Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nghi vấn lịch sử về quan hệ giữa Chủ tịch Đảng cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh và "Lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn 

Bài 2 : Thầy trò hay đối thủ ?

Với những tài liệu được giải mật cho thấy Nguyễn Sơn đã được ông Hồ Chí Minh rất trọng dụng trong những năm đầu.

Lẽ tất nhiên là phải như thế.

nguyenson1

Chân dung Lưỡng quốc tướng quân Việt Nam-Trung Quốc Nguyễn Sơn/Hồng Thủy  - Ảnh : Wikipedia

Đảng cộng sản Việt trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, "ngàn cân treo sợi tóc" rất cần tài năng và kinh nghiệm của Nguyễn Sơn. Nguyễn Sơn đúng là người của tình thế. Nguyễn Sơn lại là tướng tin cẩn của Mao, đặc phái viên của Mao ở Việt Nam đúng lúc Mao, chỉ sau Stalin, là đại lãnh tụ mà người cộng sản Việt kính nể, sùng bái và tin tưởng nhất. Ngoài ra, kể từ khi Stalin giải tán tổ chức Đệ Tam Quốc Tế năm 1943 để tỏ thiện chí với Anh, Mỹ hy vọng 2 nước đồng minh tư bản này đáp ứng yêu cầu sớm mở thêm mặt trận ở Tây Âu đỡ đòn cho Liên Xô lúc ấy đang kẹt trong cuộc chiến sinh tử với Hitler thì Stalin đã giao hẳn cho Đảng cộng sản Tầu trách nhiệm trông coi giúp đỡ Đảng cộng sản Việt - theo đúng ý của Mao.

Nói một cách khác đi, trong phong trào cộng sản quốc tế tại Châu Á, Hồ Chí Minh là thuộc cấp của Mao, nhận chi viện từ Mao, chấp nhận sự lãnh đạo của Mao. Stalin đã hoàn toàn phủi tay. Hồ Chí Minh, muốn hay không muốn, không có lựa chọn nào khác.

Từ hiện tượng...

Tuy thế, qua thời gian, sự mâu thuẫn dẫn tới bất hòa giữa Ông Hồ và Nguyễn Sơn đã không tránh được và bộc lộ dần trong khi tình hình kháng chiến chống Pháp tiến triển khả quan. Và có thể chính vì tình hình kháng chiến khả quan mà lại dẫn tới mâu thuẫn bất hòa. Nghịch lý nhưng thật ra dễ hiểu.

1. Tháng 1/1948 để tăng uy thế cho Chính phủ Kháng chiến chống Pháp mà ông lãnh đạo, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm cho 11 cấp chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Việt Minh. Võ Nguyên Giáp được phong Đại Tướng. Nguyễn Bình được phong Trung tướng. 9 người được phong Thiếu tướng là : Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai, Lê Thiết Hùng, Trần Đại Nghĩa và Nguyễn Sơn. Quả thực việc phong quân hàm đã làm tăng uy thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của đại tướng Võ Nguyên Giáp, của trung tướng Nguyễn Bình, của tất cả các tướng được phong ngoại trừ Nguyễn Sơn.

Thực tế là giảm uy thế của Nguyễn Sơn.

Đối với một người sâu sắc, mưu lược như ông Hồ, sắp xếp phong tướng như vậy khó có thể là một việc làm không có chủ ý.

Ông Trần Độ kể về phản ứng bất bình của Nguyễn Sơn (nguyên văn) :

"Mọi người đến mừng thì ông đã vặc lại : "Chúc mừng cái đ. gì ! Tao "thừa tướng" chứ "thiếu" sao ?". Rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu 4 Nguyễn Sơn gửi "công văn hỏa tốc" cho Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh ở Việt Bắc thông báo từ chối không nhận quân hàm Thiếu tướng. Thay vì cách chức và ra lệnh xử bắn Nguyễn Sơn vì tội "khi quân", "phạm thượng", "bất tuân thượng lệnh", ông Hồ cân nhắc lợi hại, ông biết Nguyễn Sơn đến từ đâu, Nguyễn Sơn là người của ai, thế lực của Nguyễn Sơn ở Chiến Khu 4 mạnh yếu thế nào, ông chấp nhận tạm thời một bước lùi. Ông viết bài thơ 12 chữ Hán trên một tấm danh thiếp, đúng ra là thu ngắn một bài cổ thi đời Tùy-Đường, tặng Nguyễn Sơn, nghe như lời khuyên bảo ngọt ngào của người anh thân thiết :

Tặng Sơn đệ

Đảm dục đại

Tâm dục tế

Trí dục viên

Hành dục phương

Bản dịch là :

Tặng chú Sơn

Dũng cảm phải lớn

Tấm lòng phải tế nhị

Suy nghĩ phải trọn vẹn

Hành động phải chín chắn

("Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" - trang 310)

Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, nguyên bộ trưởng y tế, thứ trưởng Phủ Chủ tịch, đặc phái viên Chính phủ và đại diện cá nhân ông Hồ Chí Minh đã phải lặn lội từ Việt Bắc vào đến Thanh Hóa trao tấm danh thiếp lịch sử nói trên cho Nguyễn Sơn và chuyển lời phủ dụ của ông Hồ. Không ai biết rõ nội dung lời phủ dụ có gồm hứa hẹn nào không nhưng sau đó, ngày 9/10/1948, lễ thụ phong quân hàm Thiếu tướng của Nguyễn Sơn được tổ chức trọng thể tại Chiến Khu 4 có mặt Phạm Ngọc Thạch và một số nhân vật quan trọng từ Trung ương đến dự như Lê Đức Thọ, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Khánh Toàn... Cuộc "khủng hoảng quân hàm" kéo dài hơn nửa năm trời tạm kết thúc nhưng "bát nước đã đổ xuống đất…" và có thể đã đổ xuống đất từ trước đó rồi !

Khoảng hơn một năm sau, Nguyễn Sơn mất chức Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến khu 4 và được giữ lại ở Việt Bắc để chỉ làm công tác quân huấn, tức là làm tướng... không quân.

2. Cuối năm 1949 nội chiến Quốc-Cộng ở Tầu kết thúc. Đảng cộng sản Tầu toàn thắng, chiếm toàn cõi Hoa lục. Ở thời điểm này, Mao Trạch Đông nghiễm nhiên là chủ tịch quyền uy tột bực của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 600 triệu dân, 5 triệu quân, một Tần Thủy Hoàng mới ngự ở đế đô Bắc Kinh, Hồ Chí Minh vẫn còn là một lãnh tụ của vài chục ngàn du kích, chưa thực sự an toàn trong hang Pác Bó dù chỉ cách biên giới Việt-Trung có 3 cây số.

Tháng 1/1950 Hồ Chí Minh bí mật sang Tầu xin Mao Trạch Đông tích cực giúp đánh Pháp. Mao chấp thuận ngay một sự viện trợ ào ạt và gửi 2 đoàn cố vấn chính trị và quân sự đến Việt Nam bắt tay vào việc.

Trong một buổi làm việc với La Quý Ba, trưởng đoàn cố vấn chính trị, ông Hồ bầy tỏ ý kiến muốn xin gửi Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc với lý do để... tăng cường liên lạc giữa 2 đảng, 2 nước, 2 quân đội. La Quý Ba làm báo cáo về Trung ương Đảng cộng sản Tầu và yêu cầu của ông Hồ được chấp nhận. Tháng 9/1950 Nguyễn Sơn/Hồng Thủy trở lại Trung Quốc và được La Quý Ba tự thân đi tiễn tới tận biên giới.

nguyenson2

Ông Hồ Chí Minh với tướng Trần Canh, tại chiến dịch Biên giới năm 1950

Cũng trong bài viết "Tướng Nguyễn Sơn và tôi", ông Trần Độ (quân hàm đại tá từ 1948) kể (nguyên văn) :

"Cũng dịp này tôi được phái sang Trung Quốc chuẩn bị đưa quân sang huấn luyện. Ông Sơn được tổ chức ghép vào cùng đi với chúng tôi. Đến biên giới thì có xe GMC đón chúng tôi đi Nam Ninh. Cả đoàn phấn khởi vui sướng lắm. Yên vị trên xe, ông Nguyễn Sơn bảo :

- Thế là tao cùng đi với chúng mày.

Tôi đáp :

- Được đi cùng anh vui lắm.

Dọc đường tôi có hỏi :

- Tại sao anh đòi trở lại Trung Quốc như vậy ?

- Trung Quốc mới là Tổ quốc của tao.

- Thế về Trung Quốc anh định làm gì ?

- Tao có ý định lập một đoàn kinh kịch ! Tao sẽ làm trưởng đoàn dẫn quân đi diễn khắp các nước trên thế giới.

Tôi hỏi :

- Thế liệu anh có về Việt Nam diễn không ?

- Đi các nước thì đi, chứ không thèm về Việt Nam".

Ông Trần Độ là người đứng đắn và không có lý do để nói lời bịa đặt.

3. Hồng Thủy/Nguyễn Sơn đến thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc trùng phùng với các chiến hữu cũ trong Đảng cộng sản Tầu và được trọng dụng ngay mặc dù lúc này nội chiến Quốc-Cộng đã chấm dứt nên công tác thời hậu chiến trong quân đội cũng khác thời chiến tranh. Các chức vụ và trách nhiệm đều thuộc loại khá cao cấp ở nước Tầu, tương xứng với khả năng và kinh nghiệm : làm việc ở Bộ Liên lạc Trung ương (Ban Liên lạc đối ngoại), thụ huấn và công tác tại Học viện Quân sự, Phó cục trưởng Cục Điều lệnh thuộc Quân ủy Trung ương, Chủ Nhiệm kiêm Tổng biên tập Tạp chí Huấn luyện Chiến đấu của Tổng Cục huấn luyện thuộc Bộ Tổng tham mưu...

Tháng 5/1954 ở Việt Nam, quân viễn chinh Pháp, được Mỹ tận tình giúp, thảm bại trong tay quân đội Việt Minh được Trung Quốc tích cực yểm trợ, tại trận quyết chiến Điện Biên Phủ chấn động thế giới.

Tháng 7/1954, Hiệp định Geneve chia Việt Nam thành 2 nước : Việt Nam Cộng Hòa với lãnh tụ Ngô Đình Diệm và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Theo ngôn ngữ của người cộng sản Việt thì "Miền Bắc nước ta đã được hoàn toàn giải phóng".

Tháng 9/1955 ở bên Tầu, Hồng Thủy/Nguyễn Sơn được Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai trao quân hàm Thiếu tướng cấp sư đoàn và 3 huân chương hạng nhất trong một buổi lễ rất long trọng trao quân hàm cho 10 nguyên soái và mấy trăm tướng lãnh của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Danh hiệu "Lưỡng quốc Tướng quân" của Hồng Thủy/Nguyễn Sơn bắt đầu từ đây.

Sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương", trang 362-363 cho biết thêm rằng chính quyền Trung Quốc lúc đầu đã định phong Hồng Thủy/Nguyễn Sơn là Trung tướng trong quân đội cộng sản Tầu nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đạt yêu cầu Trung Quốc chỉ nên phong Thiếu tướng cho Hồng Thủy/Nguyễn Sơn với lý do khá lạ lùng là "quân hàm nên tương đồng với quân hàm của Quân đội nhân dân Việt Nam đã trao và cấp bậc nên giữ như biên chế tương đương mà xét thì tốt hơn".

Nguyễn Sơn được phong Thiếu tướng từ năm 1948, gần 8 năm sau ông Hồ vẫn muốn "Sơn đệ" tiếp tục là Thiếu tướng ! Ông không an tâm thấy một người Việt Nam quá rạng rỡ và được sủng ái trong Đảng cộng sản Tầu chăng ?

Mao Trạch Đông can thiệp "nửa vời" vào phút chót với cấp hữu quan : "Như vậy là không thích hợp. Đồng chí Hồng Thủy tham gia quân đội từ thời Hoàng Phố, có thể sửa lại cấp quân đoàn được không ?". Mao Chủ tịch hẳn đã đọc đầy đủ các giải bầy, báo cáo chi tiết của Hồ Chí Minh, của Hồng Thủy/Nguyễn Sơn và của La Quý Ba. Và lời nói của Mao là một mệnh lệnh.

Kết quả Hồng Thủy vẫn là Thiếu tướng nhưng Thiếu tướng cấp quân đoàn, không phải Thiếu tướng cấp sư đoàn.

4. Cũng trang 363 sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương", nhà cầm quyền Trung Quốc, vì nhu cầu tuyên giáo "hậu Thành Đô", đã "giải mật" bản nhận xét để phong quân hàm cho Hồng Thủy có đoạn như sau :

"Sau khi Đại Cách Mạng thất bại, nhập Đảng trong thời kỳ khủng bố trắng, đối với Đảng, với nhân dân trung thành, trong sáng, ý chí cách mạng kiên định. Trong những hoàn cảnh tàn khốc nhất, khó khăn nhất như bạo động Quảng Châu, Trường Chinh trước sau vẫn tích cực, hăng hái chiến đấu... Trong chiến tranh kháng Nhật ở Tấn Đông Bắc đã có khả năng độc lập tổ chức quần chúng, thành lập đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang. Ở Việt Nam đã lãnh đạo đúng đắn cuộc chiến tranh chống Pháp ở các chiến khu 5, 6 và 4, củng cố các căn cứ địa của các chiến khu, khiến cho nó có thể đứng vững suốt hơn 7 năm đấu tranh, cuối cùng giành thắng lợi... Đối với sự phân công công tác của Đảng, quyết định của Đảng, nhiệm vụ mà Đảng trao cho đều phục tùng và chấp hành, chưa bao giờ có hành động, biểu hiện chống quyết định của Đảng, không phục tùng tổ chức…".

Bản nhận xét chính thức này của Đảng cộng sản Tầu, hai năm rõ mười, đã cho biết nhân vật Nguyễn Sơn thực sự là ai !

5. Vì hút thuốc lá quá độ, đầu năm 1956 Hồng Thủy/Nguyễn Sơn phát hiện bị ung thư phổi. Được chữa trị tận tình nhưng không kết quả. Biết không còn sống được bao lâu, Nguyễn Sơn nuốt hận xin được trở về Việt Nam cùng với gia đình và được ông Hồ cho phép.

Không ai biết chính xác Nguyễn Sơn nghĩ gì, tại sao lại muốn trở về để chết ở Việt Nam ? Lý do chính, chỉ có thể phỏng đoán, có lẽ là vì quá thương và lo cho người vợ Việt Nam và 4 đứa con thơ sẽ phải bơ vơ, lạc lõng trên đất Tầu sau khi người chồng, người cha của họ không còn hiện diện ở nơi dương thế.

Lê Hằng Huân (1926-1991) là tên người vợ trẻ, gia đình thư lễ, con của cụ Sở Cuồng Lê Dư, một nhà biên khảo từng làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ và cũng là một cây bút chủ lực của tờ Nam Phong Tạp Chí. Cụ Lê Dư có 4 người con gái nhan sắc nổi tiếng là "4 nàng tiên đất Quảng Nam". Lê Hằng Trang mất sớm. Lê Hằng Phương tức thi sĩ Hằng Phương, vợ của nhà phê bình văn học nổi tiếng Vũ Ngọc Phan. Lê Hằng Phấn vợ của học giả Hoàng Văn Chí, tác giả của quyển sách tiếng Anh, được dịch sang 15 thứ tiếng, kể cả tiếng Việt, trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam : "From Colonialism to Communism" (Từ thực dân đến cộng sản). Cô út Lê Hằng Huân, lọt vào mắt xanh của ông tướng Tư lệnh chiến khu 4, "trai anh hùng, gái thuyền quyên" kết hôn năm 1948 lúc tân nương mới 22 tuổi, kém tân lang 18 tuổi và kém người vợ bên Trung Hoa của tân lang, đang mỏi mắt trông chồng, đúng một giáp.

nguyenson3

Bà Lê Hằng Huân, vợ thứ tư của tướng Nguyễn Sơn, và các con (ảnh chụp năm 1956)

Mao và Đảng cộng sản Tầu đối xử với Hồng Thủy/Nguyễn Sơn có tình nghĩa và khá sòng phẳng. Mao, Chu Ân Lai, Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Khắc Thành, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đã cùng gặp mặt đồng chí Tiểu Hồng của họ trong phòng họp của lễ đường Quốc hội để cầm tay nói lời tiễn biệt. Hồng Thủy còn bị ép nhận 30.000 nhân dân tệ bằng tiền mặt - là tiền hưu bổng, tiền thuốc thang, tiền phụ cấp gia đình... để đền đáp lại mấy chục năm Hồng Thủy xả thân phục vụ cuộc Cách mạng cộng sản ở Tầu để sau cùng thành lập được nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. (30 chục ngàn nhân dân tệ là một số tiền rất lớn vào lúc bấy giờ có thể mua được 28 căn nhà ở Hà Nội, gấp một ngàn lần lương tháng của một bộ trưởng Việt Nam, nghĩa là đủ cho một gia đình sống thong dong suốt đời). Lúc rời Bắc Kinh về Việt Nam ngày 27/09/1956 bằng xe lửa, trong toa đặc biệt dành cho cấp lãnh đạo, có bác sĩ và tùy tùng hộ tống, Hồng Thủy được Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, Hoàng Khắc Thành và hơn 200 nhân vật công huân khai quốc tới tiễn biệt trước thềm ga xe lửa Tiền Môn.

Nguyễn Sơn và gia đình về Hà Nội cũng được đón tiếp trọng thể, bà con, thân thích vây quanh, được bố trí ở nhà lầu kiểu Pháp gần Phủ Chủ tịch. Hôm sau được ông Hồ tiếp kiến, báo chí nhà nước tường thuật "hai thầy trò ôm nhau khóc". Hai mươi ngày sau thì Nguyễn Sơn chết, tuổi 48, được hưởng nghi thức quốc tang long trọng - có mặt tất cả những nhân vật lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Ngoại giao đoàn - tất nhiên gồm cả đại sứ Trung Quốc.

Thi sĩ Hữu Loan, người Thanh Hóa, tác giả của "Mầu tím hoa sim", tuy vậy, viết một bài thơ khóc Nguyễn Sơn có giọng bi phẫn :

Nguyễn Sơn ra đi

Không ai ngờ...

Những thằng đại xu nịnh ngày xưa trở mặt

nhưng lịch sử và thời gian

không bao giờ phản trắc

Còn vang dội mãi rừng núi Nưa

tiếng Nguyễn Sơn một lần truyền hịch

...

Chỉ ít lâu sau quốc tang Nguyễn Sơn, Lê Hằng Huân mang nộp cho Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa toàn bộ số tiền 30.000 nhân dân tệ, nói là theo ý nguyện của chồng trước khi mất và rời khỏi căn biệt thự kiểu Pháp được nhà nước cho ở. Không có thêm tin tức về số tiền 30.000 nhân dân tệ Nhà nước Việt Nam có thông báo hay không thông báo cho phía Trung Quốc ? Giữ lại hay trả lại số tiền cho Trung Quốc ? Nếu giữ lại, thì ghi vào mục nào và chi tiêu vào việc gì ?

Người quả phụ, tay trắng, từ đó vất vả tự lực nuôi con, sống cơ cực, thiếu thốn và rất âm thầm cho đến khi mất vì ung thư năm 1991. Bên Tầu, hai đứa con khác của Nguyễn Sơn (với người vợ lặng lẽ chia tay nhưng không bao giờ chính thức ly dị Trần Kiếm Qua) may mắn hơn vì được chính quyền Trung Quốc cho hưởng trợ cấp của con liệt sĩ cho đến năm 18 tuổi.

nguyenson4

Người vợ thứ hai, bà Trẩn Kiếm Qua (陈剑戈 – Chen Jian Ge) người Trung Quốc và hai con trai ở Bắc Kinh.

"Tôi đi mãi cuối cùng cũng tìm được một gò đất nhỏ rộng chừng mươi mét vuông nổi lên giữa khu ruộng trũng đầy cỏ lác và hoa súng. Lối vào là một doi đất nhỏ chỉ vừa một người bước chân. Mộ tướng Nguyễn Sơn nằm ở bên trái... Cỏ dại và hoa trinh nữ che gần hết mộ...". Đó là lời một người cháu gọi Lê Hằng Huân là dì ruột kể lại lần đi thăm mộ Nguyễn Sơn vào khoảng cuối 1969 tức vào khoảng 13 năm sau lễ quốc tang. Hiển nhiên "quốc tang" và "quốc táng" là việc rất khác nhau.

...đến bản chất

Nhân vật lịch sử Nguyễn Sơn chìm vào quên lãng rất nhanh, ít nhất là ở mặt công khai. Kể từ khi ông mất tháng 10/1956 đến Hội nghị Thành Đô tháng 9/1990 là 34 năm. Trong 34 năm ấy, rất hiếm có ai công khai nhắc đến Nguyễn Sơn ngoại trừ trong những buổi lễ lạc cần đề cao tình hữu nghị Việt-Trung.

Lý do chính là Nguyễn Sơn là nhân vật "có vấn đề", nhất là "có vấn đề" với Hồ Chủ tịch. "Bác Hồ ghét Nguyễn Sơn cho nên mới trả đương sự về Trung Quốc". Từ đó bàn tán, loan truyền những lỗi lầm khác của Nguyễn Sơn. Có tài nhưng có tật. Chuyện tình ái, vợ nọ, vợ kia. Chi tiêu tiền bạc bừa bãi ; kiêu ngạo, chuyên quyền, vô kỷ luật ; "gây mất đoàn kết" với các cấp lãnh đạo khác, v.v.

Mặt khác, Nguyễn Sơn lại là người của Đảng cộng sản Tầu, thân tín của Mao Chủ tịch, chỉ trích Nguyễn Sơn công khai là có lỗi với đảng đàn anh, có tội với Bác Mao mà Bác Mao còn cao hơn Bác Hồ. Ngược lại, khen lao hay bầy tỏ cảm tình với Nguyễn Sơn, hoặc gia đình của Nguyễn Sơn cách này hay cách khác là có thể bị xem là xúc phạm đến hoặc kém trung thành với Bác Hồ - "quan thì xa, bản nha lại gần" ! Các cán bộ trong Đảng cộng sản Việt, các sử gia của chế độ trong mấy chục năm đều tránh né việc thảo luận, đề cập đến Nguyễn Sơn vì trông thấy nguy hiểm như đi trong bãi mìn không biết mìn nổ lúc nào. Sự im lặng bấy lâu của Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Đoàn Khuê, Hoàng Minh Thảo, Trần Văn Quang... hay sự im lặng của Đặng Thái Mai, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Đào Duy Anh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê... như vậy là hoàn toàn hiểu được.

nguyenson5

Bìa trước cuốn sách "Người Cha của chúng tôi Hồng Thủy-Nguyễn Sơn, Lưỡng quốc tướng quân Việt Nam-Trung Quốc"  - Ảnh : Trung Kiên Phóng viên TTXVN tại Trung Quốc

Cũng là hoàn toàn hiểu được cái sự đảo ngược 180 độ sau Hội nghị Thành Đô tháng 9/1990 : hai Đảng cộng sản Tầu, Việt đều đồng ý không nên bỏ quên nhân vật lịch sử Nguyễn Sơn lâu hơn nữa, dẫn đến việc "Lưỡng quốc tướng quân" được..." tái xuất hiện" với rất nhiều sách, báo, phóng sự, phim ảnh, tọa đàm, hội thảo, tưởng niệm, triển lãm, thăm viếng, giao lưu Trung-Việt… như đã thấy. Tuy nhiên những nhận xét này chỉ hữu ích khi giúp nhìn sâu hơn nữa về mối quan hệ giữa 2 nhân vật Hồ Chí Minh và Nguyễn Sơn :

1. Ngay từ đầu, về phương diện nội bộ, ông Hồ Chí Minh đã là một lãnh tụ có uy tín của Đảng cộng sản Việt mặc dù chưa được tôn sùng như bậc thánh nhân toàn thiện, toàn mỹ như lúc về sau. Ông có các lý do để được đàn em nể phục . Tuổi tác của ông có nghĩa ông giầu kinh nghiệm, lịch duyệt, đi trước họ 15 hay 20 năm trong chuyện đấu tranh. Lại sắc bén, quyết đoán, hiểu biết tâm lý, ngoại giao giỏi, biết dùng người... Trong khi đa số bọn họ luẩn quẩn ở Việt Nam hay vùng biên thùy Việt Trung thì ông đã đi khắp nơi, năm châu, bốn biển. Họ không biết ngoại ngữ hay chỉ biết một, hai ngoại ngữ nhưng nói năng còn vấp váp thì họ thấy ông lưu loát : Pháp, Nga, Tầu, Thái... Ông có tiếng tăm từ trước nhưng lại có vẻ kỳ bí...

Tất cả những điểm này đều quan trọng nhưng điểm quan trọng nhất vào thời kỳ ấy là liên hệ của Hồ Chí Minh với Đệ Tam Quốc Tế tức là Quốc Tế Cộng sản. Ông Hồ xuất hiện như một đại diện có thẩm quyền của Quốc Tế Cộng Sản hoặc ít nhất ông tự trình bầy như vậy, ông tuyển mộ, huấn luyện, giao công tác nhân danh Quốc Tế Cộng Sản, nhân danh Stalin. Sau khi Đệ Tam Quốc Tế bị giải tán, ông làm việc chặt chẽ với Trung ương Đảng cộng sản Tầu, nhân danh Mao Trạch Đông, luôn cho thấy có những liên hệ đặc biệt mà không đàn em nào của ông có được. Khi ông Hồ bí mật trở về nước năm 1941 để trực tiếp lãnh đạo, Trung ương Đảng cộng sản Việt đã đề nghị ông làm Tổng bí thư thay Trường Chinh cho "danh chính ngôn thuận", ông từ chối và khuyến cáo nên giữ Trường Chinh tiếp tục làm Tổng bí thư. Ít lâu sau ông được tôn làm Chủ tịch Đảng, vị Chủ tịch đầu tiên của Đảng cộng sản Việt, khác biệt hẳn các lãnh tụ tiền nhiệm Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong chỉ có danh hiệu Tổng bí thư.

2. Gần như là chuyện nguyên tắc của tuyên giáo : những người cộng sản Việt được coi là xuất sắc nhất đều đương nhiên là học trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Võ Nguyên Giáp chẳng hạn. "Hậu" Thành Đô là trường hợp Nguyễn Sơn. Không những quan hệ Thầy Trò mà còn tình nghĩa Thầy Trò sâu đậm. Bác Hồ đối với Nguyễn Sơn có công ơn "dưỡng dục" - dẫn dắt, nuôi ăn ở, dậy dỗ, uốn nắn. Nguyễn Sơn đối với Bác Hồ thì "khẩu phục, tâm phục" chẳng hạn như khi đọc cái danh thiếp "Sơn đệ" đã phải kêu lên "ông cụ khiếp thật !".

nguyenson7

Lễ phong quân hàm cấp tướng đầu tiên diễn ra bên cánh đồng Nà Lọm, xã Phú Đình, Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Hội đồng Chính phủ chụp hình lưu niệm ngày 27-28/5/1948. Nguyễn Sơn đứng bên trái phía sau của Hồ Chí Minh. Ảnh : Tình báo Hoa Nam.

Tuy nhiên sự thực không đúng như vậy. Nguyễn Sơn là người "không giống ai", hoặc ít nhất không giống những người cộng sản dưới trướng của ông Hồ. Nguyễn Sơn nhìn ông Hồ từ một vị trí khác, không có mặc cảm tự ti, không bị ảnh hưởng của huyền thoại hay các loại thông tin nặng tính chất tuyên truyền. Với Nguyễn Sơn, một đảng viên cốt cán của Đảng cộng sản Tầu, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh không hơn, không kém :

- Năm 1918 : ông Hồ là đảng viên Đảng xã hội Pháp.

- Năm 1921 : ông Hồ bỏ Đảng xã hội, gia nhập Đảng cộng sản Pháp mới thành lập từ một bộ phận nhỏ của Đảng xã hội tách ra, nên được coi là một trong những "sáng lập viên" của Đảng cộng sản Pháp, một đảng cộng sản trong một nước tư bản tranh đấu theo đường lối hợp pháp, bất bạo động. Thực tế, ông Hồ là một đảng viên thường, tự phải lo cuộc mưu sinh cá nhân khá vất vả, sinh hoạt chính trị thu hẹp với một vài đảng viên cũng có gốc gác dân thuộc địa như ông - viết báo, viết kiến nghị đòi hỏi chấm dứt chính sách thực dân đế quốc đàn áp, bóc lột các dân tộc bị trị. Hoạt động kêu gọi, đòi hỏi suông của ông không có kết quả mà cũng không tạo được ảnh hưởng gì trong cộng đồng mấy ngàn người Việt sống rời rạc trên đất Pháp. Ông phải đi tìm một lối đi khác.

- 1923-1924 : ông Hồ bỏ Paris qua sống ở Moscow làm cán bộ toàn thời gian cho Quốc Tế Cộng Sản hay còn gọi là Đệ Tam Quốc Tế, một tổ chức ngoại vi của Đảng cộng sản Liên Xô do Lenin mới thành lập năm 1919 với sứ mạng xuất cảng cách mạng theo đúng như lý thuyết : cộng sản là một chủ nghĩa cách mạng có tính cách quốc tế (a revolutionary internationalism). Đệ Tam Quốc Tế cũng là công cụ sách lược của Lenin lấy "công" làm "thủ" - bảo vệ Liên Xô chống các cường quốc tư bản thù nghịch bằng cách gây ra những rối loạn trong nội bộ của những nước này. Các đảng cộng sản được Liên Xô công nhận sẽ được ban cấp tư cách thành viên của Đệ Tam Quốc Tế, được trợ cấp tài chánh, được hướng dẫn, giúp đỡ để hoạt động.

Trong thời gian khoảng một năm rưỡi ở Moscow, ông Hồ được huấn luyện tại trường Đại học Lao Động Đông Phương về Chủ nghĩa cộng sản, sách lược "Bôn-sơ-vích", phương pháp tranh đấu lật đổ chính quyền, kỹ thuật tổ chức, kỹ thuật vận động quần chúng v.v. cùng lúc với khoảng một ngàn học viên người Châu Á trong đó phần lớn là nông dân, công nhân và một số nhỏ trí thức. Ông Hồ là người Việt đầu tiên hay là một trong những người Việt đầu tiên được tuyển mộ và huấn luyện làm cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế theo lối này.

- Cuối 1924, sau khi tốt nghiệp, ông Hồ, lấy tên là Lý Thụy, được phái đến Quảng Châu thủ phủ của tỉnh Quảng Đông với danh nghĩa hợp pháp là một trong những thông dịch viên cho Mikhail Borodin, cố vấn của Liên Xô cạnh chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang trong thời kỳ "liên Nga, dung Cộng". Bên trong ông thực sự là cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế lãnh công tác khởi động phong trào cách mạng cộng sản ở Đông Dương thuộc Pháp, đặc biệt là Việt Nam vì ông là người Việt, biết ngôn ngữ và văn hóa Việt.

Để làm công việc này ông Hồ được Quốc Tế Cộng Sản cung cấp tiền bạc và phương tiện nhưng rất giới hạn vì Liên Xô vừa thoát khỏi chiến tranh, lại bị "đế quốc" phong tỏa, bản thân còn rất nghèo. Mặt khác, ở Châu Á, nước Tầu mênh mông với hơn 500 triệu dân là ưu tiên cao nhất trong sách lược của Lenin và Stalin chứ không phải nước Việt Nam bé nhỏ, mười mấy triệu dân, thuộc địa của Pháp. Tầu là "tuồng" chính, Việt là "tuồng" phụ, rất phụ. So sánh trường quân chính bề thế Hoàng Phố mà Liên Xô giúp xây dựng và phát triển mọi mặt với căn nhà thuê cũ kỹ dùng để làm lớp huấn luyện chính trị trong cùng thành phố Quảng Châu của ông Hồ sẽ thấy rõ sự khác biệt. Bù lại, ông Hồ nhận được sự giúp đỡ ít nhiều của Đảng cộng sản Tầu thời gian ấy trong tinh thần "vô sản quốc tế liên hiệp lại !".

Công tác chính của ông Hồ là tuyển mộ và huấn luyện thanh niên Việt rồi gửi về Việt Nam hoạt động. Một số nhỏ ở lại Tầu, một vài người qua Thái Lan hoạt động trong cộng đồng Việt kiều ở miền Đông Bắc.

Các khóa huấn luyện chính trị do ông Hồ tổ chức thường chỉ kéo dài vài tháng, với vài chục học viên. Nội dung huấn luyện gồm các bài học tương tự như ông đã học ở Liên Xô một hai năm trước được giản lược và thay đổi ít nhiều cho hợp với tính cách của người Việt.

Nói chung, các lớp huấn luyện đều ở trình độ nhập môn, tương đối thấp. Trong tổng số hơn 200 học viên xuất thân ở đây đa số trở thành các đảng viên cấp cơ sở. Một số rất nhỏ trở thành cán bộ lãnh đạo thì hoặc đã có học thức khá từ trước hoặc phải tiếp tục học nhiều hơn ở các nơi khác. Chẳng hạn như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Hà Huy Tập đều được tiếp tục huấn luyện "cao cấp" ở trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu hay Đại học Lao Động Đông Phương ở Moscow.

Trường hợp Nguyễn Sơn cũng tương tự. Cuối 1925, Nguyễn Sơn, 17 tuổi, được ông Hồ gửi người về nước tuyển mộ, bỏ vợ dại con thơ, trốn qua Tầu học làm cách mạng. Cuộc phiêu lưu của Nguyễn Sơn thấp thoáng giống như trong lời thơ "Tống biệt hành" của thi sĩ Thâm Tâm :

...

Một giã gia đình, một dửng dưng

Ly khách, ly khách con đường nhỏ

Chí lớn không về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

...

Nhưng Nguyễn Sơn không chỉ đi có 3 năm mà đi gần 7 lần lâu hơn thế.

Nguyễn Sơn trải qua khóa huấn luyện chính trị sơ cấp, rồi giống như các học viên khác, gia nhập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội do ông Hồ sáng lập, trở thành một trong những người cộng sản Việt thời kỳ đầu. Tuy vậy, Nguyễn Sơn không thực sự hoạt động gì cho Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội vì cuộc đời ngay sau đó đi vào một ngã rẽ khác hẳn khi được hai cán bộ cao cấp của Đảng cộng sản Tầu là Thái Xương và Lý Phú Xuân giới thiệu vào học ở trường Hoàng Phố.

Tình nghĩa thầy trò giữa ông Hồ và Nguyễn Sơn, nếu có, thì cũng chỉ có thế, nghĩa là không có gì đặc biệt hay khác hơn tình nghĩa thầy trò giữa ông Hồ và những học viên khác đã được móc nối tham dự khóa huấn luyện chính trị mà ông tổ chức ở Quảng Châu theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế và sự tài trợ nuôi ăn học các học viên này trong mấy tháng cũng bằng ngân quỹ của Đệ Tam Quốc Tế. Khẳng định Nguyễn Sơn đã được ông Hồ "cải hóa" một cách đặc biệt ở bên Pháp lúc mới 15 tuổi xem ra không có cơ sở vì không có bằng chứng hay dấu vết Nguyễn Sơn từng đặt chân trên đất Pháp.

- Tháng 6/1927 ông Hồ bắt buộc phải rời Trung Hoa trở lại Moscow theo chân Borodin. Bối cảnh là sau khi Tôn Dật Tiên mất năm 1925, Tưởng Giới Thạch chấm dứt chính sách "liên Nga, dung Cộng", dùng nhân lực đào tạo từ trường Hoàng Phố, tiến hành cuộc hành quân Bắc Phạt, dẹp nạn sứ quân, mở rộng thế lực chính quyền Quốc Dân Đảng, cùng lúc thanh lọc hàng ngũ, trục xuất các cố vấn Liên Xô, đàn áp các cuộc nổi dậy của Đảng cộng sản Tầu ở Thượng Hải, Quảng Châu, Vũ Hán.

- Ông Hồ đến Hồng Kông theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản tháng 2/1930, họp với các đại biểu của 3 đảng cộng sản nhỏ đang hoạt động riêng rẽ ở Việt Nam và giúp hợp nhất thành Đảng cộng sản Việt Nam. Đại hội Đảng kỳ 1 tháng 10/1930 đổi tên đảng thành Đảng cộng sản Đông Dương. Trần Phú được bầu là Tổng bí thư đầu tiên. Đến lúc này Đảng mới được chính thức gia nhập Quốc Tế Cộng Sản như là một thành viên và được trợ cấp mỗi tháng ước chừng khoảng 5.000 quan Pháp, tương đương 1.250 Mỹ kim theo thời giá của năm 1930 như ghi nhận của một số tài liệu đã được công bố.

- Tháng 6/1931, ông Hồ bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông nhưng được phóng thích vào đầu năm 1932 và trở lại Hoa lục hoạt động nhưng không có kết quả gì đáng nói.

- Khoảng thời gian 1933-1938 là thời kỳ ông Hồ trở về Moscow dưỡng bệnh, rồi bị cưỡng bách học tập trong không khí sợ hãi ngột ngạt vì chính sách "đại khủng bố để thanh lọc" của Stalin áp đặt trên toàn thể xã hội Liên Xô lúc đó. Ông Hồ cũng không được phép tự ý liên lạc với những người cộng sản Việt Nam khác.

- Cuối năm 1938 ông Hồ trở lại Trung Hoa theo sắp xếp của Quốc Tế Cộng Sản để liên lạc lại với Trung ương Đảng cộng sản Việt sau mấy năm gián đoạn. Khác với các lần đến Hoa lục trước đây, lần này ông Hồ "hội nhập" nhiều hơn với Đảng cộng sản Tầu. Ông đến Diên An nhưng không có tài liệu nào nói ông được Mao tiếp kiến - Mao quá bận hay Mao không chú ý mấy đến cá nhân Hồ Chí Minh ? Ông Hồ gia nhập Bát Lộ Quân, trở thành thiếu tá Hồ Quang đi công tác ở Quế Lâm (Quảng Tây), rồi lại làm việc ở Hành Dương (Hồ Nam), được chọn làm bí thư một đơn vị huấn luyện du kích. Điều này chứng tỏ ông Hồ cũng là đảng viên Đảng cộng sản Tầu và có lẽ đã gia nhập đảng vào thời điểm năm 1939. Nếu quả đúng như vậy thì "tuổi đảng" của Hồ Chí Minh (Hồ Quang) ít hơn tuổi Đảng của Nguyễn Sơn (Hồng Thủy) khoảng 12 năm, và "tuổi quân" của ông trong Bát Lộ Quân, cũng cách biệt tương tự với Nguyễn Sơn.

Tháng 2/1940, tức là phải hơn một năm sau khi trở lại Trung Hoa, tại Côn Minh (Vân Nam), nhờ sự giúp đỡ của cơ sở cộng sản Tầu địa phương, ông Hồ gặp được cán bộ của Đảng cộng sản Việt đang muốn mời ông về nước để trực tiếp lãnh đạo Đảng sau khi Tổng bí thư Lê Hồng Phong bị Pháp bắt. Từ đây trở về sau ông Hồ dùng tên Hồ Chí Minh, cùng một ý nghĩa như tên Hồ Quang.

Vì Pháp vừa bại trận dưới tay Hitler ở Châu Âu nên thời cơ đã đến sớm hơn dự kiến. Đầu 1941 ông Hồ về nước cùng với Trung ương Đảng cộng sản Việt lập căn cứ sát biên giới Việt-Trung, xuất bản báo tuyên truyền cổ động, tổ chức quần chúng, chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang du kích, mở đường phát triển về phía Nam.

Tháng 8/1942 ông Hồ lén sang Trung Hoa để đi gặp Trung ương cộng sản Tầu ở Hoa Bắc báo cáo tình hình, yêu cầu yểm trợ, đặc biệt vũ khí cho các đội quân du kích. Tuy nhiên mới đến Quảng Tây thì ông đã bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ở địa phương bắt giam vì nghi là gián điệp. Tháng 9/1943, sau khi điều tra biết rõ Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc lãnh tụ của cộng sản Việt, tư lệnh chiến khu 4, Trương Phát Khuê vẫn ra lệnh phóng thích ông Hồ. Tháng 8/1944, ông Hồ về nước và được Trương Phát Khuê cấp cho một số súng và đạn dược để chống kẻ thù chung là Nhật (và cả Pháp).

Tháng 3/1945 Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương. Lực lượng quân sự của Pháp tan rã, một số khá lớn binh sĩ Việt trong quân đội Pháp đào ngũ và gia nhập Việt Minh với đầy đủ súng đạn. Đột nhiên lực lượng vũ trang của Việt Minh tăng gấp 5 lần, từ 1.000 lên 5.000 tay súng rồi nhờ thế chiếm được 6 tỉnh ở thượng du Bắc Việt... dẫn đến cơ hội Việt Minh chiếm chính quyền ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh như đã nói ở phần trước.

3. Nguyễn Sơn, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh có mối quan hệ tay ba phức tạp.

Những tài liệu lịch sử được giải mật cho thấy khá rõ Nguyễn Sơn phục Mao Trạch Đông nhưng không phục Hồ Chí Minh. Nguyễn Sơn xem Mao là thầy, là lãnh tụ, là thượng cấp và trung thành với Mao. Nguyễn Sơn không xem Hồ Chí Minh thầy, là lãnh tụ, là thượng cấp và không thấy có lý do phải trung thành với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên những điều này không có nghĩa Nguyễn Sơn âm mưu lật đổ Hồ Chí Minh để thế chỗ. Ngang tàng, bất phục thì có nhưng bằng cớ hay dấu hiệu của một tính toán soán đoạt thì không. Nguyễn Sơn được xem là loại người nóng tính nhưng không thâm hiểm. Ngoài ran nếu Mao không bật đèn xanh thì Nguyễn Sơn, nhiều phần, sẽ không làm gì, không dám làm gì để vi phạm kỷ luật rất khắt khe của Đảng cộng sản Tầu về mặt chính sách.

nguyenson6

Năm 1950 : Cố vấn quân sự Trung Quốc tại căn cứ của Việt Minh tại Bắc Việt (từ trái) : Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, Lê Văn Lương, La Quý Ba. Nguồn : pcture.china.com.cn

Một câu hỏi thuận lý kế tiếp ngay : Nhưng nếu Mao thấy cần phải thay thế đảng viên "Hồ Quang" bằng đảng viên "Hồng Thủy" là người được Mao tín cẩn hơn thì sao ? Câu trả lời, cũng thuận lý, sẽ là : Nguyễn Sơn chắc sẽ "rất vui lòng" chấp hành mệnh lệnh của Mao bởi vì ngoài nghĩa vụ phải chấp hành, có ai từ chối làm "An Nam Quốc Vương" hay chỉ "An Nam Đô Thống Sứ", trong trường hợp đặc biệt này ?

Đối tượng của chính trị là quyền lực. Là một chính trị gia lão luyện, Hồ Chí Minh phải nhìn thấy Nguyễn Sơn là một vấn đề nan giải, một mối mối nguy lớn dần đang đe dọa quyền lực của mình. Tuy nhiên Hồ Chí Minh không thể chống lại Mao Trạch Đông. Cái bóng của Mao gần quá, lớn quá. Không kể vai vế trong phong trào cộng sản quốc tế tại Châu Á, cũng như quan hệ cấp trên, cấp dưới trong Đảng cộng sản Tầu, Hồ Chí Minh cần Mao hơn bao giờ hết.

Bất kể quân đội Việt Minh anh dũng chấp nhận hy sinh xương máu đến thế nào, nếu không có sự viện trợ lớn lao và toàn diện của Trung Quốc kể cả huấn luyện, trang bị súng ống, tiếp tế đạn dược, quân trang, lương thực, thuốc men cho các sư đoàn chính qui thì sẽ không có Đông Khê, Thất Khê, không có Vĩnh Phúc Yên, không có Điện Biên Phủ...

Ngay cả Việt Minh vẫn còn cầm cự được với quân viễn chinh Pháp lâu hơn dự liệu nhưng ông Hồ có muốn làm lãnh tụ du kích thêm 10 năm, 15 năm hay chết già ở trong rừng không ? Có gì ngăn cản Trung ương Đảng cộng sản Việt chọn viện trợ của Mao để sớm thắng Pháp thay vì tiếp tục trung thành với Hồ Chí Minh để bị gian khổ hơn và không biết còn kéo dài đến bao giờ ?

Muốn giữ địa vị một cách chắc chắn, ông Hồ Chí Minh, như thế, chỉ còn một chọn lựa là phải cạnh tranh với Nguyễn Sơn để thỏa mãn Mao, thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của Mao - những đòi hỏi đã nói ra và cả những đòi hỏi không tiện nói ra nhưng kẻ ở thế yếu hơn phải tự biết. Mao có sẵn tai mắt ở Việt Nam để ghi nhận mọi chuyển biến và diễn biến.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ trung thành với Mao với mức độ ngang bằng hay hơn cả Nguyễn Sơn.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ là một "người cộng sản chân chính", bác bỏ chủ nghĩa dân tộc "hẹp hòi" để tiến tới một thế giới đại đồng không còn biên cương với nước Trung Hoa vĩ đại.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ sự ngưỡng mộ, thấm nhuần văn hóa Trung Hoa.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ có khả năng tận dụng sự chi viện của Mao, hợp tác chặt chẽ với các cố vấn Tầu để chống Pháp, chống Mỹ.

Hồ Chí Minh phải chứng tỏ chế độ cộng sản ở Việt Nam là tuyệt đối thân Tầu, tuyệt đối làm một phiên bản nhỏ của chế độ cộng sản ở Trung Hoa.

Hồ Chí Minh đã làm tất cả những điều này từ năm 1950 trở đi. Từ "Cải Cách Ruộng Đất", "Trăm Hoa Đua Nở" đến xuất bản "Ngục Trung Nhật Ký", xướng họa thơ với các cố vấn Tầu, thân thiết với La Quý Ba, Vi Quốc Thanh, Trần Canh… đến chiến lược, chiến thuật, phương cách tổ chức Đảng, tổ chức quân đội, chính sách công an, hộ khẩu, kinh tế, xã hội, văn hóa... nhất nhất rập khuôn... đến những buổi họp trang trọng treo hình Mao (còn sống) ngang hàng các đại lãnh tụ cộng sản Marx, Lenin, Stalin (đã chết), luôn luôn tung hô "Chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Mao Trạch Đông"... đến những vần thơ minh họa chính sách mang đặc trưng của thời đại Hồ Chí Minh tại miền Bắc Việt Nam :

Giết, giết nữa ! Bàn tay không lúc nghỉ.

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt !

(Tố Hữu)

Bên kia biên giới là nhà

Bên ni biên giới cũng là quê hương.

(Tố Hữu)

Bác Mao không phải đâu xa

Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao !

(Chế Lan Viên)

....

Dù có chút tình riêng thiên vị Hồng Thủy/Nguyễn Sơn, lịch sử cho thấy Mao Trạch Đông, luôn hành động theo lý trí của một chiến lược gia có tham vọng "bình thiên hạ" như Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, đã không còn có lý do, đã không cảm thấy sự cần thiết phải "thay ngựa giữa giòng" mặc dù hoàn toàn có thừa quyền lực để làm như vậy.

Hậu quả là nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh là Hồ Chủ tịch trọn đời nhưng nước Việt Nam lại lún rất sâu vào vòng lệ thuộc ngoại bang và có nguy cơ không còn tồn tại.

Đến đây xin mượn câu nói của Winston Churchill năm 1948 để kết thúc bài tiểu luận đã khá dài : "Those who fail to learn from history are condemned to repeat it" !

Cao Tuấn

(13/02/2020)

Published in Tư liệu

Nghi vấn lịch sử về quan hệ giữa Chủ tịch Đảng cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh và "Lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn 

 

Bài 1 : Về một người cộng sản "không giống ai"

 

Chủ tịch Đảng cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh (1890-1969) và "Lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn (1908-1956) là hai nhân vật lịch sử quan trọng của một thời đại và họ có mối quan hệ đặc biệt với nhau. Tìm hiểu thực chất mối quan hệ này không nhằm mục đích phê phán mà là ý hướng muốn tiếp cận sự thực lịch sử, cái sự thực lịch sử rắc rối, phức tạp không giống như những huyền thoại lưu truyền.

son0

Lưỡng quốc tướng quân" Nguyễn Sơn

Hành trình đi tìm sự thực bắt đầu bằng sự phân tích, đãi lọc, lượng giá và tổng hợp những tài liệu bán chính thức và chính thức có nguồn gốc từ nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã được tìm thấy trên trên một số websites như sau :

www.tuongnguyenson.com

www.quansuvn.net

www.vnmilitaryhistory.net

...

Và nguồn tài liệu đáng kể nhất là quyển sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" mang khá nhiều thông tin mới mẻ rất có ý nghĩa.

Đây là quyển sách dịch được nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội in và lưu hành rộng rãi từ năm 2001 từ nguyên bản chữ Hán "Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình" do nhà xuất bản Thế Giới Đương Đại, Bắc Kinh ấn hành năm 2000. Dịch giả là thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Tác giả là Trần Kiếm Qua, 86 tuổi, đảng viên trung kiên của Đảng cộng sản Trung Quốc, người vợ Trung Hoa, nay đã mất, của Lưỡng quốc tướng quân. Tuy nhiên nội dung sách gồm cả những tài liệu "bí mật quốc gia" mới được giải mật lần đầu tiên cho thấy thực ra tác phẩm là một công trình tổng hợp của 3 tác giả chính : Trần Kiếm Qua kể lại cuộc đời vợ chồng 7 năm với Nguyễn Sơn, hai tác giả còn lại là cơ quan Tuyên giáo của Đảng cộng sản Tầu và cơ quan Tuyên giáo của Đảng cộng sản Việt. Mục đích và đối tượng của sách hiện rõ ngay trong lá thư trang trọng ngày 22/09/2001 nói là của Trần Kiếm Qua, kèm cả thủ bút và chân dung. Bản dịch của lá thư được in ngay ở phần đầu sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" có nội dung chính như sau :

"Thư gửi nhà xuất bản Văn Học và bạn đọc Việt Nam :

...Hoàng Hà là dòng sông mẹ của Trung Quốc. Hồng Hà là dòng sông mẹ của Việt Nam. Cuốn sách nói về một câu chuyện có thực, ghi lại những thực tế về cuộc chiến đấu kề vai sát cánh giữa hai quân đội, hai Đảng, hai nước Trung Quốc và Việt Nam, phản ảnh thực tế nhất về tình hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung-Việt. Gia đình chúng tôi chính là tượng trưng cho tình hữu nghị đó. Hoàng Hà và Hồng Hà sẽ mãi mãi chẩy xuôi, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt cũng sẽ mãi bền vững với thời gian...

Kính thư !

Phu nhân tướng Nguyễn Sơn

Trần Kiếm Qua"

Có tên như một truyện tình lãng mạn nhưng lại là sách có bản chất và mục đích chính trị, "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" như thế phải được hiểu là một cố gắng bài bản của cả 2 đảng cộng sản Việt và Tầu nhằm lật ngược tinh thần bài Hoa, chống Tầu trong xã hội Việt từ Nam ra Bắc, hậu quả của những hành động bá quyền lấn hiếp lân bang đang diễn ra trên Biển Đông của nhà cầm quyền Trung Quốc và quan trọng hơn nữa, hậu quả của hơn một thập niên Trung-Việt thù nghịch vừa mới "chính thức chấm dứt" trong hội nghị Thành Đô tháng 9/1990.

Độ tận kiếp ba huynh đệ tại

Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu

 

(dịch ra tiếng Việt)

Qua cơn sóng gió anh em còn đó

Gặp nhau cười một tiếng quên hết oán thù

Các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, theo hồi ký của Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng kể lại, đã rất vui mừng được Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đọc tặng 2 câu thơ trên sau khi đặt bút ký biên bản gọi là "hòa giải".Các lãnh tụ cộng sản Việt Nam rất có lý do để vui mừng.

Trước Hội nghị Thành Đô chừng một năm, họ đã kinh hãi trông thấy trận bão "diễn biến hòa bình" có thể sắp ập tới Việt Nam chính là trận bão 1989-1990 đang càn quét và làm tan tành các chế độ cộng sản ở Ba Lan, Hung, Tiệp, Đông Đức, Albania, Bulgaria, Romania, Nam Tư với cao điểm là vợ chồng bạo chúa Ceaucescu bị xử tử trong khi đó thì lãnh tụ Sô viết Gorbachev không những khoanh tay đứng nhìn mà còn cắt các khoản viện trợ thiết yếu dành cho các nước cộng sản đàn em, kể cả Việt Nam.

Họ cũng nhìn thấy chế độ cộng sản Trung Hoa sẽ sụp đổ về vụ Thiên An Môn nếu Đặng Tiểu Bình không nghiến răng ra lệnh tàn sát dù máu có chẩy thành sông. Trong bối cảnh nguy nan, bất trắc và tâm trạng lo lắng ấy họ đã nhận chân rằng Đảng cộng sản Tầu là chỗ dựa duy nhất, chỗ nương tựa duy nhất của Đảng cộng sản Việt. Hội nghị Thành Đô được mô tả là hội nghị của "hòa giải" Việt-Trung, thực chất là đàn em tìm đến đàn anh xin tha thứ "lỗi lầm" cũ và xin được bao bọc, che chở - trước khi chính thức ký cái biên bản bị chính trong nội bộ coi là bắt đầu một thời kỳ "Bắc thuộc" mới.

Nhưng làm sao chiến tranh với bao nhiêu tàn phá, chết chóc, làm sao thù nghịch ròng rã cả một thập niên (1980’s), bao nhiêu tuyên truyền, giáo dục vo tròn bóp méo trong nhân dân hai nước, thậm chí ra cả bạch thư, ghi trong hiến pháp Việt Nam chỉ đích danh "kẻ thù truyền kiếp" mà nay có thể chỉ "cười một tiếng quên hết oán thù" ?!

Rất thất sách và phản tác dụng nếu Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam ra lệnh hay ra nghị quyết "vì quyền lợi sinh tồn tối thượng của... Đảng kể từ ngày hôm nay trở đi cụm từ "kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta" phải được thay bằng "tình hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung Việt" và bất cứ ai nói hay làm ngược lại sẽ bị trừng phạt đích đáng".

Đảng cộng sản Việt và cả Đảng cộng sản Tầu đã không "vô chính trị" như thế.

Gieo độc cần "nghệ thuật tuyên giáo" thì Giải độc còn cần "nghệ thuật tuyên giáo" nhiều hơn nữa! Phải có kế hoạch khôn khéo, phải mở những chiến dịch "tâm công", tích cực nhưng từ tốn như "mưa dầm thấm đất" và rất tự nhiên như chuyện giải trí, văn chương, học hỏi nghiên cứu bình thường, có nghĩa... như là "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" !

son2

Sách "Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn - Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương", tác giả Trần Kiếm Qua, Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại dịch, Lời tựa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nhà xuất bản Văn Học (01/06/2016), 456 trang

"Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương" nói riêng và các "chiến dịch" tưởng niệm - nhằm, nói chung, "làm sống lại" nhân vật Nguyễn Sơn liên tục từ nhiều năm nay, mặt khác, vô hình trung lại là cơ hội "đốt lò hương cũ" để biết Nguyễn Sơn đến thế nào, đi thế nào, đã viết gì, nói gì, làm gì, đã sống thế nào, chết thế nào trong những năm tháng sôi động ấy... Một khi đã hiểu Lưỡng quốc tướng quân thực sự là ai thì sẽ hiểu được thực chất mối quan hệ giữa hai nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và Nguyễn Sơn cũng như ý nghĩa và hậu quả của mối quan hệ ấy đối với chính lịch sử của nước Việt Nam.

Bối cảnh một cuộc hồi hương

Đầu tháng 8/1945 Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử trên thành phố Hiroshima và Nagasaki cùng lúc với đội quân Quan Đông hơn một triệu người của Nhật Bản ở Mãn Châu bị gần 100 sư đoàn cơ giới của Liên Xô đánh tan một cách bất ngờ trong vòng 2 tuần lễ.

Ngày 15/08/1945 Nhật đầu hàng Đồng minh.

Ngày 19/08/1945 Việt Minh tổ chức biểu tình cướp chính quyền tại Hà Nội trước sự bất lực và mất tinh thần của chính quyền thân Nhật Trần Trọng Kim. Quốc vương Bảo Đại thoái vị, chấm dứt triều đại nhà Nguyễn.

Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa nhưng không được cường quốc nào công nhận. Riêng Tổng Thống Mỹ Harry Truman hoàn toàn làm ngơ trước những công hàm liên tiếp và khẩn thiết của Hồ Chí Minh yêu cầu Mỹ công nhận nền độc lập của Việt Nam và công nhận chính quyền Việt Minh. Lý do chính là Truman đã biết cá nhân Hồ Chí Minh và chính quyền do ông Hồ đứng đầu là cộng sản, có liên lạc mật thiết với Đảng cộng sản Nga và Đảng cộng sản Trung Quốc. Mặt khác, có thể Mỹ cũng không muốn gặp khó khăn rắc rối với đồng minh Pháp và Trung Hoa Dân Quốc một cách không cần thiết.

Vào lúc Nhật đầu hàng Đồng Minh, Mao đã có trong tay 1 triệu quân, 100 triệu dân, kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn ở vùng Hoa Bắc, lại có Liên Xô, cường quốc đang tập trung đạo lục quân mạnh nhất thế giới ngay sau lưng tại Mãn Châu. Nếu Mỹ không có bom nguyên tử, Mao và Stalin có thể phối hợp đánh bại Tưởng Giới Thạch trong vòng 6 tháng mà Mỹ không kịp trở tay. Trong trường hợp này, chính quyền Hồ Chí Minh không cần nài nỉ Mỹ công nhận, chỉ cần chạy vào rừng cố gắng cầm cự cho qua 6 tháng ấy là thoát nạn. Nhưng thực tế Mỹ đang độc quyền vũ khí nguyên tử, không quân, hải quân mạnh nhất thế giới, căn cứ khắp nơi, kinh tế không bị tàn phá lại đang hết sức phát triển... Được Mỹ công nhận là chính quyền hợp hiến, hợp pháp của nước Việt Nam độc lập có hiệu quả hóa giải ngay mối đe dọa từ Trung Hoa Dân Quốc và từ đế quốc Pháp đối với Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên việc này đã không xẩy ra.

Hoàng Văn Hoan trong hồi ký "Giọt Nước Trong Biển Cả" tả tình cảnh chính quyền Hồ Chí Minh cuối năm 1945 là "ngàn cân treo sợi tóc". Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập thì 3 tuần sau Pháp đã đổ bộ mấy chục ngàn quân tinh nhuệ, tái lập chế độ bảo hộ ở Lào, Miên và miền Nam Việt Nam một cách dễ dàng. Chính quyền Việt Minh địa phương chống cự yếu ớt. Thêm 2 tuần nữa thì 200.000 quân Tầu Quốc Dân Đảng tràn vào miền Bắc, vừa giải giới quân Nhật, vừa hăm he "diệt Cộng, cầm Hồ" mưu đồ lập một chính quyền phiên thuộc, ít nhất ở Bắc Việt Nam. 

Cả nước mới chỉ có 5.000 tay súng, không có kinh nghiệm chiến trận, trấn áp đám quốc gia "phản động" như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, Duy Dân... thì tạm đủ nhưng đánh nhau với Pháp hay với Tầu Quốc Dân Đảng là "trứng chọi đá". Ông Hồ Chí Minh dĩ nhiên phải cân nhắc, tính toán đủ đường. Không dám chống cự quân Tầu Tưởng. Làm "tuần lễ vàng" để quyên vàng hối lộ Tiêu Văn, Lư Hán, rất nhún nhường trước các "thượng quan". Giả vờ giải tán đảng cộng sản, tổ chức bầu cử quốc hội, sao chép hiến pháp Mỹ để làm Hiến pháp Việt Nam, lập Chính phủ Liên hiệp... Bí mật cầu cứu Mao, nhưng Mao đang đứng bên bờ cuộc nội chiến sắp bùng nổ toàn diện ở Tầu, lực lượng chỉ tập trung ở vùng Hoa Bắc lại phải đối phó với hơn 3 triệu quân của Tưởng đang hình thành một thế bao vây. Trong hoàn cảnh ấy, Mao chỉ có thể phái người tin cẩn đến đến Việt Nam, giúp Đảng cộng sản Việt triển khai thế trận "chiến tranh nhân dân kiểu Mao" để đối phó với đế quốc Pháp và có thể cả Tầu Quốc Dân Đảng.

Ông Hồ và Đảng cộng sản Việt có lẽ đủ thực tế để biết không thể tự mình thắng Pháp mà chỉ mong kéo dài cuộc chiến cho đến ngày Mao thắng Tưởng. Mối lo trước mắt là làm sao sống sót, làm sao thoát khỏi tình trạng nguy ngập "một cổ 2 tròng", "tứ bề thọ địch" !

Đúng lúc ấy, tháng 11/1945 Nguyễn Sơn xuất hiện tại Hà Nội - mang dáng dấp của một cứu tinh.

Đúng người đúng việc

Ở bên Tầu tên ông là Hồng Thủy, khi bí mật trở về Việt Nam hoạt động để che dấu bớt thân thế, nhất là đối với tình báo Trung Hoa Dân Quốc, tình báo Pháp và tình báo Mỹ, đổi tên là Nguyễn Sơn.

Nguyễn Sơn, tên thật là Vũ Nguyên Bác sinh năm 1908 tại Hà Nội, gia đình tư sản, nguyên học viên trường sư phạm tức là được giáo dục theo lối Pháp, kém ông Hồ Chí Minh 18 tuổi nên thuộc thế hệ cùng trang lứa với các nhân vật cộng sản Việt nổi tiếng làm việc bên cạnh ông Hồ trong thời kỳ đầu như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Chu Văn Tấn, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Tử Bình, Lê Thiết Hùng, Trần Đăng Ninh, Phùng Chí Kiên, Hoàng Sâm, Nguyễn Chí Thanh...

Chẳng hạn Nguyễn Sơn cùng tuổi với Lê Thiết Hùng nhưng kém Hoàng Văn Hoan 3 tuổi, kém Phạm Văn Đồng 2 tuổi, kém Trường Chinh và Lê Duẩn một tuổi, hơn Chu Văn Tấn 1 tuổi, hơn Trần Tử Bình 2 tuổi, hơn Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ 3 tuổi. Tuy nhiên Nguyễn Sơn độc đáo, khác biệt hẳn những người này :

1. kể từ đến 1925-1945 , Nguyễn Sơn đi làm Cách mạng cộng sản nhưng Cách mạng cộng sản Tầu chứ không phải là Cách mạng cộng sản Việt. Chỉ hoạt động với Đảng cộng sản Tầu, không hoạt động với Đảng cộng sản Việt.

2. Nguyễn Sơn về Việt Nam, sau 20 năm hoàn toàn vắng bóng, với tư cách là một đảng viên Đảng cộng sản Tầu, do Mao Trạch Đông đích thân chọn để giúp Đảng cộng sản Việt đối phó với tình trạng dầu sôi, lửa bỏng lúc bấy giờ. Trước khi lên đường nhận nhiệm vụ Hồng Thủy/Nguyễn Sơn đã được Mao tiếp kiến dặn dò trước sự hiện diện của cả Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh tại thủ phủ Diên An (sách Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương, trang 225 ). Sau 5 năm làm nhiệm vụ ở Việt Nam, trở lại Trung Quốc năm 1950 Hồng Thủy/Nguyễn Sơn được bố trí cư trú ngay ở Trung Nam Hải là một thứ "Tử Cấm Thành" của Đảng cộng sản Tầu tại thủ đô Bắc Kinh...

Mao Trạch Đông biệt phái Hồng Thủy/Nguyễn Sơn giúp Đảng cộng sản Việt Nam đánh Pháp trong thời gian 1945-1950, không khác gì biệt phái Vi Quốc Thanh, La Quy Ba làm công tác tương tự trong thời gian 1950-1954, hay biệt phái Trần Canh đến Việt Nam làm một công tác đặc biệt có tầm quan trọng chiến lược là thiết kế và hướng dẫn một lực lượng Việt Minh - vừa được bí mật huấn luyện và trang bị trên đất Tầu - mở Chiến dịch Biên giới tháng 9/1950 nối liền thành một giải "đại hậu phương Trung Quốc" với "khu giải phóng" ở miền Bắc Việt Nam sau khi đã tiêu diệt quân Pháp ở Đông Khê và Thất Khê. Dĩ nhiên Mao căn cứ vào mỗi tình thế cụ thể để chọn người thích hợp theo nguyên tắc "đúng người, đúng việc".

3. Theo lời của Trung tướng Trần Độ trong bài hồi ký "tướng Nguyễn Sơn và tôi" thì ông Hồ Chí Minh trong buổi đầu đã giới thiệu Nguyễn Sơn với các đồng chí Trung ương Đảng cộng sản Việt là một người "thân kinh bách chiến" và hiển nhiên vào thời điểm lịch sử đó chính ông Hồ không thấy có cộng sự viên nào khác có thể bì kịp với người vừa mới trở về. Không ai có bề dầy kinh nghiệm về các hoạt động chính trị và quân sự của Nguyễn Sơn. Người có ít nhiều kinh nghiệm về hoạt động chính trị như Tổng bí thư Trường Chinh thì lại không có kinh nghiệm về quân sự, người có ít nhiều kinh nghiệm quân sự như Bộ trưởng quốc phòng Chu Văn Tấn lại không có kinh nghiệm về hoạt động chính trị. Nguyễn Sơn, vào thời điểm lịch sử 1945-1950, là con người cộng sản Việt Nam "văn võ song toàn".

Một người Việt Nam khác dưới trướng của ông Hồ cũng được coi là "văn võ song toàn" nhưng là về sau này chứ không phải trong giai đoạn 5 năm đầu khó khăn ấy và người đó là Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp có bằng cấp đại học, có kiến thức kinh điển nhưng đối chiếu với Nguyễn Sơn thì kinh nghiệm chính trị của ông chỉ giới hạn trong giới học thức và hơn 1 năm tù Thực dân Pháp. Thành tích quân sự của Võ Nguyên Giáp còn mỏng hơn nữa - ông Giáp chuẩn bị nhưng chưa kịp đi thụ huấn quân chính ở Diên An thì đã được gọi về để chỉ huy đội quân du kích võ trang tuyên truyền năm 1944. Kinh nghiệm chiến đấu gọi là chống Pháp, chống Nhật vào thời điểm lịch sử đặc biệt ấy của ông Giáp thực ra chỉ gồm trên dưới một năm "đánh võ" trong cái "khoảng trống" ngẫu nhiên được tạo ra trong buổi giao thời (1944-1945) do các thế lực đối nghịch triệt hạ lẫn nhau, trung hòa lẫn nhau trên đất nước Việt Nam : Nhật lật đổ Pháp nhưng chưa kịp làm chủ hẳn Đông Dương thì đã phải buông súng đầu hàng Đồng minh...

Võ Nguyên Giáp chỉ kém Nguyễn Sơn 3 tuổi nhưng kinh nghiệm làm cách mạng cộng sản, nhất là kinh nghiệm thực tiễn về các khía cạnh của "chiến tranh nhân dân" thì kém hơn Nguyễn Sơn gần 20 năm !

4. Ông Hồ Chí Minh lúc về sau có thể thấy lời ca ngợi "thân kinh bách chiến" dành cho Nguyễn Sơn có hậu quả bất lợi nhưng "thân kinh bách chiến" đúng ra vẫn chỉ phản ảnh một phần cuộc đời tranh đấu của Nguyễn Sơn trên đất Trung Hoa.

Nguyễn Sơn đến Trung Hoa năm 1925 lúc 17 tuổi. Tốt nghiệp khóa 4 trường quân sự nổi tiếng Hoàng Phố năm 1926 và là một trong 15 tướng lãnh của Trung Quốc xuất thân từ ngôi trường này như Lâm Bưu, Từ Hướng Tiền, Trần Canh, Lưu Chí Đan...

Trường Hoàng Phố là biểu tượng 2 đảng Quốc-Cộng Trung Hoa hợp tác lần đầu theo chủ trương "Liên Nga, dung Cộng" của lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng Tôn Dật Tiên. Hoàng Phố là nơi Tưởng Giới Thạch làm Hiệu trưởng/Tư lệnh, Liêu Trung Khải làm chính ủy, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ làm giảng viên, Chu Ân Lai làm giám đốc học vụ, Mikhail Borodin phái viên cao cấp của Stalin làm cố vấn.

Năm 1927 bùng nổ tranh chấp Quốc-Cộng ở Trung Hoa, Nguyễn Sơn gia nhập Đảng cộng sản Tầu và tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Diệp Kiếm Anh. Đảng cộng sản Tầu, ở thế yếu hơn, bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị đàn áp khốc liệt, phải bỏ thành thị chạy về các vùng rừng núi, nông thôn, phát động chiến tranh nhân dân theo sách lược của Mao, kết hợp du kích chiến với vận động chiến, rồi tuyên bố thành lập Cộng hòa Sô viết Trung Hoa năm 1931, tạo tình trạng một quốc gia trong một quốc gia.

Thời kỳ 1929-1931 Nguyễn Sơn, nằm gai nếm mật, chiến đấu trong hàng ngũ Hồng Quân Công Nông ở vùng Sô viết Trung ương thuộc tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến, lần lượt trải qua các chức vụ chính trị viên đại đội, chính ủy trung đoàn, chủ nhiệm chính trị sư đoàn, góp phần đẩy lui nhiều cuộc tấn công vây quét quan trọng của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc.

1932 : Nguyễn Sơn làm giảng viên chính trị trường Quân chính Trung ương cùng lúc với La Quy Ba. Hoàn toàn hòa nhập vào môi trường Trung Hoa về mọi khía cạnh kể cả văn hóa, ngôn ngữ như ứng khẩu diễn thuyết trước các đám đông, làm báo, viết văn, làm thơ, sinh hoạt, chiến đấu không khác gì một cán bộ cộng sản bản lĩnh người Tầu chính hiệu. Năm 1933 Nguyễn Sơn sáng lập đoàn kinh kịch đầu tiên của Đảng cộng sản Tầu phục vụ cổ vũ chiến đấu, tự mình viết kịch, làm đạo diễn và diễn xuất.

Nhiệt tình, trung thành, tận tụy, xông xáo, nóng tính nhưng phóng khoáng, vui nhộn, trình độ trí thức ngang bằng hay còn cao hơn các cán bộ lãnh đạo cộng sản Tầu khác, lại thông minh, hiếu học, ham đọc sách, có tư duy chiến lược, thích nghi dễ dàng với mọi hoàn cảnh cộng với các tài năng thiên phú đã khiến Hồng Thủy sớm lọt vào mắt xanh và trở nên gần gũi, thân thiết với các lãnh tụ cao cấp nhất như Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vĩnh Trản, Trần Nghị, Lưu Bá Thừa, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài, Nhậm Bật Thời, Lý Phú Xuân, Thái Xương... Những người này thường gọi Nguyễn Sơn là "Tiểu Hồng" một cách thân mật, tự nhiên. Không một người cộng sản Việt Nam nào khác lại có quan hệ "người nhà" đối với Đảng cộng sản Tầu như trường hợp của Hồng Thủy/Nguyễn Sơn.

Tháng 1/1934 Hồng Thủy/Nguyễn Sơn được bầu làm Ủy viên Trung ương của Hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Cộng hòa Sô viết Trung Hoa với tư cách là đại biểu của "dân tộc thiểu số" (dân tộc Việt). Cùng với Hồng Thủy/Nguyễn Sơn có thêm một người thứ hai gốc Triều Tiên cũng được chọn và cũng với tư cách là đại biểu của dân tộc thiểu số (dân tộc Triều Tiên). Đây là một tiết lộ quan trọng của Đảng cộng sản Tầu được tìm thấy ở trang số 113-114 sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương", rất cần lưu ý !

Cuối năm 1934 Hồng Thủy/Nguyễn Sơn tham gia cuộc Trường Chinh hay Vạn Lý Trường Chinh nổi tiếng của Đảng cộng sản Tầu, trực tiếp dưới quyền Chu Đức lãnh tụ số 1 của Hồng quân lúc ấy đang điều khiển một trong 2 cánh quân chính. Trước đó, Hồng Thủy chiến đấu trong đoàn cán bộ Trung ương do Trần Canh chỉ huy và cũng phải luôn luôn xung trận như các đơn vị khác (Trần Canh sau này là danh tướng từng đánh nhau với đại quân của Nhật trong cuộc chiến Trung-Nhật, từng thống lãnh mấy chục vạn quân trong nội chiến Quốc-Cộng trước khi bí mật sang Việt Nam điều khiển chiến dịch khai thông biên giới, rồi làm phó Tổng Tư lệnh quân đội cộng sản Tầu đánh nhau với Mỹ tại chiến trường Triều Tiên, cuối cùng là Bộ trưởng Quốc phòng của Trung Quốc).

son3

Sơ đồ cuộc rút lui lịch sử của Hồng quân Trung Quốc qua 12.000 km, kéo dài 360 ngày, còn gọi là cuộc Trường chinh kháng chiến 1934-1935. Ảnh: Wiki.

Trường chinh là cái tên văn vẻ của cuộc hành quân triệt thoái khỏi căn cứ chính ở Giang Tây vì không chịu nổi áp lực "vây và diệt" của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Cuộc Trường chinh kéo dài hơn một năm trời (1934-1935), theo lộ trình hơn 12 ngàn cây số quanh co rất khó định trước, lúc rẽ về Tây, lúc phải đi vòng quanh như kiến bò trong miệng chén, lúc Bắc tiến, lúc tấn công các đồn bốt, thành trì để lấy đường đi, lúc chạy trốn, lúc bị phục kích, đánh chặn, bị săn đuổi từ trên trời, dưới đất, lúc ngày nghỉ, đêm di hành, vượt bao sông lớn, sông nhỏ, rừng rậm, núi tuyết, đầm lầy, thảo nguyên, các địa hình hiểm trở... xuyên qua 11 tỉnh của nước Tầu mênh mông như Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Cam Túc, Ninh Hạ... Khởi đầu, quân số khoảng 100 ngàn, khi đến được căn cứ Diên An của Lưu Chí Đan trong vùng cao nguyên hoàng thổ phía bắc của tỉnh Thiểm Tây, gần với lãnh thổ Nội Mông thì chỉ còn khoảng 5 ngàn. Đại đa số đã chết trận, chết bệnh, chết đói, chết khát, mất tích, đào ngũ... Những người sống sót sau những gian khổ tận cùng đã trở nên thành phần kiên định nhất, bản lĩnh nhất, cố kết với nhau nhất trong Đảng cộng sản Trung Quốc và nhờ thế họ chiếm được toàn cõi nước Tầu 15 năm sau. Hồng Thủy/Nguyễn Sơn là một trong chiến sĩ làm nên "kỳ tích" thiên "anh hùng ca" này của Đảng cộng sản Tầu, tức là thuộc "một giai cấp quý tộc đỏ" trong nước Trung Hoa mới - giai cấp của những người Trường chinh (The Long Marchers) !

(Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt - tên thật Đặng Xuân Khu nhưng được biết đến nhiều hơn bằng tên hiệu Trường Chinh, cái tên biểu lộ sự khâm phục, ngưỡng mộ cuộc Trường Chinh "made in China" này - chắc phải có một cảm giác rất đặc biệt, khi lần đầu giáp mặt người Việt Nam duy nhất, bằng xương bằng thịt, đã tham dự, chiến đấu và sống sót sau cuộc Trường chinh thay đổi lịch sử. Rất tiếc không ai được biết cái cảm giác đặc biệt ấy của "đồng chí Trường chinh" thực sự thế nào bởi vì giống như hầu hết các cộng sự viên thân cận nói trên của ông Hồ, Trường Chinh cũng tránh né việc công khai đề cập đến nhân vật Hồng Thủy/Nguyễn Sơn trong suốt cuộc đời. Người ta tất nhiên không khỏi thắc mắc tại sao Trường Chinh lại phải "kín tiếng" như thế ?)

Năm 1936 Hồng Thủy/Nguyễn Sơn là một trong 40 học viên khóa đầu tiên của trường Đại học Hồng Quân Công Nông Trung Quốc vừa chính thức khai giảng. Các học viên là cán bộ cấp trung đoàn và sư đoàn. Mao Trạch Đông đích thân làm chính ủy kiêm thầy giáo, Lâm Bưu làm hiệu trưởng kiêm học viên. Mao dậy về "các vấn đề chiến lược của chiến tranh cách mạng Trung Quốc", Hồng Thủy và các học viên khác tiếp thu, nghiên cứu, thảo luận, phát biểu sôi nổi, cùng trao đổi các bài học kinh nghiệm đấu tranh chính trị, quân sự trong 10 năm qua. Hoạt động ngoại khóa còn có diễn kịch (Hồng Thủy dĩ nhiên có lúc là kịch sĩ) và chơi thể thao. Vợ chồng Chu Đức, Tổng tư lệnh hồng quân, xếp cũ của Hồng Thủy cũng thường đến trường chơi bóng rổ cùng đội Hồng Thủy và các học viên khác, rất là "huynh đệ chi binh". (Hồng Thủy thân với Chu Đức đến độ thời gian làm việc và cư trú ở Bắc Kinh từ mùa hè 1954 trở đi, buổi tối ăn cơm xong Hồng Thủy thường đi bách bộ rẽ vào nhà Chu Đức hàn huyên chuyện cũ vì hai gia đình ở chung trong một khu phố (trang 358, sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương")

Tháng 1/1937 Hồng Thủy tốt nghiệp Đại học Hồng Quân và về làm việc ở Tổng Bộ Chính trị Hồng Quân Công Nông, giữ chức Chủ nhiệm Hội đồng động viên khu 4 thuộc quân khu Tấn Sát Ký gồm 3 tỉnh Sơn Tây, Sát Cáp Nhĩ, Hà Bắc (mỗi tỉnh ở bên Tầu thường lớn suýt soát với cả nước Việt Nam). Hồng Thủy cũng làm chủ nhiệm nhật báo Tấn Sát Ký, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng ủy biên khu. Lúc này hai Đảng cộng sản và Quốc dân đảng Trung Hoa, sau sự biến Tây An (Tưởng Giới Thạch bị tướng thuộc hạ bắt cóc, được trả tự do nhưng bị ép phải ngưng nội chiến để "đoàn kết kháng Nhật"). Mao cũng đành phải chấp nhận trên nguyên tắc sự lãnh đạo của Tưởng, bãi bỏ cái gọi là "Cộng hòa Sô viết Trung Hoa", đổi tên Hồng Quân Công Nông thành Bát Lộ Quân và đoàn quân cộng sản này đã phát triển cực kỳ nhanh chóng trong những năm "đoàn kết kháng Nhật". Dưới cờ của Bát Lộ Quân, Hồng Thủy viết chính luận trên báo, viết văn, thơ, kịch thơ, trường thi... tích cực tuyên truyền "Kháng Nhật cứu quốc"... gây được ảnh hưởng lớn, nâng cao tinh thần quân dân trong suốt 8 năm chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945). Cũng trong thời gian này, Hồng Thủy đảm nhiệm cả việc giảng dậy tại Đại học Kháng Nhật (là tên mới của Đại học Hồng Quân Công Nông Trung Quốc đã nói ở trên) trong quân khu Tấn Sát Ký để bồi dưỡng nhân tài chỉ huy cho Bát Lộ Quân. Không phải là giảng dậy bình thường mà vừa giảng dậy, vừa di chuyển, vừa chạy giặc, vừa đánh giặc, rất vất vả, căng thẳng.

Năm 1938, ở tuổi 30, tại vùng căn cứ Kháng Nhật Tấn Sát Ký, Hồng Thủy kết hôn với Trần Kiếm Qua 24 tuổi (sinh năm 1914), một đảng viên tích cực của Đảng cộng sản Trung Quốc, chủ tịch Hội Phụ Nữ của huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây (sau làm Viện trưởng một Viện Giáo Dục Mẫu Giáo và chức vụ sau cùng trước khi nghỉ hưu là Phó Giám đốc Sở Giáo Dục Bắc Kinh). Một cuộc hôn nhân trong thời loạn, trai tài gái sắc, chung lý tưởng cộng sản - "yêu nhau là cùng nhìn về một hướng", nhiệm vụ vẫn là trên hết. Tình thâm nghĩa trọng nhưng tương đối ngắn ngủi - 2 mặt con, 7 năm vợ chồng (1938-1945). Hồng Thủy về Việt Nam công tác, lấy người khác. Người vợ, người đồng chí trong Đảng cộng sản Tầu không tái hôn, dù cảm thấy rất cay đắng vì bị phụ tình.

5. Trung tướng Trần Độ, sinh năm 1923, kém Nguyễn Sơn 15 tuổi, kể lại những ngày đầu tiếp xúc với Nguyễn Sơn (nguyên văn) : "...Tôi thấy ngay rằng ông là bậc đàn anh, một đàn anh có tham dự cuộc Trường chinh bên Trung Quốc. Còn ông thì xem xét cái này cái kia, không nói gì, song qua thái độ biểu hiện xem chừng ông có ý xem thường".

Một lần khác, cuối năm 1947, lúc Nguyễn Sơn đang làm Tư lệnh Khu 4 (tức Chiến khu 4), Trần Độ, nguyên chính ủy mặt trận Hà Nội , làm trưởng đoàn hướng dẫn một số cán bộ văn nghê sĩ có tên tuổi như Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến, Nguyễn Công Hoan... đến làm công tác văn hóa, kể tiếp (nguyên văn) :

"...Khi tôi tới trình giấy tờ, ông Sơn thấy danh sách có mấy tên nhà văn liền hẹn mời đích danh các ông, còn cán bộ chính trị ông không nhắc tới. Tôi liền dẫn mấy ông nhà văn vào phòng khách, là gian đầu của cái nhà tranh vách đất, có bộ ghế mây cũng tươm tất. Tôi kéo ghế ngồi lại. Ông Sơn chào khách :

- Hôm nay thấy có các anh văn nghệ sĩ, tôi mời mấy anh lại nói chuyện văn nghệ chơi.

Thấy tôi cũng ngồi lại, ông chỉ vào mặt bảo :

- Mày ngồi đây làm gì ? Mày biết chó gì văn nghệ.

Ông bổ báng như vậy, nhưng tôi cũng hiểu là lời nói thân tình theo phong cách của ông.

Tôi đáp :

- Tôi muốn ngồi nghe các anh nói chuyện để học tập.

Ông ấy liền bảo :

- Ừ, thì cứ ngồi đấy...".

Phong cách rất đặc biệt nhưng đồng thời cho thấy Nguyễn Sơn là một người rất tự tin, rất kẻ cả !

6. Tháng 2/1946 chính quyền Tưởng phải tập trung lực lượng đối phó với với Mao nên ký hiệp định với Pháp thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đông Dương đổi lại việc Pháp trả lại các tô giới ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu và nhường lại đường sắt ở Vân Nam. Ngày 6/3/1946 Hồ Chí Minh ký thỏa thuận với Pháp đồng ý cho Pháp đưa quân vào Miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng để... giải giới quân Nhật. Thực ra, chính quyền Việt Minh ở thế yếu, không ký cũng không cản được Pháp đổ bộ. Ông Hồ tạm mừng thoát nạn Tầu Tưởng và loại trừ được các đảng phái quốc gia "phản động", chỉ còn phải đối phó với một địch thủ là Thực Dân Pháp. Dù vậy, lực lượng quân sự của Pháp vẫn mạnh hơn Việt Minh mấy chục lần. Việc ký kết chỉ có nghĩa đảng

Đảng cộng sản Việt mua thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mà họ biết sớm muộn sẽ bùng nổ lớn hơn và lan tràn khắp miền Bắc.

Trước đó, chưa kịp ngồi nóng chỗ ở Hà Nội, tháng 12/1945, Nguyễn Sơn, không phải Võ Nguyên Giáp, được tức tốc điều động ra ngay tuyến đầu chống đại quân của Pháp đang đánh phá dữ dội để "bình định" phần lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 16 - với tư cách Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Với chức vụ này, Nguyễn Sơn nghiễm nhiên là nhân vật số 1 của của một nửa nước Việt Nam cho đến tháng 12/1946. Ngược lại chính Nguyễn Sơn, với một quân số ít ỏi, vũ khí thiếu thốn, ngân khố trống rỗng phải đối phó với gần như toàn bộ binh lực của Pháp, vào cuối năm 1946 đã lên tới con số 90.000.

Sắc lệnh 183 bổ túc thành phần Ủy ban Kháng chiến Miền Nam do Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký ngày 24/09/1946 có nội dung như sau :

"Chiếu đề nghị của Chủ tịch Quân sự Ủy viên Hội và Bộ trưởng Quốc phòng, cử :

Ô. Nguyễn Sơn : Chủ tịch Ủy ban Kháng Chiến miền Nam Việt Nam

Nguyễn Văn Tây : Phó Chủ tịch

Phạm Văn Bạch : Ủy viên

Cao Hồng Lĩnh : -

Lê Duẩn : -

Nguyễn Chánh : -

Huỳnh Văn Tiểng : -

Chủ tịch Chính Phủ Việt Nam

(ký tên : Huỳnh Thúc Kháng)"

Sắc lệnh - do ông Huỳnh Thúc Kháng ký theo đề nghị của Võ Nguyên Giáp (chủ tịch quân sự ủy viên hội) và chắc là theo chỉ thị của ông Hồ Chí Minh đang bận thương thuyết một giải pháp hoãn xung với chính phủ Pháp ở Paris - cho thấy ngay cả Lê Duẩn cũng là thuộc cấp của Nguyễn Sơn vào những năm tháng ấy.

Cuối năm 1946 ông Hồ còn ký một sắc lệnh khác cử Nguyễn Sơn làm Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng (lúc đó không có ai là Tổng tham mưu trưởng hay là không có chức Tổng tham mưu trưởng).

Trong khi làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, Nguyễn Sơn còn làm tư lệnh kiêm chính ủy khu 5 và 6 thuộc miền Nam Trung Bộ gồm nhiều tỉnh cao nguyên như Công Tum, Đắc Lắc, Gia Lai và các tỉnh duyên hải như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận... đang bị quân Pháp tấn công ác liệt. Từ giữa 1947 đến cuối 1949 Nguyễn Sơn làm tư lệnh kiêm chính ủy Khu 4 là vùng đất chiến lược hiểm yếu nhất nhì của Việt Nam gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.

Tất cả đều là những trách nhiệm trọng yếu, nặng nề nơi đầu sóng, ngọn gió.

7. Ở tất cả mọi nơi, Nguyễn Sơn đều nắm toàn quyền, thực thi sáng kiến của chính mình, hành xử một cách rất độc lập, ảnh hưởng đến các chính sách của Trung ương Đảng cộng sản Việt chứ không phải ngược lại. Trong 5 năm đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Pháp (1945-1950) sự đóng góp nói chung của Nguyễn Sơn rất lớn, rất quan trọng - lớn hơn, quan trọng hơn là đã được Đảng cộng sản Việt công nhận và ghi nhận. Vậy, Nguyễn Sơn đã thực sự đóng góp cho cho cuộc kháng chiến chống Pháp như thế nào ?

Khi rời Diên An để về Việt Nam, hành lý quan trọng nhất được nhắc đến của Hồng Thủy/Nguyễn Sơn là các tác phẩm thuộc loại cẩm nang chiến lược của Mao Trạch Đông mà Hồng Thủy/Nguyễn Sơn đã cặm cụi dịch ra tiếng Việt từ mấy tháng trước, chẳng hạn như "Bàn về cách đánh lâu dài", "Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc"... (trang 224, "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương"). Chỉ riêng điểm này cũng có thể hình dung và cảm nhận được cái vai trò, sứ mạng mà "hoàng đế kiêm giáo chủ" Mao Trạch Đông giao cho "tướng quân kiêm đệ tử" Hồng Thủy thi hành ở vùng đất phương Nam hết sức thiết yếu đối với Trung Quốc : Rút tỉa những bài học từ Cách mạng cộng sản Tầu để áp dụng uyển chuyển, thích nghi vào Cách mạng cộng sản Việt, Hồng Thủy sẽ là lý thuyết gia, chiến lược gia, kiến trúc sư chính thi triển phép mầu "chiến tranh nhân dân kiểu Mao" chống lại các thế lực thù địch.

"Vạn sự khởi đầu nan", Nguyễn Sơn đáng gọi là nhà lý luận quân sự cách mạng cộng sản đầu tiên của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Ông Phạm Xanh, thuộc trường Khoa học xã hội Việt Nam, tin rằng chỉ trong 5 năm ngắn ngủi công tác ở Việt Nam Nguyễn Sơn viết rất nhiều, báo và sách, nhưng ông mới chỉ tìm thấy 3 cuốn sách (không kể các sách dịch) là các cuốn "Chiến thuật", "Dân quân, một lực lượng chiến lược", "Chủ nghĩa Lenin" trình bầy các nguyên tắc căn bản một cách sáng sủa, thực tiễn, lôi cuốn. (Ông không cho biết tại sao những tác phẩm của tác giả Nguyễn Sơn đã không được bảo quản đúng mức để bị thất lạc).

Áp dụng lý thuyết vào thực tế trên căn bản tri hành hợp nhất và 20 năm kinh nghiệm học tập, chiến đấu trong nội chiến Quốc-Cộng Trung Hoa, trong chiến tranh Trung-Nhật - lấy yếu đánh mạnh, trường kỳ kháng chiến, toàn dân đánh giặc... Nguyễn Sơn làm được rất nhiều việc trong nửa đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam :

- mở trường Thiếu sinh quân đầu tiên.

- mở trường Văn hóa Kháng chiến đầu tiên.

- mở trường Lục quân tại Quảng Ngãi để gấp rút đào tạo cán bộ quân chính chỉ huy, tự mình làm hiệu trưởng kiêm giảng viên.

- làm hiệu trưởng kiêm giảng viên trường võ bị Trần Quốc Tuấn là trường đại học quân sự ở miền Bắc Việt Nam.

- thành lập các lực lượng dân quân song song với việc tạo dựng các lực lượng du kích, lực lượng chính quy cấp tiểu đoàn, trung đoàn.

- sử dụng văn hóa, văn nghệ làm vũ khí tranh đấu, đãi ngộ các văn nghệ sĩ, một cách rất đặc biệt thân tình, cho họ nhiều tự do sáng tác và thường xuyên giao lưu với họ. Nguyễn Sơn từng làm chủ hôn cho Phạm Duy lấy Thái Hằng ở Thanh Hóa trong chiến khu 4 và những bài hát kháng chiến nổi tiếng của Phạm Duy như "bà mẹ Gio Linh" đã được sáng tác trong "lãnh địa" của Nguyễn Sơn. Các văn nghệ sĩ, trí thức đổ về Khu 4 nhiều vô số kể. Trong "hồi ký Phạm Duy tập 2", nhạc sĩ Phạm Duy viết : "Tướng Sơn ra đi là tôi thành một người bị bỏ quên ở chợ Neo. Vị Tư lệnh hiện nay là Hoàng Minh Thảo và Ủy viên Chính trị Trần Văn Quang không phải là người biết dùng văn nghệ sĩ…".

- thân dân, gần dân, hòa mình với dân, chan hòa với binh sĩ, cán bộ, tác phong rất dân dã (không tiền hô, hậu ủng, quần áo xuề xòa, ra vào nơi chợ búa, đi uống cà phê, đánh cờ tướng, chơi đá banh, vào nhà nông dân lăn ra ngủ, mặc quần đùi tập chạy với bộ đội, cong mình đạp xe đạp xông xáo khắp nơi, đăng đàn diễn thuyết tự biên, tự diễn, hùng biện, lôi cuốn).

- thường xuyên tổ chức tập trận và tổ chức đánh trận thật theo các nguyên tắc của du kích chiến (địch tiến thì ta lùi, địch đóng quân thì ta quấy nhiễu, địch rút lui thì ta truy kích ; nghiên cứu cẩn thận, chuẩn bị kỹ, tập trung lực lượng áp đảo, đánh bất ngờ vào chỗ yếu nhất của địch v.v.).

- tổ chức các đại hội tập tức là những khóa rèn cán, chỉnh quân, hội thảo quân chính, thi điền kinh, thi bắn, đánh trận giả... dẫn đến các phong trào thi đua như chiến sĩ lập công, nông dân thi đua sản xuất, văn nghệ sĩ thi đua sáng tác...

- "đổi không gian lấy thời gian" tức là chấp nhận mất đất lúc đầu để bảo toàn và phát triển lực lượng. Lui quân mà không loạn, vẫn tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Chỉ giữ những nơi quan trọng, hiểm yếu, thiết lập các căn cứ địa, các vùng giải phóng, các mạng lưới an ninh, tình báo nhân dân, tổ chức các hoạt động kinh tế, sản xuất, phân phối tự túc, tự cường.

- vùng đất lịch sử "địa linh nhân kiệt", nơi có đồng bằng sông Mã, sông Cả, dân đông, núi rừng hiểm trở Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc Quân khu 4, "vương quốc" của Tư lệnh kiêm Chính ủy Nguyễn Sơn đã được củng cố thành một căn cứ địa quan trọng của Kháng chiến chống Pháp, song song với căn cứ Việt Bắc - còn an toàn và bất khả xâm phạm hơn cả Việt Bắc, có khả năng chi viện mọi mặt cho các chiến trường khác, làm kiểu mẫu cho cả nước noi theo, góp phần vô hiệu hóa chiến lược đánh mạnh, thắng nhanh/tốc chiến, tốc thắng của quân viễn chinh Pháp...

Ông Võ Nguyên Giáp trong bài phát biểu muộn màng về "lưỡng quốc tướng quân" vào tháng 6 năm 2000 đã nói rất đúng : "...Năm 1949 có một tài liệu của Pháp công bố, Pháp đã buộc phải thừa nhận : dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh" nhưng ông Giáp, không biết vô tình hay cố ý đã quên rằng "ba quân dễ kiếm, một tướng khó tìm" nên đã không xác nhận sự đóng góp quan trọng bậc nhất vào thành quả kháng chiến chống Pháp này của Hồng Thủy/Nguyễn Sơn. Ngoài ra, cũng có thể ông Giáp đã cố ý quên rằng mặc dù gốc gác người Việt, Hồng Thủy/Nguyễn Sơn là một đảng viên cốt cán của Đảng cộng sản Tầuc trở về Việt Nam công tác theo mệnh lệnh và sứ mạng giao phó của Mao Trạch Đông, chớ không phải của ai khác. Và nếu đúng cái sứ mạng giao phó là "cầm chân" đế quốc Pháp tại Việt Nam càng lâu càng tốt đợi ngày Mao thắng Tưởng, chiếm xong Hoa lục, khai thông biên giới Trung-Việt (9/1950) thì cái sứ mạng ấy đã được Hồng Thủy/Nguyễn Sơn căn bản chu toàn.

Cao Tuấn

(10/02/2020)

Published in Tư liệu

Lời tác giả : Thượng đỉnh Trump-Kim ở Việt Nam đã mở ra một cơ hội hiếm có để phá vỡ các bế tắc bằng những thảo luận hay tranh luận sôi nổi về các vấn đề tư tưởng căn bản (vốn là điểm mạnh Thông Luận) đi đôi với các chương trình làm việc từng bước cụ thể. Tôi thành thực nghĩ như vậy và mong có sự đồng cảm.

sinhlo1

*******************

Đọc "Chân dung và dáng đứng Việt Nam qua Thượng đỉnh Trump-Kim" trên báo Thông Luận, nghĩ về một sinh lộ cho dân tộc Việt

"Sinh lộ cho dân tộc Việt" là một cố gắng tổng hợp một số ý tưởng của các nhân sĩ Việt Nam như cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, học giả Hồ Hữu Tường, Tiến sĩ Hà sĩ Phu, cụ Nguyễn Trung và cả ông Nguyễn Gia Kiểng cùng tài liệu Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai - Dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Lẽ dĩ nhiên, dù là "thuật nhi bất tác", cá nhân người làm công việc khá liều lĩnh này duy nhất chịu trách nhiệm hoàn toàn về những sự không hoàn hảo hay sal lầm của mình, chỉ mong mang lại sự quan tâm thảo luận về nội dung đã nêu ra, càng rộng rãi, càng sâu sắc càng hay.

"Sinh lộ cho dân tộc Việt" như một giải pháp toàn bộ bao gồm những điểm chính như sau :

- Việt Nam là quốc gia "Độc lập"

- Việt Nam là quốc gia theo chế độ "Trung lập pháp lý"

- Việt Nam là quốc gia theo chế độ "Dân chủ tự do"

- Việt Nam là quốc gia theo "Chủ nghĩa xã hội"

- Việt Nam là quốc gia theo "Chủ nghĩa hòa bình"

"Toàn bộ" có nghĩa tất cả những điểm trên đều liên hệ mật thiết với nhau, tạo thành "điều kiện cần và đủ" cho Sinh Lộ.

Trước khi khai triển thêm cho rõ nội dung từng chủ điểm phải nhấn mạnh chính người Việt Nam, chứ không phải ai khác, bằng sự khôn ngoan và quyết tâm sẽ thực hiện giải pháp "Sinh lộ cho Việt Nam".

Người Việt Nam ở đây là ai ? Xin trả lời : Là mọi người Việt Nam, có nghĩa không loại trừ ngay cả chính quyền cộng sản Việt Nam - "buông giao đồ tể xuống là thành Phật".

Thực ra, nếu chính quyền cộng sản hiện thời chấp nhận cùng với nhân dân Việt Nam làm mọi sự thay đổi cần thiết thì đó là trường hợp tối ưu, tiết kiệm được thì giờ và xương máu.

Ngược lại không chịu "buông dao đồ tể", nhân dân Việt Nam bằng cách này hay cách khác phải đứng lên chấm dứt cái chế độ chính trị phản dân, hại nước để thành lập một chế độ mới thực hiện mọi lý tưởng và chương trình đã định.

sinhlo2

Nếu không thay đổi nhân dân Việt Nam sẽ bằng cách này hay cách khác đứng lên chấm dứt cái chế độ chính trị phản dân, hại nước để thành lập một chế độ mới…

Nếu tại Âu Châu, nhân dân Nga, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Albanie, Ukraine có thể đứng lên chấm dứt các chế độ độc tài cộng sản, nếu tại Á Châu, nhân dân các nước Phi Luật Tân, Indonesia có thể vùng dậy xóa bỏ chế độ độc tài hữu phái Marcos, Suharto thì tại sao nhân dân Việt Nam, một thời được ca tụng "đỉnh cao trí tuệ loài người", lại không thể làm được sự nghiệp tương tự trong những điều kiện còn thuận lợi hơn nhờ những tiến bộ vượt bực về kỹ thuật truyền thông trong thời đại mới ?

Sau đây là nội dung từng chủ điểm :

1. "Độc lập" có nghĩa không chấp nhận lệ thuộc, không chấp nhận sự xâm phạm chủ quyền quốc gia như chủ quyền lựa chọn thể chế, chủ quyền lựa chọn người lãnh đạo, chủ quyền lãnh thổ...

Độc lập cũng có nghĩa duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh để tự vệ, một "sách lược quốc phòng toàn dân" sẵn sàng đánh bại, đẩy lui, làm sa lầy, vô hiệu hóa mọi xâm lấn và xâm lăng.

2. "Trung lập pháp lý" có nghĩa không những tuyên bố Trung lập, cam kết không ngả về bên nào, cam kết đứng ngoài các tranh chấp quốc tế "gió tanh, mưa máu", không theo ai chống ai, không cho đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ mà còn chính thức ghi chủ trương Trung lập trong Hiến pháp mới, chấp nhận thanh sát quốc tế, chính thức yêu cầu Liên Hiệp Quốc cũng như các cường quốc công nhận, ghi nhận và ủng hộ chính sách trung lập thành thực, đứng đắn của Việt Nam.

Nói một cách khác Việt Nam sẽ thực hiện "Trung lập pháp lý" giống như nước Thụy Sĩ.

Chủ trương "Trung lập pháp lý" nhằm hóa giải mọi đe dọa nguy hiểm đối với sự sinh tồn của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ vị trí xung yếu của quốc gia Việt Nam ở Đông Nam Á, một địa điểm chiến lược quan trọng mà các đại cường quốc đều không muốn bỏ qua nên tìm cách tranh đoạt hoặc kiểm soát hoặc tìm cách lôi kéo, dẫn dụ Việt Nam đứng vào phe của họ chống lại phe khác.

Chủ trương trung lập dựa trên kinh nghiệm xương máu của chính người Việt Nam và nhận định thiết thực là nước nhỏ liên minh với nước lớn chống lại một nước lớn khác thường "lợi bất cập hại" :

- vì nhỏ, yếu nên hay bị nước lớn thù nghịch nắm đầu "đánh" trước, "trừng phạt" bằng mọi cách ;

- nếu các nước lớn không muốn đụng độ trực tiếp vì sợ dẫn đến chiến tranh nguyên tử tận diệt, nước nhỏ sẽ bị đẩy ra phía trước làm tốt thí và "chết như ruồi" ;

- nếu "phe ta" thắng chiến lợi phẩm ngon lành nhất thuộc về đàn anh, đàn em chỉ còn phần xương xẩu ;

- nếu các nước lớn làm hòa, dàn xếp với nhau nước nhỏ sẽ bị bỏ rơi, bị làm vật đổi chác hoặc hy sinh "tế thần"...

Hiện thời Việt Nam là đối tượng tranh giành giữa Mỹ và Tầu. Mỗi nước đều có chính sách riêng đối với Việt Nam.

"Thượng sách" của Tầu là duy trì nguyên trạng Việt Nam như một thuộc quốc, kiềm chế về mọi mặt, tha hồ chèn ép, thao túng. "Hạ sách" là phải bất lực ngồi nhìn Việt Nam xoay 180 độ, hoàn toàn theo Mỹ và để Mỹ sử dụng phá kế hoạch bành trướng của Tầu ở Đông Nam Á, Đông Bắc Á và trên toàn thế giới.

Nếu Tầu không tiếp tục được thượng sách, không cam tâm chịu hạ sách thì phải đành chấp nhận "Trung sách" là giải pháp không phải tốt nhất, nhưng cũng không phải xấu nhất : một Việt Nam Trung lập, không theo Tầu nhưng cũng không theo Mỹ để làm hại những quyền lợi chính đáng của Tầu.

Mặt khác, thượng sách của Mỹ là Việt Nam trở thành "đồng minh chiến lược gọi dạ bảo vâng" của Mỹ, hạ sách là Việt Nam là "chư hầu gọi dạ bảo vâng" của Tầu.

Mỹ không thực hiện nổi thượng sách, không thể chấp nhận hạ sách thì trung sách "Việt Nam Trung lập" lại chính là giải pháp tốt nhất cho Mỹ trong điều kiện hiện tại.

Việt Nam không theo Mỹ nhưng Việt Nam cũng không theo Tầu để làm hại những quyền lợi chính đáng của Mỹ.

Nếu Mỹ có nhiều lý do hơn để chấp nhận và ủng hộ Việt Nam Trung lập thì Tầu dù có ít lý do hơn cũng bị đặt trong vị thế khó có thể bài bác hay chống đối.

Trước công luận thế giới, Tầu bài bác, chống đối một nước Việt Nam Trung lập trên căn bản gì ?

Tầu hoàn toàn không có chính nghĩa nếu phủ nhận quyền sống và ý nguyện của Dân Tộc Việt Nam !

Một cường quốc có tham vọng làm bá chủ thế giới dù độc địa đến đâu cũng phải giữ gìn bộ mặt nhân nghĩa !

3. "Dân chủ tự do" có nghĩa :

- nước Việt Nam từ bỏ vĩnh viễn chủ nghĩa độc tài cộng sản mác xít - lêninít ;

- chủ quyền đất nước thực sự thuộc về toàn dân ;

- chấp nhận đa nguyên, đa đảng ;

- công nhận quyền tư hữu ;

- thượng tôn luật pháp ;

- tôn trọng nhân quyền ;

- mọi người bình đẳng trước luật pháp về quyền lợi và nghĩa vụ ;

- các quyền tự do căn bản được long trong công nhận và thực thi như: tự do bầu cử, ứng cử, tự do tôn giáo, tự do lập hội, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do kinh doanh và tự do làm những điều mà luật pháp không cấm ;

- chính quyền được tổ chức theo lối tam quyền phân lập (balances and checks) với nhiệm kỳ rõ rệt...

Cần nói thêm thể chế dân chủ tự do với nội dung như trên, đặc biệt với một nền báo chí tự do, sự hiện diện của các đảng đối lập, sự phân quyền... chính là những bảo đảm cho chính sách trung lập có ghi trong Hiến pháp của quốc gia Việt Nam sẽ được thi hành một cách nghiêm chỉnh trước sự phán xét của công luận quốc tế và quốc nội.

Đó là lý do tại sao chính sách trung lập thực sự phải song hành với chế độ dân chủ tự do chứ không thể song hành với một chế độ độc tài ngồi xổm trên luật pháp của chính mình, làm quyết định trong bóng tối, nay thế này, mai thế khác, nói một đằng làm một nẻo, không ai có thể kiểm soát và không ai tin tưởng.

4. "Chủ nghĩa xã hội" là chủ nghĩa xã hội dân chủ tự do theo mẫu mực các nước Bắc Âu như Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, tuyệt đối không phải loại chủ nghĩa xã hội tai hại kiểu độc tài cộng sản. Chủ nghĩa xã hội áp dụng ở Việt Nam có 2 mục đích chính : 

- Thực hiện một xã hội nhân bản, hướng tới sự bình đẳng một cách tích cực nhưng ôn hòa như tái phân phối lợi tức giữa các thành phần xã hội bằng các biện pháp thuế khóa, bảo đảm các an sinh xã hội, quy định mức lương và mức lợi tức tối thiểu, quốc hữu hóa các ngành hoạt động trọng yếu, giảm bớt tối đa sự phân cách giầu nghèo như tình trạng hiện tại trong đó khoảng 5% dân số có đặc quyền đặc lợi đang chiếm hết 90% của cải, tài sản của toàn xã hội, 95% dân số sống khốn cùng chia nhau 10% còn lại.

- Gây dựng lại tình liên đới, đoàn kết trong nhân dân cùng với lòng yêu nước, ý chí muốn bảo vệ tổ quốc thân yêu bấy lâu bị sa sút trầm trọng vì độc tài, tham nhũng, áp bức, dối trá, bóc lột, đạo đức giả...

5. "Chủ nghĩa hòa bình" có nghĩa Việt Nam theo đuổi một chính sách thân hữu, cởi mở với mọi quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước Mỹ, Pháp, Nhật, Nga và 3 nước láng giềng có chung biên giới là Lào, Cao Miên, Trung Hoa bất kể có hay không sự khác biệt về thể chế chính trị. 

Việt Nam cam kết "sống chung hòa bình", cam kết giải quyết mọi bất đồng một cách ôn hòa, công bằng và theo chuẩn mực luật pháp quốc tế.

Cao Tuấn

(05/03/2019)

Published in Diễn đàn

Về một người Việt Nam đi tìm ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Người Việt Nam nói ở đây là ông Nguyễn Ngọc Huy, tác giả quyển sách "Các ẩn số chánh trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" xuất hiện ở hải ngoại vào khoảng 1985-1986, nhưng tác phẩm này không được biết đến nhiều như các tác phẩm "chính thống" khác của ông. Tuy vậy, theo thiển ý, đó là một tác phẩm đứng đắn, độc đáo, đáng đọc và đáng suy nghĩ.

Nếu ông Huy chứng minh nhà văn Kim Dung, người Trung Hoa, có những hậu ý chính trị khi viết các bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng thì có thể chính ông Huy, một nhà chính trị Việt Nam cũng có những thông điệp chính trị riêng khi bỏ thì giờ viết sách về Kim Dung.

Nhưng trước hết ông Nguyễn Ngọc Huy là người thế nào ?

anso1

Luật sư Vương Văn Bắc (trái), Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (giữa) và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ trong một buổi hội thảo tại Sài Gòn (1965-1969)

Văn là người

Ông Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990) được biết đến đầu tiên là một người làm thơ. Ông làm thơ rất sớm, hầu hết các bài thơ đều được viết vào tuổi sấp sỉ 20.

Thơ của ông, với bút hiệu Đằng Phương, nhất quán có một nội dung đặc biệt :

Tôi chẳng phải là một nhà thi sĩ

Lấy văn thơ làm Lẽ Sống trên đời

Đem ngọc Châu trau chuốt mãi lên lời

Để trang điểm nàng Ly Tao diễm lệ

...

Tôi chỉ là một người dân đất Việt

Cảm nỗi buồn của kẻ mất quê hương

Nỗi nhục nhằn nỗi khổ cực đau thương

Của nòi giống kẹt trong cùm lệ thuộc

...

Tôi đánh bạo lấy vần thơ bỡ ngỡ

Để diễn trình quan niệm đấu tranh chung

Để phô bầy những nguyện ước chờ mong

Những triển vọng về tương lai giống Việt

...

Tôi mượn thơ để gây lòng phấn khởi

Cho chính mình trong những lúc gian lao

Trong những khi thất bại, những khi nào

Chân yếu đuối muốn rời đường chiến đấu

(Thay lời tựa, tập thơ Hồn Việt xuất bản lần đầu vào năm 1950)

Thơ Đằng Phương nên được xếp vào loại "Anh hùng ca" - nói về dân tộc, lịch sử, lòng yêu nước, yêu quê hương, ngợi ca những người tranh đấu vì nước quên thân :

...

Hỡi những ai kia đã lụy mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống :

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh !

(Nén hương lòng)

Diễn tả cảnh hy sinh bi tráng của họ như trường hợp Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài :

...

Sau cái nhìn chào non nước bi ai

Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng :

Việt Nam Muôn Năm ! Một đầu rơi rụng

Việt Nam Muôn Năm ! Người kế tiến lên

Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.

(Ngày tang Yên Báy)

Ý nghĩ của nhà thơ trong sáng, giản dị :

...

Trên đường lối đấu tranh cho lẽ sống, 

Bóng anh hùng nòi giống nếu không quên

Thì giang sơn vạn cổ vẫn lâu bền

Và Lịch Sử vẫn luôn bừng nhuệ khí

(Anh hùng Đất Việt)

Nếu bài hát "Tình Ca" của Phạm Duy :

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi !

Mẹ hiền ru những câu xa vời... Ạ ạ ơi...

Tiếng ru muôn đời... Tiếng nước tôi...

Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui...

Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi !...

đã khiến người Việt Nam suốt mấy thế hệ không nguôi thương nhớ quê hương thì bài thơ "Anh hùng vô danh" của Đằng Phương cũng có ảnh hưởng không kém kể từ thập niên 1950 cho đến ngày nay. Lời tâm can vang vọng rất tự nhiên :

...
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động

Dưới gót giầy của những kẻ xâm lăng

Đã xông vào khói lửa quyết liều thân

Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc

Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc

Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan, 

Người thất cơ đành thịt nát, xương tan

Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm

Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa

Họ buông gươm trở lại chốn quê nhà

Để sống lại cuộc đời trong bóng tối

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi

Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình

Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh

Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách

Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên

Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên

Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật

Nhưng máu họ đã len vào mạch đất

Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông

Và anh hồn chung với tấm tinh trung

Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

Sau tuổi hoa niên, ông Nguyễn Ngọc Huy không còn làm thơ nữa hoặc làm rất ít, nhưng cuộc đời còn lại cho đến khi chết ông sống đúng như thơ, từ suy nghĩ đến hành động, luôn hướng về mục đích phụng sự Tổ Quốc. 

Có lẽ không cần nhắc quá nhiều đến sự kiện ông Huy là người trí thức đậu cử nhân luật khoa và tiến sĩ chính trị học ở Paris trong trong thời gian sống lưu vong ở Pháp và trở về miền Nam Việt Nam làm giáo sư dạy về Luật Hiến pháp, Học thuyết Chính trị, Bang giao Quốc tế tại các trường đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ trong khoảng thời gian 1964-1975. Trong những năm tháng chiến tranh nhiễu nhương ấy, ông Huy nổi tiếng là một nhà giáo dậy giỏi, một lý thuyết gia uyên bác và một lãnh tụ chính trị quốc gia tận tụy nhưng cẩn thận, ôn hòa. Trong suốt cuộc đời ông Huy cũng viết nhiều sách báo giá trị bằng cả 4 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hán.

Tuy được xem là một lãnh tụ chính trị quan trọng của người Việt quốc gia ở miền Nam Việt Nam nhưng ông Nguyễn Ngọc Huy chưa bao giờ ở vị trí quyền lực để thực thi lý tưởng xây dựng một quốc gia dân chủ pháp trị lương hảo, tạo nội lực đủ sức chống lại chủ nghĩa cộng sản độc tài toàn trị. 

Lần duy nhất ông đến gần guồng máy quyền lực là khi người đồng chí "như hình với bóng" của ông là ông Nguyễn Văn Bông, giáo sư đại học, thạc sĩ công pháp, chủ tịch Phong trào Quốc gia Cấp tiến mà ông làm Tổng thư ký, chuẩn bị ra làm Thủ tướng vào năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông tổng thống "quân phiệt" Nguyễn Văn Thiệu. 

Tuy nhiên Đảng cộng sản Việt Nam, trông thấy trước được mối nguy hiểm, đã mau chóng ra lệnh cho đặc công ở Sài Gòn ám sát ông Nguyễn Văn Bông như họ đã từng ám sát những địch thủ tài năng, đức độ và quan trọng khác của người Việt quốc gia là các ông Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Huỳnh Phú Sổ... trong cuộc phân tranh Quốc-Cộng kéo dài 30 năm (1945-1975).

Người ta có thể không đồng ý về những quan điểm chính trị của ông Nguyễn Ngọc Huy nhưng không ai có thể phủ nhận được trường hợp của ông Huy : "văn tức là người". Bởi vì không ai có thể giải thích khác hơn được về một người "lúc hết hơi mới biết đến mạng trời và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động" và khi chết chỉ sở hữu vài bộ quần áo cũ và một một ít sách. 

Và cũng không có ai có dịp tiếp xúc với ông Huy mà không thấy ông là người chừng mực, tự chủ, quyết tâm. Bình dị trong lời nói nhưng phong phú trong ý tưởng. Không bao giờ làm bộ tịch, không bao giờ "đao to, búa lớn". Một người "dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch". Một người "thong dong tựu nghĩa".

Có nhiều người viết về Kim Dung nhưng viết hẳn một quyển sách công phu về riêng một khía cạnh - "ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" - thì ông Huy là người duy nhất.

Một câu hỏi đến tự nhiên : Tại sao một người lỗi lạc lại bận rộn như ông Huy lại "mất công" với với loại truyện giải trí bình dân như thế ?

Câu trả lời chỉ tìm thấy sau khi đã đọc xong quyển "Những ẩn số chánh trị..." dầy 290 trang. Và câu trả lời có thể sẽ là như sau :

Mặc dầu truyện võ hiệp nói chung bị xem là loại văn chương bình dân nhưng riêng với Kim Dung, ông Huy nhìn thấy hình ảnh của một đại văn hào có một sở học uyên bác và óc tưởng tượng dồi dào. Những bộ truyện trường thiên của Kim Dung đều có thể so sánh được với các bộ sách bất hủ của dân tộc Trung Hoa đã làm say mê cả người bình dân lẫn người trí thức, người Việt Nam lẫn người Trung Hoa, với những ý nghĩa triết lý hoặc các bài học chính trị, đạo đức tiềm ẩn như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký... Nếu suy nghĩ khi đọc truyện Kim Dung người ta có thể học được nhiều điều hữu ích.

Ông Huy nghiên cứu, quen thuộc với lịch sử, tư tưởng và văn hóa Trung Hoa. Luận án tiến sĩ của ông ở đại học Paris viết bằng tiếng Pháp đã được chính ông dịch sang tiếng Việt có đề tài "Người ưu tú trong tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời" (Le thème de l'élite dans la pensée politique de la Chine antique), 1963. Tác phẩm của Kim Dung, vì thế, đã hấp dẫn ông Huy một cách tự nhiên.

Ngoài sự kính nể của người trí thức đối với người trí thức, nhà tư tưởng đối với nhà tư tưởng, ông Huy viết về truyện Kim Dung vì ông cùng chia sẻ với nhà văn một số giá trị căn bản chung, vì thấy ở Kim Dung một tâm hồn đồng điệu bất kể khoảng cách về không gian, thời gian hay chủng tộc. (Lẽ dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa ông Huy đồng ý hoàn toàn với những điều ông tìm thấy về tư tưởng của Kim Dung).

Tác phẩm của Kim Dung phong phú, đồ sộ và có thể nghiên cứu, nhận định dưới nhiều khía cạnh. Ông Huy chỉ giới hạn, như đã nói, vào một khía cạnh mà ông quan tâm hơn cả đó là "các ẩn số chính trị" trong tác phẩm. Ông đi tìm những ẩn số này bằng khả năng phân tích và tổng hợp của một nhà khoa học chính trị, một người quen viết nghị luận, cũng như bằng tâm tư của một chính trị gia Việt Nam đang "trong gian truân cố chuyển lại cơ trời", luôn luôn suy nghĩ về những vấn đề của đất nước mình.

Những "bí mật" của Kim Dung đã bị hay được "bật mí" thế nào ?

Để tránh những hệ lụy rắc rối không cần thiết, các tiểu thuyết gia gần như luôn luôn xác định "tác giả không có ý ám chỉ một nhân vật hay một sự việc có thật nào trong đời sống cho nên mọi trùng hợp nếu có chỉ là ngẫu nhiên". Kim Dung cũng không đi ra ngoài thông lệ ấy khi tuyên bố :

"Nội dung tiểu thuyết không tránh khỏi sự biểu lộ tư tưởng của tác giả nhưng không phải tác giả cố ý đem nhân vật, sự tích cùng bối cảnh đến một lãnh vực tư tưởng hay một chính sách (có thật) nào đó... Tiểu thuyết võ hiệp không liên quan gì đến tư tưởng chánh trị, ý thức tôn giáo, khoa học trúng hay trật, đạo đức phải hay trái...".

Lập trường "phi chính trị" nhưng "nói để mà nói" của Kim Dung đã không ngăn cản ông Huy đi tìm dụng ý chính trị của tác giả rải rác trong các tác phẩm và ông đã tìm ra, đã nhìn thấy một số dữ kiện có ý nghĩa chính trị. Các dữ kiện này vừa đủ số lượng, vừa ăn khớp vào nhau để có thể đưa ra nhũng thông điệp về lập trường của Kim Dung.

Trong phần "Lời mở đầu" của quyển "Các ẩn số chánh trị...", ông Huy nêu một vài chi tiết quan trọng :

Lúc Đảng cộng sản Trung Hoa tranh đoạt được quyền lãnh đạo Trung Quốc, Kim Dung vẫn còn ở lại lục địa, sau đó mới dời ra sống ở Hongkong và làm biên tập viên cho hai tờ báo thiên tả là Đại Công Báo và Trường Thành Họa Báo cho đến năm 1957. Sự kiện này cộng với các ẩn số chính trị tìm thấy trong một số các bộ truyện của Kim Dung khiến ông Huy suy đoán Kim Dung vốn là người trí thức khuynh tả, có thiện cảm với các đoàn thể theo chủ nghĩa xã hội và các quốc gia theo chế độ cộng sản và không có thiện cảm với các đoàn thể thuộc phái hữu và các quốc gia Tây Phương.

Qua thời gian, cái nhìn của Kim Dung dần dần thay đổi khi nhận chân người cộng sản áp dụng một chính sách chuyên chế toàn diện, tàn ác và phi nhân nên Kim Dung quay ra kết án họ. 

Kim Dung cũng điều chỉnh lại cái nhìn đối với các đoàn thể có lập trường chống chọi nhau, cả Tả lẫn Hữu. Theo Kim Dung, không bên nào hoàn toàn phải, toàn người tốt. Không bên nào hoàn toàn quấy, toàn người xấu. Bên nào cũng có người xấu, người tốt và thường vừa có phần phải vừa có phần quấy. Điểu đáng nói là chuyện mức độ - tốt nhiều hơn hay xấu nhiều hơn, phải nhiều hơn hay quấy nhiều hơn. Chính, Tà không đơn giản là chuyện Trắng, Đen.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ khi xuất hiện từ đầu thập niên 1960, trong khi làm mưa làm gió ở Hongkong, Singapore, Nam Việt Nam, các nước Đông Nam Á trong giới Hoa Kiều hải ngoại thì tuyệt đối bị cấm cửa ở Đài Loan và cả Hoa Lục ít nhất trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông còn sống.

Cũng nên lưu ý đối chiếu thời kỳ Kim Dung viết truyện võ hiệp ở Hong Kong bên cạnh lò lửa "Cách mạng Văn hóa" ở Hoa Lục... với bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai phe cộng sản và tư bản.

Trong phần kết luận của quyển "Các ẩn số chánh trị...", ông Huy cũng dè dặt nói thêm "không thể loại bỏ giả thuyết là sự trùng hợp giữa các nhân vật và sự kiện trong tác phẩm của Kim Dung với một số nhân vật và sự kiện có thật phát xuất từ nơi tiềm thức của tác giả chứ không phải là một sự cố ý. Nhưng ngay trong trường hợp này, Kim Dung cũng không phải hoàn toàn vô tâm, vì Kim Dung có nhiều ưu tư, nhiều chủ kiến ăn sâu trong tiềm thức thì các tác phẩm viết ra mới biểu lộ các ưu tư và chủ kiến đó cho chúng ta thấy".

Đi vào chi tiết liên hệ đến các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung,ông Huy nhận thấy 2 loại dữ kiện :

- Một số nhân vật đã được dùng để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới hoặc để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.

- Một số sự việc đã diễn tả quan điểm của Kim Dung về vấn đề tranh đấu chính trị và một phần trong quan điểm này dựa vào triết lý Đạo giáo và Phật giáo.

Ông Huy trình bầy những khám phá của ông một cách thứ tự, lớp lang, dựa trên lý luận với rất nhiều chi tiết khá tỉ mỉ. Sau đây chỉ là một số thí dụ rất sơ lược, tiêu biểu về các ẩn số chính trị - xin nhắc lại chỉ là một số thí dụ có giá trị thuyết phục cao trong rất nhiều ẩn số mà ông Huy đã tìm thấy - qua các truyện võ hiệp Kim Dung :

1. Các nhân vật tượng trưng cho một số quốc gia đặc biệt trên thế giới

Cuộc luận võ trên đỉnh Hoa Sơn được đề cập đến trong các bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp có mục đích xác định vai tuồng bá chủ võ lâm. Cuộc luận võ đầu tiên và quan trọng nhất có 5 nhân vật tham dự. Họ có ngoại hiệu là Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế. Sau cuộc tỷ thí rất gay go, mọi người đều công nhận rằng Trung Thần Thông là người có võ công cao diệu hơn hết và được quyền giữ bộ Cửu Âm Chân Kinh. Những người còn lại thì tài nghệ suýt soát nhau. 

Ngoài ra, còn một nhân vật thứ sáu cũng được xem đồng tài nghệ nhưng không tham dự cuộc luận võ này. Đó là bang chủ của Thiết Chưởng Bang tên là Cừu Thiên Nhạn, ngoại hiệu là Thủy Thượng Phiêu. Cừu Thiên Nhạn có người anh song sinh tên là Cừu Thiên Lý, võ công tầm thường, chỉ hay dùng xảo thuật để loè bịp.

Trong một giai đoạn của cuộc luận võ hay luận kiếm Hoa Sơn, năm nhân vật đầu tiên đã tỉ thí với nhau theo lối "ngũ quốc giao binh", dịch sát nghĩa là "năm nước tranh chiến với nhau", Kim Dung muốn hàm ý dùng các nhân vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia. Vậy thì, nhân vật nào, quốc gia nào đây ?

- Nhân vật tượng trưng cho nước Tầu : Trung Thần Thông

Trung Thần Thông là ngoại hiệu của Vương Trùng Dương. Trung là ở ngay chính giữa. Tự ngàn xưa, người Tầu đã tự hào là họ sống ngay chính giữa địa cầu (!). Họ đã chính thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc. 

Về mặt tinh thần, người Trung Hoa theo đạo Trung Dung, đạo của người quân tử lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình. Trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải. Không thái quá, không bất cập. Người cố gắng theo đạo Trung Dung thì sẽ trở thành sáng suốt, hiểu biết và có thể biến cải để ứng phó vượt qua mọi trở lực, nói một cách khác sẽ trở thành Thần Thông.

Phái Đạo giáo mà Trung Thần Thông đứng đầu là phái Toàn Chân, có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Toàn Chân là môn phái có thật trong lịch sử. Ngoài chủ trương riêng của Đạo giáo, nó lại còn bao gồm đạo Trung hiếu của Nho giáo và các giới luật của Phật giáo và điều này đã mô tả đúng tính cách tổng hợp của nền văn hóa Trung Hoa cổ truyền.

Tỷ thí tài nghệ để trở thành bá chủ võ lâm, tuy nhiên Trung Thần Thông lại có bản chất ngược lại với tư tưởng bá chủ - lấy được Cửu Âm Chân Kinh nhưng nhất quyết không dùng vì bí kíp võ học tuyệt tác này đòi hỏi phương pháp luyện công quá âm độc, dị thường. Tư cách của Trung Thần Thông, tức Vương Trùng Dương cho thấy cao hơn hẳn Đông Tà, Tây Độc và các nhân vật võ lâm khác, càng chứng tỏ xứng đáng vai trò lãnh đạo, phù hợp với họ Vương, có nghĩa là Vua, người đứng đầu thiên hạ. Đạo lý nhà vua phải theo để cai trị một cách chính đáng, nhân nghĩa gọi là Vương đạo. Chủ trương chính trị Vương đạo là chủ trương chính thức được đề cao trong sử sách Trung Hoa từ ngàn xưa.

Kim Dung là người Trung Hoa nên, qua nhân vật Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, hàm ý nước Trung Hoa có đủ khả năng và tư cách làm số 1 trên thế giới cũng là điều không đáng ngạc nhiên.

- Nhân vật tượng trưng cho nước Nhật : Đông Tà

Đông Tà là ngoại hiệu của Hoàng Dược Sư. Hoàng là mầu vàng ám chỉ Nhật Bản cũng là dân da vàng. 

Nhật Bản nằm về phía đông của Trung Hoa phù hợp với ngoại hiệu Đông Tà của Hoàng Dược Sư. Đông Tà lại mặc áo mầu xanh, theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì mầu xanh thuộc về hành mộc và liên hệ với phương đông, nhấn mạnh thêm nước Nhật ở phía đông.

Căn cứ của Đông Tà là đảo Đào Hoa mà Nhật Bản là đảo quốc và nổi tiếng thế giới là xứ hoa Anh Đào.

Đông Tà có tánh sợ lửa. Điều này ám chỉ các đảo Nhật có nhiều núi lửa và thường bị động đất.

Bà vợ của Đông Tà có tên là Mai Hương. Mà hoa Mai lại được người Trung Hoa xem là quốc hoa. Điều này có thể ám chỉ dân tộc Nhật có liên hệ và chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.

Thân thế của Đông Tà còn tỏ rõ hơn nữa ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa rất sâu xa đối với nước Nhật - Đông Tà theo học võ với Châu Đồng. Ông này cũng là thầy của Nhạc Phi, một danh tướng anh hùng Trung Hoa. Trước đó Đông Tà là một thư sinh học theo Nho giáo nên là người văn võ kiêm toàn. Đông Tà thông thạo các thú tiêu khiển của người Trung Hoa là cầm, kỳ, thi, họa ; nắm vững mọi loại kỹ thuật Trung Hoa như y dược, bói toán, chiêm tinh, tướng số, nông điền thủy lợi, binh lược... ; biết thưởng thức các món ăn ngon, các thứ trà quý của Trung Hoa... Tuy nhiên, Đông Tà lại thâm hiểu Đạo giáo và hướng về sự thanh tĩnh vô vi. Đông Tà cũng có một số đức tính tốt là cương trực, nói lời giữ lời theo kiểu "quân tử nhất ngôn", kính trọng các bậc trung thần, nghĩa sĩ, nhiều khi ra tay giúp người yếu thế, trừng trị bọn tham quan ô lại, bọn trộm cướp hiếp đáp dân lành.

Các đệ tử của Đông Tà đều mang tên Phong, như Khúc Linh Phong, Phùng Mặc Phong, Lục Thừa Phong, Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong... Phong nghĩa là gió, giống như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhật là Thần Phong (Kamikaze) nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã đánh đắm các chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ, cứu nước Nhật khỏi bị Mông Cổ thống trị. Trong thế chiến thứ hai, Thần Phong là tên của đội phi công cảm tử tình nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ xuống các chiến hạm Mỹ và nổ tung với các chiến hạm này - một cố gắng hi sinh tuyệt vọng nhưng rẩt anh hùng mang đặc tính Nhật Bản.

Đông Tà tuy vậy không được Kim Dung coi là người theo chính đạo mà là một nhân vật nhuốm đầy tà quái, hàm ý người Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nhưng chỉ theo một phần, rồi tìm cách biến chế và không cư xử đúng theo quan điểm đạo đức của người (quân tử mẫu mực) Trung Hoa.

Đông Tà, tức nước Nhật, trong mắt Kim Dung đã Tà như thế nào ?

Dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh để lập ra Phản Kỳ Môn Bát Trận để bảo vệ đảo Đào Hoa. Cũng dựa vào nguyên tắc sinh khắc, âm dương, ngũ hành, nhị thập bát tú và 64 quẻ kép của Bát Quái. Tuy nhiên trong trận đồ của Đông Tà, vị trí của các quẻ lại ngược lại vị trí các quẻ trong trận đồ Khổng Minh.

Thổi ngọc tiêu kích thích dục tình.

Thiếu tự chế - quá bi thương vì cái chết của vợ, gần như điên cuồng khi tưởng mất con. 

Ăn cướp, tống tiền nhà giầu để có phương tiện lập căn cứ địa kiên cố, sang trọng. Dùng thủ đoạn xảo trá để đoạt Cửu Âm Chân Kinh. 

Khi tức giận hai đệ tử phản bội đào thoát thì trừng phạt các đệ tử vô tội và hết sức trung thành khác bằng cách cắt đứt gân chân của họ rồi đuổi đi. Đâm mù mắt, chọc thủng tai các đầy tớ, gia nhân, vốn là các thành phần tội phạm, để kiềm chế họ và giữ bí mật về mình.

Sự tàn ác, ích kỷ của Đông Tà ám chỉ nước Nhật sau khi canh tân trở nên cường thịnh thì đi xâm lăng Trung Quốc và các nước khác cốt để làm lợi cho riêng mình, trắng trợn tự xưng là Đế quốc Nhật Bản, khác với lý tưởng Vương đạo của người Trung Hoa là - theo Kim Dung - "trị quốc" để dọn đường cho "bình thiên hạ" tức là tiến tới "thế giới đại đồng".

Biến cố "The rape of Nanking" năm 1937 gây kinh hoàng, chấn động thế giới khi quân Nhật chiếm thủ đô Nam Kinh của Trung Hoa Dân Quốc, đã hãm hiếp và giết hại 300.000 người dân Tầu, thây chất như núi, máu loang đỏ các sông ngòi, là một tội ác khó có thể nào quên.

- Nhân vật tượng trưng cho các nước Đế quốc Châu Âu : Tây Độc

Tây Độc là một nhân vật kinh khủng, có lẽ còn đáng ghét hơn cả Đông Tà, ám chỉ các nước đế quốc thực dân Châu Âu đã sâu xé, dày xéo, bóc lột Trung Hoa và các dân tộc ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ hàng trăm năm. 

Tây Độc là ngoại hiệu của Âu Dương Phong. Âu là Châu Âu. Châu Âu ở phía Tây của Trung Quốc. Người Châu Âu còn gọi là người Tây Dương, hay người Tây Phương. Tây Độc Âu Dương Phong cũng xưng là Bạch Đà Sơn Chủ, tức chúa núi Bạch Đà. Bạch là mầu trắng khiến liên tưởng đến người da trắng, giòng giống... Bạch Quỷ (!).

Trái với nếp sống thanh tĩnh theo Đạo giáo của Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, nếp sống của Tây Độc Âu Dương Phong là sự hưởng thụ vật chất tầm thường, ô trọc. Căn cứ Bạch Đà Sơn chứa đầy gái đẹp, ngọc ngà, châu báu, của ngon vật lạ... vốn là chiến lợi phẩm có từ cướp của, giết người, bắt cóc... do hai chú cháu Âu Dương Phong và Âu Dương Công Tử thực hiện. Mô tả này nhắc đến thời kỳ các nước Châu Âu ùa nhau đi chiếm thuộc địa, bắt buộc các dân tộc khác làm nô lệ, thực thi chính sách đế quốc bóc lột tàn nhẫn, trở nên giầu có và trụy lạc

Sự mất trí, điên cuồng lúc về sau của Tây Độc biểu tượng cho sự vong thân của người Tây Phương dẫn đến khủng hoảng xã hội, cách mạng, nội chiến và đánh giết lẫn nhau gây ra đại chiến thế giới 1 và 2.

- Nhân vật tiêu biểu cho Liên Xô : Bắc Cái

Bắc Cái là ngoại hiệu của Hồng Thất Công. 

Bắc Cái là bang chủ Cái Bang, là chúa ăn mày, tức là trùm vô sản.

Liên Xô ở phía Bắc và Tây của Trung Quốc. Bắc nhiều hơn Tây, vả lại Tây đã dùng cho trường hợp Tây Độc để ám chỉ Châu Âu.

Chữ Hồng, họ của Bắc Cái (Hồng Thất Công) theo Hán văn là rộng lớn mênh mông nhưng lại đồng âm với chữ Hồng là đỏ, mầu tiêu biểu cho Đảng cộng sản, tức Cái Bang. Thêm nữa, chữ Hồng gồm 2 phần, bên tả là bộ thủy, bên hữu là chữ cộng, y như chữ Cộng trong từ ngữ cộng sản.

Kỹ thuật tranh đấu của Bắc Cái là Đả Cẩu Bổng Pháp - dùng gậy để đánh chó của nhà giầu, đánh cả cường hào, ác bá, tham quan ô lại - tiêu biểu cho chủ trương Giai cấp đấu tranh, Hàng Long Thập Bát Chưởng tiêu biểu Biện Chứng Pháp Duy Vật. Kiên Bích Trận của Cái Bang biểu tượng kỹ thuật tổ chức và tranh đấu tập thể của Đảng cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo.

Cái Bang của Hồng Thất Công có 2 phe ăn mày hiềm khích và chống chọi nhau. Một phe áo lành và sạch nhưng ít người, ám chỉ cộng sản Đệ Tứ với thủ lãnh Trotsky. Một phe áo rách và dơ nhưng đông người hơn, ám chỉ cộng sản Đệ Tam do Stalin cầm đầu. Bắc Cái Hồng Thất Công có thể vừa tượng trưng cho Liên Xô như là một quốc gia, vừa tượng trưng cho Lenin như là một nhân vật. Chỉ khi Lenin lúc còn sống mới dung hợp được cả phe Stalin và phe Trotsky.

- Nhân vật tiêu biểu cho các nước thuộc thế giới đệ tam - tức là các nước đang mở mang như Thái Lan : Nam Đế

Nam Đế là ngoại hiệu của Đoàn Chính Minh, vua nước Đại Lý, thuộc sắc dân Thái, sau thoái vị đi tu với pháp danh là Nhất Đăng, Nhất Đăng Đại Sư. Người thế độ cho ông không phải là một cao tăng Trung Hoa mà là một nhà sư Thiên Trúc, tức là Ấn Độ, theo Phật giáo Tiểu thừa khác với Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Trung Hoa. 

Hiện nay có cuộc mâu thuẫn giữa các nước đã phát triển ở phương Bắc và các nước đang mở mang ở phương Nam, được gọi là tranh chấp Bắc Nam. Nam Đế là biểu tượng của thế lực phương Nam.

- Nhân vật biểu tượng cho Đức quốc xã và Phát xít Ý : anh em Cừu Thiên Nhạn và Cừu Thiên Lý

Được mời nhưng không tham dự cuộc Hoa Sơn Luận Võ, Bang chủ Thiết Chưởng Bang Cừu Thiên Nhạn được xem là có tài nghệ ngang với Võ Lâm Ngũ Bá. Cừu Thiên Lý là anh song sinh của Cừu Thiên Nhạn, trông rất giống, có tánh mưu mẹo, gạt gẫm nhưng tài nghệ kém người em rất xa, hàm ý Phát xít Ý của Mussolini ra đời trước, hay khoa trương, nhưng không có thực lực như Đức quốc xã của Hitler.

Theo sự mô tả của Kim Dung, Thiết Chưởng Bang (Bang hội Bàn Tay Sắt) lúc đầu là hội của những người yêu nước chống sự xâm lấn của nước ngoài, về sau lầm lạc đi vào con đường cướp bóc, hung bạo, xem mạng người như cỏ rác phù hợp với lịch sử chung của 2 chế độ độc tài hữu phái Quốc xã và Phát xít.

Ngoại hiệu Thủy Thượng Phiêu phản ảnh công phu độc đáo đi trên mặt nước của Cừu Thiên Nhạn ám chỉ chủ nghĩa siêu nhân và siêu tộc của Đức Quốc Xã.

Tín hiệu bàn tay sắt của bang chủ Cừu Thiên Nhạn là gợi ý đến từ bội tinh Thập Tự Sắt, huy chương quân công cao quý nhất của dân tộc Đức cũng như huy hiệu chữ Vạn thời Hitler.

- Nhân Vật biểu hiệu cho nước Mỹ : Dương Qua

Dương Qua nhận Tây Độc làm nghĩa phụ và được truyền dậy những công phu siêu đẳng hàm ý nước Mỹ có gốc gác Châu Âu, văn hóa Mỹ cùng tính chất văn hóa Châu Âu, gọi chung là Tây Phương. Dương Qua còn được gọi là Tây Cuồng.

Dương Qua chính là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu (eagle) là biểu hiệu của nước Mỹ. Quốc huy của nước Mỹ có hình chim điêu.

Trong lần Hoa Sơn Luận Võ cuối cùng, trong số 5 cao thủ có mặt thì Dương Qua là người trẻ nhất được xem như kế vị Tây Độc nhưng không ác hại như nghĩa phụ, lại học thêm được tinh hoa võ thuật của các cao thủ khác, cũng như tự sáng chế nên có bản lãnh cao hơn mọi người. Điều này phù hợp với sự kiện nước Mỹ là quốc gia Tây Phương, trẻ trung, cường thịnh vượt hẳn các nước đế quốc Châu Âu già nua, tàn tạ như đế quốc Bồ Đào Nha, đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đế quốc Hòa Lan, đế quốc Bỉ... để trở nên đệ nhất siêu cường.

2. Các nhân vật được dùng để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa cận đại

Trước hết là trường hợp các lãnh tụ Trung Quốc.

Trong thời kỳ sáng tác ba bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp, Kim Dung còn thiên tả nhưng đến khi viết hai bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã nhận chân được sự thật về Cộng sản Quốc tế nói chung và Cộng sản Trung Hoa nói riêng.

Trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ, đề tài chính là cuộc tranh chấp đẫm máu giữa Triêu Dương Thần giáo và các phe gọi chung là bạch đạo. Ông Huy đã tìm thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Triêu Dương Thần giáo trong Tiếu Ngạo Giang Hồ được dùng để ám chỉ Đảng cộng sản Trung Hoa và hai vị giáo chủ Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại biểu tượng hai nhà lãnh đạo quan trọng của Trung Quốc là Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.

Ông Huy lý luận như sau :

Triêu Dương là buổi sớm mai lúc mặt trời ở phía Đông mà bản quốc thiều của Trung Quốc là bản Đông Phương Hồng. 

Khẩu hiệu chính của Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh lạnh là "gió đông thắng gió tây" cho nên giáo chủ Triêu Dương Thần giáo có tên là Đông Phương Bất Bại là hiện thân của Lưu Thiếu Kỳ, người làm chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) trong 9 năm và nắm thực quyền một thời gian dài trước khi bị lật đổ, bị tra tấn và bị giết. 

Giáo chủ Nhậm Ngã Hành biểu tượng cho Mao Trạch Đông, Chủ tịch Đảng cộng sản Trung Hoa. Việc Đông Phương Bất Bại bí mật giam Nhậm Ngã Hành trong lòng đất dưới đáy Tây Hồ ở Hàng Châu ám chỉ thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ liên kết với Đặng Tiểu Bình tập trung quyền lực Đảng trong tay, dồn Mao Trạch Đông vào thế "ngồi chơi xơi nước", "hữu danh vô thực" sau thất bại "bước tiến nhẩy vọt" khiến Mao uất hận dùng "đại cách mạng văn hóa" long trời lở đất để quật ngược lại. Cuộc xung đột giữa Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại cũng kỳ bí và ghê gớm như cuộc xung đột giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.

Thần Long giáo trong Lộc Đỉnh Ký cũng được dùng để ám chỉ Đảng cộng sản Tầu. Giáo chủ Hồng An Thông là hình ảnh xấu xí của Mao Trạch Đông, bà vợ ác nghiệt nhưng trẻ đẹp Tô Thuyên tức Hồng Phu Nhân biểu hiệu cho Giang Thanh, bọn Ngũ Long Thiếu Niên tượng trưng cho Vệ Binh Đỏ. Những cảnh tượng xấu xa, tàn bạo, tệ hại liên quan đến Thần Long giáo mà Kim Dung mô tả rất gần với thực trạng chính trị Hoa Lục thời Đại Cách Mạng Văn Hóa.

Kế tiếp là trường hợp của các chính khách quốc gia Trung Hoa trong mắt Kim Dung theo như sự suy đoán của ông Huy.

Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nếu Triêu Dương Thần giáo (bị gọi là Ma giáo) tượng trưng cho phe cộng sản thì phái Bạch Đạo tương trưng cho phe quốc gia. Phe Bạch Đạo chính thức theo lập trường bảo vệ đạo lý và tình trạng đương hữu nhưng trong thực tế phân hóa trầm trọng. Có những người rất đàng hoàng, tử tế nhưng không thiếu kẻ gian ác. Nhân vật tiêu biểu cho loại người sau là Nhạc Bất Quần, chưởng môn của phái Hoa Sơn, sau lên làm "minh chủ" của 5 phái "hợp nhất", gọi là Ngũ Nhạc kiếm phái gồm Hoa Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn và Hằng Sơn.

Nhân vật Nhạc Bất Quần được Kim Dung dùng để ám chỉ Tưởng Giới Thạch, sau khi "quốc phụ" sáng lập là Tôn Dật Tiên chết, thì trở thành lãnh tụ số 1 của Trung Hoa Dân Quốc và Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Kim Dung dùng lối chơi chữ ở đây. Không để ý thì không thấy. Nhạc, theo chữ Hán, là hòn núi lớn gồm chữ "khâu" là gò và "sơn" là núi. Cả 3 chữ "nhạc", "khâu" và "sơn" đều chỉ những khối lớn do đá cấu tạo nên. Mà đá tức là "thạch" - Tưởng Giới Thạch !

Dưới ngòi bút có phần cố ý... "bôi bác" của Kim Dung, Nhạc Bất Quần có bề ngoài khả kính của một lãnh tụ võ lâm mang ngoại hiệu Quân Tử Kiếm nhưng thực chất là Ngụy Quân Tử hay Quân tử giả hiệu.

Tưởng Giới Thạch còn có tên là Tưởng Trung Chánh, hàm ý thành tín ngay thẳng, không những chính thức theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên - Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc - mà còn luôn luôn đề cao Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ nhưng, theo Kim Dung, thật sự là người theo chủ nghĩa quyền uy, một nhà độc tài hữu phái đứng đầu một chính quyền ung thối vì tham nhũng.

Giống như Nhạc Bất Quần lớn tiếng tố cáo, miệt thị Ma giáo, Tưởng Giới Thạch kết án cộng sản tà ngụy, bất nhân nhưng bên trong Tưởng hành động còn tà ngụy, bất nhân hơn hay cũng chẳng kém. (Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung còn nghiêng về Nhậm Ngã Hành, tức Mao Trạch Đông, hàm ý Mao vẫn đỡ tệ hại hơn Tưởng. Chỉ trong Lộc Đỉnh Ký, qua nhân vật giáo chủ Hồng An Thông, Kim Dung mới xem Mao, Tưởng đều đáng ghét như nhau).

Thông điệp chính trị của Kim Dung

Trở lại những ẩn số chính trị mà ông Huy tìm thấy, những ẩn số quan trọng nhất có lẽ là những thông điệp mà Kim Dung đã kín đáo gửi đến cho đồng bào Trung Hoa của ông. Những thông điệp này cũng có thể trở thành những điều đáng suy ngẫm cho những người hoạt động chính trị hay tranh đấu chính trị nói chung ở bất cứ nước nào - Trung Hoa, Việt Nam, Miến Điện, Mỹ, Nhật, Âu, Phi... Chẳng hạn như :

1. Chính nghĩa dựa trên đạo lý thường chỉ là nhận thức chủ quan, dễ dàng đưa đến sự thiên vị. Đoàn thể nào cũng xem đạo lý của mình là đúng, là chính còn đạo lý của đoàn thể khác là sai, là tà. Đấy là chưa kể "nói một đằng, làm một nẻo".

2. Trong mọi đoàn thể đều có người tốt, người xấu chứ không phải người của chính phái nhất định là tốt, người của tà phái nhất định là xấu. Ma giáo có thể có người tử tế như Hướng Vấn Thiên, Khúc Dương Trưởng Lão, danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang có thể có đệ tử đồi bại như Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư. Hệ quả này là người ta phải có tinh thần cởi mở và khoan dung đối với nhau. Nên cởi mở và khoan dung như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ.

3. Mô tả quá trình các nhân vật đạt đến vị trí tối cao như lãnh tụ, như minh chủ nguyên tắc của Đạo Đức Kinh được thực thi là "tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi" (biết đủ thì không bị nhục, biết dừng lại đúng lúc thì không bị nguy) và nguyên tắc "bất tranh" (không tranh giành cho bằng được). Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần tàn phế, tử vong, thân bại danh liệt vì quá tham lam, ham hố. Mưu thâm thì họa cũng thâm !

4. Trong đoạn cuối của Tiếu Ngạo Giang Hồ, giáo chủ Triêu Dương Thần giáo ngỏ lời gả con gái là Nhậm Doanh Doanh cho Lệnh Hồ Xung và mời Lệnh Hồ Xung làm Phó giáo chủ. Mặc dù yêu Nhậm Doanh Doanh tha thiết, Lệnh Hồ Xung khước từ và bỏ đi. Điều này có nghĩa : Riêng tại các nước có sự phân tranh Quốc-Cộng như trường hợp Trung Hoa (cũng như Cao Ly, Cuba, Việt Nam) sẽ không có, không thể có, hòa giải, hòa hợp dân tộc thực sự nếu các đảng cộng sản đang nắm quyền lực tiếp tục chủ trương độc tài, độc đảng, độc tôn phi lý. Các đảng cộng sản này phải đi bước trước là thực hiện sự cải cách thực sự.

...

Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cho đến tận ngày nay có đến hằng trăm triệu độc giả ở Trung Hoa, Đài Loan, Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Châu Âu... say mê nghiền ngẫm truyện Võ Hiệp Kim Dung, có hàng trăm tác giả viết sách, báo bình luận về tư tưởng, cuộc đời của Kim Dung, thậm chí xuất hiện cả trường phái "Kim Học". 

Tuy nhiên, không thấy ai nghiêm túc đặt vấn đề "đi tìm các ẩn số chánh trị" trong các tác phẩm của Kim Dung. Hoặc giả có đặt vấn đề thì chỉ "giải quyết" bằng cách đưa ra các khái niệm mơ hồ về chuyện Tả, Hữu, Quốc, Cộng... chứ không có ai tìm ra được các những "bí mật" ẩn tàng một cách rõ ràng, mạch lạc và có hệ thống như ông Nguyễn Ngọc Huy. 

Kim Dung đã "qua mặt" được tất cả mọi người nhưng không "qua mặt" được một người - một người Việt Nam !

Phải chăng "Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có" ?

Cao Tuấn

(06/12/2018)

Published in Diễn đàn

Một tuần lễ sau khi tuyên bố hủy bỏ cuộc họp thượng đỉnh dự trù Mỹ-Bắc Hàn vào ngày 12 tháng 6 năm 2018 tại Singapore, ngày 1 tháng 6 năm 2018, tổng thống Mỹ Donald Trump lại tuyên bố cuộc họp vẫn sẽ diễn ra như dự trù, thời gian và địa điểm không thay đổi - Donald Trump và Kim Jong-un sẽ chính thức gặp nhau để thương thảo về việc "phi hạt nhân hóa bán đảo Cao Ly" tại Singapore vào ngày 12/06/2018.

bachan1

"Phi hạt nhân hóa bán đảo Cao Ly" không phải là mục đích thực sự của các cuộc họp thượng đỉnh Xi-Kim hay thượng đỉnh Trump-Kim.

Khó có thể xác định kết quả của cuộc họp thượng đỉnh như thế nào mới được xem là thành công (và thành công với ai), nhưng nếu cuộc họp hoàn toàn thất bại vì lập trường hai bên cách nhau quá xa, thế giới lại một lần nữa phải đối diện với hiểm họa chiến tranh nguyên tử đến gần.

Những ý tưởng sau đây, hy vọng soi sáng những khoảng tối, những khuất khúc quan trọng, những điều "trông vậy mà không phải vậy", những điều chờ đợi và những điều không nên chờ đợi :

1. Chưa bao giờ có họp "thượng đỉnh" Mỹ-Bắc Hàn nhưng đã có nhiều cuộc đàm phán 6 bên cấp chuyên viên từ nhiều năm qua liên quan đến chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn. Sáu bên là Mỹ, Nga, Tầu, Nhật, Nam Hàn và Bắc Hàn.

Kết quả không đi đến đâu, Bắc Hàn vẫn tiếp tục phát triển vũ khí hạt nhân như đã biết, bất chấp mọi áp lực chống đối từ bên ngoài. Đột nhiên, tình hình sôi động hẳn với với những hội nghị "thượng đỉnh" Kim-Moon, Kim-Xi và sắp sửa Kim-Trump.

Một bàn cờ chiến lược mới đã thành hình với 3 tay chơi chính : Kim Jong-un, Donald Trump và Xi Jin Ping (Tập Cận Bình).

Moon Jae-In (Nam Hàn) có tiền nhưng không có vũ khí hạt nhân chỉ là tay chơi phụ, sẽ phải lo lắng làm thế nào để không phải mất tiền nhiều quá cho Kim Jong-un trong trường hợp có..."hòa giải hòa hợp" Nam Hàn - Bắc Hàn.

Putin (Nga), Abe (Nhật) còn mờ nhạt hơn nữa vì không có nhiều trọng lượng trên bán đảo Cao Ly.

Sáu bên thực sự rút lại còn 3 nhưng là 3 tác nhân có quyền lực thay đổi cục diện.

2. Không nước nào muốn chiến tranh nguyên tử, kể cả Bắc Hàn. Nhưng tất cả các nước đều đi tìm một thế quân bình chiến lược có lợi cho mình nhất để buộc đối phương phải nhượng bộ. "Muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh". Muốn "bất chiến tự nhiên thành" phải bầy một thế trận để dồn đối phương bị dồn vào thế bí, chịu bó tay không xoay sở được.

bachan2

Hỏa tiễn, kể cả hỏa tiễn liên lục địa có gắn các loại bom A, bom H có thể bắn tới bất cứ nơi nào trên thế giới là thế trận mới của Bắc Hàn. Thế trận này cũng bao gồm cả sự kiện họ Kim cai trị dân bằng tẩy não, bằng bàn tay sắt và bức màn sắt, nắm vững an ninh nội bộ, quyền uy tuyệt đối, không sợ bị lật đổ ; bao gồm luôn cả sự kiện Bắc Hàn thường rất hung hăng liều lĩnh, đóng vai Chí Phèo nhiều lần trong quá khứ, biến cái nghèo đói rách rưới của mình thành lợi thế... Chưa ai, kể cả Mỹ, Tầu tìm ra cách phá được thế trận của Kim Jong-un.

3. Khởi đầu cuộc phân ly và tranh chấp, Bắc Hàn và Nam Hàn đều nghèo như nhau. Trong những năm 1960’s, 1970’s Bắc Hàn thiên về kỹ nghệ nặng còn có nền kinh tế vững chắc hơn, mức sống cao hơn Nam Hàn thiên về nông nghiệp và không có nhiều tài nguyên thiên nhiên.

Từ đấy đến nay, Nam Hàn và Bắc Hàn, luôn luôn thù nghịch, chọn hai con đường khác hẳn : Nam Hàn dồn sức vào việc phát triển kinh tế trong khi Bắc Hàn đặt quốc sách số 1 là phát triển vũ khí nguyên tử. Cả hai đều làm việc cật lực và cả hai đều đạt thành quả ngoạn mục nhưng dĩ nhiên khác hẳn nhau.

Những con số khả tín mới nhất cho biết, tính theo sức mua tương đương, Tổng sản lượng GNP của Nam Hàn, cường quốc kinh tế thứ 11 trên thế giới, là 1.600 tỉ đô la gấp 40 lần GNP của Bắc Hàn chỉ vào khoảng 40 tỉ đô la. Nói một cách khác GNP của Bắc Hàn bằng 2,5% của Nam Hàn. Nam Hàn rất giầu có, Bắc Hàn rất nghèo khó.

Ngược lại, Bắc Hàn đã trở nên một cường quốc hạt nhân. Một thực tế không thể phủ nhận. Nam Hàn hoàn toàn không sở hữu vũ khí hạt nhân nào, phải đặt mình vào sự bảo đảm an ninh và che chở của nước Mỹ. Câu hỏi rất quan trọng đối với Nam Hàn (và có lẽ đối với cả thế giới) vào thời điểm đặc biệt này : nước Mỹ có quả thực chấp nhận chiến tranh nguyên tử với Bắc Hàn, chấp nhận chính nước Mỹ có thể bị ăn bom nguyên tử của Bắc Hàn để bảo vệ Nam Hàn hay không ? Nếu nước Mỹ không giữ lời cam kết thì sao ? 

Vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn vì thế là yếu tố hoàn toàn mới trong tương quan lực lượng trên bán đảo Cao Ly, đặt Nam Hàn vào trong tình trạng rất bất an. Nam Hàn từ thế mạnh chuyển sang thế yếu. Bắc Hàn từ thế yếu chuyển sang thế mạnh.

4. Kim Jong-un là bạo chúa, độc tài chính hiệu nhưng đồng thời là một chính trị gia, chiến lược gia mưu lược xuất sắc. Mục đích tối thượng của Kim Jong-un vẫn là triều đại nhà Kim "muôn năm trường trị" với đầy đủ quyền lực và quyền lợi. Cho đến nay, nhân dân Bắc Hàn, đại đa số, bị tuyên truyền tẩy não, dù xơ xác nghèo, vẫn tin rằng họ đang sống trong một "vương đạo lạc thổ" dưới sự lãnh đạo anh minh của chủ tịch Kim/hoàng đế Kim.

(Khi Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật - ông nội và cha của của đương kim chủ tịch Kim Chính Ân (Kim Jong-un), qua đời dân Bắc Hàn khóc lóc vật vã thảm thiết còn hơn cả dân Bắc Việt khóc bác Hồ !).

bachan3

Kim Jong-un cai trị Triều Tiên với bàn tay sắt

Đường đi nước bước của Kim Jong-un rất nhịp nhàng bài bản.

Hoàn toàn chủ động.

Tận dụng vị thế mới của Bắc Hàn thành công trong việc thủ đắc vũ khí hạt nhân mà thế giới nhận biết là có thật và rất nguy hiểm.

Khi lên giọng thách thức gây căng thẳng. Khi hòa hoãn, hạ nhiệt.

Tấn công hòa bình. Đong đưa chuyện "phi hạt nhân hóa".

Gặp Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in. Được đón tiếp long trọng. Nói chuyện hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc, đại loại như "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"... nghe rất mủi lòng.

Đề nghị gặp Donald Trump.

Gặp Xi Jin Ping hai lần liên tiếp. Cũng được đón tiếp rất long trọng.

Sẽ hội kiến với Trump. Thượng đỉnh Trump-Kim. Trong thế mạnh. Ngang hàng...

Chỉ trong một thời gian rất ngắn Kim Jong-un, 35 tuổi, lãnh tụ một nước rất nhỏ, rất nghèo trở thành chính khách quốc tế nổi tiếng, được chú ý và trọng vọng ngang tầm lãnh tụ siêu cường quốc Xi Jin Ping, Donald Trump và Vladimir Putin, nghiễm nhiên ngồi bàn "võ lâm ngũ bá" hay "võ lâm tứ bá", làm lu mờ hẳn các lãnh tụ các nước lớn khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ấn Độ, Pakistan, Úc, Canada... mặc dù một số nước trong nhóm này cũng sở hữu vũ khí hạt nhân. 

Kim Jong-un quả là một hiện tượng !

5. Nhưng Kim Jong-un có định từ bỏ vũ khí hạt nhân thật không ?

Câu trả lời là không.

Hứa sẽ bỏ cũng không bỏ. Ký giấy cam kết bỏ cũng không bỏ. Đã có tiền lệ. Thanh sát quốc tế cũng vô ích - Bắc Hàn là quốc gia bí mật nhất thế giới, kiểm soát chặt chẽ nhất thế giới. Người ngoại quốc ra vào, đi lại rất khó khăn - Bắc Hàn không phải Iraq, Libya. Tất cả tùy thuộc "thiện chí" của Kim Jong-un. Mà Kim Jong-un có "thiện chí" làm vua, làm chiến lược gia..., không có "thiện chí" buông dao đồ tể để thành Phật và không ở thế yếu như Saddam Hussein, Muammar Gaddafi năm xưa.

Lẽ dĩ nhiên Bắc Hàn của Kim Jong-un cũng muốn phát triển kinh tế nhưng Kim Jong-un không từ bỏ vũ khí hạt nhân để đổi lấy phát triển kinh tế, bởi vì : 

- Bắc Hàn đã thụt lùi quá xa so với Nam Hàn về mặt phát triển kinh tế. Một trăm năm nữa chưa chắc đã đuổi kịp Nam Hàn. Dù mở cửa, dù nới lỏng chế độ, dù có đầu tư ngoại quốc, dù có viện trợ quốc tế... Một trăm năm lẹt đẹt theo đuôi là một thời gian rất dài, rất bất trắc. Dân có thể nổi lên hỏi tội họ Kim độc tài phong kiến. Nam Hàn có thể nuốt trửng Bắc Hàn như Tây Đức "nuốt" Đông Đức (có thể tốt cho dân tộc Cao Ly nhưng chắc chắn không tốt cho gia đình họ Kim...).

- Nếu phát triển kinh tế là quan trọng hơn vũ khí hạt nhân, Bắc Hàn đã "đổi mới" từ 20 hay 30 năm trước hoặc ngay khi Kim Jong-un lên nắm quyền cách đây 5, 6 năm chứ không đợi đến bây giờ.

- Bỏ vũ khí hạt nhân, bắt đầu phát triển kinh tế theo mô hình của Tầu, của Việt Nam nhưng với quy mô kinh tế bằng 1/40 của Nam Hàn, Kim Jong-un chỉ còn là "cắc ké" bên cạnh người khổng lồ Moon Jae-in, đừng nói sẽ tiếp tục họp "thượng đỉnh" với Xi Jin Ping hay Donald Trump. Không bị số phận của Saddam Hussein hay Muammar Gaddafi phải coi là là may mắn !

- Bắc Hàn của họ Kim đã đầu tư quá nhiều, gian khổ quá lâu - suốt ba đời - mới có được "thần kiếm" vũ khí hạt nhân vừa đủ dùng cho cả hai mặt thủ và công. Các đối thủ có vũ khí hạt nhân không còn đe dọa Bắc Hàn được nữa, trong khi Bắc Hàn lại có thể đe dọa hay trấn áp các đối thủ nhất là loại đối thủ không có vũ khí hạt nhân. Với vũ khí hạt nhân có thể bắn tới bất cứ nơi nào trên địa cầu, từ nay Kim Jong-un có thể vừa là Chí Phèo vừa là Nhậm Ngã Hành (Ta chỉ làm theo ý Ta). Thần kiếm đã lợi hại như thế, ai ngu dại mà hủy bỏ nó đi !?

6. Nếu không bỏ vũ khí hạt nhân thì Bắc Hàn của Kim Jong-un sẽ phát triển kinh tế, làm giầu bằng lối nào ? 

(Trước khi trả lời câu hỏi này nên nhắc đến một dự án nghiên cứu gần đây ở Nam Hàn về triển vọng và hậu quả của sự thống nhất nước Cao Ly đã ước lượng Nam Hàn sẽ phải tiêu tốn 5.000 tỉ đô la mới có thể san bằng cách biệt giữa hai nền kinh tế của Nam Hàn và Bắc Hàn, tức là để nhân dân hai miền Nam, Bắc có được sự phát triển, có hạ tầng cơ sở và mức sống ngang nhau. Năm ngàn tỉ đô la là một con số khủng khiếp khiến rất nhiều người ở Nam Hàn, nhất là thế hệ trẻ chống đối hoặc bi quan về sự thống nhất đi kèm với một gánh nặng như vậy, cho dù chính quyền Nam Hàn, không phải Bắc Hàn, hoàn toàn chủ động tiến hành sự nghiệp thống nhất đất nước một cách hòa bình.)

Kim Jong-un tất nhiên phải biết rõ vực thẳm cách biệt giầu nghèo Nam, Bắc lớn lao thế nào nên chỉ có cách đi tắt để rút ngắn con đường dài trăm năm thành con đường ngắn 3 năm, 5 năm. Người Nam Hàn, đang hưng phấn về triển vọng hòa bình, thống nhất rất nên cẩn thận cảnh giác "con đường tắt" rất đặc biệt mà Kim Jong-un sẽ đi có hình dạng như sau :

Sử dụng vị thế cường quốc hạt nhân, đẩy cả Mỹ lẫn Tầu ra khỏi bán đảo Cao Ly để "việc của người Cao Ly do người Cao Ly giải quyết", thực tế là được tự do bắt nạt, tự do dùng võ lực hay hăm dọa võ lực biến Nam Hàn thành một thứ chư hầu, một thứ bò sữa theo kiểu "miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng", chuyển dần tài sản từ Nam ra Bắc. Dĩ nhiên số 5.000 tỉ đô la nói ở trên trước hết phải đi qua tay Kim Jong-un trước khi hoàng đế rải mưa móc xuống đến các thần dân. Nếu Kim Jong-un thâu được 5.000 tỉ chuyền tay từ Nam Hàn thì có lẽ chẳng mất công mong chờ viện trợ Mỹ hay viện trợ Tầu nhiều lắm chỉ đáng vài tỉ hay chục tỉ đô la.

Kim cần nhất là Mỹ và Tầu nhắm mắt làm ngơ để Kim tự do tung hoành trên bán đảo Cao Ly nhân danh quyền dân tộc tự quyết, không có sự can thiệp của ngoại bang. Nếu Nam Hàn kháng cự chỉ cần một hai trái bom nguyên tử loại chiến thuật tiêu diệt gọn ghẽ 3, 4 sư đoàn của Nam Hàn trong khoảnh khắc thì chính quyền Nam Hàn không còn chọn lựa nào khác hơn là kéo cờ trắng đầu hàng như trường hợp Nam Việt Nam vào ngày 30/04/1975. Giang sơn sẽ thâu về một mối dĩ nhiên với Kim Jong-un làm chúa tể !

7. Cả 3 tay chơi ván cờ chiến lược Kim, Trump, Xi đều đang đóng tuồng cho cả thế giới xem. Những điều nói ra, những điều trông thấy không phải là chuyện thực sự đang diễn ra có thể rất gay go trong hậu trường trong suốt mấy tuần lễ vừa qua

Trước hết "phi hạt nhân hóa bán đảo Cao Ly" không phải là mục đích thực sự của các cuộc họp thượng đỉnh Xi-Kim hay thượng đỉnh Trump-Kim. Cả Trump lẫn Xi cần một lý do chính đáng, một chính nghĩa để hạ mình, để "xuống nước" nói chuyện trực tiếp với Kim. Và Kim đã cung cấp đúng cái lý cớ cần thiết ấy : Bắc Hàn sẵn sàng thảo luận việc "phi hạt nhân hóa bán đảo Cao Ly để tránh cho nhân loại hiểm họa chiến tranh nguyên tử thảm khốc". Kim là người tung, Trump, Xi là người hứng và thế giới vỗ tay hoan nghênh ! 

Cả Trump lẫn Xi đều thừa biết Kim nói gì thì nói, ký gì thì ký, sẽ không bao giờ từ bỏ vũ khí hạt nhân mà không ai có thể bắt buộc Kim được. Thanh sát quốc tế đã và sẽ chẳng hiệu quả gì. Phi hạt nhân hóa, rốt cuộc, chỉ là lý do bề ngoài, một đề tài phụ, thảo luận cho có, tuyên bố cho có - trước, trong và sau các hội nghị thượng đỉnh. Lý do "bề trong", lý do thực sự là Trump và Xi - đại diện cho quyền lợi đối nghịch Mỹ, Tầu - muốn đích thân gặp Kim Jong-un, nay đã có vũ khí hạt nhân trong tay, để chiêu dụ Kim đứng về phe mình.

Nếu Trump thuyết khách thành công kéo được Kim về phía Mỹ, đổi thù thành bạn, tiến tới đổi bạn thành đồng minh thì vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn còn dùng để răn đe ai nữa ngoài nước Tầu của Xi Jin Ping ? Tất cả các thành phố lớn của Tầu đều quá gần, đều nằm trong tầm hỏa tiễn tầm trung của Kim Jong-un, nếu Kim nổi khùng làm sao Xi và các thần dân của Xi chạy kịp trong vài phút ?!

Ngược lại, nếu Xi mua chuộc dụ dỗ được Kim, đổi tình nghĩa "đồng minh" đầy những âm mưu, ngờ vực, tức tối thành tin cẩn, chặt chẽ, thân thiết thì nước Mỹ sẽ phải thường trực sống trong bất an, không biết bom nguyên tử một ngày nào đó có sẽ rơi trúng vào New York hay Washington DC hay không ?!

Dĩ nhiên, Kim Jong-un, đẩy cả Mỹ lẫn Tầu vào thế cạnh tranh nhau, sẽ đòi giá rất cao - giá này gồm cả quy chế cường quốc hạt nhân mới và tự do "một mình một chợ" như đã nói ở điểm 6 và những quyền lợi khác. Đối với Kim lúc này là mùa gặt, mùa thu hoạch ! 30, 40 năm mới có một lần !

Cả thế giới đang chờ đợi thương đỉnh Trump-Kim. Nếu địa điểm họp được chọn nằm trên đất Cao Ly, tại Bàn Môn Điếm như Trump đã nhắc đến trước đây như để thăm dò - rất mất thể diện của Tổng thống đại cường quốc phải đích thân đến tiểu quốc để cầu hòa - thì có thể dự đoán Trump có nhiều hi vọng lôi kéo được Kim Jong-un, biến đổi Bắc Hàn từ thù sang bạn cho bõ với chuyến đi đơn phương vất vả. Nhưng nếu địa điểm là Singapore như đã công bố thì có vẻ cuộc thương thuyết không được tiến triển theo chiều hướng đó. Cùng lắm Bắc Hàn sẽ chọn đứng giữa Mỹ và Tầu, không ngả hẳn về bên nào. Nếu đúng vậy, một lần nữa Xi Jin Ping của nước Tầu lại thành công, dù là tạm thời, trong việc chặn đường Donald Trump của nước Mỹ.

Dẫu sao, cuộc gặp thượng đỉnh Trump-Kim, có kết quả hay không, cũng chỉ là một cao điểm vì ván cờ còn tiếp diễn trong nhiều năm sắp tới cho đến khi một thế quân bình mới tại Châu Á được thiết lập một cách rõ ràng. Lúc đầu có thể như đã nói Kim không ngả hẳn về bên nào, mà lợi dụng được cả hai bên nhưng có lẽ sẽ luôn tự nhắc nhở rằng vì lý do lịch sử, địa lý, văn hóa, chủng tộc - giống như trường hợp Việt Nam - Tầu thực sự thâm hiểm và nguy hiểm đối với dân tộc Cao Ly nói chung và họ nhà Kim nói riêng hơn là Mỹ. Sau cùng Kim Jong-un sẽ ngả dần về phía Mỹ, dùng Mỹ để cân bằng Tầu thay vì dùng Tầu để cân bằng Mỹ như từ trước đến nay.

8. Giải pháp "dĩ độc trị độc" (xem bài liên hệ ở phần cuối) có thể là giải pháp tốt nhất cho nước Mỹ trong hoàn cảnh hiện tại và sẽ được Kim Jong-un tôn trọng vì lý do đơn giản : phù hợp với quyền lợi của nhà họ Kim. Bắc Hàn đi với Mỹ ít nguy hiểm, có lợi hơn, tốt hơn là đi với Tầu vì sẽ bị Tầu kiềm chế như trường hợp Việt Nam !

Bất kể văn tự chính thức của hiệp ước hòa bình Mỹ-Bắc Hàn nói gì về "phi hạt nhân hóa" bán đảo Cao Ly, sau cuộc gặp gỡ Trump-Kim, Mỹ-Bắc Hàn có thể đổi thù thành bạn, tiến dần thành đồng minh. "America First" gặp "Kim Dynasty First". Điều này bao hàm việc Mỹ không những chấp nhận, minh thị hay mặc nhiên, Bắc Hàn là cường quốc hạt nhân mà còn "chuyển" vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn từ "tiêu sản" thành "tích sản" đối với nước Mỹ - chuyển thế bại thành thế thắng, đẩy mũi giáo nguyên tử đang chĩa vào trái nước Mỹ cho nó hướng về trái tim của kẻ đối thủ cạnh tranh chính của nước Mỹ là nước Tầu của Xi Jing Ping, buộc Xi và nước Tầu phải nhọc nhằn đối phó. 

Còn hơi sớm để biết Trump đủ bản lĩnh để làm một "strategic coup" mang tính cách "đột phá" như thế hay không nhưng có lẽ người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh của đất nước mình đang bị chủ nghĩa đế quốc Đại Hán uy hiếp ngặt nghèo cũng đều muốn chúc cho Donald Trump may mắn.

Cao Tuấn

(05/06/2018)



Bài liên hệ cùng tác giả "Thử giải bài toán nhức đầu Bắc Triều Tiên cho nước Mỹ của Donald Trump" (Thông Luận, 08/10/2017)


Published in Diễn đàn

Hòa bình, thống nhất trên bán đảo Cao Ly sau hội nghị thượng đỉnh Nam Hàn - Bắc Hàn ?

Đừng "hồ hởi, phấn khởi" sớm quá mà "bé cái lầm" :

1. Cho đến bây giờ vẫn phải xem Kim Jong-un là tên bạo chúa (tyrant), giống như ông nội, như bố hắn. Chế độ Bắc Hàn là chế độ quân chủ phong kiến cha truyền con nối, độc tài sắt máu nhất thế giới hiện nay. (Làm bạo chúa mà không sắt máu thì không giữ được ngôi vị và cả mạng sống. Kim Jong-un xem ra hiểu rất rõ điều này và hiểu rõ những nguy cơ rình rập - bên trong lẫn bên ngoài).

NORTHKOREA-SOUTHKOREA/SUMMIT

Hai lãnh tụ Bắc và Nam Hàn cùng sánh vai duyệt đội dàn chào - Ảnh Le Monde

2. Đối với bạo chúa như Kim Jong-un, những khái niệm nhân đạo, nhân quyền, tự do, dân chủ, hòa bình, yêu nước, thương dân, nòi giống trường tồn... đều là chuyện đầu môi, chót lưỡi hay tuyên truyền sách động. Không có gì quan trọng bằng quyền lợi của hắn, ego của hắn. Không có gì quan trọng bằng sự tồn tại của hắn, triều đại của hắn.

3. Mặc dù thừa hưởng cơ nghiệp của ông và cha, kể cả cơ nghiệp lén lút, bí mật, miệt mài phát triển vũ khí nguyên tử, Kim Jong-un đã tự chứng tỏ là tay độc tài, bạo chúa rất bản lãnh, khôn ngoan, chủ động trong các đường đi, nước bước : liên tiếp thử nghiệm và hoàn thiện vũ khí nguyên tử bất chấp phản ứng của các đối thủ. Sau đó là màn "charm offensive" hay "tấn công hòa bình" dẫn dắt Moon, Trump, Xi và cả công luận thế giới đi theo.

Trong một thời gian ngắn, thế giới nhìn Kim Jong-un khác hẳn : lãnh tụ một cường quốc hạt nhân mới, tuổi trẻ tài cao, điềm đạm, tư cách, ôn hòa, hợp lý, yêu nước, yêu dân tộc, yêu hòa bình, đầy tinh thần trách nhiệm và nhất là không sợ ai cả.

Kim đã tự tạo cho mình một thế thương thuyết rất mạnh trước khi ngồi nói chuyện tay đôi với ông tổng thống đầy tai tiếng của nước Mỹ. Rõ ràng chú nhóc Kim trên cơ anh già Trump, trên cơ cả anh già Moon, anh già Xi. Anh nào gặp Kim Jong-un mặt mũi cũng nghiêm trọng, gượng gạo, căng thẳng. Chẳng anh nào dám "bắt nạt trẻ con".

Chắc chắn Mỹ, Tầu, Nam Hàn "phải cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu". Kim Jong-un sẽ được rất nhiều chỉ mất tí nước bọt !

4. Bản thông cáo chung sau hội nghị thượng đỉnh Liên Triều không thể hay hơn được. Nhưng chỉ về mặt lý thuyết, mặt văn chương thôi ! 

Trong thực tế vấn đề hòa bình, thống nhất Nam Hàn, Bắc Hàn giải quyết làm sao ? Nước Cao Ly thống nhất theo chế độ nào đây ? Dân chủ tự do hay độc tài phong kiến ? Trưng cầu dân ý, mỗi người một lá phiếu do Liên Hiệp Quốc tổ chức là hợp lý chứ gì !

Nhưng Nam Hàn có hơn 50 triệu dân, Bắc Hàn chỉ có 25 triệu, Dân Chủ Tự Do tất phải thắng, gia đình Kim Jong-un đi đâu ?!

Nam Hàn giầu có, lợi tức đầu người bình quân trên dưới 26.000 USD, Bắc Hàn nghèo mạt rệp chỉ vào khoảng 2.000 USD thì nhường cơm sẻ áo, tái phân phối tài sản, lợi tức thế nào để một bên khỏi phải đi ở đợ cho bên kia ?

Hay trong khi chờ đợi thống nhất, Nam Hàn tặng không cho Bắc Hàn 100 tỉ đô la nhưng đòi phân phối trực tiếp đến từng người dân. Kim Jong-un không chịu đòi phải trao tiền cho chính quyền Bắc Hàn, nếu không sẽ có xung đột và chiến tranh…

Đại khái mèo lại hoàn mèo !

Cao Tuấn

(29/04/2018)

Published in Diễn đàn

Thử giải bài toán nhức đầu Bắc Triều Tiên cho nước Mỹ của Donald Trump

Bom A, bom H, hỏa tiễn liên lục địa của Bắc Triều Tiên (North Korea) là chuyện nhức đầu của nước Mỹ, nhưng không phải chỉ là chuyện nhức đầu của riêng nước Mỹ bởi vì nếu chiến tranh nguyên tử bấm nút giữa Bắc Triều Tiên và Mỹ bùng nổ trong chớp mắt không ai biết chắc sự tàn phá khủng khiếp sẽ lan rộng tới đâu ? Quốc gia nào, gia đình nào, cá nhân nào, dù sống sót, mà không thấy đời sống thay đổi hay đảo lộn ? Thành ra tìm cách giải bài toán Bắc Triều Tiên cho nước Mỹ của Donald Trump chỉ vì không thể làm khách bàng quan "tọa sơn quan hổ đấu" ?!

btt1

Kim Jong-un sẽ không từ bỏ vũ khí hạch tâm như Mỹ, Nhật, Nam Hàn đòi hỏi

Mà giải bài toán này cũng không thể không bắt đầu bằng nhìn vào cuộc tranh giành ảnh hưởng và quyền lực đang diễn ra trên thế, giới, vào hiện trạng nước Mỹ của Donald Trump, Bắc Triều Tiên của Kim Jong-un, nước Tầu của Tập Cận Bình, Nhật, Nam Hàn (South Korea), Đài Loan, các nước Đông Nam Á...

Cũng không thể không nhìn thấy các nét chính trước khi bàn cách giải quyết.

Nhận định căn bản

1. Kim Jong-un sẽ không từ bỏ vũ khí hạch tâm như Mỹ, Nhật, Nam Hàn đòi hỏi. Không bao giờ. Trong hoàn cảnh của Kim và của chế độ cộng sản, phong kiến, thế tập Bắc Triều Tiên, bỏ vũ khí hạch tâm đồng nghĩa với tự sát. Nếu Mỹ muốn tìm một giải pháp chính trị thì phải chấm dứt đòi hỏi... "cực đoan" này. Nếu không chính thức công nhận Bắc Triều Tiên là một cường quốc nguyên tử thì Mỹ cũng phải chấp nhận đó là một thực tế không thay đổi được và tìm cách "sống" thích nghi với cái "sự đã rồi" (fait accompli) ấy.

2. Bắc Triều Tiên cũng không muốn tự sát mở cuộc chiến nguyên tử với Mỹ. Mỹ cũng chẳng muốn đấu nguyên tử với Bắc Triều Tiên, không tự sát cũng gần như tự sát - đánh nhau dù không chết nhưng mù mắt, cụt chân thì thắng để làm gì ? Tuy vậy việc leo thang "võ miệng" giữa Donald Trump và Kim Jong-un hoàn toàn có khả năng làm bùng nổ chiến tranh nguyên tử mà thực tâm không ai muốn.

3. Bắc Triều Tiên là địch thủ của Mỹ nhưng không phải là địch thủ chính. Nếu Mỹ làm ngơ để Kim Jong-un "quậy" tối đa thì Kim cũng chẳng làm hại được nước Mỹ bao nhiêu, hoặc còn lâu mới làm hại được Mỹ một cách đáng kể. Bắc Triều Tiên nghèo đói, cô độc, nước nhỏ chỉ 25 triệu dân, có ảnh hưởng gì trên thế giới ?

4. Địch thủ cạnh tranh quyền lực chính của nước Mỹ là nước Tầu. Tầu có khả năng làm hại quyền lợi Mỹ, có âm mưu và kế hoạch từng bước truất phế Mỹ để leo lên làm trùm thế giới. Bắc Triều Tiên không có khả năng này và cũng không thể có tham vọng lớn lao như thế. Cùng lắm là làm trùm bán đảo Cao Ly nhưng trước hết là phải sống sót, phải thoát cảnh bần hàn đã.

Cái hung hăng của Bắc Triều Tiên là một phần chính của sách lược sinh tồn. Cái mềm mỏng "thao quang dưỡng hối", "giấu mình, chờ thời" của Tầu trong mấy chục năm qua mới là sách lược bành trướng chết người. Mỹ sa lầy với Afghanistan, với Iraq, sa lầy với North Korea là những cơ hội bằng vàng để Tầu vượt lên phía trước và sắp qua mặt Mỹ đến nơi. Một khi Tầu đã biến được Biển Đông và Đông Nam Á thành "ao nhà" và "sân sau" thì Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản sẽ bị tuyệt đường tiếp tế cực kỳ trọng yếu từ phía Nam lên, còn trụ được bao lâu ? Tiếp tục thân Mỹ được bao lâu nữa ? Một khi bị hất ra khỏi Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ còn thù nghịch với một nước Bắc Triều Tiên nghèo đói, cô độc cho mục đích thực tiễn gì ?!

5. Bề ngoài, Bắc Triều Tiên đe dọa tiêu diệt Mỹ bằng hỏa tiễn liên lục địa gắn bom A, bom H cũng như mạt sát Mỹ rất nặng lời, nhưng bên trong vẫn muốn dàn xếp tranh chấp với Mỹ qua đường thương thuyết sao cho có lợi nhất, chẳng hạn : triều đại họ Kim vẫn "muôn năm trường trị", Bắc Triều Tiên được hưởng "quy chế đặc biệt" là cường quốc hạt nhân, được Mỹ bang giao thân thiện, được Mỹ giúp đỡ phát triển kinh tế giống như Mỹ đã từng giúp Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Tây Đức, các nước Tây Âu, nước Việt Nam cộng sản và cả nước Tầu cộng sản...

Nếu đã nhất định "không đội trời chung với đế quốc Mỹ", nếu không muốn lập lại cái "ping pong diplomacy" từng mở ra một khúc quanh hoàn toàn mới trong lịch sử bang giao Tầu- Mỹ, có lẽ nào Kim Jong-un chỉ vì say mê môn bóng rổ mà mấy lần mời "đến chơi" và ân cần đón tiếp tại thủ đô Bình Nhưỡng cầu thủ NBA nổi tiếng người Mỹ da đen Dennis Rodman như bạn tâm giao ? Một cánh cửa "khép mở hững hờ" như thế chẳng phải đã là tín hiệu… "ngươi đến với ta, ta cũng bằng lòng" ? Muốn hòa giải, Mỹ, là đại cường quốc, phải đi bước trước !

6. Bề ngoài, Bắc Triều Tiên và Tầu còn là đồng minh nhưng bên trong đã ghét nhau đến mức "cạn tầu, ráo máng". Nước Tầu càng giầu có, càng phách lối, càng muốn áp đặt, càng muốn kiểm soát. Bắc Triều Tiên càng nghèo mạt, càng tự ái, càng ương ngạnh, càng thách thức.

Tầu lãnh đạm với Bắc Triều Tiên bao nhiêu lại thân thiết với Nam Hàn bấy nhiêu. Từ lúc Kim Jong-un lên kế vị bố chưa hề giáp mặt "hoàng đế" Tập Cận Bình, nhiều phần là không muốn gặp, "không thèm gặp". Ngược lại Tập và các lãnh tụ Nam Hàn "giao du rất thân mật", qua lại, hội kiến, tham khảo thường xuyên. Tổng số giao thương Tầu-Nam Hàn đã vượt qua tổng số giao thương Tầu- Bắc Triều Tiên đến mấy chục lần chưa kể các doanh nghiệp Nam Hàn đã đầu tư hàng trăm tỉ đô la vào kinh tế nước Tầu.

Kim Jong-un ngờ vực một cách rất có lý Tầu ngấm ngầm tìm cách ám hại mình nên đã ra tay trước một cách rất bất ngờ và quyết liệt : giết phăng đại tướng Jang Song-thaek, chồng của cô ruột, giết luôn cả anh trai cùng cha khác mẹ Kim Jong-nam vốn là 2 quân bài chủ yếu của Tầu nhằm giữ Bắc Triều Tiên trong tầm kiểm soát. Rất đau, rất mất thể diện Tầu đành cắn răng chờ cơ hội trừ khử Kim Jong-un. Kim thì biết rõ "bát nước đã đổ xuống đất", tình nghĩa đứt đoạn, chỉ còn bước tới, tiếp tục thử nghiệm, cải tiến, hoàn thiện các vũ khí hạt nhân, bất chấp Tầu biểu quyết chế tài và thực thi cấm vận.

(Mặc dù trẻ tuổi, được bố đặt lên "ngai vàng" khá đột ngột, không có kinh nghiệm gì về chính trị quyền lực trước đó, bề ngoài lại nặng nề, phục phịch, Kim Jong-un đã sớm chứng tỏ bản lĩnh của một tay độc tài có hạng, nắm rất vững tình hình nội bộ bằng sắt và máu, phòng thủ an ninh rất kín, quyết đoán và ngang tàng hơn cả bố và ông nội. Kim Jong-un quả thật không lép vế chút nào khi đối phó với Tập Cận Bình và Donald Trump, lãnh tụ siêu cường quốc).

7. Tầu không muốn chiến tranh nguyên tử giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên bùng nổ, sợ bị lôi cuốn rồi "đầu chẳng phải, phải tai". Tầu cũng không muốn bị lôi cuốn vào chiến tranh trên bán đảo Cao Ly lần nữa, dù chỉ là chiến tranh quy ước, khi đang theo đuổi thượng sách "bất chiến tự nhiên thành" nói chung và khi đang giao thương rất có lợi với Nam Hàn, nói riêng. Mặt khác Tầu rất muốn Mỹ và Bắc Triều Tiên tiếp tục thù nghịch bởi vì nếu Mỹ không còn là kẻ thù chính của Bắc Triều Tiên thì hỏa tiễn có gắn bom A, bom H của Kim Jong-un còn chủ yếu dùng để đối phó với ai ngoài nước Tầu, mặc dù họ Kim chẳng cần Mỹ xúi giục ?

8. Bom A, bom H và hỏa tiễn của Bắc Triều Tiên nguy hiểm đối với Tầu hơn đối với Mỹ vì khoảng cách giữa Bắc Triều Tiên và Tầu quá gần, độ chính xác sẽ cao hơn, thời gian để phản ứng ngắn hơn... Nếu Bắc Triều Tiên trở mặt, công khai thù nghịch, cả nước Tầu sẽ thấy thần chết lơ lửng ngay trên đầu ! Tuy thế, Tầu cũng không dám mạo hiểm dùng vũ khí hạt nhân đánh úp Bắc Triều Tiên vì không chắc ăn 100%. Nếu "first strike" của Tầu không hủy diệt được tất cả mục tiêu cần hủy diệt thì Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, Thiên Tân... rất khó thoát số phận của Hiroshima, Nagasaki năm xưa khi Kim Jong-un phản công theo bài bản sách lược "second strike".

9. Hòa giải với Bắc Triều Tiên, nước Mỹ sẽ không tránh được những hệ luỵ, hậu quả rắc rối nhưng cái giá của sự nhượng bộ vẫn rẻ hơn cái giá của sự tiếp tục leo thang thù nghịch, hay cái giá của chiến tranh. Đấy là chưa kể để gỡ một thế cờ bí trên bàn cờ thế giới, sáng kiến ngoại giao mới này, đối với nước Mỹ, là chấp nhận "lùi một bước để tiến hai ba bước". Bỏ lên bàn cân, cái lợi về lâu dài có thể vượt quá cái hại trước mắt. Điểm chính yếu là ngọn giáo thù Bắc Triều Tiên đang chĩa vào trái tim nước Mỹ thì đẩy nó sang một bên để nó hướng về phía trái tim đối thủ chính của mình. Bấy lâu nay Tầu đã dùng Bắc Triều Tiên để kiềm chế, cầm chân nước Mỹ thì bây giờ là lúc "biến nghịch cảnh thành cơ hội" cho nước Mỹ "đáp lễ" dùng Bắc Triều Tiên để kiềm chế, cầm chân nước Tầu đang vươn lên mạnh mẽ. 

10. Mỹ làm hòa với Bắc Triều Tiên cũng có hiệu ứng thực tế là trao gánh nặng bảo vệ Nam Hàn cho chính nước Tầu. Tầu được hưởng những mối lợi lớn lao đến từ chế độ tư bản Nam Hàn thì "ăn cây nào, rào cây ấy", Tầu phải lo bảo vệ Nam Hàn là chuyện hoàn toàn hợp lý.

btt2

Mỹ làm hòa với Bắc Triều Tiên cũng có hiệu ứng thực tế là trao gánh nặng bảo vệ Nam Hàn cho chính nước Tầu.

Thực ra Nam Hàn, cường quốc kinh tế trên thế giới, hiện chơi trò "bắt cá hai tay" - Đồng minh với Mỹ để hưởng cái dù nguyên tử che chở của Mỹ chống lại đe dọa của Bắc Triều Tiên, "đồng minh" cả với Tầu để làm ăn và làm giầu. Nếu mai đây tranh chấp Mỹ-Tầu bùng nổ, không ai biết chắc Nam Hàn sẽ chọn đứng về bên nào ? Nếu Nam Hàn đã thân thiết với Tầu như thế, có gì là cấm kỵ nếu Mỹ cũng "bắt cá hai tay" - làm "bạn" với Nam Hàn, "bạn" luôn cả với Bắc Triều Tiên ?

Nam Hàn cũng chẳng phải quá lo lắng vì thừa sức đương đầu với Bắc Triều Tiên trong chiến tranh quy ước, chỉ thiếu vũ khí hạch tâm để cân bằng vũ khí hạch tâm của Bắc Triều Tiên. Tầu sẽ ngầm giúp ngầm giúp Nam Hàn thủ đắc vũ khí hạch tâm ? Hoặc làm ngơ cho Nam Hàn tự phát triển lấy vũ khí hạch tâm ? Hoặc Tầu nên chính thức cảnh cáo Bắc Triều Tiên "mọi cuộc tấn công bằng vũ khí hạch tâm chống lại Nam Hàn sẽ bị xem là tấn công hạch tâm vào chính Trung Quốc và sẽ bị đáp trả tương xứng" ? Dẫu sao, bảo vệ Nam Hàn cách nào tốt nhất là sẽ là... chuyện "riêng" của Trung Quốc, Mỹ không lý đến nữa.

"Trong chính trị quốc tế không bạn muôn đời, không có kẻ thù muôn kiếp, mà chỉ có quyền lợi của quốc gia"! Chẳng phải Donald Trump luôn miệng "America First" và trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc mới đây đã cổ võ tất cả các quốc gia trên thế giới... theo gương Mỹ, đặt quyền lợi của nước mình lên trên hết đấy sao ?

11. Một khi Mỹ làm hòa với Bắc Triều Tiên, minh thị hay mặc nhiên chấp nhận Bắc Triều Tiên là cường quốc hạt nhân, cũng như rút bớt sự hiện diện quân sự ở Đông Bắc Á thì một hiệu ứng thực tế khác là nước Nhật sẽ nhanh chóng trở thành một cường quốc hạt nhân khác, nhờ vào trình độ kỹ thuật, khoa học tiến bộ của chính mình, dù dân có chống hay không chống.

Một khi Nhật "hùng mạnh" trở lại bằng cách "tái võ trang" như thế thì cán cân quyền lực ở Châu Á sẽ thăng bằng hơn, Tầu không dễ gì độc chiếm Biển Đông và gánh nặng trên vai của nước Mỹ cũng bớt nặng đi. Sau Nhật, có thể có thêm nhiều nước khác tìm cách thủ đắc vũ khí nguyên tử như Đài Loan, như Iran... Một trào lưu không tránh được, hệ quả tất yếu của tiến bộ khoa học và cạnh tranh sinh tồn.

Tuy vậy, một thế giới có nhiều cường quốc nguyên tử, trông đáng sợ hơn, không nhất thiết có nghĩa hiểm họa chiến tranh nguyên tử sẽ lớn hơn, mặt khác lại có thể có hậu quả tích cực là thế giới nhất cực mà Mỹ "từ chối" làm bá chủ sẽ trở thành thế giới đa cực, với nhiều trung tâm quyền lực khác nhau và tương đối bình đẳng.

Nước Mỹ của Donald Trump không còn muốn làm "minh chủ võ lâm" hay "lãnh tụ của thế giới tự do" vì nợ nần, vì đuối sức, vì tự thấy "lợi bất cập hại", vì "kính chẳng bỏ phiền", muốn "thoái vị" để trở lại chủ nghĩa cô lập một cách tương đối an toàn thì công thức thế giới đa cực có lẽ là lối thoát tốt đẹp nhất cho Mỹ trong tình trạng hiện tại, hoặc ít nhất cũng tốt đẹp hơn là cái thế giới nhất cực nhưng với ông trùm mới là nước Tầu của Tập Cận Bình.

Gợi ý giải pháp

1. Như Richard Nixon gửi Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh năm 1971, Donald Trump bí mật gửi đặc sứ cao cấp và thân tín (chẳng hạn cố vấn Ivanka Trump, con gái, hoặc cố vấn cao cấp Jared Kushner, con rể, hoặc chánh văn phòng Bạch Cung John Kelly...) đến Bình Nhưỡng gặp Kim Jong-un thông báo những nhượng bộ tối đa của Mỹ để đổi lấy các nhượng bộ tối thiểu của Bắc Triều Tiên.

Nhượng bộ của Mỹ :

- Không còn đòi Bắc Triều Tiên phải từ bỏ vũ khí hạch tâm.

- Đơn phương chấm dứt các biện pháp chế tài và cấm vận chống Bắc Triều Tiên.

- Công nhận Bắc Triều Tiên và chính thức thiết lập bang giao, trao đổi đại sứ.

- Triệt thoái sự hiện diện quân sự khỏi lãnh thổ Nam Hàn trong theo hạn kỳ nhất định, vừa phải, hợp lý.

- Hủy bỏ các cuộc tập trận thường kỳ hàng năm chung với quân đội Nam Hàn.

- Bầy tỏ ý định muốn tham gia và giúp đỡ Bắc Triều Tiên phát triển kinh tế .

- Chấp nhận cho Bắc Triều Tiên hưởng quy chế "tối huệ quốc" trong giao thương với Mỹ...

Nhượng bộ của Bắc Triều Tiên (chủ yếu giữ thể diện cho nước Mỹ) :

- Ngưng việc thử các vũ khí hạch tâm.

- Tuyên bố "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai", chấm dứt tình trạng thù nghịch đối với nước Mỹ.

- Cam kết tìm cách thống nhất đất nước Triều Tiên bằng các biện pháp hòa bình thông qua đàm phán Bắc Triều Tiên-Nam Hàn.

- Chấp nhận quy chế "tối huệ quốc" đối với các hàng hóa, dịch vụ, đầu tư đến từ nước Mỹ.

- Cam kết không bán, không phổ biến vũ khí hạch tâm...

2. Chuẩn bị công luận trong và ngoài nước Mỹ để có sự ủng hộ cần thiết và giảm thiểu mọi chống phá đối với thỏa ước "biến thù thành bạn" giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên, Donald Trump và Kim Jong-un đóng kịch như thật (hay tiếp tục đóng kịch như thật ?), diễn vở tuồng "giận dữ như sắp nổi điên", nhục mạ nhau bằng những thậm từ, hăm dọa tiêu diệt thành tro bụi mọi kẻ thù chính và... đồng bọn, ra lệnh chuẩn bị chiến tranh, ban bố tình trạng khẩn cấp, xây hầm trú ẩn, tích trữ lương thực...

Bên này di chuyển pháo đài bay chiến lược B1, tầu ngầm nguyên tử đến gần các mục tiêu, bên kia liên tiếp bắn hỏa tiễn liên lục địa vào không gian phô trương khả năng sẵn sàng... Tất cả tạo một tình trạng hoảng loạn trên toàn thế giới như sắp tận thế...

Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế, các nước Tầu, Nga, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nam Hàn... lãnh tụ tôn giáo, chính trị gia, nhân sĩ, báo chí, dân thường... đều tới tấp, đổ xô vào can ngăn cả hai bên, kêu gọi bình tĩnh, đối thoại, nhường nhịn... nhân danh "hòa bình trên hết".

Trước những thỉnh cầu chính đáng và tha thiết, trước áp lực của công luận mạnh mẽ, rộng rãi như thế, Tổng thống Trump và Chủ tịch Kim đành gác bỏ "thù riêng"... cho bật đèn xanh bắt đầu cuộc đối thoại song phương chính thức Mỹ- Bắc Triều Tiên. Cuộc đối thoại cù cưa, cò kè, bớt một thêm hai cuối cùng cho ra một hòa ước quốc tế "mới toanh" nhưng các điểm chủ yếu đã được bí mật thỏa thuận từ mấy tháng trước !

Sau khi "make deal" với Bắc Triều Tiên mà nội dung vượt quá sự dự đoán của hầu hết mọi người, đặc biệt là trước sự tức giận của nước Tầu, nước Nga, trước sự thất vọng của nước Nhật, của Nam Hàn, Donald Trump tiếp tục giữ kín chuyện "ăn vụng, đi đêm, đóng kịch" với Kim Jong-un nhưng sẽ không bỏ lỡ cơ hội tự ca ngợi đã cứu nước Mỹ khỏi bờ vực chiến tranh nguyên tử, giải quyết được gánh nặng Bắc Triều Tiên do các tổng thống tiền nhiệm để lại, bằng "nghệ thuật thỏa hiệp thành công" (The Art of the Deal) rất cao siêu của mình.

Cũng đành phải chúc cho Donald Trump may mắn !

Cao Tuấn

(08/10/2017)

Published in Diễn đàn