Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Diễn đàn

25/12/2022

Tìm trật tự trong hỗn loạn

Jonathan Stromseth

Cam kết của Hoa Kỳ với Đông Nam Á đã được thúc đẩy đáng kể vào tháng trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris tham dự một loạt các hội nghị thượng đỉnh trong khu vực này và nâng quan hệ của Hoa Kỳ với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Biden và Harris cũng tổ chức các cuộc gặp riêng với một số nhà lãnh đạo quốc gia ASEAN, nêu bật sự chú ý của Washington đối với quan hệ song phương trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung leo thang trong khu vực.

trattu1

Cơ hội nâng tầm quan hệ Việt – Mỹ

Chính quyền Biden đặc biệt tập trung vào việc mở rộng quan hệ với Việt Nam, với nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh và vị trí chiến lược trên Biển Đông. Trong các chuyến thăm cấp cao tới Hà Nội trong 18 tháng qua, các quan chức Hoa Kỳ đã tuyên bố rất công khai rằng quan hệ song phương nên được nâng cấp lên thành "đối tác chiến lược". Khả năng nâng cấp này đã được thảo luận trong nhiều năm qua ngoại giao thầm lặng, nhưng ý tưởng này chưa bao giờ được thực hiện - một phần do Việt Nam lo ngại rằng họ có thể bị Bắc Kinh hiểu là thù địch với Trung Quốc. Tuy nhiên, có thể đạt được quan hệ đối tác chiến lược nếu cả hai bên giải quyết vấn đề một cách có hệ thống hơn trong một khung thời gian hợp lý.

Quỹ đạo của quan hệ song phương

Quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đã phát triển đáng kể kể từ khi bình thường hóa ngoại giao vào năm 1995 - một sự mở rộng được thể hiện qua việc thiết lập "quan hệ đối tác toàn diện" vào năm 2013, chuyển giao hai tàu tuần duyên Hoa Kỳ cho Hà Nội từ năm 2017 và các chuyến thăm cảng của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ vào năm 2018 và 2020. Ngoài ra, thương mại song phương đã tăng gấp 200 lần kể từ khi bình thường hóa và đầu tư hàng năm của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã đạt 2,8 tỷ USD. Việt Nam gửi khoảng 30.000 sinh viên du học tại Hoa Kỳ mỗi năm, đứng thứ sáu trong số các quốc gia gửi sinh viên du học, và năm nay, nhóm tình nguyện viên đầu tiên của Tổ chức Hòa bình Hoa Kỳ (Peace Corps) đã đến Việt Nam.

Washington và Hà Nội cũng đã bắt đầu hợp tác trong các vấn đề của khu vực ASEAN. Trong số các quốc gia thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam hỗ trợ tích cực nhất cho quan hệ đối tác Quad giữa Hoa Kỳ, Australia, Ấn Độ và Nhật Bản, với việc các nhà ngoại giao Việt Nam tham gia đối thoại liên quan đến đại dịch với các thành viên Quad. Năm ngoái, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã thành lập một văn phòng khu vực tại Hà Nội để tăng cường các hoạt động liên quan đến y tế công cộng ở Đông Nam Á.

Quỹ đạo này không chỉ xuất phát từ mối quan ngại chung về các hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, nơi Hà Nội có tranh chấp lãnh thổ lâu dài với Bắc Kinh, mà còn từ tình trạng người dân Việt Nam mạnh mẽ ủng hộ Hoa Kỳ. Các cuộc khảo sát gần đây của các chuyên gia chính sách Đông Nam Á đã cho thấy rằng, trong ASEAN, các chuyên gia Việt Nam đặc biệt cảnh giác trước ảnh hưởng chiến lược ngày càng tăng của Trung Quốc và là một trong những nước ủng hộ mạnh nhất đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong khu vực này.

Hà Nội dè chừng Bắc Kinh

Tâm lý dân chúng ở Việt Nam có thể ủng hộ mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ, nhưng các nhà lãnh đạo đảng ở Hà Nội, nhận thức rất rõ sự phụ thuộc kinh tế của đất nước họ vào và sự gần gũi về mặt địa lý với Trung Quốc, lo lắng về sự đáp trả từ Bắc Kinh nếu họ quá gần gũi với Washington. Họ cũng nghi ngờ cam kết lâu dài của Washington với các đồng minh và đối tác trong khu vực. Và vì vậy, Hà Nội, tìm cách cân bằng Trung Quốc mà không khiêu khích, theo đuổi chính sách đối ngoại "đa phương" bắt nguồn từ nguyên tắc "ba không" : không có quân đội nước ngoài trên đất Việt Nam, không liên minh với nước này để chống lại nước khác, và không liên minh quân sự với các cường quốc.

Trong những tháng gần đây, căng thẳng Mỹ-Trung gia tăng về vấn đề Đài Loan chỉ làm gia tăng nỗ lực của Việt Nam trong việc dàn xếp mối quan hệ với Washington và Bắc Kinh. Hành vi phòng ngừa rủi ro này đã được thể hiện vào cuối tháng 10 khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Bắc Kinh. Trọng là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau Đại hội Đảng lần thứ 20 của Trung Quốc, nói với ông Tập rằng Việt Nam dành "ưu tiên hàng đầu" cho "phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc". Trên thực tế, chuyến thăm giữa các bên này không phải là bất thường từ góc độ lịch sử, và nó có thể nói lên nhiều tính toán của Trung Quốc hơn là của Việt Nam, với việc Tập thẳng thừng nhắc nhở Trọng rằng cả hai nước nên "không bao giờ để bất kỳ ai can thiệp" vào tiến trình của họ.

Sự thận trọng của Hà Nội là điều dễ hiểu từ góc độ kinh tế. Mặc dù Việt Nam đã nổi lên là quốc gia dẫn đầu về tăng trưởng ở Châu Á, với mức tăng trưởng hàng năm dự kiến đạt 7,2% vào năm 2022, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc kể từ năm 2012, khi ông Tập trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc. Việt Nam cho đến nay là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN. Thương mại giữa hai nước đã vượt 165 tỷ USD vào năm 2021, tăng gấp bốn lần so với năm 2012. Năm ngoái, gần 1/5 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là sang Trung Quốc, trong khi đó, Trung Quốc đóng góp 1/3 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng nhập khẩu này là không thể thiếu đối với chuỗi cung ứng sản xuất của Việt Nam.

Giải quyết các khác biệt

Trong khi đó, các vấn đề nghiêm trọng tiếp tục cản trở mối quan hệ song phương của Việt Nam với Hoa Kỳ, bao gồm việc Hà Nội mua sắm hệ thống phòng thủ của Nga từ lâu cũng như những khác biệt sâu sắc về nhân quyền và các triết lý chính trị cốt lõi. Tuy nhiên, ít nhất một số khác biệt này có thể không phải là không thể giải quyết như vẻ bên ngoài của chúng.

Dữ liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (Stockholm International Peace Research Institute) chỉ ra rằng tỷ lệ phụ thuộc vũ khí của Việt Nam vào Nga đã giảm từ khoảng 94% năm 2013 xuống dưới 60% vào năm 2021. Tuần trước, Việt Nam đã tổ chức triển lãm quốc phòng lần đầu tiên với mục tiêu đa dạng hóa các kênh mua sắm quốc phòng của nước này. Hội đồng Doanh nghiệp Hoa Kỳ-ASEAN đã dẫn đầu một phái đoàn công nghiệp quốc phòng Hoa Kỳ đến Hà Nội để tiếp thị sản phẩm của họ tại hội chợ, và Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Marc Knapper, nói với các phương tiện truyền thông địa phương rằng sự kiện này "thể hiện một giai đoạn mới trong nỗ lực toàn cầu hóa của Việt Nam, đa dạng hóa và hiện đại hóa, và Hoa Kỳ muốn trở thành một phần của nó".

Hơn nữa, mặc dù Việt Nam là một quốc gia độc đảng do một Đảng cộng sản lãnh đạo và chính quyền Biden đã xây dựng một chính sách đối ngoại vạch ra một cuộc đấu tranh toàn cầu giữa các nền dân chủ và các chế độ chuyên quyền, Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) của chính quyền này vạch rõ những khác biệt quan trọng giữa các chế độ chuyên chế khác nhau. Tài liệu này cho biết, thách thức chiến lược chính đến từ "các cường quốc kết hợp cai trị độc đoán với chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa xét lại", dẫn đến các hành vi đe dọa hòa bình và ổn định quốc tế cũng như làm suy yếu nền dân chủ ở các quốc gia khác. Theo NSS, Trung Quốc và Nga rõ ràng thuộc loại này, nhưng "nhiều quốc gia phi-dân-chủ muốn cùng các nền dân chủ trên thế giới ngăn chặn những hành vi này".

Có vẻ như Việt Nam hoàn toàn ở vào trường hợp thứ hai. Điều này được minh chứng bằng việc ủng hộ mạnh mẽ quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, và rộng hơn là ủng hộ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Con đường phía trước

Nếu Hoa Kỳ mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, thì Washington nên quay trở lại chính sách ngoại giao thầm lặng - nhưng bền bỉ - với mục tiêu hiện thực hóa quan hệ đối tác vào cuối nhiệm kỳ tổng thống hiện tại. Để đạt được mục đích này, Việt Nam nên tìm cách lồng ghép các vấn đề liên quan vào các cuộc đối thoại song phương đang diễn ra với Hà Nội (ví dụ : Đối thoại Hoa Kỳ-Việt Nam về Châu Á-Thái Bình Dương và Đối thoại Chính sách Quốc phòng Hoa Kỳ-Việt Nam) để xác định các lĩnh vực trọng tâm chính của một mối quan hệ nâng cao. Ngoài vấn đề an ninh hàng hải, các cuộc đối thoại có thể khám phá các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm mà cả các nhà lãnh đạo và công chúng Việt Nam đều cho là quan trọng - đặc biệt là phòng chống đại dịch, biến đổi khí hậu và phát triển cơ sở hạ tầng bền vững ở Việt Nam và tiểu vùng hạ lưu sông Mekong.

Chính quyền Biden cũng nên vạch ra các khả năng về chuyến thăm chính thức của Biden tới Hà Nội, hoặc của một nhà lãnh đạo Việt Nam tới Washington, giống như Tổng thống Hoa Kỳ khi đó là Barack Obama đã tiếp đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục vào tháng 7 năm 2015 và một năm sau đó, đã đến thăm Việt Nam. Tiền lệ cho thấy rằng phía Việt Nam mong đợi một quan hệ đối tác chiến lược được chính thức hóa trong khuôn khổ một chuyến thăm cấp nhà nước.

Giới lãnh đạo Việt Nam cũng có những quyết định cần đưa ra. Với sự bấp bênh về vị trí địa chính trị và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc, có thể hiểu được tại sao giới lãnh đạo muốn thắt chặt quan hệ chiến lược với Washington một cách lặng lẽ trong khi vẫn giữ những danh từ ngoại giao chính thức càng mơ hồ càng tốt. Nhưng Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vừa được ký kết giữa Hoa Kỳ và ASEAN dường như cung cấp một nền tảng - và vỏ bọc chính trị - cho từng quốc gia ASEAN riêng rẽ ký kết quan hệ đối tác chiến lược với Washington ở cấp độ song phương, bất kể Trung Quốc nghĩ gì.

Gần 10 năm trước, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Nguyễn Tấn Dũng đã nói rằng Việt Nam "mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc". Ngày nay, Hà Nội đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Thường trực trừ một : Hoa Kỳ. Từ một số khía cạnh, việc Hà Nội đồng ý với đề xuất nâng cao quan hệ của chính quyền Biden là phù hợp hơn với những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại "đa phương" của họ. Cũng có thể nên thận trọng và giữ vững những thành quả đã đạt được. Với những thay đổi bất thường của nền chính trị Hoa Kỳ, đây có thể là một cơ hội cần phải tận dụng sớm.

Cuối cùng, một quan hệ đối tác chiến lược sẽ báo hiệu rằng mối quan hệ song phương không chỉ toàn diện, hay chỉ là một tổng thể của các bộ phận, mà còn đang đi theo một hướng tham vọng hơn dựa trên các mục tiêu chung dài hạn – chẳng hạn như thúc đẩy một trật tự dựa trên luật lệ trong vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, khuyến khích quản trị kinh tế minh bạch ở tiểu vùng Mekong và giải quyết các thách thức về sức khỏe cộng đồng và biến đổi khí hậu ở Đông Nam Á và hơn thế nữa. Nó cũng sẽ là một sự tiến hóa tự nhiên của những thành quả đã đạt được.

Jonathan Stromset

Nguyên tác : A window of opportunity to upgrade US-Vietnam relations, brookings.edu, 20/12/2022

Khánh An dịch

Nguồn : VNTB, 25/12/2022

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Jonathan Stromseth, Khánh An
Read 199 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)