"Nước ta là nước dân chủ… quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh nói, "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. …Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" (*).
Đây là một câu nói bình thường, theo cách này, cách khác, na ná nhau, của hầu hết các nhà lãnh đạo quốc gia, nhưng có lẽ nó được phóng loa tuyên truyền trên tần suất cực đại khi lời nói đó phát ra từ miệng của lãnh tụ cai trị nước dưới ách độc tài đảng trị, phản dân chủ. Nhà lãnh đạo đó không thực sự chú trọng đến quyền lợi và lợi ích của dân và không cho phép nhân dân được tham gia vào quá trình ra quyết định về quyết sách quốc gia, những lời nói đó chỉ là lời nói trống rỗng và không có giá trị gì.
Nhiều vấn đề trong xã hội dẫn đến việc xác định chính quyền Việt Nam từ khi Đảng cộng sản Việt Nam cai trị là độc tài. Những vấn đề này mà người bình thường ai cũng thấy, bao gồm :
Chính quyền không tôn trọng nhân quyền và tự do ngôn luận, đàn áp các phong trào dân chủ và giới hạn tự do báo chí.
Chính quyền không giải quyết những vấn đề xã hội và kinh tế cơ bản, như nghèo đói, thất nghiệp và bất bình đẳng kinh tế.
Chính quyền sử dụng lực lượng an ninh để đàn áp các phong trào dân chủ và phá hoại các hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự.
Chính quyền không đáp ứng được nhu cầu của người dân, không lắng nghe ý kiến của người dân, không xây dựng một hệ thống liên lạc và tham gia tích cực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và kinh tế.
Những vấn đề này cho đến nay, gần 80 năm Đảng cộng sản Việt Nam từ khi còn trứng nước, đến khi chiếm được toàn lãnh thổ Việt Nam đều không giải quyết đúng cách, hay chỉ tuyên truyền mà không thực hiện khiến chính quyền trở thành độc tài. Đảng cộng sản Việt Nam luôn tự hào, tự xưng là duy nhất đúng và bắt buộc dân phải tôn sùng, phục tùng tuyệt đối ý chí của đảng và lãnh đạo. Họ cắt giảm tự do ngôn luận và kiểm soát thông tin để duy trì sự kiểm soát của chính quyền, gây ra sự kìm kẹp kiểu này, kiểu khác ý kiến và ngăn chặn đối lập phát triển trong xã hội.
Sự phản dân chủ là bản chất của chủ nghĩa Mác-Lê
Học thuyết phản dân chủ này đã phân biệt giai cấp, đề cao vai trò của giai cấp lao động và giới công nhân trong việc "xây dựng chế độ xã hội công bằng và tiến bộ". Mác-Lênin cho rằng, trong một xã hội tư bản, các giai cấp có mối quan hệ đối đầu và chủ nghĩa tư bản bảo vệ lợi ích của các giai cấp thượng lưu. Do đó, để đạt được sự công bằng xã hội, cần phải đưa quyền lực vào tay giai cấp lao động.
Để bảo đảm quyền lợi của giai cấp vô sản, Mác-Lênin đề cao vai trò của giới công nhân trong xã hội và khuyến khích họ tổ chức liên kết tập thể để tăng cường sức mạnh. Hơn thế nữa, chủ nghĩa Mac-Lê xem các giai cấp và sự đối đầu giữa chúng trong xã hội là sự cản trở xã hội cần tiêu diệt, đặc biệt giai cấp giàu có, địa chủ, thương gia và tăng lữ.
Cho dù đến nay, cộng sản cố xóa mờ ranh giới giữa các giai cấp hòng ru ngủ, lấy lòng mọi người trong quá trình họ gọi là tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế, cái đuôi mác-lê vẫn còn ló ra trong cái quần chật hẹp, người ta vẫn dễ dàng thấy các hiện tượng đánh giá thấp hoặc kì thị đối với một số giai cấp khác, điều này ngoài lý do sự đối đầu giữa các giai cấp và tư tưởng chủ nghĩa cộng sản của Mác-Lênin, còn vì quyền lợi riêng của đảng và đảng viên. Đặc biệt rõ ràng thấy rõ sự kỳ thi nhất là sự đàn áp tôn giáo.
Chủ nghĩa cộng sản duy vật, vô thần (Atheism) được coi là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự đàn áp tôn giáo. Chủ nghĩa vô thần phủ nhận tồn tại của các vị thần hoặc thực thể siêu nhiên. Hơn thế, cộng sản rất kiêng dè sức mạnh của tôn giáo. Sự đàn áp tôn giáo bắt nguồn từ sợ hãi về sự ảnh hưởng của tôn giáo đến xã hội mà cộng sản quản lý. Tôn giáo trong một số quốc gia có thể được sử dụng để giữ quyền lực và kiểm soát xã hội, và vì vậy, sự đối đầu với tôn giáo có thể được coi là một cách để kiểm soát quyền lực và tự do của những người không thuộc tôn giáo, đặc biệt với người vô thần cộng sản vốn là kẻ thù của tôn giáo.
Chế độ cộng sản Việt Nam đang ve vãn tất cả các thành phần dân chúng trong nước không phải họ đánh mất tính chiến đấu giai cấp, nhưng nhất thời họ cần có sự ủng hộ và sự tôn trọng của ‘thần dân’ để duy trì quyền lực của mình.
Chế độ cộng sản không khác gì thời kỳ phong kiến, tổng bí thư và bộ chính trị có quyền lực tuyệt đối và thường được coi là các đối tượng cao nhất trong xã hội.
‘Thần dân’ trong thời nay cũng gồm các tầng lớp khác nhau như thời phong kiến, từ tầng lớp trí thức, quý tộc, nay thêm bọn tư bản đỏ, bọn trọc phú nổi phất lên từ những lổ hổng của thời quá độ kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, cho đến bọn nhà giầu của đảng và nhà nước do ăn cắp, tham nhũng, đến tầng lớp nông dân, thương nhân, thợ thủ công, và lao động trong các ngành công nghiệp khác. Tuy nhiên, mức độ quyền lực và sự tôn trọng của của đảng và chính quyền đối với các tầng lớp này khác nhau.
Điều quan trọng là, trong các xã hội phong kiến, tầng lớp thấp hơn vẫn có thể tôn trọng và hỗ trợ các quan hay nhà vua nếu là đấng minh quân hay các vị dân chi phụ mẫu hết lòng vì dân. Nếu chính quyền và vua không đối xử công bằng và tôn trọng thần dân, dân có thể phản kháng và cuối cùng dẫn đến sụp đổ chế độ. Chế độ cộng sản dùng giai cấp này đàn áp và thống trị giai cấp khác, khắc nghiệt hơn thời phong kiến. Giai cấp đàn áp được tinh gọn trong đảng trở thành một lực lượng kinh khủng được võ trang bằng đủ mọi thứ vũ khí, từ tuyên truyền đến dùi cui súng đạn.
Nếu xem câu nói của Hồ Chí Minh trên chỉ là lời cổ vũ cho dân chủ, một phần trong quá trình xây dựng xã hội dân chủ thì không đủ thúc đầy dân chủ ở Việt Nam. Để xây dựng một xã hội dân chủ thực sự, cần có sự tham gia tích cực và chủ động của toàn bộ cộng đồng, trong dó mạnh nhất là về phần chính phủ. Cần có quá trình giáo dục, tuyên truyền, xây dựng văn hóa dân chủ và đặc biệt là cần có sự phát triển kinh tế để cải thiện cuộc sống của người dân. Gần 80 năm, xã hội Việt Nam vẫn không có dân chủ, dù chính trị ổn định cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam vì nhiều lý do, hoặc thiếu năng lực lãnh đạo và quản lý, cũng như những tình trạng buôn lậu và tham nhũng trong các cơ quan chính quyền, nhưng nguyên do chính, lớn nhất là lo sợ dân chủ có thể làm mất vai trò lãnh đạo của đảng.
Trong chế độ dân chủ, người dân được làm chủ đất nước, quyền lực quốc gia trong tay người dân. Chế độ tự nhận chuyên chế, không thể nói vu khoát như Hồ Chí Minh rằng "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" vì tính chất của chế độ này là tập trung quyền lực vào một nhóm người đứng đầu và không cho phép dân chủ trong việc ra quyết định và điều hành quyền lực. Trong chế độ chuyên chế, độc tài đảng trị, quyền lực được tập trung ở một số người đứng đầu, thường là những người trong đảng cầm quyền hoặc trong công an, quân đội. Đảng nắm quyền lực để kiểm soát, đàn áp và kiểm duyệt quyết định của dân chúng.
Chế độ độc tài đảng trị cho phép họ ngang nhiên xâm phạm quyền tự do, quyền công dân của dân chúng và không cho phép công dân tham gia vào quá trình ra quyết định. Chính phủ của Đảng cộng sản Việt Nam bầu cử trong một môi trường không công bằng và không tự do, khiến cho dân chúng không có quyền chọn lựa và ảnh hưởng đến quyết định chính sách. Chế độ độc tài đảng trị nắm quyền hành để kiểm soát dân chúng. Quốc gia là của họ, lãnh thổ lãnh hải là của đảng, ngay người dân cũng là vật sở hữu của đảng.
Người dân phải làm gì để có dân chủ trong nước ?
Để có được dân chủ trong nước, người dân có thể thực hiện một số hành động sau :
1. Tham gia vào các hoạt động chính trị : Người dân có thể tham gia vào các hoạt động chính trị như bỏ phiếu, tổ chức các cuộc biểu tình, tham gia các cuộc hội thảo, đàm phán, giúp đẩy mạnh quyền lực của nhân dân.
2. Giáo dục và nâng cao nhận thức : Người dân có thể tự học và nâng cao nhận thức về các vấn đề chính trị, pháp luật, kinh tế và xã hội, giúp họ hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình trong xã hội.
3. Tham gia vào các tổ chức xã hội và chính trị : Người dân có thể tham gia vào các tổ chức xã hội và chính trị như các đảng chính trị, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức xã hội để giúp đẩy mạnh quyền lực của người dân.
4. Tham gia vào các hoạt động tình nguyện : Người dân có thể tham gia vào các hoạt động tình nguyện như giúp đỡ những người khó khăn, giúp đỡ cộng đồng, tăng cường tinh thần đoàn kết và trách nhiệm với xã hội.
5. Yêu cầu chính quyền tuân thủ pháp luật và đảm bảo quyền lợi của người dân : Người dân có thể yêu cầu chính quyền tuân thủ pháp luật và đảm bảo quyền lợi của người dân bằng cách phản đối các hành động sai trái của chính quyền và tham gia vào các hoạt động kiện cáo và tranh đấu tại các cơ quan pháp luật và truyền thông.
Một ví dụ về một nước đã đấu tranh cho dân chủ thành công bằng các phương pháp trên là Hàn Quốc. Trước đây, Hàn Quốc từng sống dưới chế độ độc tài, phản dân chủ, triều đại của Park Chung-hee. Tuy nhiên, nhờ sự đấu tranh của các nhà hoạt động, dân chủ được thiết lập vào cuối những năm 1980. Các hoạt động đấu tranh bao gồm các cuộc biểu tình, phản đối và các hoạt động khác của các tổ chức xã hội dân sự, giáo dục và tôn giáo. Các nhà hoạt động dân chủ đã sử dụng các phương pháp này để yêu cầu chính phủ thực hiện các cải cách dân chủ, như cho phép tổ chức độc lập, tự do báo chí, tự do ngôn luận và các quyền khác cho người dân. Nhờ vào sự kiên trì của các nhà hoạt động này, Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia dân chủ phát triển và thịnh vượng, với các tổ chức xã hội dân sự hoạt động mạnh mẽ và các quyền của người dân được đảm bảo bởi hiến pháp
Vì như ở Việt Nam, chế độ độc tài đảng trị không cho phép biểu tình và tự do ngôn luận, người đấu tranh nên bắt đầu bước dễ nhất, hợp pháp và chế độ khó kiểm soát nhất.
Bước đầu tiên để đấu tranh cho dân chủ là sử dụng các phương tiện hợp pháp và khó kiểm soát nhất. Cụ thể, có thể là việc sử dụng mạng xã hội để lan truyền thông tin, tham gia vào các tổ chức xã hội đang hoạt động công khai, ký tên các đơn thỉnh nguyện, viết bài phản đối trên các trang mạng tin tức độc lập, đăng tải video, hình ảnh về những vi phạm nhân quyền của chính quyền. Tuy nhiên, trong chế độ độc tài đảng trị có sự đàn áp khốc liệt như Việt Nam vẫn tiềm ẩn những nguy hiểm mà người dân thân đấu tranh phải đối diên.
Một nước đã sử dụng phương pháp này để đấu tranh cho dân chủ thành công là Myanmar (còn gọi là Miến Điện). Trong thập niên 2000, người dân Myanmar đã sử dụng mạng xã hội và các trang web tin tức độc lập để đưa thông tin về tình trạng nhân quyền và chính trị trong nước ra thế giới bên ngoài. Các hoạt động này đã giúp thúc đẩy sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đến tình hình Myanmar và thúc đẩy các biện pháp trừng phạt đối với chính quyền Myanmar. Năm 2015, Myanmar đã có cuộc bầu cử đầu tiên sau gần 50 năm cai trị của quân đội, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy dân chủ trong nước.
Tại sao có một số người không dám đấu tranh để có dân chủ ?
Có nhiều lý do mà nhiều người không dám đấu tranh cho dân chủ. Một số người có thể sợ hãi bị đàn áp hoặc bị phạt nặng nếu họ đấu tranh quyết liệt cho dân chủ. Những người khác có thể thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc tài nguyên cần thiết để tham gia vào các hoạt động đấu tranh cho dân chủ. Ngoài ra, còn có những người có lợi ích trong việc duy trì chế độ hiện tại hoặc bị mê hoặc bởi những lời đe dọa hoặc những lời lừa đảo của chính quyền. Không loại trừ một số lười nhát, cam tâm sống trong chế độ mà thật sự họ khinh ghét, nhưng chỉ muốn nhờ sức người khác đấu tranh.
Để đấu tranh hiệu quả người dân phải làm sao ?
Để đấu tranh cho dân chủ có hiệu quả, người dân cần thực hiện các bước sau :
1. Tìm hiểu về dân chủ : Để đấu tranh cho dân chủ, người dân cần hiểu rõ về các nguyên tắc và giá trị cơ bản của dân chủ. Việc tìm hiểu này giúp người dân nhận thức được tầm quan trọng của dân chủ trong cuộc sống và trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ và phát triển dân chủ.
2. Hợp tác và tạo động lực cho nhau : Người dân cần hợp tác, tạo sự đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh. Điều này giúp họ tăng sức mạnh và hiệu quả trong việc đối đầu với chính quyền.
3. Tổ chức các hoạt động đấu tranh : Người dân cần tổ chức các hoạt động đấu tranh, như tụ tập, biểu tình, tham gia các đoàn kết, công đoàn, tổ chức xã hội và các hoạt động xã hội khác để tăng sức ép và đòi hỏi cho chính quyền đáp ứng các yêu cầu của người dân.
4. Tham gia vào các quy trình dân chủ : Người dân cần tham gia vào các quy trình dân chủ như bỏ phiếu, tham gia hội nghị, đại hội và các cuộc thăm dò dư luận để đảm bảo rằng giọng nói của họ được lắng nghe và ảnh hưởng đến quyết định của chính quyền.
5. Tăng cường kiến thức và kỹ năng : Người dân cần tăng cường kiến thức và kỹ năng cần thiết để tham gia vào các hoạt động đấu tranh cho dân chủ. Việc này bao gồm việc nghiên cứu, học tập và tham gia vào các khóa đào tạo và huấn luyện về dân chủ, luật pháp và các kỹ năng liên quan.
Tóm lại, để đấu tranh cho dân chủ có hiệu quả, người dân cần hợp tác, tổ chức và tăng cường kiến thức và kỹ năng của mình.
Hạo Nhiên
Nguồn : VNTB, 18/04/2023
(*) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự Thật, Tập 6, tr.232.