…không cần Thủ tướng Chính ‘qua chầu’ Trung Quốc
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính sẽ không thể ‘xé rào’ trong quan hệ Việt – Trung để làm điều gì ‘đột phá’ liên quan Biển Đông trong chuyến thăm Trung Quốc này, tuy nhiên, có thể đặt vấn đề với phía Trung Quốc về hai khía cạnh ‘lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc’, ‘bảo vệ an ninh năng lượng của Việt Nam thông qua đảm bảo các dự án thăm dò, khai thác dầu khí trên Biển Đông’. Đó là nhận định của nhà quan sát và phân tích thời sự, chính trị Việt Nam và khu vực - ông Trương Nhấn Tuấn từ Marseille, Pháp Quốc - với RFA hôm 26/6/2023.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính bắt tay Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường ở Bắc Kinh hôm 26/6/2023 - AFP
Vẫn theo ông Tuấn, Việt Nam tiếp tục chính sách ngoại giao ‘cây tre’, mà thực chất là ‘đưa người cửa trước, rước người cửa sau’, cũng như việc Hàng không mẫu hạm Ronald Reagan của Mỹ cập bến Đà Nẵng là chuyện nội bộ của Việt Nam, mà không cần Thủ tướng Phạm Minh Chính phải ‘qua chầu’ bên Trung Quốc làm gì.
Nếu không ‘xé rào’, thì cũng nên học Philippines
RFA : Có ý kiến nói trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính, ông Chính đề cập 'thẳng thắn' với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông ? Theo nhà nghiên cứu, Thủ tướng Việt Nam có 'đặt vấn đề' đó dịp này không ? Và Trung Quốc có thể phản ứng ra sao, nếu có ?
Trương Nhân Tuấn : Theo tôi trên phương diện cá nhân Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ không có kế hoạch nào về Biển Đông trong chuyến đi này hết cả. Nếu ông Chính có kế hoạch nào đó thì (kế hoạch này) cũng không thể ra ngoài những chương trình đã được soạn trước giữa hai Đảng cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Quốc. Việt Nam có quan hệ thân thiết, nếu không nói là phụ thuộc nhiều thứ vào Trung Quốc. Từ ý thức hệ chính trị đến mô hình phát triển quốc gia. Việt Nam là một bản "photocopy" của Trung Quốc. Mọi quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc trước tiên phải thông qua kênh "đảng". Chuyện tranh chấp Biển Đông vì vậy không ngoại lệ.
Nhưng nếu ông Chính "xé rào", hay là ông Chính tuân theo cẩm nang của Đảng, đặt vấn đề tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc trong chuyến đi này, theo tôi, có hai vấn đề quan trọng cần được ưu tiên đặt ra. Thứ nhứt là chuyện Trung Quốc cấm biển (vùng biển bắc vĩ tuyến 12°). Việt Nam phải có một giải pháp giải quyết các vấn đề kinh tế, về công ăn việc làm cho ngư dân Việt Nam trong thời gian không hoạt động (do Trung Quốc cấm biển). Kêu gọi ngư dân bám biển (một cách bất chấp sinh mạng) không phải là giải pháp.
Thứ hai là chuyện Trung Quốc cản trở Việt Nam khai thác các mỏ dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam. Theo tôi thấy hiện thời an ninh năng lượng của Việt Nam bị đe dọa. Có nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chính yếu là Việt Nam không thể xây dựng các nhà máy điện khí theo dự kiến. Trung Quốc đã cản trở Việt Nam khai thác các mỏ khí đốt (hay đặt ống dẫn khí đốt từ Indonesia về Việt Nam). An ninh năng lượng là an ninh quốc gia. Thiếu năng lượng, công kỹ nghệ Việt Nam sẽ bị đình đốn và Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực trong việc thu hút tài phiệt đầu tư.
Về phản ứng của Trung Quốc, theo tôi, mục tiêu của Trung Quốc là kìm hãm Việt Nam phát triển. Trung Quốc sẽ không thể trở thành đại cường nếu các quốc gia có cùng biên giới với Trung Quốc, như Việt Nam, cũng là một đại cường. Hành vi Trung Quốc thường xuyên cho tàu bè hải cảnh, hải giám, tàu nghiên cứu… vào quấy nhiễu thềm lục địa Việt Nam mục tiêu hàng đầu là ngăn cản Việt Nam khai thác các mỏ dầu khí. Trung Quốc không để Việt Nam tự chủ về an ninh năng lượng. Do đó Trung Quốc sẽ không dễ dàng chấm dứt chuyện quấy nhiễu này.
Về chuyện cấm đánh cá thì từ đã 21 năm rồi, năm nào Trung Quốc cũng ra lệnh cấm đánh cá. Và cũng đã 21 năm Việt Nam không có bất kỳ một giải pháp nào, cho dầu tạm bợ, để giải quyết vấn đề ngư dân Việt Nam. Nếu so sánh bạn "đồng hội đồng thuyền" cùng hoàn cảnh với Việt Nam là Philippines thì ta thấy học giả cũng như giàn chính trị gia của quốc gia này đã có những bước đi đột phá, mục đích giải quyết các tranh chấp với Trung Quốc bằng luật lệ. Phán quyết của tòa PCA 13/7/2016 là thí dụ điển hình. Theo những gì tôi theo dõi thì trong thời gian gần sắp tới, có thể Philippines sẽ xúc tiến kiện Trung Quốc thêm lần nữa, kỳ này liên quan đến "quyền đánh cá của ngư dân trong vùng đánh cá truyền thống", nếu những đàm phán giữa Tổng thống Marcos Jr. của Philippines với Trung Quốc không đạt kết quả cụ thể. Theo tôi, chính quyền và Đảng cộng sản Việt Nam cần lấy Philippines là một tấm gương để có những động thái thích hợp bảo vệ lợi ích của công dân mình.
Ngoại giao dồn dập, ngẫu nhiên hay có ngụ ý ?
RFA : Có ý kiến cho rằng Việt Nam trong thời gian vừa rồi đã có các tiếp xúc, thúc đẩy quan hệ (ngoại giao, quốc phòng, an ninh). với cả bốn quốc gia thành viên khối QUAD (Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang thăm Ấn Độ, Việt Nam đón Thủ tướng Úc đến thăm (lần đầu trên cương vị đó của tân Thủ tướng Úc tới VN), đón nhóm tàu khu trục trực thăng Nhật thăm, đón tàu sân bay USS Ronald Reagan ghé, chưa kể cũng tiếp đón Tổng thống Hàn Quốc, ông có bình luận gì về việc này, đây là ngẫu nhiên, hay có kế hoạch với ngụ ý gì ?
Trương Nhân Tuấn : Tôi thấy với chính sách ngoại giao "cây tre" và chủ trương quốc phòng "bốn không", Việt Nam khó có thể có mối quan hệ lâu dài và bền vững với bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam muốn có một quan hệ "tốt" với "tất cả" mà điều này là không thể (trong hoàn cảnh Trung Quốc và Mỹ cạnh tranh chiến lược).
Để "minh họa", tôi thử đưa một thí dụ điển hình, về kinh tế. Đó là chúng ta thấy Việt Nam là một trong những quốc gia "mở" so với các quốc gia lân bang. Việt Nam có mặt trong hầu hết các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng như Việt Nam ký đủ thứ hiệp ước về kinh tế với hầu hết các quốc gia tiên tiến, bao gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật, khối Châu Âu, Nam Hàn, Đài loan v.v. Nếu nói nôm na thì "mâm nào Việt Nam cũng có mặt". Nhưng kết quả thì thật là khiêm nhường. Có tiếng mà không có miếng. Việt Nam vẫn là quốc gia kém mở mang hơn hết trong khu vực.
Theo tôi, Việt Nam chỉ cần (chọn ngay) một vài đối tác lớn, và thân thiện, như Mỹ và Châu Âu, tất cả những hiệp ước FTA khác sẽ trở thành thừa thãi. Về quốc phòng cũng sẽ như vậy. Việt Nam muốn "chơi" với tất cả, vì vậy Việt Nam sẽ không thân thiết được với ai. Về quan hệ với Ấn Độ, tôi đánh giá cao quan hệ Việt Nam và Ấn Độ.
Một học giả Pháp thập niên 90 có xuất bản một tập sách về địa chính trị khu vực Đông Nam Á. Tác giả cho rằng sẽ tốt cho Việt Nam nếu Việt Nam đi với Ấn Độ (thay vì Trung Quốc), sau khi Liên Xô sụp đổ. Rốt cục Việt Nam chọn "giải pháp tình thế" cứu nguy cho Đảng, quyết định ngả về Trung Quốc. Hôm nay nhìn lại ta mới thấy rằng Việt Nam đã không tồi tệ như hiện nay, nếu dàn lãnh đạo Việt Nam đi Ấn Độ, thay vì đi tới Trung Quốc để ký hiệp ước Thành Đô 1991.
Việt Nam ngả theo Trung Quốc là một "giải pháp tình thế", có giá trị giai đoạn. Vấn đề là Việt Nam lấy một giải pháp "tình thế" để làm phương án lâu dài. Rốt cục càng ngày Việt Nam càng lệ thuộc sâu xa vào Trung Quốc, về mọi phương diện. Chính sách ngoại giao cây tre hay chủ trương bốn không của quốc phòng là hệ quả của sự lựa chọn mang tính "tình thế". Một chính sách quốc gia được hoạch định (lâu dài) chỉ có mục đích duy nhất là phụng sự cho lợi ích của quốc gia. Ta thấy mọi chính sách (ngoại giao, quốc phòng) của Việt Nam chỉ có Trung Quốc là phía có lợi nhất.
Vì vậy, có thể đúng sai còn luận bàn, nhưng tôi chưa thấy giá trị thực tế về "niềm tin chiến lược" của Việt Nam đối với các đối tác, ít ra trong giai đoạn này, qua các chuyện bộ trưởng quốc phòng Việt Nam thăm Ấn độ, Việt Nam đón thủ tướng Úc, hàng không mẫu hạm Ronald Reagan cập bến Đà Nẵng hay tổng thống Nam Hàn thăm viếng Việt Nam v.v…
Bị quốc tế đưa vào danh ‘sách xám’, chuyện không hề ‘vui’
RFA : Nhân ông vừa nhắc tới bang giao Việt – Hàn, một mở ngoặc, với chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc, việc Việt Nam cho hay sẽ tham gia thúc đẩy quá trình 'phi hạt nhân hóa' bán đảo Triều Tiên, có thể có quan hệ thế nào với động thái từ quốc tế mới đây, mà theo đó Việt Nam bị liệt vào ‘danh sách xám’ các nước bị coi là ‘rửa tiền, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt’, mà theo một thông cáo ngày 23/06/2023 của FATF, tổ chức lập danh sách này, ngoài thêm một nước ở Châu Phi, thêm một nước khác ở Châu Âu, Việt Nam vừa bị đưa vào danh sách đã có sẵn 23 nước trước đó ?
Trương Nhân Tuấn : Theo tôi chuyến công du Việt Nam của tổng thống Nam Hàn và phu nhân có mục đích kinh tế hơn là quốc phòng. Nam Hàn cần Việt Nam nhiều thứ, như về nhân công lao động và nguồn cung cấp đất hiếm. Việt Nam cũng là "khách hàng" tiềm năng của Nam Hàn, với 100 triệu dân, Việt Nam sẽ là thị trường lớn về xe cộ, đóng tàu, các mặt hàng điện tử… Ngoài ra Việt Nam còn là khách hàng đặc biệt của Nam Hàn, sau khi nguồn từ Nga bị nghẽn, về các loại vũ khí cũng như các trang bị thông minh dành cho quốc phòng.
Về vai trò của Việt Nam trong quá trình thúc đẩy "phi hạt nhân hóa" bán đảo Triều Tiên. Tôi thấy là Việt Nam không đủ uy tín và khả năng để thực hiện chuyện này (mà trong quá khứ sáu bên Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật, Nam và Bắc Hàn đã bỏ nhiều thập niên mà không thực hiện được).
Về chuyện Việt Nam bị xếp vào "danh sách xám" các quốc gia rửa tiền và "tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt", tức là Việt Nam (có thể bị cho là) ngày càng tiến gần tới bản chất một quốc gia "mafia", hay "quốc gia côn đồ" là một chuyện không vui cho mọi công dân Việt Nam. Chuyện này tôi có vài lời giải thích như sau.
Theo tôi, đứng trên quan điểm "quốc tế thượng tôn pháp luật - international rule of law", Việt Nam vẫn là một quốc gia thường xuyên vi phạm những kết ước quốc tế. Điển hình về các công ước thuộc LHQ liên quan đến nhân quyền. Việt Nam thiếu uy tín trên trường quốc tế.
Mô hình tổ chức quốc gia của Việt Nam hiện thời là mô hình tạm bợ. "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là giải pháp tạm bợ đưa ra đầu thập niên 90 nhằm cứu Đảng trong nhất thời, trong hoàn cảnh thế giới xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Bởi vì "kinh tế thị trường" thì không ai có thể "định hướng" được hết cả.
Khái niệm về "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" cũng là giải pháp tạm bợ, là phương tiện để Việt Nam hội nhập cộng đồng quốc tế với tư cách nhà nước được xây dựng trên hệ thống luật lệ. Tạm chấp nhận "Nhà nước pháp quyền" mang nội hàm của "Etat de Droit", thì "Etat de Droit" chỉ có thể xây dựng trên một xã hội dân sự, dân chủ tự do (chớ không thể xây dựng trên nền tảng xã hội chủ nghĩa).
Việt Nam vì vậy không phải là một quốc gia "trọng luật". Hệ quả, phía quốc nội, tài phiệt đỏ Việt Nam khá giống các "oligarques" (tài phiệt) của Nga. Lợi dụng các kẽ hở trong pháp luật họ chiếm đoạt tài sản của đất nước, của nhân dân. Các vụ án tham nhũng gần đây cho ta thấy điều này. Đối ngoại, họ lợi dụng quyền lực, lợi dụng uy tín và danh nghĩa quốc gia để làm chuyện phạm pháp như rửa tiền hay tài trợ các tổ chức quốc tế chuyên buôn bán vũ khí lậu…
Các giải pháp tạm bợ đã giúp Đảng cộng sản Việt Nam giữ được quyền hành nhưng câu hỏi đất nước Việt Nam sau này sẽ ra sao là một điều vô cùng nhức nhối.
Bang giao với QUAD ‘âm thầm’, tiếp tục ‘ngoại giao cây tre’ với Trung Quốc ?
RFA : Cũng có ý kiến cho rằng trong quan hệ với khối QUAD và trong các hoạt động bang giao (ngoại giao, an ninh, quốc phòng). rất gần đây đã diễn ra, Việt Nam tỏ ra 'khá âm thầm' trên báo chí, truyền thông Nhà nước, ông có nghĩ như vậy không ? Hay thực sự chính quyền Việt Nam đang có một cách làm riêng đặc biệt nào đó ?
Trương Nhân Tuấn : Thái độ "ẩn mình" của Việt Nam hiện thời cho thấy Việt Nam đang đối diện với nhiều khó khăn nội tại. Ảnh hưởng chiến tranh Ukraine khiến kinh tế Việt Nam ảm đạm. Nước Nga bị cô lập trên trường quốc tế. Nước Nga lại bị sa lầy trong chiến cuộc khiến nguồn cung cấp vũ khí cho Việt Nam bị gián đoạn. Có tiếng nói gần đây cho rằng không phải Đài Loan, mà Việt Nam mới là Ukraine ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Sự "im lặng" thận trọng của Việt Nam khá hợp lý vì lãnh đạo cộng sản Việt Nam lo ngại Việt Nam trở thành Ukraine Châu Á.
Trung Quốc thì có đủ lý do. Nếu Nga nại các lý do "quốc gia và dân tộc Ukraine không hiện hữu theo lịch sử", sau đó "nhìn nhận hai cộng hòa Donetsk và Lugansk độc lập", cuối cùng nại quyền "tự vệ tập thể chính đáng" để đổ quân vào đánh Ukraine, thì Trung Quốc có thể có nhiều lý do hơn Nga để làm chuyện tương tự với Việt Nam.
Hiệp ước Pháp-Thanh 1885 (còn gọi là Hiệp ước Thiên tân) có nội dung nhà Thanh "nhượng" Việt Nam lại cho Pháp. Tức là Pháp nhìn nhận Việt Nam trước kia "thuộc" Trung Hoa. Hiệp định Genève 1954 mặc nhiên xác nhận Việt Nam "chưa bao giờ là quốc gia" độc lập có chủ quyền.
Vùng đất miền Nam là đất mới. Qua vụ ‘lùm xùm’ ở Tây Nguyên, ta thấy rằng đã có lần lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhìn nhận "quyền tự trị" của các dân tộc Thượng. Do đó, Trung Quốc có dư thừa lý do biến Việt Nam thành một Ukraine thứ hai. Ukraine có Mỹ và cả khối Châu Âu "chống lưng". Việt Nam hiện không có ai cả.
Ngay cả khi quan hệ Việt Nam và Trung Quốc luôn tốt đẹp. Nhưng khi Việt Nam suy yếu, không còn khả năng tự vệ thì Trung Quốc sẵn sàng dùng vũ lực đối với Việt Nam để giải quyết các tranh chấp tồn đọng lãnh thổ, biển, đảo… do lịch sử để lại. Vì vậy trong thời gian sắp tới ta sẽ thấy Việt Nam càng thận trọng hơn trong các quan hệ quốc tế, nhứt là các quan hệ có thể làm phật lòng Trung Quốc.
RFA : Ông có bình luận gì thêm về chuyến thăm của tàu Mỹ (USS R. Reagan) tới Việt Nam lần này, vẫn là ngoại giao pháo hạm bình thường, gửi thông điệp cho Trung Quốc v.v., hay có điều gì khác thêm đáng lưu ý ?
Trương Nhân Tuấn : Tôi cho rằng trên quan điểm địa chiến lược, Mỹ và Trung Quốc là hai siêu cường đang cạnh tranh. Một cường quốc Trung quốc đang trên đà phục hưng thế lực của đế quốc Trung Quốc ngày xưa. Hai là nước Mỹ siêu đại cường đã khẳng định từ sau Thế chiến thứ II, nay đang trên đường suy yếu. Cần và đủ, điều kiện để cái "bẫy Thucydide" thành hình.
Trên quan điểm lịch sử, Việt Nam và Mỹ là hai nước cựu thù. Hai bên tái lập lại quan hệ ngoại giao từ 1995. Do đối kháng ý thức hệ chính trị cũng như không chia sẻ các giá trị về nhân quyền, Việt Nam và Mỹ vẫn chưa xây dựng được "niềm tin chiến lược" để quan hệ hai bên có thể nâng lên mức cao hơn. Trong khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn thân thiết, ngay cả khi có giai đoạn hai bên xâu xé nhau. Việt Nam luôn lựa chọn dựa vào một đại cường có chế độ chính trị và mô hình phát triển quốc gia tương đồng.
Ông Phạm Minh Chính công du Trung Quốc từ ngày 25 đến 28 tháng 6/2023, theo lời mời của đồng nhiệm Trung Quốc tân Thủ tướng Lý Cường. Ta thấy lịch trình chuyến đi Trung Quốc của ông Chính lại trùng hợp với lịch trình cập bến Đà nẵng của hàng không mẫu hạm Mỹ Ronald Reagan. Theo tôi đây không phải là sự "trùng hợp ngẫu nhiên", mà là hệ quả của chính sách "ngoại giao cây tre", mà thực tế là chuyện "đưa người cửa trước, rước người cửa sau". Việt Nam buộc phải làm hài lòng Trung Quốc, cho lãnh đạo Trung Quốc thấy bên nào trọng bên nào khinh.
Nhưng nếu Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền thì chuyện chiếc Hàng không mẫu hạm Ronald Reagan cập bến Đà nẵng là chuyện nội bộ của Việt Nam, không cần Thủ tướng Chính phải qua chầu bên Trung Quốc.
RFA : Ông có dự đoán gì về kết quả chính của chuyến thăm Trung Quốc và dự diễn đàn kinh tế thế giới WEF của Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính ?
Trương Nhân Tuấn : Tôi không rành lắm về Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) do đó tôi không lạm bàn, nhưng theo tôi mục đích chuyến đi của ông Phạm Minh Chính ngoài thăm chính thức, rồi tham dự "Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam-Trung Quốc", tham dự WEF, thì một mục tiêu là "cân bằng", muốn cho Trung Quốc thấy rõ bên nào trọng bên nào khinh với Việt Nam qua chuyện chiếc hàng không mẫu hạm Ronald Reagan cập bến Đà Nẵng.
_______________________
Trên đây là cuộc trao đổi trên quan điểm riêng của ông Trương Nhân Tuấn, nhà quan sát, phân tích thời sự, chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế, an ninh khu vực, Biển Đông, với Đài Á Châu Tự Do. Mời quý vị theo dõi phần tiếp theo cuộc trao đổi này, theo đó nhà quan sát từ Marseille, CH Pháp chia sẻ thêm góc nhìn cá nhân của ông về một số chuyển động trong thời sự và bối cảnh an ninh, chính trị quốc tế ở khu vực mà có thể Việt Nam cần quan tâm, tham khảo cho các chính sách bang giao, hợp tác quốc tế, khu vực của mình hiện nay. Mời quý vị đón theo dõi.