nói trên ngụ ý rằng Việt Nam đang tiếp cận các mối đe dọa sinh học theo cách tương tự như các mối đe dọa hạt nhân khác, đây là vấn đề chiến lược. Các mối đe dọa và vũ khí sinh học hoạt động và tiêu diệt mục tiêu theo một cách tương đối khác với các mối đe dọa hóa học, phóng xạ và hạt nhân, vì chúng thường khó phát hiện hơn và có khả năng lây lan nhanh hơn qua một môi trường nhất định, lý do tại sao các mối đe dọa sinh học cần được chú ý và xử lý đặc biệt.

Một số quốc gia coi các mối đe dọa sinh học là ưu tiên an ninh và có các cơ chế chuyên biệt để giải quyết. Ví dụ, Hoa Kỳ coi an ninh sinh học là một thành phần chính của an ninh quốc gia bằng chứng là nước này đã thiết lập Văn phòng Y tế Quốc tế và bảo vệ sinh học, được giao nhiệm vụ chống lại các cuộc khủng hoảng sinh học và sự bùng phát của bệnh truyền nhiễm thông qua ngoại giao và nội dung Chiến lược bảo vệ sinh học Quốc gia. Việc áp dụng một chiến lược bảo vệ sinh học tương tự sẽ giúp Việt Nam tăng cường bộ máy an ninh, gia tăng khả năng chống chịu tốt hơn trước các mối đe dọa sinh học.

Một thành phần quan trọng khác của chiến lược phòng thủ sinh học quốc gia là năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) mạnh mẽ và ngân sách cần thiết để thiết lập điều này. Mặc dù đã chứng kiến sự tăng trưởng chi cho R&D trong thập niên gần đây, nhưng Việt Nam vẫn kém các nước khác trong khu vực, chẳng hạn như Thái Lan hoặc là Singapore , chi tiêu khoảng 0,5% GDP trong năm 2017. Thật vậy, chi tiêu không đủ cho R&D là một trong những lý do chính khiến Việt Nam chậm phát triển vắc xin Covid-19 của riêng mình. Cho đến nay, việc tiêm chủng của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài và vắc xin nội địa vẫn chưa được phân phối. Với kỳ vọng về một loại vắc-xin cây nhà lá vườn, Việt Nam đã cố đa dạng hóa nguồn cung cấp vắc xin, tụt hậu so với các nước láng giềng trong việc tiêm chủng cho công dân. Nếu Việt Nam không đầu tư nhiều hơn vào việc nâng cao năng lực R&D của mình, Việt Nam có thể không thể đối phó với các mối đe dọa tương tự như Covid-19 trong tương lai, cũng như không thể phát triển các "vũ khí" công nghệ cần thiết để chống lại chúng một cách chủ động. Một chiến lược phòng thủ sinh học đòi hỏi một nền tảng R&D vững chắc hơn.

Thứ hai, để có một chiến lược phòng thủ sinh học khả thi, Việt Nam phải có sự phân bổ nhiệm vụ rõ ràng cho các cơ quan ở mọi cấp, ngành, từ cấp tỉnh đến trung ương, và từ tư nhân đến nhà nước. Để chiến lược hoạt động tốt, cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm, nghĩa là họ phải được nhận thức tốt về nhiệm vụ của mình. An toàn sinh học của Việt Nam không chỉ là mối đe dọa đối với các cá nhân hoặc lĩnh vực cụ thể ; mà là một mối đe dọa hiện hữu cho cả nước, cần sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các đơn vị chính quyền.

Trong các đợt Covid-19 trước đây, Việt Nam đã thực hiện tốt huy động nguồn lực từ các cấp để ngăn vi-rút lây lan. Trong làn sóng gần đây này, họ đã làm điều tương tự trong cả việc thực hiện các phương pháp khóa và cách ly, nhưng không ngăn chặn được sự lây lan của dịch bệnh. Sau đại dịch, Việt Nam nên áp dụng mô hình hợp tác tương tự để xây dựng chiến lược đối phó với các mối đe dọa sinh học trong tương lai.

Ngoài ra, Việt Nam phải theo đuổi hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an toàn sinh học để tăng cường nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề này. Do năng lực nghiên cứu và phát triển còn yếu, công nghệ sinh học và chăm sóc sức khỏe của Việt Nam chưa tiên tiến như mong muốn. Một trong những cách tốt nhất để bù đắp sự thiếu hụt này là tham gia vào các hoạt động với các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia có công nghệ tiên tiến và nhiều kinh nghiệm hơn trong việc giải quyết các mối đe dọa an toàn sinh học. Như đã lưu ý, hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với các mối đe dọa về an toàn sinh học dưới hình thức này hay hình thức khác, vì vậy cần phải có những nỗ lực chung để vượt qua. Do đó, Việt Nam phải tạo thuận lợi cho các hoạt động, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc nâng cao năng lực, thông tin, trao đổi nhân lực và chuyển giao công nghệ. Nếu có thể phối hợp tốt với các đối tác quốc tế, Viêt Nam sẽ có khả năng xây dựng chiến lược an toàn sinh học tốt hơn.

Dịch Covid-19 bùng phát với những hậu quả khủng khiếp có thể thay đổi hoàn toàn nhận thức của các quốc gia về an ninh sinh học, thúc đẩy họ cải cách hệ thống phòng thủ sinh học của mình. Tương tự như vậy, Việt Nam nên tăng cường khả năng phòng thủ sinh học, và một trong những bước quan trọng để làm được điều đó là có một chiến lược phòng thủ sinh học chặt chẽ để có thể đáp ứng tốt hơn các thách thức trong tương lai.

Phuong Pham

Nguyên tác : Why Vietnam Needs to Adopt a Biological Defense Strategy, The Diplomat, 07/06/2021

Anh Khoa dịch

Nguồn : VNTB, 10/06/2021

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Phuong Pham
Read 442 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)