Mỹ tuyên bố thẳng thừng Trung Quốc là ‘cường quốc xét lại’ trong chiến lược an ninh mới của mình và gọi những hành động của Trung Quốc là phá hoại ‘trật tự quốc tế dựa trên luật pháp’ trong khi các chuyên gia nhận định rằng chính sách ‘Nước Mỹ trên hết’ của chính quyền Donald Trump khiến Mỹ khó lòng thực thi được chiến lược này.
Từ năm 2013, Trung Quốc đã xây nhiều đảo nhân tạo trên Biển Đông để biến thành những căn cứ quân sự kiểm soát sự đi lại của tàu thuyền trên trục lộ giao thông hàng hải Đông Á
Trong thuật ngữ quan hệ quốc tế, ‘cường quốc xét lại’ (revisionist power) tức là cường quốc mới nổi đòi sắp xếp lại trật tự thế giới có lợi cho mình và do đó đe dọa quyền lợi của ‘cường quốc nguyên trạng’ (status-quo power).
Sự đối đầu giữa ‘cường quốc nguyên trạng’ và ‘cường quốc xét lại’ dẫn đến điều mà các học giả quan hệ quốc tế gọi là ‘bẫy Thucydides’, tức là nguy cơ chiến tranh giữa hai bên. Lịch sử ghi nhận những lần trỗi dậy của ‘cường quốc xét lại’ đều dẫn đến chiến tranh.
Báo cáo Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hôm 1/6 đã đặt ‘cường quốc xét lại’ Trung Quốc là mối đe dọa hàng đầu đối với Mỹ, theo sau là Nga – ‘phần tử hiểm ác đang hồi sinh’ – và cuối cùng là Triều Tiên – ‘quốc gia lưu manh’.
Báo cáo này trình bày về nội dung an ninh, một trong ba trụ cột của chiến lược mới này bên cạnh kinh tế và quản trị.
‘Phá hoại trật tự quốc tế’
Mặc dù thừa nhận là sự trỗi dậy về chính trị, kinh tế, quân sự của Trung Quốc là một trong những yếu tố định hình thế kỷ 21, báo cáo này cho rằng khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang đối mặt với một Trung Quốc ngày càng tự tin và quả quyết vốn sẵn sàng chấp nhận xung đột để theo đuổi các lợi ích chính trị, kinh tế, an ninh ngày càng rộng lớn của mình.
"Có lẽ không có quốc gia nào hưởng lợi nhiều hơn từ trật tự thế giới và khu vực mở và tự do hơn Trung Quốc", báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ viết. "Ấy vậy mà trong khi người dân Trung Quốc khao khát thị trường tự do, công bằng và pháp trị, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã phá hoại trật tự quốc tế từ bên trong bằng cách tận dụng những lợi ích nó đem lại đồng thời làm xói mòn các giá trị và nguyên tắc của trật tự dựa trên pháp luật".
Lầu Năm Góc đánh giá mục tiêu của Trung Quốc trong lúc nước này ngày càng vươn lên về kinh tế và quân sự là ‘bá chủ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong tương lai gần và cuối cùng là áp đảo toàn cầu về lâu dài’.
Để thực hiện mục tiêu này, về quân sự, Bắc Kinh đang đầu tư vào một phạm vi rộng lớn các chương trình quân sự và vũ khí nhằm cải thiện khả năng thực thi sức mạnh, hiện đại hóa năng lực hạt nhân và tiến hành các chiến dịch ngày càng phức tạp trong các lĩnh vực như không gian, không gian mạng và tác chiến điện tử.
"Trung Quốc cũng đang phát triển một loạt các năng lực chống tiếp cận vốn có thể được dùng để ngăn các nước hoạt động ở những khu vực ngoài biên của họ, trong đó có vùng trời và vùng biển vốn mở rộng cho các nước sử dụng", báo cáo viết.
Lầu Năm Góc chỉ ra hai khu vực đáng lo ngại với các hoạt động quân sự của Trung Quốc là Biển Đông và eo biển Đài Loan. Ở Biển Đông, Trung Quốc bị chỉ trích là tiếp tục quân sự hóa vùng biển này với việc lắp đặt các phi đạn hành trình chống hạm và phi đạn đất đối không tầm xa trên những thực thể có tranh chấp thuộc quần đảo Trường Sa và triển khai các lực lượng bán quân sự trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước khác.
"Những hành động này làm nguy hại cho dòng chảy thương mại tự do, đe dọa chủ quyền của các quốc gia khác và phá hoại ổn định khu vực. Những hành động như thế không nhất quán với các nguyên tắc của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do", báo cáo viết.
Bộ Quốc phòng Mỹ cũng chỉ ra rằng ‘Trung Quốc sử dụng tuần tự các bước đi nhỏ, dần dần, nằm ở khoảng giữa quan hệ hòa bình và thù địch công khai để đạt được mục tiêu của mình trong khi giữ cho chúng dưới ngưỡng của một cuộc xung đột vũ trang". Chiến lược này biết đến với tên gọi ‘vùng xám’ do tính lờ mờ, không rõ ràng của nó khiến các nước bị ảnh hưởng khó lòng đáp trả quả quyết.
Còn đối với Đài Loan, Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc đã tăng cường tuần tra xung quanh vùng trời Đài Loan với các máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay do thám.
"Trong thập niên qua, Trung Quốc tiếp tục tập trung vào các năng lực chuẩn bị cho các tình huống liên quan đến Đài Loan. Trung Quốc không bao giờ từ bỏ sử dụng sức mạnh quân sự đối với Đài Loan và tiếp tục phát triển cũng như triển khai các khí tài quân sự tối tân cần cho một chiến dịch quân sự có khả năng", báo cáo viết.
‘Bắt nạt về kinh tế’
Báo cáo chiến lược mới của Mỹ cũng nêu mối quan ngại về những hành vi kinh tế mang tính ‘bắt nạt’ của Trung Quốc đối với các nước nhỏ có tranh chấp. Đây là điểm mới so với chiến lược tái cân bằng dưới thời của cựu Tổng thống Barack Obama trong bối cảnh chính quyền Donald Trump có tranh chấp với Trung Quốc trên một loạt vấn đề từ thương mại đến các chính sách cạnh tranh không công bằng.
Trong những hành vi kinh tế mang tính ‘bắt nạt’, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp phi quân sự, bao gồm các công cụ kinh tế, để gây sức ép với các nước có căng thẳng chính trị với Trung Quốc.
"Trung Quốc sử dụng các biện pháp dẫn dụ và trừng phạt về kinh tế, các chiến dịch gây ảnh hưởng kết hợp cùng đe dọa quân sự ngầm để thuyết phục các nước tuân theo nghị trình của họ", báo cáo viết.
Theo Lầu Năm Góc thì đầu tư của Trung Quốc ‘thường đem đến những tác động kinh tế tiêu cực hay cái giá phải trả đối với chủ quyền của những nước tiếp nhận đầu tư’ do sự đầu tư và cấp vốn của Trung Quốc ‘bỏ qua những cơ chế thị trường thông thường’ sẽ ‘dẫn đến chuẩn mực thấp và giảm thiểu cơ hội cho các công ty và nhân công bản địa và gây tích lũy nợ đáng kể’.
"Các thỏa thuận làm ăn khuất tuất và một chiều không nhất quán với các nguyên tắc của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do".
Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ không hề thay đổi phạm vi hoạt động dưới chiến lược mới "Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mở và tự do "
Báo cáo dẫn lời của Đô đốc Philip S. Davidson, Tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, trong một buổi điều trần trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện hồi tháng 2 năm nay rằng cách vận dụng các đòn bẩy kinh tế của Bắc Kinh ‘có thể làm tổn hại đến quyền tự quyết của các nước trong khu vực… tiền đến dễ dàng trong ngắn hạn nhưng đều đi kèm điều kiện ràng buộc, nợ không bền vững, tính minh bạch sụt giảm, những giới hạn của nền kinh tế thị trường và khả năng mất kiểm soát tài nguyên thiên nhiên’.
Tuy nhiên, báo cáo nói rằng Mỹ ‘không chống đối những hoạt động đầu tư của Trung Quốc miễn là họ tôn trọng chủ quyền và pháp trị, cấp vốn có trách nhiệm, và hoạt động một cách minh bạch và bền vững về kinh tế’.
"Nhưng Mỹ có quan ngại nghiêm trọng đối với khả năng Trung Quốc biến những gánh nặng nợ không bền vững của các nước mượn nợ thành quyền tiếp cận chiến lược và quân sự cho Trung Quốc, bao gồm việc chiếm hữu các tài sản thuộc chủ quyền quốc gia làm vật thế nợ", báo cáo viết.
‘Không nhất thiết xung đột’
Trên tờ Diplomat, nhà phân tích chính trị Ankit Panda bình luận rằng việc báo cáo này xem Trung Quốc là ‘đối thủ cạnh tranh chiến lược’ là điều khác biệt đáng quan trọng nhất nhưng cũng ít gây bất ngờ nhất so với chiến lược ‘xoay trục’ hay ‘tái cân bằng’ sang Châu Á của ông Obama vốn là nền tảng chủ chốt cho chiến lược mới này dựa vào để phát triển thêm.
"Chính quyền Obama, vốn rất không muốn đối đầu hay cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc, đã né tránh gọi Trung Quốc là ‘cường quốc xét lại’ và giữ cho cơ chế cạnh tranh với Bắc Kinh ở mức độ ngấm ngầm. Việc báo cáo chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đưa điều này thành chủ đề trọng tâm là điều ít gây ngạc nhiên nhất", ông Panda phân tích.
Trao đổi với VOA, Giáo sư Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Autralia, nói rằng việc Mỹ gọi Trung Quốc là ‘cường quốc xét lại’, vốn đã xuất hiện từ Chiến lược An ninh Quốc gia của Mỹ, không nhất thiết có hàm ý nói về sự xung đột không thể tránh khỏi giữa hai nước mà là Trung Quốc ‘đang hành xử không tuân thủ luật lệ và chuẩn mực’.
"Bản báo cáo đã nói hết sức thành thực rằng Trung Quốc tìm cách trở thành bá chủ ở khu vực Thái Bình Dương và muốn có trở thành cường quốc áp đảo toàn cầu. Cho nên đó là thách thức đối với Mỹ", ông Thayer giải thích.
"Trung Quốc đang có sự phát triển quân sự cũng như kinh tế và không gian mạng – điều này có nghĩa là Trung Quốc có thể dùng thế mạnh này để thúc đẩy lợi ích của họ", ông nói thêm. "Và điều này thách thức trật tự quốc tế dựa trên luật lệ".
Tuy nhiên, ông Thayer cũng lưu ý rằng bản báo cáo của Lầu Năm Góc cũng nói rằng nếu quân đội hai nước tiếp tục gặp gỡ và cùng nhau xác định các luật lệ để hành xử thì họ có thể tránh hiểu lầm và do đó giảm nhẹ nguy cơ về một cuộc đối đầu không tránh khỏi giữa cường quốc xét lại và cường quốc nguyên trạng.
Theo ông Thayer thì bản báo cáo nhấn mạnh việc Trung Quốc có những hành động quả quyết nhưng ‘giữ cho chúng dưới ngưỡng gây ra một cuộc xung đột’, tức chiến thuật ‘vùng xám’, và nhờ vào đó, họ từng bước họ có thể làm xói mòn vị thế áp đảo mà Mỹ có được ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương kể từ khi kết thúc Đệ nhị Thế chiến.
Trả lời câu hỏi của VOA rằng cách đánh giá Trung Quốc của chính quyền Trump khác với chiến lược ‘tái cân bằng’ của chính quyền Obama như thế nào, ông Thayer nói chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ‘thẳng thừng hơn’ trong việc chỉ đích danh những ‘hành vi xấu’ của Trung Quốc.
"Sự ‘xoay trục’ của chính quyền Obama chỉ là nói rằng lợi ích của nước Mỹ nằm ở Châu Á-Thái Bình Dương đang vươn lên do sức nặng kinh tế quan trọng của khu vực này cho nến Mỹ phải xác định lại các ưu tiên", ông giải thích.
Tuy nhiên ông cho rằng việc gọi tên là ‘Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do’ chỉ là một sự ‘thay đổi cách gọi’ so với thời Obama.
"Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ không hề thay đổi phạm vi hoạt động dưới chiến lược mới này", ông nói và bày tỏ nghi ngờ rằng chính quyền Trump sẽ thật sự chú tâm đến khu vực này khi mà nguồn lực của nước Mỹ tiếp tục bị căng ra cho nhưng ưu tiên khác trong lúc ông Trump đang bận tâm về vấn đề Iran".
Sự thất thường của ông Trump
Mặc dù khen ngợi bản báo cáo của Lầu Năm Góc về chiến lược mới, ông Thayer nói rằng từng vấn đề cụ thể nào muốn thành hiện thực ‘đều phải thu hút sự chú ý của ông Trump’.
"Cho dù chiến lược có tốt cũng trở thành vô nghĩa bởi vì anh phải thực hiện những gì Tổng thống muốn", ông nói.
"Anh có một chiến lược về quân sự quốc phòng có gắn kết với khía cạnh kinh tế. Và nếu ông Trump có thể đạt được thỏa thuận với ông Tập (về thương mại tại hội nghị thượng đỉnh G-20 sắp tới ở Nhật), ông ấy có thể ra bất cứ quyết định nào về chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nếu muốn", ông nói thêm.
"Do đó nó khiến các đồng minh của Mỹ bất an".
Khi được hỏi mục tiêu ‘kết nối’ (promoting a networked region), tức là lôi kéo các nước đồng minh và đối tác của Mỹ cùng xây dựng một mạng lưới an ninh chung, như báo cáo nêu ra có thể thực hiện được hay không khi ông Trump dị ứng với chủ nghĩa đa phương và đề cao phương châm ‘Nước Mỹ trên hết’, ông Thayer nhắc lại trên vấn đề thương mại, chính sách của ông Trump chỉ là ‘quý vị hoặc phải đạt thỏa thuận thương mại với chúng tôi hoặc chúng tôi sẽ đánh thuế quý vị’.
Ông đưa ra ví dụ là ông Trump đe dọa các đồng minh Nhật và Hàn Quốc phải tái đàm phán các thỏa thuận thương mại với Mỹ trong khi Mỹ có lợi ích an ninh chung với các nước này trên vấn đề Triều Tiên và gọi đó là ‘chiến lược rối rắm của Mỹ’.
"Không có chủ nghĩa đa phương gì hết trên vấn đề kinh tế trong chiến lược của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương", ông nói và dẫn ra việc ông Trump đã hủy Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ thời Obama ngay khi lên nắm quyền trong khi Việt Nam, một đối tác quan trọng trong chiến lược an ninh của Mỹ, là nước được hưởng lợi nhiều nhất.
Trong khi đó, Trung Quốc đã đổ tiền bạc để thực hiện Ý tưởng Vành đai-Con đường nhằm lôi kéo các nước về phía mình, còn ông Trump đã bỏ qua các diễn đàn khu vực ở Singapore và Papua New Guinea hồi năm ngoái để cho phó Tổng thống Mike Pence đi thay.
"Chủ nghĩa đa phương là vấn đề rất được coi trọng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và nhất là đối với các nước ASEAN. Trung Quốc đang làm tốt hơn Mỹ bằng cách xuất hiện (tại các diễn đàn khu vực) và vung tiền ra", ông Thayer giải thích.
Vì sự rối rắm, không rõ ràng và thiếu nhất quán trong các chính sách của ông Trump mà các nước trong khu vực ‘phải đề phòng’ bởi vì ‘họ không biết mọi chuyện sẽ xảy đến như thế nào’, ông phân tích, chẳng hạn bất thình lình ông Trump quyết định đánh thuế đối với Việt Nam.
Ông Thayer dẫn lại câu trả lời của ông Trump trong một cuộc phỏng vấn với New York Times hồi năm 2017 rằng vũ khí của ông để giải quyết tất cả mọi vấn đề trên thế giới, từ khủng hoảng cho đến đàn áp, là ‘thuế quan và thuế quan’.
Ông cho rằng việc ông Trump chỉ tập trung vào cán cân thương mại trong các vấn đề ở khu vực đã ‘bóp méo bản chất mối quan hệ’ và cách hành xử của Mỹ ‘làm suy yếu vai trò lãnh đạo’ của chính họ trong khu vực.
"Nếu anh nhảy lên một con tàu mà có thể đổi hướng ngay ngày mai thì anh sẽ về đâu ?" ông nói ví von về lập trường các nước trong khu vực trước sự thất thường của Mỹ.
Biển Đông bị đẩy ra sau ?
Khi được hỏi nếu ông Trump quan tâm đến vấn đề thương mại như vậy, liệu ông có bỏ qua hay coi nhẹ Biển Đông hay không, ông Thayer cho rằng nếu ông Trump có thể đạt được thỏa thuận thương mại với Trung Quốc, ông có thể đề cao khả năng đàm phán của mình để đem lại lợi ích cho nước Mỹ với các cử tri. Do đó, vấn đề Biển Đông có thể bị đẩy ra ngoài danh sách ưu tiên (của ông Trump).
"Trong suốt chiến dịch tranh cử, ông Trump đã nói về việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo trên Biển Đông. Nhưng sau đó chúng ta hiếm khi nghe ông Trump nói một lời về việc này bởi vì ông ấy tập trung vào thỏa thuận thương mại với Trung Quốc", ông Thayer nêu ví dụ và cho rằng Biển Đông sẽ càng bị lu mờ trong nghị trình của chính quyền Trump nếu căng thẳng dâng cao ở eo biển Đài Loan.
Ông cũng chỉ trích việc báo cáo chiến lược mới này chỉ nêu việc Trung Quốc triển khai khí tài ra các hòn đảo nhân tạo trên Biển Đông mà không nêu ra chiến lược gì để đối phó và để buộc Trung Quốc ‘phi quân sự hóa’.
"Chúng ta không thật sự thấy điều này mà chúng ta chỉ thấy hành động nhỏ giọt", giáo sư Thayer nói. "Hải quân Mỹ vẫn duy trì các cuộc tuần tra tự do hàng hải thường xuyên nhưng các cuộc tuần tra này không thách thức chủ quyền quá mức của Trung Quốc trên Biển Đông".
"Theo tôi thì Mỹ không có một chiến lược bao trùm để kết nối các biện pháp kinh tế quân sự lại với nhau để hướng đến một nỗ lực nhất định".
"Do đó Biển Đông được để cho sôi nhẹ, được để lại phía sau và vẫn chưa liên quan đến các cuộc đàm phán thương mại", ông Thayer nói thêm.
"Mỹ muốn điều gì ? Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do ? Tự do thương mại ? Thế còn phi quân sự hóa Biển Đông vốn là tuyến hàng hải huyết mạch của thế giới thì sao ?" giáo sư Thayer đặt vấn đề.
Khó lôi kéo các nước ?
Khi được yêu cầu so sánh giữa hai chiến lược ‘Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do’ của chính quyền Trump và ‘tái cân bằng’ (tức ‘xoay trục’) của chính quyền Obama, chuyên gia này cho rằng chiến lược mới ‘tìm cách xử lý toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bao gồm các đảo quốc Nam Thái Bình Dương.’
"Nhiều yếu tố trong chính sách xoay trục của ông Obama, chẳng hạn như triển khai thêm nhiều máy bay hiện đại, nhiều tàu chiến đến khu vực vẫn sẽ tiếp tục", ông Thayer nói.
Tuy nhiên, giáo sư Thayer cho rằng trong khi ông Obama chuyển toàn bộ sự quan tâm từ khu vực Trung Đông của chính quyền George W. Bush sang khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và tập trung xây dựng cơ chế đa phương, thì ông Trump đã đảo ngược cam kết đối với thỏa thuận hạt nhân Iran khiến tình hình Iran tồi tệ hơn làm cho chính quyền ông khó lòng tập trung vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
"Và chính quyền Trump đã làm suy giảm cơ chế đa phương vốn làm suy yếu cấu trúc của khu vực một cách cơ bản".
Vẫn theo giáo sư Thayer, việc chiến lược mới của Mỹ dùng vấn đề chủ quyền để kêu gọi sự hợp tác của các nước đối phó Trung Quốc sẽ không hiệu quả.
Ông nêu trường hợp Việt Nam ‘sẽ nghe theo Mỹ ở một mức độ nào đó’ nhưng nước này ‘không muốn bị rơi vào cái bẫy nếu như họ liên minh vĩnh viễn với Mỹ chống lại Trung Quốc’.
Campuchia là một trường hợp còn khó hơn, theo ông Thayer, vì Mỹ không thể dùng vấn đề chủ quyền quốc gia ra chiêu dụ Phnom Penh được trong lúc chính quyền Hun Sen phá hoại dân chủ và đàn áp khốc liệt phe đối lập.
"Nếu anh là Hun Sen ở Campuchia với chế độ một đảng (CPP) thì Trung Quốc sẽ không làm gì anh chừng nào anh vẫn còn nhờ vả họ và chừng nào anh vẫn còn ủng hộ các chính sách của họ. Tôi không biết Mỹ sẽ nói với Campuchia là chúng tôi sẽ giúp bảo vệ chủ quyền của quý vị như thế nào trong khi các nhà lập pháp Mỹ sẽ chĩa mũi dùi vào các vấn đề nhân quyền", ông giải thích.
Riêng về Úc, một đồng minh thân cận có hiệp ước với Mỹ, ông Thayer cho rằng Úc cũng trong thế khó không thể hùa về cùng với Mỹ đối phó Trung Quốc.
"Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Úc. Khi nước Mỹ trong chiến lược của mình đề cập đến an ninh mạnh, ăn cắp sở hữu trí tuệ… chúng tôi (ông Thayer là người Úc) đã chịu tất cả các hình thức chiến tranh chính trị và tạo ảnh hưởng của Trung Quốc", ông Thayer phân tích. "Nhưng chúng tôi không thể quay lại chống Trung Quốc vì Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn".
"Nước nào (trong khu vực) sẽ có lập trường chống Trung Quốc đây ? Myanmar, Campuchia, hay Thái Lan ? Kể cả Malaysia vốn độc lập hơn nhưng cũng không chống Trung Quốc".
Trên tờ Diplomat, ông Prashanth Parameswaran, biên tập cấp cao của tờ báo này, cũng có nhận định tương tự rằng chiến lược mới của Mỹ sẽ gặp khó khăn trong việc chiêu dụ các nước – bao gồm cả các đối tác hiện tại mà nguyên nhân ông chỉ ra là ‘sự không sẵn sàng’ hay ‘bất an với các chính sách của chính quyền Trump vốn làm tổn hại các nguyên tắc chi phối của một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do, chẳng hạn chủ nghĩa bảo hộ hay sự ngờ vực đối với các luật lệ và thỏa thuận quốc tế.
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA, 22/06/2019
Việt Nam, nước sắp đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN vào năm 2020, sẽ đóng vai trò quan trọng trong lúc Hoa Kỳ sắp sửa triển khai giai đoạn đầu của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà Washington vừa công bố tại diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La ở Singapore hồi đầu tháng.
Tầm quan trọng của hợp tác Mỹ và các nước tiểu vùng sông Mê Kông
Hầu hết các quan chức cấp cao về ngoại giao và quốc phòng của Mỹ đều nhấn mạnh quan hệ đối tác với Việt Nam tại hội thảo nhan đề ‘Diễn đàn Ngoại giao Meridian : Các nước sông Mê Kông’ do Trung tâm Quốc tế Meridian tổ chức hôm 6/6 tại thủ đô Washington D.C.
Tiểu vùng sông Mekong bao gồm năm quốc gia lục địa của ASEAN : Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Tính tổng cộng, năm nước này có dân số 240 triệu người và GDP trên 800 tỷ đô la.
Nhận thức về tầm quan trọng của khu vực này, bản thân Hoa Kỳ cũng đã có những cơ chế riêng để hợp tác với các nước thuộc lưu vực sông Mekong, trong đó có Sáng kiến Hạ nguồn sông Mekong (LMI) vốn sẽ đánh dấu kỷ niệm 10 năm thành lập trong năm nay.
Đối tác ‘ngày càng quan trọng’
Mặc dù trong 5 nước này chỉ có Thái Lan là nước có quan hệ đồng minh theo hiệp ước với Mỹ, nhưng Việt Nam lại được đánh giá là ‘đối tác ngày càng quan trọng’, ông Mark Clark, quyền phó trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, Văn phòng Đông Á và Thái Bình Dương sự vụ, phát biểu tại buổi hội thảo.
Ông Randall Schriver, trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách An ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cũng có nhận định như thế về tầm quan trọng của Việt Nam đối với Mỹ trong chiến lược an ninh mới của Washington trong khu vực.
"Những quốc gia mà chúng ta đề cập hôm nay đều có vai trò chủ chốt trong chiến lược của Mỹ", ông nói.
Ông chỉ ra liên tục các chính quyền Mỹ khác nhau đều đã tích cực xây dựng mối quan hệ với Việt Nam và cho rằng chính quyền của Tổng thống Donald Trump ‘đưa quan hệ này lên một mức độ cao hơn nữa’ với việc bản thân ông Trump đã đến Hà Nội hai lần trong vòng 3 năm – tức tương đương với số lần ông viếng thăm các nước đồng minh quan trọng (Anh, Pháp, Nhật) – trong khi cựu Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis đã thăm Việt Nam hai lần khi còn tại chức. Ông cũng lưu ý Việt Nam đã đứng ra tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh lần hai giữa ông Trump và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un.
Còn bà Piper Campbell, một nhà ngoại giao cao cấp từng là đại biện của Mỹ ở ASEAN, cho rằng Việt Nam ‘đóng vai trò rất quan trọng trong ASEAN vào năm tới’ khi mà một trong những vấn đề trọng tâm của ASEAN sẽ là tăng cường kết nối trong phạm vi nội khối và giữa ASEAN với thế giới.
Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, ông Hà Kim Ngọc, phát biểu tại diễn đàn rằng trọng tâm của Việt Nam khi nắm chức chủ tịch ASEAN là ‘xây dựng cơ sở hạ tầng’ để tăng cường kết nối, trong đó có việc thực hiện Kế hoạch Hành động Hà Nội cho Đại khu vực Mekong (tức bao gồm cả Trung Quốc).
"Giao thông là hết sức quan trọng", ông Ngọc nói, "Chúng tôi đang cần số tiền đầu tư 48 tỷ đô la Mỹ (vào cơ sở hạ tầng)".
Trung Quốc hiện đang lôi kéo các nước trong khu vực tham gia vào các dự án cơ sở hạ tầng do nước này bỏ vốn trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai Con đường.
"Chúng tôi hết sức cần sự hợp tác của Mỹ trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và năng lượng tái tạo", ông Ngọc nói.
Trả lời câu hỏi của VOA rằng Mỹ có sẵn sàng nâng cấp quan hệ ‘đối tác toàn diện’ Việt-Mỹ thành ‘đối tác chiến lược’ hay không, ông Jim Webb, cựu thượng nghị sỹ liên bang Hoa Kỳ, nói rằng ‘bất cứ khi nào chúng tôi có thể cải thiện quan hệ với Việt Nam thì chúng tôi nên làm’.
Trả lời câu hỏi cũng của VOA về làm sao Mỹ-Việt có thể mở rộng quan hệ chiến lược mà không chọc giận Trung Quốc, ông Webb lưu ý rằng Việt Nam ‘luôn muốn đảm bảo rằng họ nằm ở giữa các cường quốc (tức không ngả về một bên nào)’.
"Họ muốn có quan hệ với Nga, với Mỹ và lại muốn không làm tổn hại quan hệ với Trung Quốc một cách không cần thiết", ông nói và lưu ý Việt Nam đã đi từ chỗ hoàn toàn lệ thuộc vào Liên Xô đến xây dựng một chính sách đối ngoại phức tạp như hiện nay.
‘Lợi ích an ninh chung’
Các quan chức tham dự hội thảo cũng nhấn mạnh về mối liên hệ về an ninh giữa Mỹ với các nước tiểu vùng Mekong nói riêng và ASEAN nói chung.
"Các nước Mekong và cả khối ASEAN chia sẻ nhiều lợi ích chung chiến lược với chúng tôi trong việc xây dựng trật tự dựa trên luật pháp, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập quốc gia, chủ quyền lãnh thổ và chế độ chính trị với vai trò trung tâm của ASEAN", Đại sứ Ngọc nói.
Tại hội thảo, ông Randall Schriver đã tóm tắt ba đường hướng chính của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà ông gọi là ‘ba chữ P’, bao gồm ‘Preparedness’, ‘Partnership’ và ‘Promoting a networked region’.
Trước hết, ‘Preparedness’, tức chuẩn bị sẵn sàng, là tăng cường năng lực phối hợp lực lượng giữa các nước trong bối cảnh Mỹ chuyển từ các cuộc chiến mà họ tham gia lâu nay sang các cuộc cạnh tranh mới.
Thứ hai, ‘Partnership’, tức quan hệ đối tác, nhấn mạnh việc Mỹ tăng cường phát triển quan hệ an ninh với các nước trong khu vực mà theo ông giải thích là ‘Mỹ rất lệ thuộc vào các đối tác để có thể tiếp cận, đặt căn cứ và dựa vào các đóng góp hậu cần khi dính đến an ninh chung’ do Mỹ không phải là một quốc gia ở châu Á.
Chữ P thứ ba, ‘Promoting a networked region’, tức thúc đẩy một khu vực kết nối, nhấn mạnh vào việc hợp tác đa phương để đương đầu với các thách thức trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong khi cấu trúc an ninh có sẵn của Mỹ trong khu vực chủ yếu là song phương với một số quan hệ đồng minh có hiệp ước trong khuôn khổ ‘hub and spoke’ (tức trục và nan hoa)
"Chúng tôi muốn các nước đông nam Á có thể góp phần bảo vệ các lợi ích chung và đảm bảo rằng các vùng biển quốc tế vẫn là vùng biển quốc tế", trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Randall Schriver nói và cho biết Mỹ ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN và sẽ có cuộc tập trận hải quân giữa Mỹ-ASEAN lần đầu tiên vào cuối năm nay.
Đại sứ Hà Kim Ngọc nói các khuôn khổ hợp tác giữa vùng Mekong với Mỹ như LMI hay ‘Những người bạn của Vùng hạ Mekong’ đã cho phép hai bên cùng làm việc trên nhiều vấn đề như an ninh, bảo vệ môi trường, đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia, chống buôn bán ma túy và buôn người.
Một số nguyên tắc của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trùng khớp với tầm nhìn của ASEAN về bảo vệ chủ quyền và luật pháp quốc tế, ông Schriver cho hay.
"Nếu quý vị nói là bảo vệ chủ quyền là quan trọng, bảo vệ luật pháp quốc tế là quan trọng thì chúng ta có thể cùng làm việc với nhau về những nội dung đó", ông nói. "Chúng tôi đồng ý với nguyên tắc nền tảng của quý vị là không muốn phải chọn phe giữa chúng tôi và Trung Quốc".
Ông cho biết trong giai đoạn đầu tiên thực thi chiến lược mới, việc Mỹ có thể làm trước mắt là ‘bắt đầu xây dựng năng lực cho các nước đối tác’.
‘Bất an về Trung Quốc’
Về phần mình, ông Mark Clark cũng thừa nhận rằng lưu vực sông Mekong là ‘trọng tâm đặc biệt của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương’ và nhấn mạnh những nguyên tắc trong chiến lược này là cam kết đối với chủ quyền lãnh thổ, sự minh bạch trong quản trị, vai trò trung tâm của Asean, trật tự dựa trên pháp trị và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Trở về từ một chuyến công tác đến khu vực không lâu, ông Clark nói ông cảm nhận được các nước trong khu vực ‘rất hồ hởi về vai trò mạnh mẽ của Mỹ trong khu vực’.
"Tuy nhiên, phía dưới có một cảm giác bất an, lo lắng về áp lực của Trung Quốc đối với các nước để đi theo dự án ‘Một vành đai, Một con đường’ và áp lực phải ngày càng lệ thuộc kinh tế vào Bắc Kinh", ông nói.
"Một số người trong khu vực đang lo lắng về việc Trung Quốc thúc đẩy phạm vi ảnh hưởng và áp dụng các chiến thuật mà chúng ta thấy trên Biển Đông để mở rộng dần dần phạm vi kiểm soát một cách tinh vi theo lát cắt salami".
"Chúng tôi không có chính sách đòi các quốc gia vùng Mekong phải hạn chế quan hệ kinh tế với Trung Quốc, nhưng chúng tôi ủng hộ quyền của các nước được chọn lựa và cân nhắc kỹ trước khi họ đi theo con đường có nguồn vốn dễ dàng để trở nên quá phụ thuộc và tác động của việc này đối với chủ quyền của họ trong tương lai", ông nói thêm.
Cựu Thượng nghị sỹ Jim Webb thì cho rằng vai trò của Mỹ như là một nhà đảm bảo được chấp nhận cho ổn định khu vực là ‘điểm mạnh nhất’ cho quan hệ giữa Mỹ và các nước trong khu vực trong tương lai.
Ông Webb cũng chỉ trích mạnh mẽ lập trường của Trung Quốc muốn giải quyết song phương với riêng từng nước trong các vấn đề của lưu vực sông Mekong cũng như trên Biển Đông và cho rằng các vấn đề này ‘cần giải pháp đa phương’.
"Trung Quốc khăng khăng đòi giải quyết toàn bộ vấn đề Biển Đông trong khuôn khổ song phương mà điều này có nghĩa là sẽ không bao giờ giải quyết được hay giải quyết theo ý đồ Trung Quốc", ông Webb nói. "Trên vấn đề sông Mekong, anh không thể giải quyết song phương với từng nước về các đập thủy điện mọc lên ở bên phía Trung Quốc được mà anh phải đưa nó tới bàn đàm phán để có cuộc thương thảo đa phương".
Ngọc Lễ
Nguồn : VOA, 08/06/2019
Ngày 18/12/2017, chính phủ Mỹ công bố Chiến Lược An Ninh Quốc Gia (NSS) mới, chiến lược đầu tiên thời tổng thống Trump. Bên cạnh vấn đề được chú ý hàng đầu là việc Washington coi Nga và Trung Quốc như hai đối thủ chính, đe dọa trực tiếp "các giá trị và lợi ích" của Hoa Kỳ, có một điểm ít được chú ý hơn nhưng không kém phần ý nghĩa. Đó là "lần đầu tiên khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương" được đưa vào Chiến Lược An Ninh Quốc Gia, như nhận xét của một chuyên gia về Nam Á và quan hệ Mỹ-Ấn Độ. Cùng với sự thay đổi này, Ấn Độ trở thành một đối tác chiến lược hàng đầu của nước Mỹ.
Đội hình chiến hạm Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore nhân cuộc tập trận Malabar năm 2007. Ảnh tư liệu chụp ngày 05/09/2007. Ảnh : US Navy
Bà Alyssa Ayres, chuyên gia viện tư vấn CFR (Council on Foreign Relations), một tổ chức tư vấn độc lập có trụ sở tại New York, nhận định : "đây là lần đầu tiên khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương được dẫn ra trong một Chiến Lược An Ninh Quốc Gia (của Mỹ), cho dù văn bản năm 2002 của tổng thống George W. Bush từng nói đến các hành lang biển Ấn Độ Dương" (*). Trong chiến lược mới lần này, khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương được xếp số một, đứng trên Châu Âu và Trung Đông, đây là điều mà nhà nghiên cứu đáng giá là "thay đổi lớn nhất" so với thời tổng thống tiền nhiệm Obama.
Khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương là một khái niệm địa lý chiến lược mới được Mỹ và các đồng minh cổ vũ trong ít năm gần đây. Khu vực này bao gồm vùng biển bắc Ấn Độ Dương và toàn bộ vùng biển giữa Thái Bình Dương, kéo dài đến bờ tây Hoa Kỳ, trong đó Biển Đông nằm ở vị trí trung tâm. Đối với chính quyền Trump, khu vực "dân cư đông đúc nhất và năng động nhất hành tinh về mặt kinh tế" này là nơi cạnh tranh của hai quan điểm đối kháng, một bên cổ vũ cho "tự do", bên kia chủ trương dùng "vũ lực".
Washington chỉ đích danh Trung Quốc như là bên chủ trương dùng vũ lực để thao túng con đường hàng hải chiến lược, với việc "thúc đẩy quân sự hóa tại Biển Đông", thách thức chủ quyền của nhiều quốc gia ven bờ. Nhiều nước trong khu vực đang kêu gọi Mỹ can dự mạnh mẽ hơn, để bảo vệ ổn đinh khu vực, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Chiến Lược An Ninh Quốc Gia mới của Mỹ hoan nghênh việc Ấn Độ đang trỗi dậy như "một cường quốc hàng đầu thế giới", "một đối tác về quốc phòng và chiến lược có trọng lượng hơn", đồng thời kêu gọi gia tăng hợp tác giữa Mỹ-Ấn Độ-Nhật-Úc, tức nhóm đồng minh Bộ Tứ, tại khu vực chiến lược này.
Về thay đổi lớn nói trên, chuyên gia Felix K. Chang, viên tư vấn Foreign Policy Research Institute (có trụ sở tại Philadelphia, Pennsylvania, Mỹ), nhận xét : trong Sách Trắng về đối ngoại của chính quyền Úc – một thành viên của Bộ Tứ -, công bố hồi tháng 11, cụm từ Ấn Độ - Thái Bình Dương được nhắc đến tổng cộng 74 lần, trong khi đó, cái tên Châu Á – Thái Bình Dương chỉ được dẫn bốn lần. Tổng thống Mỹ Donald Trump trước đó cũng nhiều lần cố tình sử dụng cụm từ Ấn Độ - Thái Bình Dương để thay thế cho Châu Á – Thái Bình Dương, vốn được coi là trọng tâm của chủ trương tái bố trí chiến lược nổi tiếng thời tổng thống Obama, với tên gọi "xoay trục".
Phản ứng của Ấn Độ
Chiến lược mới của tổng thống Trump có thể nói là sự nối tiếp chiến lược xoay trục sang Châu Á của tổng thống tiền nhiệm - cho dù thay đổi tên gọi, nhưng khác biệt lớn nhất ở đây là Ấn Độ trở thành một trung tâm trong chiến lược hợp tác giữa Mỹ và các đồng minh, nhằm đối phó hiệu quả hơn với trọng lượng ngày càng gia tăng về kinh tế và quân sự của Trung Quốc tại Châu Á. Ấn Độ phản ứng ra sao trước thay đổi nói trên trong chiến lược an ninh mới của Mỹ ?
Theo báo chí Ấn Độ, ngày hôm qua 19/12, ngay sau khi chiến lược mới được Washington công bố, người phát ngôn Bộ ngoại giao Ấn Độ Raveesh Kumar đã đánh giá cao việc Mỹ khẳng định quan hệ Mỹ-Ấn có một ý nghĩa chiến lược "quan trọng", đồng thời nhấn mạnh "hai quốc gia dân chủ có trách nhiệm (tức Ấn Độ và Hoa Kỳ) chia sẻ các mục tiêu chung, bao gồm cuộc chiến chống khủng bố, cổ vũ cho hòa bình và an ninh trên toàn cầu", trong đó có khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.
"Hội nhập toàn diện" hay "Chiến tranh Lạnh mới" : Hai viễn cảnh
Tuy nhiên, việc Mỹ đưa Ấn Độ trở thành trọng tâm trong chiến lược an ninh mới, với vùng địa chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương, cũng nhận được một số phản ứng dè dặt từ giới chuyên gia.
Nhà chiến lược hàng hải người Ấn Độ Gurpreet S. Khurana, giám đốc điều hành của Quỹ National Maritim Foundation (có trụ sở tại New Delhi) dự đoán về hai triển vọng tương lai của chiến lược "Ấn Độ - Thái Bình Dương", nhằm đối trọng với Trung Quốc. Chiến lược gia Gurpreet S. Khurana, được coi là người đầu tiên đề xuất khái niệm địa chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương, tỏ ra hết sức dè dặt.
Theo ông, kịch bản tích cực của chiến lược này là coi "Ấn Độ - Thái Bình Dương" là một "vùng mở rộng cho hội nhập". Với quan niệm như vậy "khuôn khổ lý thuyết" này sẽ cho phép hội nhập Trung Quốc vào các chuẩn mực ứng xử quốc tế tại một khu vực địa lý, vốn là nơi có nhiều tranh chấp giữa các cường quốc, và hòa bình và thịnh vương chung sẽ được bảo đảm, nếu làm được như vậy. Ngược lại, khu vực kinh tế trung tâm của hành tinh sẽ trở thành đấu trường giữa các thế lực, nhằm áp đặt sự thống trị của mình. Ấn Độ - Thái Bình Dương rất có thể sẽ trở thành trận địa chính của "cuộc Chiến tranh Lạnh mới", giữa Mỹ cùng các đồng minh, chống lại Trung Quốc.
Nhật : Vừa mở rộng cửa, vừa sẵn sàng ứng phó
Mở rộng cánh cửa để Trung Quốc hội nhập vào dự án Ấn Độ - Thái Bình Dương cũng là quan điểm hiện nay của chính phủ Nhật, một thành viên trụ cột của Bộ Tứ, cùng với Hoa Kỳ.
Theo hãng tin Kyodo, chính phủ Nhật Bản hôm Chủ nhật 18/12 thông báo lập trường của Tokyo hiện nay là cổ vũ việc phối hợp dự án khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương với dự án phát triển xuyên biên giới tại Châu Á của Trung Quốc, mà Bắc Kinh gọi là "Một Vành Đai, Một Con Đường". Mà thông tin tại chỗ ở nhiều nơi cho thấy đang gặp khó khăn.
Cũng trong đầu tháng 12 này, thủ tướng Nhật Shinzo Abe khẳng định ông "tin tưởng" Nhật Bản có thể hợp tác hiệu quả với Trung Quốc, trong dự án mà Trung Quốc chủ trì, cùng lúc với việc thúc đẩy một vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương "rộng mở và tự do".
Theo Kyodo, thái độ nói trên của chính phủ Nhật có phần gây lo ngại cho nhiều giới chức trong Bộ ngoại giao và quốc phòng nước này, họ sợ rằng chính phủ Nhật - ưu tiên các lợi ích kinh tế - sẽ có những nhân nhượng với Trung Quốc.
Trên thực tế, Tokyo một mặt mở rộng cửa với Trung Quốc, mặt khác cũng chuẩn bị các biện pháp đề phòng tham vọng của Bắc Kinh. Vẫn Kyodo cho hay hôm 14/12 vừa qua, lãnh đạo Ngoại Giao và quốc phòng Nhật Bản đã có cuộc họp với các đồng nhiệm Anh Quốc tại Luân Đôn. Bên cạnh hồ sơ Bắc Triều Tiên, dự án Ấn Độ - Thái Bình Dương là một trọng tâm của cuộc hội đàm. Luân Đôn không loại trừ triển khai hải quân trong tương lai tại khu vực này, để đối phó với đà bành trướng của Trung Quốc.
Trọng Thành
Nguồn : RFI, 20/12/2017
(*) Trong bài : "More Prominence for India and the Indo-Pacific in the U.S. National Security Strategy", đăng tải trên trang của viện tư vấn CFR (cfr.org)