Việc có hay không tham nhũng không ảnh hưởng trực tiếp đến sự đứng vững của một chế độ độc tài hoặc đảng trị, dù tham nhũng có thể được sử dụng như một công cụ để giữ vững quyền lực và kiểm soát của chế độ đó.
Nhân viên an ninh đứng canh gác tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia nhân Đại hội 13 Đảng cộng sản Việt Nam ở Hà Nội hôm 27/1/2021 (minh hoạ)
Có nhiều nghiên cứu của các học giả về mối quan hệ giữa tham nhũng và chế độ cộng sản, độc tài, đảng trị và trong các nước có nền kinh tế mới nổi.
Những nghiên cứu cho thấy rằng chế độ độc tài, đảng trị có xu hướng tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc tham nhũng phát triển. Với quyền lực tập trung vào tay một số ít đảng viên, các quan chức dễ dàng sử dụng quyền lực của họ để lợi dụng và kiểm soát các nguồn tài nguyên của quốc gia làm sở hữu của phe nhóm, gia đình của họ, từ đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, xã hội và chính trị mà đảng và họ cố sức vun đắp bảo vệ.
Một số nghiên cứu khác cho thấy rằng tham nhũng có thể là một yếu tố thúc đẩy cho chế độ độc tài, đảng trị duy trì quyền lực của họ. Những người tham nhũng có thể được sử dụng như là một công cụ để đe dọa hoặc tống tiền các đối thủ chính trị, từ đó bảo đảm bảo họ giữ được quyền lực và kiểm soát trong nước.
Một trong những nghiên cứu về mối liên hệ giữa tham nhũng và chế độ độc tài, đảng trị là cuốn sách "Corruption and authoritarianism" của Susan Rose-Ackerman và Bonnie J. Palifka (*). Bạn có thể tìm thấy sách tại các nhà sách trực tuyến như Amazon, Google Books hay các trang thư viện trực tuyến như JSTOR.
Cuốn sách "Corruption and Authoritarianism" của Susan Rose-Ackerman và Bonnie J. Palifka là một tài liệu quan trọng về liên quan giữa tham nhũng và chế độ độc tài. Cuốn sách này cung cấp một cái nhìn toàn diện và là tài liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu, giáo sư, sinh viên quan tâm đến các hình thức tham nhũng, cơ chế hoạt động của chúng và cách chúng ảnh hưởng đến chế độ độc tài.
Các chương trong cuốn sách :
Chương 1 - Corruption and authoritarianism : An overview : cung cấp một cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa tham nhũng và chế độ độc tài. Susan Rose-Ackerman và Bonnie J. Palifka giới thiệu đến độc giả một cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa tham nhũng và chế độ độc tài. Chương này bắt đầu bằng việc định nghĩa tham nhũng và chế độ độc tài, cũng như giải thích những ảnh hưởng tiêu cực của tham nhũng đối với chế độ độc tài.
Chương này trình bày các ví dụ cụ thể về những chế độ độc tài nổi tiếng trong lịch sử, chẳng hạn như chế độ của Hitler và Stalin, và nhấn mạnh rằng tham nhũng có thể trở thành một phần không thể thiếu của chế độ độc tài. Điều này được minh họa bằng các ví dụ về tham nhũng trong các quốc gia như Nga, Trung Quốc, Việt Nam và Zimbabwe.
Chương này tập trung vào vai trò của chính phủ trong việc kiểm soát tham nhũng và xử lý những hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh rằng việc kiểm soát tham nhũng không thể được thực hiện hiệu quả nếu không có sự đổi mới trong các cơ chế kiểm soát và sự minh bạch trong việc sử dụng tài nguyên công cộng.
Cuối cùng, chương này đưa ra kết luận rằng mối liên hệ giữa tham nhũng và chế độ độc tài là rất chặt chẽ và thường gây ra những hậu quả tiêu cực cho cả quốc gia và người dân. Việc giải quyết vấn đề tham nhũng trong các chế độ độc tài là một thách thức lớn, tuy nhiên, tác giả cho rằng điều này là cần thiết để xây dựng một chế độ hành chính công bằng và bền vững.
Trong chương này, tác giả không đề cập đến ví dụ cụ thể về tham nhũng ở Việt Nam. Họ chỉ trình bày như Việt Nam là một trong những ví dụ về các quốc gia có chế độ độc tài và cũng bị ảnh hưởng bởi vấn đề tham nhũng. Trong nhiều nghiên cứu về tham nhũng trên thế giới, Việt Nam cũng được đưa ra như một trong những ví dụ về nền kinh tế đang phát triển có vấn đề tham nhũng nghiêm trọng.
Chương 2 - The costs and benefits of corruption for authoritarian regimes : phân tích chi tiết về cái giá phải trả về các lợi và hại của tham nhũng đối với các chế độ độc tài.
Các chế độ độc tài cần nuôi dưỡng tham nhũng vì nó có lợi ích cho chế độ, gồm :
1. Tăng cường quyền lực và kiểm soát : Bằng cách dung dưỡng và để mặc tham nhũng hòng mua chuộc sự ủng hộ của các quan chức, các nhà lãnh đạo độc tài có thể tăng cường quyền lực và kiểm soát hơn trong chính phủ và các tổ chức quan trọng khác, giữ dược ghế của họ ngồi trên sự giằng co tròng tréo trong đảng.
2. Tăng thu nhập và phát triển kinh tế : Các quan chức tham nhũng thường sử dụng chức vụ của mình để lợi dụng tài nguyên và quyền lực của nhà nước để thu nhận các khoản tiền lớn thông qua các hoạt động tham nhũng như nhận hối lộ, xúc tiến ký kết các hợp đồng thương mại với những doanh nghiệp có quan hệ gần gũi với họ, hoặc chiếm đoạt tiền của người dân thông qua các hoạt động tham nhũng trong quá trình thu thuế. Với số tiền thu được từ tham nhũng, các quan chức này có thể tăng thu nhập của mình và đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế nhằm tạo ra nguồn thu nhập phụ, nhằm đảm bảo sự phát triển của bản thân và gia đình mình, đặc biệt trong tình hình kinh tế đất nước chưa ổn định.
3. Điều chỉnh phân phối tài nguyên : các quan chức tham nhũng có thể sử dụng quyền lực của mình để điều chỉnh phân phối tài nguyên theo ý muốn của họ. Điều này giúp họ kiểm soát các tài nguyên chiến lược như đất đai, khoáng sản và các nguồn lực khác. Khi họ sở hữu quyền kiểm soát các tài nguyên này, họ có thể sử dụng chúng để đạt được mục đích của mình, như tăng thu nhập cá nhân, làm giàu bản thân hoặc tăng sức mạnh trong cơ quan quản lý. Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn, khi các quan chức tham nhũng sử dụng quyền lực của mình để tăng lợi ích cá nhân, đồng thời gây ra sự bất bình đẳng trong phân phối tài nguyên.
Tuy nhiên, tác hại của tham nhũng đối với các chế độ độc tài cũng rất nặng nề, bao gồm :
1. Sự mất niềm tin của công chúng : Tham nhũng làm suy yếu niềm tin của công chúng vào chính phủ, gây mất cân bằng kinh tế và xã hội.
2. Sự mất động lực và hiệu suất của nhân viên chính phủ : Tham nhũng có thể ảnh hưởng đến động lực và hiệu suất của nhân viên chính phủ, khiến họ làm việc chậm chạp và không năng suất.
3. Sự thất bại trong việc phát triển kinh tế : Tham nhũng cản trở phát triển kinh tế của một quốc gia, khiến nó không thể tận dụng được tài nguyên và tiềm năng của mình.
Tóm lại, tuy có lợi ích nhất thời cho quốc gia, cho đảng và các đảng viên, nhưng tham nhũng vẫn là một rủi ro lớn đối với các chế độ độc tài.
Chương 3 - Bribery and extortion in authoritarian settings : nghiên cứu về các hình thức tham nhũng thường gặp trong các chế độ độc tài và cơ chế hoạt động của chúng.
Chương này tập trung vào việc phân tích các hình thức tham nhũng thường gặp trong các chế độ độc tài, đặc biệt là các hình thức hối lộ và đe dọa tại các quốc gia như Nga và Trung Quốc.
Bài viết trong chương này chỉ ra rằng trong các chế độ chuyên chế độc tài, đảng trị các quan chức thường tìm cách thu thập, nhét phồng túi tiền, bằng cách sử dụng các phương thức như hối lộ hoặc đe dọa. Họ có thể đòi hỏi tiền của các doanh nghiệp để cho phép họ tiếp tục kinh doanh hoặc để tránh bị xử lý pháp lý. Họ cũng có thể yêu cầu được hối lộ để cấp các giấy phép kinh doanh, cho phép xây dựng hay thậm chí là để chạy chức chạy quyền.
Bên cạnh đó, chương này cũng chỉ ra rằng các hình thức tham nhũng thường được thực hiện thông qua việc sử dụng quyền lực và uy quyền của các quan chức. Có thể thấy rằng, các quan chức trong chế độ độc tài đảng trị thường được sanh ra, đào tạo và duy trì bởi các hệ thống chính trị tập trung quyền lực, cho phép họ tận dụng tình trạng này để lợi dụng nguồn lực và quyền lực của họ để vòi tiền của những người khác.
Tổng thể, chương 3 giúp ta hiểu rõ hơn về cơ chế và các hình thức tham nhũng phổ biến trong các chế độ độc tài, giúp ta đánh giá được những hậu quả xấu của chúng đối với nền kinh tế và xã hội của quốc gia.
Chương 4 - The institutional framework of corruption in authoritarian settings : phân tích các cơ chế, quy trình và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho tham nhũng trong các chế độ độc tài.
Trên thực tế, các chế độ độc tài thường có các cơ chế và quy trình pháp lý cho phép hoặc thậm chí khuyến khích tham nhũng. Chương 4 phân tích những cơ chế này và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho tham nhũng trong các chế độ độc tài. Các cơ chế này có thể bao gồm việc không công khai hóa thông tin, hạn chế quyền tự do ngôn luận, báo chí, hạn chế sự can thiệp của các nhà hoạt động, tổ chức chống tham nhũng, tạo ra các quy định phức tạp để lấy lý do thuận lợi cho tham nhũng, không ngần ngại dùng các lực lượng an ninh để bịt miệng, đàn áp, bỏ tù những người ‘phản động’ đưa tin các quan chức tham nhũng.
Bên cạnh đó, chương này cũng phân tích tác động của tham nhũng đến các cơ quan và tổ chức chính phủ trong các chế độ độc tài, và các hệ quả của việc sử dụng quyền lực để bảo vệ quyền lợi của các quan chức tham nhũng. Nó cũng cung cấp các ví dụ về cách thức mà các chế độ độc tài có thể sử dụng các cơ chế và cơ sở hạ tầng hỗ trợ của mình để bảo vệ các quan chức tham nhũng.
Dưới đây là một số ví dụ về cách mà các chế độ độc tài có thể sử dụng các cơ chế và cơ sở hạ tầng hỗ trợ để bảo vệ các quan chức tham nhũng :
1. Việt Nam : Các quan chức chính phủ thường được phân cấp quyền quản lý đất đai và tài nguyên thiên nhiên, và họ thường sử dụng quyền này để thu hút và bán đất cho các nhà đầu tư nước ngoài với giá cao hơn so với giá thị trường. Điều này giúp tăng thu nhập cho các quan chức và đội ngũ lãnh đạo đảng cầm quyền.
2. Nga : Hệ thống pháp luật tại Nga thường bị lạm dụng để bảo vệ các quan chức tham nhũng. Các quan chức có thể sử dụng tiền bạc để mua lại các quyền lợi của họ và tránh khỏi trừng phạt, hoặc sử dụng quyền lực để áp đặt các sự kiện hoặc lời khuyên cho các quan chức của họ.
3. Trung Quốc : Trong một số trường hợp, chính phủ Trung Quốc đã sử dụng các cơ chế hỗ trợ của mình để giám sát các nhà hoạt động phi chính phủ. Tuy nhiên, các quan chức tham nhũng thường sử dụng quyền lực của mình để xâm phạm vào cuộc sống riêng tư và sử dụng các phương tiện đe dọa hoặc bắt giữ để ép buộc các nhà hoạt động phi chính phủ phải cung cấp thông tin cho họ.
4. Ai Cập : Các quan chức chính phủ và đảng cầm quyền ở Ai Cập thường sử dụng các phương tiện đe dọa và bắt giữ để giám sát các nhà hoạt động phi chính phủ. Họ cũng sử dụng các cơ chế hỗ trợ như quân đội và cảnh sát để trấn áp các cuộc biểu tình và giảm bớt áp lực đối với chính phủ.
Các ví dụ lấy ra từ 4 quốc gia trên đều thấy có ở Việt Nam.
Chương 5 - Combating corruption in authoritarian settings : đề xuất một số giải pháp để chống lại tham nhũng trong các chế độ độc tài
Một trong những giải pháp được đề xuất là xây dựng các cơ quan độc lập để giám sát và kiểm soát tham nhũng. Các cơ quan này có thể bao gồm Ủy ban Đối ngoại, Cục Phòng chống tham nhũng, và Tòa án Tối cao. Những cơ quan này cần được đảm bảo độc lập và có quyền lực để đưa ra quyết định và truy tố các trường hợp tham nhũng.
Một giải pháp khác là tăng cường sự minh bạch và truy cập thông tin. Điều này bao gồm việc công khai các thông tin về ngân sách và việc sử dụng tài nguyên của nhà nước, đảm bảo quyền truy cập thông tin của người dân, báo chí và các tổ chức xã hội dân sự.
Ngoài ra, cần tăng cường giáo dục và tăng cường nhận thức của dân chúng về hậu quả của tham nhũng. Việc tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh và giảm thiểu các rào cản thương mại cũng là một giải pháp quan trọng để giảm thiểu tham nhũng trong các chế độ độc tài.
Cuối cùng, các tác giả cũng đề xuất việc tăng cường hợp tác quốc tế để chống lại tham nhũng trong các chế độ độc tài. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế cũng như việc áp dụng các công cụ pháp lý quốc tế có thể giúp đẩy lùi tham nhũng và xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh.
Những điều tóm lược trên trong cuốn "Corruption and Authoritarianism" của Susan Rose-Ackerman và Bonnie J. Palifka phản ánh đúng như xã hội Việt Nam đang bị cai trị dưới chế độ độc tài đảng trị của cộng sản. Tuy vậy, có một thực tế ông TBT Nguyễn Phú Trọng đang cố diệt tham nhũng, theo như ông ta nói và nhiều băng đảng tham nhũng trong đảng đã bị đưa ra tòa.
Ở một vài nước dưới ách cai trị độc tài cũng có tình trang như Việt Nam dưới chế độ độc tài đảng trị của TBT Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng cố tận diệt đối thủ của phe nhóm ông trong đảng cs, chính phủ để duy trì những nhóm tham nhũng khác thân chính phủ, thân đảng, phục tùng ông ta hơn. Rõ ràng điều này phụ thuộc vào cách thức và mức độ thực hiện của các lãnh tụ độc tài. Trong một số trường hợp, chế độ độc tài có thể sử dụng việc loại bỏ các nhóm tham nhũng để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của tham nhũng đến sự ổn định của chính quyền. Mặt khác chế độ độc tài có thể tác động vào các nhóm tham nhũng ‘cánh hẩu’ để kiểm soát hoạt động tham nhũng và đảm bảo sự kiểm soát của chính phủ trong việc phân phối tài nguyên. Làm điều này thường khó khăn và phức tạp trong thực tế. Một mặt nó cố rửa lớp nhọ nồi trên mặt đảng, nhưng mặt khác nó làm mặt đảng dày thêm.
Việc có hay không tham nhũng không ảnh hưởng trực tiếp đến sự đứng vững của một chế độ độc tài hoặc đảng trị, dù tham nhũng có thể được sử dụng như một công cụ để giữ vững quyền lực và kiểm soát của chế độ đó.
Nếu một chế độ độc tài đảng trị hoàn toàn loại bỏ tham nhũng, thì nó sẽ phải tìm cách khác để giữ vững quyền lực và kiểm soát đảng và xã hội, sử dụng, kiểm soát các quan chức, và nhân dân.
Thay vì tạo nên một chế độ dân chủ, tôn trọng nhân quyền để dân được sống tự do hanh phúc, chế dộ độc tài, đảng trị dùng bạo lực hoặc tăng cường giám sát để kiểm soát các quan chức. Nhưng, việc sử dụng bạo lực có thể dẫn đến tình trạng bạo lực, đe dọa và ngăn cản hơn nữa quyền tự do của người dân, trong khi tăng cường giám sát có thể mất đi sự riêng tư và tự do cá nhân của mọi người kể cả đảng viên và người dân. Ngoài ra, những phương pháp này không bảo đảm các quan chức sẽ hoạt động trung thực và hiệu quả, mà hy vọng họ sẽ tuân thủ và không vi phạm các quy định. Việc kiểm soát, xóa bỏ tham nhũng trong các chế độ độc tài có thể được thực hiện thông qua việc cải cách chính trị, tăng cường giám sát và độc lập của các cơ quan chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi để các quan chức có thể làm việc một cách minh bạch và trung thực.
Hạo Nhiên
Nguồn : VNTB, 30/04/2023