Đối với một quốc gia vốn thường ưa ngoại giao kín đáo để tránh xung đột không cần thiết với nước láng giềng lớn ở phía Bắc, Việt Nam tháng này rất công khai tham gia vào một chuỗi các hoạt động nhằm tăng cường khả năng chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Tháng 3 đã có một số chỉ dấu trong việc chuyển đổi chiến lược quốc phòng của Việt Nam nhằm giải quyết mối lo ngại ngày càng gia tăng đối với việc mở rộng quân sự và sự hung hăng của Trung Quốc trong khu vực.
USS Carl Vinson tại Đà Nẵng. Ảnh : Petty Officer 3rd Class Devin Monroe
Ngày 2 tháng 3, Chủ tịch nước Trần Đại Quang thăm Ấn Độ gặp Thủ tướng Narendra Modi. Vào ngày 3 tháng 3 trong một tuyên bố chung, hai nhà lãnh đạo cam kết tiếp tục hợp tác quốc phòng của họ bao gồm các cuộc đối thoại cấp cao, mua sắm vũ khí, các tàu hải quân và tàu tuần duyên ghé thăm cảng biển, và các dự án xây dựng năng lực. Ông Quang và ông Modi cũng khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì tự do hàng hải và trên không tại Biển Đông cũng như giải quyết hòa bình và hợp pháp các tranh chấp.
Tuy nhiên, nổi bật nhất là quyết định của Hà Nội trong việc đưa ra thêm một bước và xác nhận nhu cầu Ấn Độ và Việt Nam hợp tác để bảo đảm "một khu vực Ấn Độ Dương hòa bình và thịnh vượng" - đây dường như là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo Việt Nam thực hiện điều đó. Chắc chắn, ông Quang đã chuyển sang tin tưởng các lợi ích chiến lược địa lý của Ấn Độ, với lập trường thẳng thắn của New Delhi trong những năm qua về Biển Đông. Tuy nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ này của ông Quang - hoặc sự thay đổi đối với "Ấn Độ - Thái Bình Dương" mà ông đã sử dụng trong một bài phát biểu với một nhóm chuyên gia Ấn Độ vào ngày 4 tháng 3 - cho thấy Hà Nội sẵn sàng chấp nhận ý tưởng mạnh mẽ nhất của Hoa kỳ là các đối tác phải làm việc cùng nhau xuyên vùng để cân bằng và ngăn chặn các hoạt động của Bắc Kinh.
Sự công nhận của Việt Nam đối với Ấn Độ-Thái Bình Dương cho thấy Việt nam gần hơn với mục tiêu của "Đối thoại an ninh bộ tứ" - một quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc để giải quyết thách thức gia tăng của Trung Quốc. Điều đó là đáng kể nhưng không hoàn toàn đáng ngạc nhiên khi Việt Nam đang nhanh chóng tăng cường quan hệ quốc phòng song phương với tất cả các nước thành viên Bộ Tứ.
Ngày hôm sau, ngày 5 tháng 3, Hà Nội hoan nghênh Hàng không Mẫu hạm USS Carl Vinson đầu tiên của Hoa Kỳ đến Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc. Quyết định của Việt Nam trong việc đón Hàng không mẫu hạm là biểu tượng mang tính hình tượng nhất của sức mạnh Hoa kỳ là một tín hiệu rõ ràng trong việc ngăn chặn Trung Quốc. Như đã đề cập, cuộc thăm viếng đã tập trung chú ý vào mối quan hệ quốc phòng Hoa Kỳ-Việt Nam, vốn, đã được đưa ra từ tháng 5 năm 2016 khi Tổng thống Obama viếng thăm Hà Nội và bãi bỏ lệnh bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng Giêng để hoàn thành chi tiết về cuộc việc viếng thăm của hàng không mẫu hạm, Bộ trưởng quốc phòng James Mattis đã đề cập đến việc Việt Nam và Hoa kỳ là "các đối tác có cùng chí hướng", khi cho rằng mối quan hệ quốc phòng song phương đang tiến triển. Về phần mình, Bắc Kinh đã bác bỏ những hàm ý địa chính trị.
Từ ngày 6 đến 13 tháng 3, Việt Nam là một trong 16 quốc gia tham gia các cuộc tập trận hải quân chung diễn ra hai năm một lần. Được Ấn Độ hỗ trợ, cuộc tập trận năm 2018 diễn ra ở phía đông Ấn Độ Dương trong khu vực cảng Blair ở Quần đảo Andaman và Nicobar. Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên Việt Nam được công nhận tham gia vào cuộc tận trận Milan mặc dù có những điều xung đột về mức độ tham gia vào năm 2012 (Việt Nam đã đưa ra một tuyên bố từ chối tham gia vào năm 2012 và các đối tác của tôi nói với tôi rằng mặc dù có thể đã gửi một quan chức cao cấp hải quân đến đó vào năm 2012, Hà nội không bao giờ tham gia vào các cuộc tập trận thực tế).
Ngoài ra, cuộc tập trận Milan diễn ra trong khi một cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra ở Maldives. Bắc Kinh tài trợ tài chính cho Tổng thống đương nhiệm, Abdulla Yameen, và Ấn Độ quan ngại rằng sự thúc đẩy này có thể được hiểu là Yameen để cho Trung Quốc tiếp cận Maldives. Maldives có tầm quan trọng về địa lý chiến thuật vì cung cấp lợi thế chiếu ở giữa Ấn Độ Dương và dọc tuyến đường giữa Vịnh Aden đến eo biển Malacca. Như vậy, sự tham gia của Việt Nam vào cuộc tận trận Milan diễn ra trong bối cảnh căng thẳng hàng hải giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Ý tưởng cho rằng Việt Nam sẽ gia nhập Ấn Độ trong các cuộc tập trận hàng hải chung trong thời điểm đặc biệt nhạy cảm này ắt hẳn là một viên thuốc đắng cho Trung Quốc, nhưng thật thú vị, một số phản ứng từ Bắc Kinh lại tập trung vào sự tức giận của họ đối với Ấn Độ. Một bình luận xuất hiện trong tờ Hoàn Cầu Thời báo của nhà nước Trung Quốc ghi nhận rằng "Việt Nam là một bàn đạp cho lực lượng hải quân Ấn Độ mở rộng ảnh hưởng từ Ấn Độ Dương sang Tây Thái Bình Dương". Tác giả giải thích rằng New Delhi đang thực hiện điều này một phần nào bằng cách cho Việt Nam tham gia tập trận Milan. Mặc dù vậy, bằng cách tham gia Milan 2018, Hà Nội đã gửi một thông điệp rõ ràng tới Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ tăng cường quan hệ đối tác quân sự có thể được để duy trì hiện trạng ở Biển Đông, nếu Bắc Kinh tiếp tục thách thức Hà nội.
Cuối cùng từ ngày 12 đến 18, Thủ tướng chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phú thăm New Zealand và sau đó là Australia. Trong thời gian thăm New Zealand, ông Phúc và Thủ tướng Jacinda Ardern cam kết sẽ nâng cao mối quan hệ thành quan hệ chiến lược vào năm 2019. Trong khi ở Canberra, ông Phúc và Thủ tướng Malcolm Turnbull nâng quan hệ song phương thành quan hệ chiến lược, báo hiệu một sự kết hợp chung các mục tiêu chiến lược quốc gia.
Mặc dù đặc biệt không đề cập đến "Ấn Độ-Thái Bình Dương", bản tuyên bố chung của New Zealand và Úc đều nhấn mạnh những nguyên tắc tương tự được áp dụng bởi khái niệm này, bao gồm nhu cầu duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như tôn trọng pháp luật và các thủ tục ngoại giao để giải quyết tranh chấp. Chỉ điều này đã chứng minh cho Bắc Kinh thấy rằng Việt Nam có các đối tác sẵn sàng ủng hộ vị thế của Việt nam trong các diễn đàn khu vực. Nhưng bằng cách tăng cường quan hệ song phương với Australia và lên kế hoạch tương tự với New Zealand, Hà Nội sẽ được hưởng lợi từ việc trao đổi quốc phòng với các nước phương Tây để hỗ trợ chuyên nghiệp hóa lực lượng hải quân và lực lượng Cảnh sát biển.
Vậy chúng ta nên làm gì trong những sự phát triển mạnh mẽ này trong tháng 3 ? Hoàn toàn hợp lý khi đánh giá rằng tháng ba bận rộn của Việt Nam là nhằm mục đích cải thiện vị thế phòng thủ của họ khi bắt đầu mùa khai thác đầu vào tháng 5 ở Biển Đông. Giai đoạn này có xu hướng căng thẳng Trung Quốc - Việt Nam gia tăng vì ngư dân và cảnh sát biển hai bên tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Thêm vào đó, vào tháng 5 năm 2014, Bắc Kinh đơn phương đã đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển đang tranh chấp, kết quả là một cuộc đụng độ hàng hải kéo dài hàng tháng liên quan đến việc tàu tuần dương Trung Quốc đang tấn công tàu Việt Nam. Đây là một thảm họa cho Hà Nội, và có thể là một thời điểm chuyển đổi khiến Việt nam phải tăng cường ngoại giao quốc phòng với các đối tác có thể trợ giúp - thậm chí chỉ bằng lời nói - để làm cho Trung Quốc rút lui trong trường hợp có sự cố khác.
Và thêm nữa, chắc chắn cuộc bầu cử Rodrigo Duterte vào tháng 6 năm 2016 ở Philippines đã thúc đẩy Việt Nam cân nhắc lại cách tiếp cận của họ. Duterte đã tìm kiếm sự điều đình với Bắc Kinh bỏ qua các đặc điểm tranh chấp và đưa ra phán quyết của Tòa án Trọng tài được ban hành theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) có lợi cho Manila, để cho Việt Nam là nước duy nhất phản đối chủ quyền đối với Trung Quốc ở Biển Đông. Sự kết hợp của hai nhân tố này làm cho Hà Nội có thể tiếp tục củng cố vị trí trong khu vực thông qua ngoại giao quốc phòng.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần ghi nhận là nỗ lực chung của Hà Nội nhằm tăng cường quan hệ quốc phòng với các quốc gia có thể ủng hộ Việt nam trong vấn đề Biển Đông không nhất thiết phải hiểu là sự rủi ro lớn hơn trong khu vực. Chẳng hạn, Hà Nội, trước áp lực của Trung Quốc, một lần nữa lại quyết định hủy bỏ hoạt động khoan dầu của công ty năng lượng Repsol Tây Ban Nha trong vùng biển đang tranh chấp lần thứ hai trong một năm. Điều này cho thấy Hà Nội sẽ tiếp tục ưu tiên và duy trì các mối quan hệ với Bắc Kinh ở Biển Đông, ngay cả khi đồng thời cố gắng đạt được lợi thế bằng cách thu hút các đối tác khác để đối lại sự phát triển của Trung Quốc.
Phương Thảo dịch
Nguồn : VNTB, 26/03/2018