Hoàng Sa : Không bao giờ quên
Ngô Nhân Dụng, VOA, 15/01/2024
Các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước. Mỗi năm đến ngày 19 tháng 1, người dân Việt sẽ ghi nhớ mãi mãi.
Các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước. Mỗi năm đến ngày 19 tháng 1, người dân Việt sẽ ghi nhớ mãi mãi.
Ngày 19 tháng Giêng là ngày giỗ 75 chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình bảo vệ Hoàng Sa chống cuộc tấn công của Hải quân Trung Quốc. Trong đó có Thiếu tá Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ trên hộ tống hạm HQ-10. Sau khoảng 15 phút giao chiến, HQ-10 bị hư khẩu pháo chính 76 li trước mũi tàu ; tàu bị bắn xối xả, bốc cháy tại chỗ. Đại úy Hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng vẫn cố điều khiển HQ-10 húc vào tàu đối phương, cho thủy thủ ngảy xuống biển trước khi ông qua đời.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã nhiều lần chạm súng trong hải phận Hoàng Sa. Sau đó, vì chiến trường trên đất liền đòi hỏi, thủy quân lục chiến Việt Nam đóng tại Hoàng Sa được đưa về, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn giữ trên nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Lưỡi Liềm).
Sau này mới biết chính Mao Trạch Đông ra lệnh Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình mở tấn công.
Ngày 16/01/1974, một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thăm dò một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa để chuẩn bị thiết lập một phi trường trên đảo Lưỡi Liềm, đến nơi mới thấy đã bị quân Trung Quốc chiếm cứ.
Ngày 17/1, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) chở theo một toán người nhái và một đội hải kích đổ bộ lên ba hòn đảo, nhổ cờ Trung Quốc, dựng cờ Việt Nam Cộng Hòa. Đó là các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh thuộc Nhóm Lưỡi Liềm, nằm về phía tây quần đảo, gần đất liền Việt Nam.
Báo Giáo Dục Việt Nam, trong một bài báo nói về một bài báo trên Tân Hoa Xã, thuật lại, đêm hôm đó Chu Ân Lai biết tin, cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị trả đũa. Mao Trạch Đông phê : "Đồng ý !" và nói : "Không thể không đánh". Mao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy. Đặng Tiểu Bình mới được phục chức sau 7 năm bị đày đi "cải tạo", được Diệp Kiếm Anh ở tỉnh Quảng Đông bảo vệ.
Chu Ân Lai họp Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc và lập ra một ban chuyên trách năm nhân vật quan trọng gồm Diệp Kiếm Anh làm chủ nhiệm, với Đặng Tiểu Bình, Trần Tích Liên và Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều (hai người thân tín của Giang Thanh, vợ Mao), quyết định tấn công hạm đội Việt Nam Cộng Hòa.
Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã được của Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn cho biết radar Đệ thất Hạm đội thấy một số tàu chiến Trung Quốc từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa. Phó Đô đốc Hải quân Hồ Văn Kỳ Thoại phải quyết định rút lui khi biết 17 chiến hạm của Trung Quốc trong đó có 4 tàu ngầm đang hướng tới vùng này, và có thể phi cơ phản lực từ đảo Hải Nam sẽ bay tới. Việt Nam Cộng Hòa chỉ có phi cơ khu trục F-5 thuộc Sư đoàn 1 Không quân, không đủ sức tiếp viện vì không thể tiếp tế xăng trên trời. Sau này, Đại tá chỉ huy Hà Văn Ngạc kể rằng Trung Quốc có tới 11 tàu chiến, bao gồm cả những tàu Osa mang tên lửa chống chiến hạm.
Theo Hải Chiến Hoàng Sa của Bão biển Đệ Nhị Hải Sư, tác giả xuất bản, Australia, 1989, trang 101, được Wikipedia dẫn lại, Hải quân Việt Nam yêu cầu Hạm đội 7 trợ giúp, nhưng bị từ chối. Năm 1970, Đô đốc Tham mưu trưởng Hải quân Elmo Zumwalt tuyên bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược phát triển các hải đảo của Đệ thất Hạm đội. Sau đó, họ còn từ chối không cứu các thủy thủ tàu HQ-10 lênh đênh trên biển. Ngày 27/2 qua trung gian của Hồng Thập Tự quốc tế, tại Hồng Kông, Trung Quốc trao trả 48 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa bị bắt.
Trong thời gian đó, báo chí Hà Nội không loan một tin tức gì về vụ Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Cộng sản Việt Nam há miệng mắc quai vì một bức thư Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai từ năm 1958. Năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhắc lại rằng báo Nhân Dân ở Hà Nội in toàn văn tuyên bố về hải phận của Trung Quốc ở trang đầu, ngày 6 tháng 9 năm 1958, trong đó có đoạn nói về Nam Sa và Tây Sa thuộc Trung Quốc, mà không viết một lời phản đối hoặc cải chính nào cả. Đó chính là các quần đảo người Việt đặt tên là Trường Sa và Hoàng Sa. Họ công bố cả bức công hàm của Phạm Văn Đồng tuyên bố ủng hộ quan điểm của Chu Ân Lai ; cùng với một bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam [Dân chủ Cộng hòa] xuất bản tháng 5/1972 trong đó ghi nhận các quần Tây Sa và Nam Sa (tên gọi của Bắc Kinh).
Đài BBC ngày 20/1/2014 cho biết Trung Quốc còn tiết lộ trong một cuộc gặp gỡ ngày 6/9/1958, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Ung Văn Khiêm, đã nói với Đại diện Trung Quốc Lý Chí Dân rằng : "Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc". Họ cũng viện chứng cớ là các bản đồ thế giới của Bắc Việt in năm 1960 và 1972 đều công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với hai quần đảo.
CuốnSecurity Flashpoints : Oil, Islands, Sea Access and Military Confrontation, do Jianming Shen và hai tác giả khác biên tập một cuộc hội thảo ở New York năm 1997, Martinus Nijhoff Publishers xuất bản năm 1998, trang 142 cho biết vào năm 1965, Hà Nội lên án vị tổng thống Mỹ, cũng viết rằng : "Tổng thống Lyndon Johnson đã chỉ định... một phần lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa làm ‘vùng chiến sự’ của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ". Ngôn ngữ này hoàn toàn theo cách gọi tên của Bắc Kinh. Năm 1974, họ in một sách giáo khoa môn địa lý lớp 9 phổ thông của Nhà xuất bản Giáo dục tại Hà Nội. Trong sách, bài về địa lý Trung Quốc viết một câu : "Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa, đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức ‘trường thành’ bảo vệ lục địa Trung quốc".
Với những lý do trên, chế độ cộng sản Việt Nam phải ngậm miệng khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Nhiều thế hệ ông bà chúng ta đã khai phá các hòn đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa cho con cháu thừa hưởng. Rất nhiều chứng tích lịch sử đã ghi nhận công ơn tổ tiên.
CuốnSách Trắng về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa, in năm 1975 ghi nhận các sự kiện sau đây :
Từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn đã cử các hải đội ra khảo sát, khai thác hải sản Năm 1816, vua Gia Long sai quân ra cắm cờ trên quần đảo Hoàng Sa. Thời Minh Mạng đã có bản đồ vẽ dải Vạn Lý ở Trường Sa. Trong thời thuộc địa, năm 1933, Pháp tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và đưa quân ra đóng. Năm 1950 Pháp chính thức chuyển giao Hoàng Sa cho chính phủ Bảo Đại. Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố cả hai quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam, 51 nước tham dự hội nghị đều chấp thuận. Đại biểu Liên xô đề nghị trao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, nhưng bị bác bỏ với 46 phiếu chống,
Tạp chí Quốc Phòng Toàn Dân, Hà Nội, ngày 25/7/2012 loan tin Viện Bảo Tàng Lịch Sử ở Hà Nội đã được tặng một bản đồ do Nhà Thanh, Trung Quốc, được vẽ từ đời vua Khang Hy và xuất bản năm 1904, ở Thượng Hải. Khuôn khổ tấm "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" này đến đảo Hải Nam thì chấm dứt, chứng tỏ họ không ghi nhận các quần đảo trong Biển Đông nước ta. Người tặng tấm bản đồ là Tiến sĩ Mai Ngọc Hồng, nguyên Trưởng phòng Tư liệu thư viện - Viện Hán Nôm.
Các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu bảo vệ chủ quyền đất nước. Mỗi năm đến ngày 19 tháng 1, người dân Việt sẽ ghi nhớ mãi mãi.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 15/01/2024
************************
50 năm Hải chiến Hoàng Sa : Ai sẽ cùng hẹn ‘Năm sau đến Hoàng Sa’ ?
Tuấn Khanh, BBC, 15/01/2024
Kỷ niệm 50 năm Hải chiến Hoàng Sa nên là một dịp để người Việt lại cùng nhau cất lên tiếng nói vì chủ quyền, như đã từng cất lên trong quá khứ chưa xa. Bài viết của nhạc sĩ Tuấn Khanh gửi cho BBC News tiếng Việt.
Các nhà hoạt động hô vang khẩu hiệu chống Trung Quốc trong một cuộc biểu tình ở Hà Nội vào ngày 14 tháng 3 năm 2016
Cái tên Hoàng Sa được nhắc nhiều nhất có lẽ là vào năm 2014. Lúc đó, giàn khoan Hải Dương-981 được Bắc Kinh kéo tới, đặt trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cuộc thăm dò này được bảo vệ đến hơn 100 tàu đủ loại của Trung Quốc, biến tâm lý chống Trung Quốc ở cả Việt Nam bùng nổ, mọi người xuống đường, báo chí tố cáo, và những cuộc biểu tình trên đường phố Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Hà Nội… không nhiều công an, an ninh kiểm soát như thường ngày.
Sau những giờ phút sôi động ấy, điều nhìn thấy – lần duy nhất sau 1979 – là hình ảnh của một quốc gia như đang cùng chung một ý nguyện chống ngoại xâm, và hơn thế nữa, là muốn bứt ra khỏi vòng tay ghì siết của cái gọi là tình đồng chí của Bắc Kinh.
Dòng người biểu tình chống Trung Quốc tập trung trước Nhà hát Lớn Hồ Chí Minh ngày 11/05/2014 để thể hiện lòng yêu nước và phẫn nộ trước việc Trung Quốc cho dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam
Liên tục trong hơn một tháng đặt giàn khoan, gây hấn, đâm đụng tàu Việt Nam, vu cáo ngược trên truyền thông, Trung Quốc trở thành câu chuyện phản ứng trải dài khắp nước. Từ bạo động ở Bình Dương lan sang nhiều tỉnh, tận Hà Tĩnh.
Thậm chí, ở Sài Gòn còn có tin một vụ tự thiêu của của bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, trước Dinh Độc Lập ở Sài Gòn vào ngày 23/5, mà theo hồ sơ của công an thì bà là một Phật tử thuần thành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, đã để lại 6 tấm biểu ngữ chống Trung Quốc.
Đến tháng 6/2014, ông Hoàng Thu, 71 tuổi, cựu binh Việt Nam Cộng Hòa, cũng tự thiêu tại bang Florida, Mỹ, để lại mảnh giấy ghi "Hai Yang 981 phải rời khỏi Việt Nam hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử".
Các đường chính dẫn đến tòa lãnh sự Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh đều bị chặn
Nhiều người bình luận, rằng chuỗi phản ứng chống Trung Quốc trên cả nước lúc đó, là một kế hoạch của những người lãnh đạo Việt Nam cho nên mới có sự bùng phát lịch sử như vậy.
Có người còn nói, đó là cách giới thiệu lòng dân với những người trong hệ thống chính trị đang có khuynh hướng thân Trung Quốc. Điều đó có thể là sự thật vì cuộc biểu tình chỉ được thả lỏng từ ngày 11 cho đến ngày 18/5. Sau đó, những vụ trấn áp đã xuất hiện, nhiều người bị bắt, nhiều cuộc khởi động biểu tình cũng bị dập tắt.
Nhưng dù là thế nào đi nữa, những ngày ngắn ngủi đó thật cần thiết để hàng triệu người Việt Nam vô danh trên đất nước nhìn thấy nhau, nhìn thấy một nguyên khí quốc gia hừng hực chỉ lắng xuống, đợi thời điểm bùng lên trong một bối cảnh mà tình hữu nghị đỏ rực giữa hai đảng cộng sản Việt-Trung, chưa bao giờ hoàn toàn là ý đảng hợp lòng dân.
Những người từng tham gia biểu tình vẫn tiếc rằng những thời điểm sôi động đó bị chấm dứt quá sớm. Nhưng trên thực tế, bàn cờ Việt Nam-Trung Quốc đã vô cùng căng thẳng vào lúc đó.
Tin tức những cuộc bạo động tấn công vào các công ty xí nghiệp của người Trung Quốc đã khiến xuất hiện thành phần cực hữu của Trung Quốc lên giọng đòi một cuộc chiến tranh. Và sau các sự kiện như ở Bình Dương, Vũng Áng, nếu không kiềm chế được mọi thứ, sẽ là dấu hiệu của một cuộc loạn lạc lớn.
Cả Trung Quốc và Việt Nam cũng đều kiểm duyệt những tin tức nóng và gây sốc về tình hình chung. Còn tình hình trên biển thì tàu của Trung Quốc và Việt Nam cũng đã liên tục đâm nhau đến vài trăm lần.
Một nhà máy tại Bình Dương bị thiệt hại trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc
Nhắc lại sự kiện này, để nhớ, một khi ngoại xâm đến cửa, không chỉ người Việt mà hệ thống chính trị nào cũng có một thái độ dứt khoát về Tổ quốc, Dân tộc. Sau vụ giàn khoan Hải Dương-981, tháng 5/2014, mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc lạnh đi thấy rõ trong nhiều năm, thậm chí là đối xử với nhau nhiều thứ rất gay gắt.
Điều đặc biệt của cuộc biểu tình năm 2014 và câu chuyện Hoàng Sa là người ta nhìn thấy một nước Việt Nam tất cả đều đứng về một phía : Một tấm lòng, một ý nghĩa về Tổ quốc và Dân tộc.
Hình ảnh Việt Nam lúc đó còn cho thấy rằng có thể sức mạnh của Việt Nam chưa đủ để đối đầu với Trung Quốc, nhưng nhân dân luôn đứng sau lưng những người cầm quyền, khi họ chọn một thế đứng với lẽ phải, với đất nước và không bao giờ chịu khuất phục. Lịch sử Việt ngàn năm thời Lê - Lý - Trần như tái hiện trong khoảnh khắc.
Khói và lửa bốc lên từ cửa sổ nhà máy ở Bình Dương vào ngày 14/05/2014, khi những người biểu tình chống Trung Quốc đốt cháy hơn chục nhà máy ở Việt Nam, trong một phản ứng dữ dội với việc Bắc Kinh triển khai giàn khoan Hải Dương vào vùng biển Biệt Nam
Không chịu khuất phục : Đó cũng là hình ảnh của cuộc Hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vẫn chủ động trong một cuộc chiến tranh không cân sức, thà chết chứ không đầu hàng, không buông tay cho kẻ thù lấn chiếm đất đai của tổ tiên. Và có như vậy thì Hoàng Sa mới trở thành một câu chuyện lịch sử về kẻ cướp và người chống kẻ cướp.
Tất cả những dữ kiện lịch sử đó được ghi lại bằng máu và mãi mãi không bao giờ phai mờ, bất chấp Trung Quốc đã đổ không biết bao nhiêu tiền của để mồm loa mép giải nói đó là đảo của họ.
Có người nhắc rằng kỷ niệm 50 năm cuộc chiến Hoàng Sa, nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế thì chúng ta sẽ mất mãi mãi. Vấn đề pháp lý cũng quan trọng, nhưng ý nguyện của một quốc gia thống nhất mới là quan trọng hơn cả. Tây Tạng không đưa Trung Quốc ra tòa án quốc tế, nhưng thế giới vẫn nói đó là một cuộc đánh chiếm.
Ngay cả lúc này khi tìm dữ liệu trên các trang mạng, tin tức vẫn còn nói rõ rằng Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ chính thể Việt Nam Cộng Hòa - mà Việt Nam Cộng Hòa là một bộ phận của Việt Nam có khác biệt chính trị, chứ không phải là một quân thù nào như những ngôn ngữ tuyên truyền vẫn còn nói đến tận bây giờ.
50 năm của Hoàng Sa là lúc để nhìn lại điều đau xót, là một phần đất nước đã rơi vào tay kẻ cướp. Có chiến thắng pháp lý cũng chưa chắc chúng ta đã có lại được đất đai xưa, và ngay cả có chiến tranh cũng chưa chắc đó là một cuộc chiến dứt khoát để giành lại hoàn toàn.
Vậy thì điều cuối cùng mà người Việt có thể tìm thấy - như là một vận hội, một cơ may - là cả dân tộc và những người cầm quyền đều cùng đứng về một phía, đoàn kết, buông bỏ những ngôn từ gươm giáo chống lại anh em của mình. Đất nước thực sự thống nhất để nhìn về một tương lai độc lập mà không hề chung vận mệnh với kẻ cướp.
Năm 2014 nhắc vào lúc cao trào của tình dân tộc, tất cả mọi tôn giáo đều lên tiếng, bất luận đó có bị coi là hoạt động tín ngưỡng bất hợp pháp đi nữa. Không chỉ trong nước, mà cả hải ngoại, hơn 3 triệu người Việt sống xa quê hương cũng sôi sục vì vận mệnh Tổ quốc, trong đó có không ít những tổ chức chính trị bất đồng với nhà nước.
Nhiều cuộc biểu tình phản đối trước các đại sứ quán của Trung Quốc tại nhiều nước đã diễn ra, người ta nhìn thấy cờ đỏ sao vàng đứng cùng cờ vàng ba sọc đỏ : Trong nguy nan, người Việt chỉ nhìn thấy nhau bằng quê hương.
Trên facebook, đều đặn mỗi năm, tôi nhìn thấy một người quen ở Hà Nội vẫn để dòng trạng thái là "Năm sau đến Hoàng Sa". Lời nhắc thầm lặng chỉ vài chục năm nay, nhưng mang sức nặng của cả dân tộc Do Thái ngàn năm khi mơ được trở lại cố hương.
"Sang năm đến Hoàng Sa" là một lời hẹn lòng, là một lời cam kết thầm lặng của những người Việt yêu nước. Đó còn là một kim chỉ nam bằng máu, có giá của biết bao nhiêu người yêu nước đang phải chịu tù đày vì chống Trung Quốc, rằng nếu cùng chung một lời cam kết với nhân dân thì sẽ có tất cả, hoặc mất tất cả.
Tuấn Khanh
Nguồn : BBC, 15/01/2024