Người ta có thể theo dõi sự thăng hoa của những người cộng sản Việt Nam hồi tháng Tám năm 1968, không phải là hậu quả của các vụ tấn công Tết Mậu thân, mà là khi Hà Nội ủng hộ Liên Xô xâm chiếm Tiệp Khắc. Alexander Dubček, người đứng đầu Đảng Cộng sản Czechoslovakia, đã đưa ra chính sách tự do hóa chính trị và kinh tế hàng tháng trời sau Mùa xuân Prague, bao gồm cả việc giảm bớt các giới hạn về truyền thông và tự do ngôn luận. Đó là niềm hy vọng lớn cho việc cải cách chủ nghĩa cộng sản cho đến khi Liên Xô xâm lược.
Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam đang đưa thẻ đảng để biểu quyết
Một số người có thể muốn gạt bỏ sự ủng hộ của Bắc Việt đối với cuộc xâm lăng này như là chủ nghĩa thực dụng. Liên bang Xô viết, dù sao, là nhà hảo tâm chính của Hà Nội. Nhưng điều đó không hoàn toàn thành công. Dubček, ngay trước cuộc xâm lăng, khẳng định lại các bằng chứng quốc tế của đất nước mình, bao gồm cả khoản tài trợ cho Bắc Việt. Tuy nhiên, Hà Nội hoan nghênh cuộc xâm lăng của Liên Xô như là một động thái chống đế quốc, đánh dấu lãnh thổ Moscow xa hơn. Cùng ngày với cuộc xâm lăng, đài phát thanh Bắc Việt mô tả đó là hành động "cao quý". Phạm Văn Đồng, lúc đó là Thủ tướng của Bắc Việt Nam, đã gọi đó là một hành động cần thiết để "làm gián đoạn sự can thiệp của đế quốc Mỹ" và "phản cách mạng" của Séc.
Nicholas Khoo, tác giả của tác phẩm "Thiệt hại về Bảo vệ : Sự cạnh tranh Trung-Xô và chấm dứt Liên minh Trung-Việt", có lẽ đã phân tích phản ứng của Hà Nội đối với Mùa xuân Prague đúng nhất . Tôi đề cập đến sự kiện này ở đây ngay từ đầu không chỉ cho thấy cách tuyên bố của Cộng sản Việt Nam là nhà vô địch chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa chống đế quốc đã sụp đổ nhanh đến thế nào (tuy nhiên một dấu hiệu khác cho thấy chủ nghĩa chống thực dân phản ứng đúng với lịch sử mâu thuẫn). Nó cũng đặt ra câu hỏi liệu các đảng cộng sản có thể tự cải cách hay không.
Có lẽ ai đó sẽ nghĩ rằng đó là Phạm Đoan Trang, một nhà văn cố bao quát việc làm của nhà báo, blogger, và một nhà hoạt động xã hội - hoặc những gì có thể được gọi là trí thức. Một cách ngẫu nhiên, tháng này, một tổ chức nhân đạo Séc, People in Need, tuyên bố bà sẽ được trao giải Homo Homini hàng năm cho dành cho nhân quyền.
Bà Trang là một trong những tiếng nói dũng cảm nhất và được biết đến nhiều nhất tại Việt Nam hiện nay. "Sẽ tốt hơn nếu chúng ta sống trong một thế giới mà những giải thưởng như vậy không phải tồn tại", bà tuyên bố khi trả lời tin về giải thưởng của bà, một dấu hiệu cho thấy bà có khả năng giao tiếp trí tuệ và tri thức. Hơn nữa, bà Trang là một trong số những người làm cho bạn đặt câu hỏi về sự can đảm của bạn - và tự nhiên bạn khám phá ra là bạn thiếu nó . Sau khi bị nhà cầm quyền bắt giữ và thẩm vấn vào năm 2012, một vụ việc khiến người khác phải im lặng, nhưng bà đã công khai xuất bản nội dung buổi thẩm vấn.
Tôi muốn giới thiệu các bài viết của bà, có thể được truy cập tại địa chỉ phamdoantrang.com, vì khả năng dao động giữa chính trị cao và thấp ; giữa phân tích chính sách Đảng và cuộc đấu tranh của người dân bình thường. Điều quan trọng là, bà ấy không bao giờ có thể bị coi là có lỗi vì yêu nước ; bà nói đúng là một trong những mục tiêu của bà là nâng cao hiểu biết chính trị của người Việt Nam. Bạn lưu ý tới một cuộc phỏng vấn mà bà với Đài Á Châu Tự do RFA vào năm ngoái về cuốn sách mới nhất của cô, "Chính trị Bình dân", mà tiếc là vẫn chưa có bản dịch tiếng Anh.
"Tôi muốn xóa bỏ ý tưởng rằng chính trị là dành cho một thiểu số người và tầng lớp thượng lưu. Người Việt Nam thường xuyên nói rằng tất cả mọi thứ sẽ được Đảng và Nhà nước chăm sóc. Tôi muốn mọi người hiểu rằng chính trị ở khắp mọi nơi trong cuộc sống của chúng ta - thậm chí là kết nối với thức ăn mà chúng ta ăn và quần áo mà chúng ta mặc".
Ba Trang không hài lòng chỉ đơn giản chỉ nói, không giống như một số nhà báo và nhà hoạt động khác. Bà cũng có kỹ năng tốt như vậy trong việc chỉ ra những cải cách nên được Đảng thực hiện như thế nào. Điều này tự nhiên dẫn đến câu hỏi liệu Đảng có thể cải cách hay không. Điều này mang lại dẫn dắt chúng ta quay về với Mùa xuân Prague.
Đối với một số người cộng sản, sự kiện này chứng minh rằng quyền lực của họ có thể bị mai một bởi các đảng viên khác. Đối với những người cộng sản khác, đó là một minh chứng cho thấy cải cách có thể xảy ra từ bên trong Đảng. Trong trường hợp của Tiệp Khắc, cuộc xâm lăng của Xô Viết vào năm 1968 đã ngăn cản điều này, có nghĩa là cải cách phải đến từ bên ngoài Đảng, mà điều đó đã xảy ra vào năm 1989 với Cuộc Cách mạng nhung.
Ngày nay, Việt Nam đang phải đối mặt với những cân nhắc tương tự. Từ năm 2016, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước vào giai đoạn bình thường hoá, để mượn một thuật ngữ Séc, cùng với "Husakism" đã định nghĩa Tiệp Khắc sau năm 1968. Bây giờ nó được tìm thấy ở Việt Nam tương đương với "Trọng chủ nghĩa".
Tại Đại hội Đảng năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị bãi nhiệm, trong khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được trao một nhiệm kỳ 5 năm. Theo một khía cạnh nào đó, việc ông Dũng bị bãi nhiệm là một phản ứng chống lại phong cách chính trị của ông Dũng vốn có đe dọa cho Đảng. Ở một khía cạnh khác, chiến thắng của Trọng là một dấu hiệu cho thấy Đảng đã nghĩ rằng Đảnh đã đi quá xa khỏi hiện trạng. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là ông Dũng không phải là Dubček ; ông ấy không phải là một nhà cải cách như nhiều người mô tả.
Trọng chủ nghĩa, theo hầu hết nhiều người nghĩ, là một nỗ lực nhằm khẳng định lại hiện trạng, khi chính sách Đảng được quyết định bởi sự đồng thuận, khi không có nhân vật chính trị quá lớn trong Đảng và khi bộ máy này đã có ảnh hưởng đáng kể đến xã hội.
Việc thanh trừng các doanh nhậ có có liên quan chính trị là một cách tự nhiên của việc tái chuẩn hoá này, cũng như là việc đàn áp các blogger, nhà báo, nhà hoạt động. "Khủng bố miễn cưỡng", một cụm từ được sử dụng để mô tả Tiệp Khắc sau năm 1968, khi mà cuộc đàn áp được thực hiện không thường xuyên để duy trì quyền lực của Đảng, khá thích hợp với những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Thật vậy, việc đàn áp ở Tiệp Khắc sau năm 1968 không ở mức độ Stalin ; hoặc đàn áp ở Việt Nam ngày nay không phải ở cấp độ Trung Quốc.
Thật không may, tôi nghi ngờ rằng không có điều nào sẽ giảm bớt trong những năm tới, có nghĩa là người viết như Phạm Đoan Trang sẽ vẫn còn quan trọng. Còn hơn nữa, Trọng chủ nghĩa dường như là sự hợp nhất của bộ máy Đảng trước Quốc hội năm 2021, khi đó sẽ có sự thay đổi lớn lao về nhân sự. Như là tờ Economist đưa tin vào năm 2016 :
[Trong năm 2021] một lớn các đảng viên nói tiếng Nga lên tiếng ghét Mỹ, sẽ về nghỉ hưu. Những người kế vị họ có thể là các nhà kỹ trị học được giáo dục ở phương Tây, những người hiểu rằng niềm hy vọng sống còn của đảng để làm cho nền kinh tế trở nên cạnh tranh hơn, và thuyết phục người Việt Nam trẻ ... đó là những lợi ích trong tâm.
Điều này có thể là đi hơi xa một chút. Nhưng rõ ràng năm 2021 sẽ là năm quyết định đối với Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có bao giờ tự tìm ra là một nhân vật giống Dubček hay một cái gì đó có thể được gọi là mùa xuân Hà Nội hay mùa xuân Sài gòn ?
Phương Thảo dịch
Nguồn : VNTB, 22/02/2018
Công ty khổng lồ về truyền thông xã hội khổng lồ giải quyết bài toán làm thế nào để đối phó với kiểm duyệt nhà nước trong khu vực với thị trường quảng cáo phát triển nhanh nhất của nó.
Mark Zuckerberg, người sáng lập Facebook, tại trụ sở công ty ở Menlo Park, California ngày 27/09/2015. Ảnh : Reuters/Stephen Lam/File Photo
Đó là những thời điểm có lợi nhuận nhưng thử thách đối với Facebook ở Đông Nam Á, một thị trường quảng cáo đang phát triển nhanh nhất trên toàn thế giới của người khổng lồ đến từ Mỹ.
Vào ngày 25 tháng 4, công dân Thái Lan Wuttisan Wongtalay đã đưa hai đoạn video lên mạng chiếu trực tiếp việc ông giết đứa con gái 11 tháng tuổi của mình trước khi tự tử. Hai đoạn video được lưu hành trên Facebook trong gần 24 giờ và đã được theo dõi bởi một nửa triệu người trước khi bị Facebook xóa.
Ngày hôm sau, Giám đốc quản lý chính sách toàn cầu của Facebook Monika Bickert đã gặp quan chức của Bộ Thông tin và Truyền thông của Việt Nam để thảo luận cách gỡ bỏ nội dung vi phạm luật pháp của nước này.
Theo luật pháp Việt Nam, tội danh "tuyên truyền" chống lại nhà nước", kể cả bằng các phương tiện truyền thông xã hội, là một tội phạm hình sự có thể bị phạt tù 20 năm.
Nhà chức trách Việt Nam đã bắt và kết án với mức án tù lâu năm cho nhiều nhà hoạt động và blogger khác theo Điều 258 của Bộ luật Hình sự, theo đó tội danh "lạm dụng quyền tự do dân chủ" để xâm phạm lợi ích của nhà nước. Hầu hết các blogger độc lập ở Việt Nam, thường được gọi là 'Facebookers', lựa chọn Facebook làm nền tảng của họ.
Tháng 2, Hà Nội phàn nàn về những gì được gọi là bài viết "độc hại" chống chính phủ đăng trên Facebook và kêu gọi các công ty trong và ngoài nước rút quảng cáo từ trang web này cho đến khi chúng bị xóa bỏ. (Các công ty đa quốc gia như Ford, Unilever và Yamaha Motor đã đồng ý xóa quảng cáo của họ từ trang chia sẻ video YouTube, theo các báo cáo).
Việt Nam cho biết sau cuộc họp ngày 26 tháng 4 rằng Facebook đã đồng ý hợp tác với các yêu cầu kiểm duyệt và sẽ "ưu tiên các yêu cầu từ Bộ Thông tin và truyền thong và các cơ quan có thẩm quyền khác trong nước" để loại bỏ nội dung phản cảm.
Theo Thông tấn xã Việt Nam thì "Facebook cũng đã sẵn sàng để giúp các cơ quan nhà nước biết cách sử dụng Facebook để phổ biến rộng rãi các chính sách của Đảng và Nhà nước tới công chúng". Không thể tiếp cận Facebook để đưa ra lời bình luận về tuyên bố này.
Tuy nhiên, khi Facebook nắm bắt cách đối phó toàn cầu với nội dung như video của Wuttisan, các nhà hoạt động về tự do ngôn luận cảnh báo rằng các chính quyền độc tài trong khu vực đang tìm cách mở rộng định nghĩa các tài liệu "không phù hợp" và "phản cảm" bao gồm những chỉ trích chính phủ.
Năm ngoái, Facebook đã đưa ra cái được gọi là một sáng kiến cho "sự dũng cảm dân sự trực tuyến" trong nỗ lực ngăn chặn tiếng nói thù hận trực tuyến. Tuy nhiên, công ty đã bị chỉ trích vì sự kiểm duyệt có chọn lọc để xóa bỏ các bài viết, một sự vi phạm quyền chính trị, ví dụ như các cuộc tranh luận về di dân, trong khi làm ngơ những vấn đề khác.
Facebook không phải là công ty truyền thông đa quốc gia duy nhất có nguy cơ vi phạm các điều mà một số chính phủ ở Đông Nam Á coi là không phù hợp. Nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn nhất của Indonesia là Telekom Indonesia, một công ty thuộc sở hữu nhà nước, đã chặn việc truy cập Netflix vì lo ngại rằng nội dung bạo lực và tình dục có thể vi phạm các luật nghiêm ngặt về đạo đức của quốc gia Hồi giáo.
Khi tỷ lệ sử dụng Internet tăng lên theo cấp số nhân ở khắp Đông Nam Á, thì đó cũng là cơ hội thị trường. Năm 2016, số người sử dụng Internet đã tăng hơn 30% trong khu vực. Gần một nửa dân số khu vực hiện nay được cho là hoạt động trực tuyến. Ở hầu hết các quốc gia ở Đông Nam Á, Facebook chiếm ưu thế trên thị trường truyền thông xã hội.
Theo các cơ quan công nghệ quốc tế WeAreSocial và Hootsuite, tính đến tháng 1 năm nay, số người sử dụng Facebook hoạt động hàng tháng đã tăng lên hơn 300 triệu. Con số này chiếm dưới một nửa tổng dân số khu vực và gần 1/6 trong tổng số người dùng Facebook trên toàn thế giới.
Trong khi là một công cụ giải trí trò chuyện giao tiếp cho nhiều người dùng, tại các quốc gia bị kiểm duyệt nặng nề hơn, các phương tiện truyền thông xã hội đã trở thành hình thức liên lạc, giao tiếp và truyền bá thông tin cho phép công dân vượt qua kiểm duyệt và đàn áp tự do ngôn luận của nhà nước.
Điều này đặc biệt đúng ở các nước như Thái Lan và Việt Nam, cả hai đều được cai quản bởi chế độ độc tài. Những ngày sau khi xe tăng tràn vào Bangkok vào tháng 5 năm 2014 để thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính phủ dân sự, Bộ Công nghệ Thông tin do quân đội của nước này nắm giữ, đã tạm thời chặn Facebook để ngăn cản các cuộc mít tinh chống lại chính quyền quân sự.
Kể từ đó Facebook bị buộc phải tuân theo các yêu cẩu của chính phủ quân sự trong việc xóa các nội dung bị coi là xúc phạm gia đình hoàng gia Thái Lan, một hành vi phạm tội nghiêm trọng và có thể bị xử tù 15 năm. Ngày càng có nhiều người Thái Lan bị cầm tù vì các hoạt động truyền thông xã hội chống lại hoàng gia.
Vào tháng 6 năm 2014, khi các cuộc bạo loạn cộng đồng xảy ra tại thành phố Mandalay ở miền trung Myanmar, chính phủ Myanmar đã chặn Facebook trong nhiều ngày. Chính phủ Malaysia tuyên bố vào năm 2014 rằng họ đang tìm ra các phương thức để chặn các trang trên Facebook, mặc dù bộ trưởng truyền thông và đa phương tiện bình luận vào thời điểm đó rằng bước đi này sẽ là "cực đoan và bất khả thi".
Chỉ có Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên thành công trong việc chặn hoàn toàn Facebook. Trong khi đó, hầu hết các quốc gia thiếu công nghệ để thực thi việc ngăn chặn triệt để như vậy mà không cần phải ngắt kết nối Internet. Các quốc gia Đông Nam Á thường truy tố cư dân mạng theo cáo buộc tội phạm mạng hoặc luật chống lại nhà nước về nội dung truyền thông xã hội mà cơ quan có thẩm quyền coi là có tính phản đối.
Tuy nhiên, Facebook vẫn là một công cụ dân chủ hóa mạnh mẽ. Khi Việt Nam tạm thời chặn Facebook vào tháng 5 năm 2016 sau khi các cuộc biểu tình lan rộng khắp đất nước về một vụ xả chất độc công nghiệp gây ô nhiễm khu vực ven biển miền Trung, nhiều cư dân mạng Việt Nam đã sử dụng các dịch vụ proxy và các mạng riêng ảo (VPN) để vượt qua sự ngăn chặn của nhà nước.
Biểu tình chống công ty Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường tại Hà Nội, 01/05/2016. Ảnh : AFP/Hoang Dinh Nam
Facebook vẫn được sử dụng để huy động các cuộc phản đối chưa từng có trước thảm hoạ môi trường và Hà Nội bị coil à không có các phản ứng hợp lý và tức thời.
Các nhà hoạt động vì tự do ngôn luận và dân chủ lo ngại rằng khi Đông Nam Á trở nên quan trọng về mặt tài chính đối với Facebook, thì người khổng lồ này trong lĩnh phương tiện truyền thông xã hội, vì lợi nhuận của mình, đang bắt đầu uốn nắn theo ý muốn của các chính phủ độc tài để duy trì và phát triển thị trường.
Facebook đã nhanh chóng mở rộng sự hiện diện và các hoạt động trong khu vực. Singapore độc tài là trụ sở chính cho các hoạt động của Facebook tại Châu Á - Thái Bình Dương. Công ty mở văn phòng ở Indonesia vào năm 2014, tại Thái Lan vào năm 2015, và tại Malaysia và Philippines vào năm ngoái.
Đông Nam Á cũng là một trong những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới về quảng cáo doanh nghiệp trên các phương tiện truyền thông xã hội nói chung, một phần quan trọng trong chiến lược lợi nhuận của Facebook. Trong quý thứ ba năm 2016, doanh thu quảng cáo của Facebook đã tăng 59% so với năm ngoái, với thu nhập ròng tăng từ 896 triệu đô la Mỹ lên 2,38 tỷ đô la Mỹ trong giai đoạn này.
Năm ngoái, có tin rằng Facebook đã lặng lẽ phát triển phần mềm cho phép các bên thứ ba kiểm duyệt các bài đăng trước khi chúng xuất hiện ở một số khu vực địa lý cụ thể, một bước đi mà những nhà phê bình cho rằng Facebook muốn vừa lòng chính phủ Trung Quốc. Trung Quốc, thị trường truyền thông xã hội lớn nhất thế giới, đã chặn Facebook kể từ năm 2009.
Mark Zuckerberg, đồng sáng lập viên và giám đốc điều hành của công ty truyền thông xã hội Facebook, được cho là đã ve vãn các quan chức cao cấp của Trung Quốc trong những năm gần đây, bao gồm một cuộc họp với Chủ tịch Tập Cận Bình vào tháng 9 năm 2015. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ ràng về giai đoạn phát triển của phần mềm nói trên và liệu nó sẽ được cung cấp cho Bắc Kinh để đổi lấy việc tiếp cận thị trường béo bở với hơn 1,3 tỷ dân.
Nếu nó được phát triển thành công và cấp cho Trung Quốc, những người ủng hộ tự do ngôn luận lo ngại các chính phủ khác ở châu Á cũng sẽ yêu cầu tiếp cận công cụ kiểm duyệt này. Điều đó có thể cho phép Facebook tránh xa quá trình kiểm duyệt trong khi cung cấp cho các chính phủ các công cụ có khả năng ngăn chặn các nội dung trên Facebook mà bị coi là không phù hợp với công chúng.
David Hutt
Nguyên tác : Is Facebook putting profit before freedom in Southeast Asia ?, AsiaTimes, 02/05/2017
Vũ Quốc Ngữ dịch
Nguồn : VNTB, 11/02/2018
Việc tái tập trung quyền lực tại Việt nam được David Hutt cho là đảo chiều quá trình đổi mới trước đây.
Việc xử lý vụ bất tuân dân sự hiếm hoi gần đây nhất ở trạm thu phí Cai lậy là một ví dụ. Sau khi tình trạng trả liền phí bằng tiền lẻ ở gây ra sự ùn tắc lớn ở trạm thu phí trong nhiều ngày buộc thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải trực tiếp chỉ đạo khi ra lệnh tạm ngừng thu phí BOT trong một tháng để tìm phương án giải quyết.
Cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Một số người đánh giá cao việc xử lý nhanh hiếm có của chính phủ đối với một vụ việc ở tỉnh lẻ tuy nhiên những người khác lại đặt ra câu hỏi tại sao chính quyền trung ương phải giải quyết phần việc của địa phương thay vì để cho cơ quan tư pháp hay chính quyền địa phương trực tiếp xử lý theo theo yêu cầu nhiệm vụ.
Sự can thiệp của ông Phúc được đưa ra trong bối cảnh chính quyền trung ương đang cố giành lại quyền lực vốn đã bị phân cấp từ thời kỳ đổi mới năm 1986 nhằm chuyển đổi kinh tế Việt nam sang nền kinh tế tự do. Trong đó hội đồng nhân dân các cấp là các cơ quan giám sát việc điều hành hành chính của Ủy ban nhân dân tương ứng.
Trong tháng 11, Đảng ủy thành phố Hà nội cũng đã cân nhắc việc nhất thể hoá khi cho biết ý định hợp nhất Hội đồng nhân dân các cấp về lại một mối là Hội đồng nhân dân thành phố. Quảng Ninh hiện đang thực hiện dự án thí điểm nhất thể hoá chức vụ bí thư Huyện ủy và chủ tịch Ủy ban nhân dân trước khi cho áp dụng trên cả nước. Điều này nhằm đảm bảo cán bộ cấp trung ương kiểm soát được cả ở cấp địa phương.
Mục đích của việc phân quyền trước đây là làm cho chính quyền địa phương " dân chủ" hơn khi thục hiện các cuộc bầu cử thường kỳ Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên thật sự lại sự phân bổ nhân sự từ trên xuống dưới ở các thành phố trực thuộc trung ương như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng khi ban Thư ký trung ương chọn ra chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân ; Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân huyện thì do Đảng bộ tỉnh quyết định.
Những năm 2000 đã có hiện tượng bãi bỏ các Hội đồng nhân dân địa phương mà các nhà quan sát cho rằng đó là một nỗ lực nhằm tái khẳng định quyền lực của trung ương ở địa phương. Chương trình được đưa ra thí nghiệm ở mười tỉnh. Luồng ý kiến ủng hộ cho rằng có sự cải thiện đáng kể trong hoạt động của Ủy ban nhân dân nhất là các dịch vụ công như đường xá, y tế và truyền thông. Luồng ý kiến phản đối cho rằng đây là việc làm không dân chủ khi Hội đồng nhân dân bị bãi bỏ thì " chính quyền địa phương không còn là của nhân dân và vì nhân dân nữa". Hiến pháp 2013 đã tái khẳng định vị thế của Hội đồng nhân dân và một phiên họp Quốc hội năm 2015 cũng khẳng định tất cả các quận huyên đều phải có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Câu hỏi đặt ra là tại sao chính quyền trung ương hiện tại muốn nắm bắt nhiều quyền lực hơn.
Chính quyền trung ương dưới sự điều khiển của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện đang tham gia vào một cuộc chiến chống tham nhũng sâu rộng thể hiện qua hàng loạt vụ xử các quan chức doanh nghiệp nhà nước kể cả áp dụng án tử hình đối với cựu chủ tịch PetroVietnam Nguyễn Xuân Sơn. Năm 2018 còn hứa hẹn sẽ các vụ xử cao cấp hơn sẽ diễn ra.
Theo một số nhà phân tích, chiến dịch này đơn giản là để hạn chế tham nhũng vốn làm xấu danh tiếng của Đảng trong mắt nhiều người Việt Nam bình thường. Ở một mức độ nào đó, việc phân quyền đã tạo điều kiện cho các quan chức tham nhũng.
Phân cấp, ở mức độ nào đó, đã cho phép các quan chức địa phương tham gia vào tham nhũng khi không có sự giám sát của chính quyền trung ương.
Ông Vũ Thanh Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại thành phố Hồ Chí Minh, đã viết trong một bài báo năm 2016 : "Gia tăng sự tự quản ở cấp địa phương không tự bảo đảm trách nhiệm giải trình".
Tuy nhiên, lại có những nghi ngờ cho rằng chiến dịch thanh trừng chống tham nhũng có liên quan nhiều hơn tới việc ông Trọng đang cố gắng triệt đồng minh của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Theo một bài báo của Lê Hồng Hiệp thuộc Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore, ông Dũng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phân bổ ngân sách nhà nước cho chính quyền địa phương cùng với mối quan hệ tốt với doanh nghiệp đã đem lại cho ông Dũng mức độ trung thành chính trị đáng kể.
Một số người tin rằng ông Trọng không tin tưởng những lãnh đạo địa phương khi họ có thể duy trì mối quan hệ với đồng minh còn lại của ông Dũng trong Đảng.
Đinh La Thăng, người được cho là thân tín của ông Dũng, đã bị bãi nhiệm chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh hồi tháng 8 (bị bắt vào đầu tháng 12), trong khi Nguyễn Xuân Anh bị đưa ra khỏi vị trí tương đương ở Đà Nẵng vào tháng 10. Cả hai đều bị cáo buộc tham nhũng.
Một cách giải thích khác là chính quyền trung ương hiểu rằng Đảng hiện đang trong tình trạng nguy hiểm. Ngân sách nhà nước đang giảm dần khi nợ xấu tăng và sự bất bình của công chúng cũng tăng lên. Nguồn thu chính của Đảng là nền kinh tế đang phát triển nhanh.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, một số người tin rằng đòi hỏi sự chỉ đạo lớn hơn của chính quyền trung ương. Do nguồn lực nhà nước còn hạn chế nên việc quyết định các dự án cơ sở hạ tầng nào sẽ nhận được tài trợ sẽ là điều vô cùng quan trọng.
Điều đó sẽ đòi hỏi những lựa chọn khắt khe, như tập trung đầu tư vào các khu vực giàu nhất của Việt Nam, như Thành phố Hồ Chí Minh nơi vốn có nhiều khả năng duy trì mức thu ngân sách cao và chi cho tỉnh nghèo hơn.
Những quyết định như vậy sẽ nhất thiết phải do chính quyền trung ương thực hiện chứ không phải quan chức địa phương. Thật vậy, sự phân quyền đã làm tăng sự cạnh tranh giữa các tỉnh và thành phố, và không phải lúc nào cũng vì lợi ích quốc gia.
Ông Vũ Thành Tú Anh đã viết năm ngoái, "Sự cạnh tranh đã trở nên khốc liệt đến nỗi mỗi tỉnh chỉ quan tâm đến các hoạt động kinh tế trong lãnh thổ của họ, và cho rằng" việc tăng trưởng GDP được chính quyền trung ương sử dụng như là thước đo duy nhất về hiệu suất của chính quyền cấp tỉnh".
Một vấn đề lo ngại là để đạt vị ví dẫn đầu, chính quyền cấp tỉnh có thể vay mượn để tăng ngân sách và tạo ra nợ nần của trung ương.
Mặc dù báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ABD) công bố vào năm 2016 nhấn mạnh rằng việc vay mượn của chính quyền địa phương vẫn còn "rất thấp", một báo cáo của Ngân hàng Thế giới trước đây đã phát hiện ra rằng nợ nần của nhiều tỉnh cao gấp đôi so với mức giới hạn của chính quyền trung ương.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
So với quyền lực chính trị phân chia từ trung tâm sang ngoại vi, việc phân cấp tài chính đã được nhìn nhận phần lớn là thành công, đảm bảo các quỹ được phân chia giữa các tỉnh và phân phối lại từ những tỉnh giàu nhất cho những tỉnh nghèo nhất.
Báo cáo của ADB cho thấy tài chính được "cân bằng" giữa các vùng. Báo cáo cũng lưu ý rằng chi tiêu của chính quyền địa phương chiếm hơn một nửa tổng chi tiêu của chính phủ, đó là "một phần đáng kể" cho chính quyền địa phương trong một nền kinh tế quy mô của Việt Nam.
Nhưng có những dấu hiệu cho thấy chính quyền trung ương hiện nay cũng đang cố gắng giành lại sự kiểm soát tài chính nhiều hơn. Trong tháng 10, Quốc hội đã yêu cầu các thành phố và các tỉnh giàu nộp nhiều ngân sách hơn cho kho bạc chính phủ trung ương. Hiện chưa rõ liệu chính sách này đã được thông qua hay ban hành.
Theo đề xuất này, Hà Nội sẽ mất gần một nửa nguồn thu, giảm từ 42% xuống còn 28% ; thành phố Hồ Chí Minh sẽ giảm từ 23% xuống còn 17%, và có thể sẽ có "hậu quả nghiêm trọng".
Một động lực cuối cùng cho việc di chuyển theo hướng phân cấp là chính phủ cho rằng bất ổn xã hội đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Năm 2017 đã chứng kiến cuộc đàn áp công khai đối với các người đối lập chính phủ và nhà hoạt động, đánh dấu một phản ứng khắt khe hơn mức độ sách nhiễu vào năm 2016.
Đáng chú ý là việc đàn áp đã xảy ra toàn quốc, một dấu hiệu cho thấy chiến dịch do chính quyền trung ương và không chỉ do các quan chức địa phương chỉ đạo như trước.
Điều này càng quan trọng hơn đối với chính quyền trung ương xem xét việc các nhóm ủng hộ dân chủ và các nhà hoạt động.
David Hutt
Phương Thảo dịch
Nguồn : VNTB, 02/01/2018
Một lịch sử rất ngắn về rượu và chính trị ở Việt Nam
Một người đàn ông đứng xếp hàng dài nửa dặm bên ngoài một cửa hàng ở ngoại ô Moscow, đợi để mua một số rượu vodka.
Anh ta nói với bạn mình một cách thiếu kiên nhẫn : "Chỉ có thế. Tôi đi tới điện Kremlin để giết Gorbachev".
Anh ta lên đường để giết vị lãnh tụ Xô Viết. Một giờ sau, anh ta trở lại.
"Anh đã giết ông ta chưa ?", người bạn hỏi.
Người đàn ông trả lời : "Giết ông ta ? Người ta xếp hàng đợi ở đó dài hơn cái hàng này".
Ảnh minh họa. Nguồn : CC0 image via Pexels
Giống như hầu hết các câu chuyện hài hước về áp bức chính trị, câu chuyện trên gồm những mức độ đúng mực về sự bi ai và gan dạ, trong khi đưa các nhu cầu cực đoan xuống mức của những ước muốn hàng ngày. Ở Liên Xô, đó là rượu vodka. "Công việc ở Liên Xô là gì ?". Một câu chuyện đùa khác. "Ăn trộm một toa xe rượu vodka, bán nó và dùng tiền để mua thêm rượu vodka". Có lần tôi thử kể những câu chuyện cười này với các nhà hoạt động nhân quyền ở Hà Nội, qua vài cốc bia 50 xu và nhận được tiếng cười thích thú.
Nhưng, thay vì hài hước, sự phẫn nộ là phản ứng trong tháng này về thói nghiện rượu của cựu viên chức cấp cao Đảng cộng sản Việt Nam. Các blog chính trị ở đất nước này đã chú ý tới sự thưởng thức đắt tiền của Đinh La Thăng, cựu lãnh đạo Đảng ở thành phố Hồ Chí Minh, là người đã bị tống cổ khỏi Bộ Chính trị hồi tháng 5 và sau đó bị bắt trong tháng này vì những cáo buộc "quản lý kinh tế tồi tệ" liên quan đến thời gian ông ta giữ chức Chủ tịch PetroVietnam. Ông ta dường như đã khát rượu Macallan 30, một loại rượu Whisky Scotch có giá khoảng 2.000 USD một chai. Cách đọc có thể diễn tả không thích hợp, nhưng tôi cung cấp sự mở đầu của một bài thơ hài hước 5 câu mà ai đó có thể muốn kết thúc :
Một cựu đồng chí tên Đinh La Thăng
là người thích thưởng thức Macallan,
…
Các nhà độc tài có một sự say mê đặc biệt về các vấn đề chất cồn. Chỉ năm ngoái, Thời báo Bình Nhưỡng (Pyongyang Times), tờ báo của nhà nước Bắc Hàn đã tuyên bố, chế độ đã chế ra một loại rượu gạo rất ngon, nó sẽ không để lại cho bạn một dư vị khó chịu nào. Tin giống như những cái giá treo cổ khôi hài đối với hầu hết những người Bắc Hàn, những người từ lâu đã bị chối bỏ bởi một nền kinh tế chủ yếu dựa vào gạo để họ không bị suy dinh dưỡng. Cuốn sách tuyệt vời của Mark Lawrence Schrad, Chính trị Vodka : Rượu, Chế độ chuyên chính, và Lịch sử bí mật của Nhà nước Nga, lập luận rằng, sự say xỉn là yếu tố quyết định về lịch sử nước Nga.
Mối quan hệ của Việt Nam với rượu cũng không kém phần thú vị. Nhiều năm trước, tôi đã đặt tay vào cuốn sách sáng tạo của Erica J. Peters : "Sự thèm ăn và khát vọng ở Việt Nam : Thực phẩm và Đồ uống trong thế kỷ dài 19". Sáng tạo, trước tiên vì khái niệm ‘thế kỷ XIX’ của Việt Nam, là một nỗ lực (thành công, theo quan điểm của tôi) để đánh giá chính sách trả thù và thống nhất của triều Nguyễn đối với thực dân Pháp.
Về rượu, tôi sẽ chỉ cho người đọc tới các chương ba và bốn, nói về vấn đề người Pháp đã cố gắng (nhưng thất bại) thao túng và kiểm soát việc tiêu thụ rượu của người Việt như thế nào, trước hết bằng cách đánh thuế sản xuất lúa gạo và sau đó bằng cách độc quyền sản xuất, trong khi cũng tội phạm buôn lậu [như người Việt].
Là một yếu tố của sứ mệnh khai hóa văn minh, người Pháp cũng muốn hướng người Việt ra khỏi rượu gạo và bia, mà họ cho là không chỉ ngon và có chất lượng cao mà còn sản xuất bằng các kỹ thuật an toàn và hiện đại hơn. Bia thời đó đã trở thành một biểu tượng tiềm tàng cho nỗ lực của Pháp nhằm "hiện đại hóa" Việt Nam. Không được bỏ qua, người Pháp cũng tuyên bố họ chỉ đơn thuần là phá vỡ sự độc quyền của Trung Quốc đối với sản xuất lúa gạo, sự chia để trị lỗi thời.
Tuy nhiên, như ông Peters lưu ý, sự độc quyền cung cấp rượu gạo của thực dân [Pháp] đã gây ra sự oán giận cho người Việt Nam, dẫn đến các cuộc biểu tình bạo lực khi các quan chức cố gắng ngăn chặn việc sản xuất tại nhà, nhiều người nghĩ là tốt hơn các thứ do Pháp sản xuất. Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ thời bấy giờ, đặt bút lên giấy, viết :
Sống như một người lính đánh thuê có điều gì tốt đẹp/ Say vì uống rượu nhạt.
(Nguyên văn câu thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu trong bài ‘Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc’ là : "Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ" : ND).
"Những phép ẩn dụ về rượu gạo dùng để diễn tả… mối lo ngại về sự chiếm đóng của Pháp và nó sẽ thay đổi đất nước của họ như thế nào".
Peters viết thêm : "Ý tưởng về một loại rượu gạo truyền thống trỗi dậy như một dấu hiệu đánh dấu sự kháng cự của người Việt đối với những thay đổi không mong muốn".
Thật vậy, những người cấp tiến và chống thực dân đã sớm học cách nắm bắt sự tức giận của công chúng như là một công cụ tuyển dụng. Peters viết thêm : "Mối đe doạ liên tục của nhà tù đối với những người sản xuất hoặc tiêu thụ rượu gạo thủ công đã được mạ kẽm mỗi ngày, chống lại chế độ thuộc địa".
Hồ Chí Minh đã tự hạ mình xuống khi ông nói rằng, "làm suy yếu cuộc chạy đua của chúng tôi, [người Pháp] buộc chúng tôi phải dùng thuốc phiện và rượu". Ông ta có thể thêm "rượu của họ" để làm rõ. Tuy nhiên, ông ta đã viết trong khi ở tù vào năm 1942 : "Trong tù không rượu, cũng không hoa".
Tôi không phán xét cuốn sách của Peters, mà tôi khuyên [các bạn] nên đọc, mặc dù rất khó để tìm nó. Tuy nhiên, với lịch sử gần đây hơn, rượu không mất đi tầm quan trọng về mặt chính trị và xã hội ở Việt Nam, nhất là vì tin đồn về thú thưởng thức rượu đắt tiền của tầng lớp cấp cao trong Đảng như Đinh La Thăng, như một mùi rất khó ngửi, tiến dần tới sự bất bình đẳng trong nhà nước cộng sản [nhà nước] trên danh nghĩa.
Người Việt Nam được xem là một trong số những người nghiện rượu nặng nhất ở Đông Nam Á, không mấy ngạc nhiên khi xem xét giá cả. Một nghiên cứu của WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), năm 2014, cho thấy, mức tiêu thụ bình quân đầu người ở người lớn, giai đoạn 2003-2005, tăng gần gấp đôi trong khoảng thời gian năm 2008-2010. Một báo cáo khác cho thấy, nhu cầu uống bia đã tăng hơn 300% kể từ năm 2002, theo Bloomberg. Euromonitor International, một công ty nghiên cứu, cũng cho ra kết quả rằng, mức tiêu thụ rượu cồn trên đầu người [Việt] là 40,6 lít (11 gallon) trong năm nay và dự kiến sẽ tiếp tục tăng. Công ty nghiên cứu này mô tả, Việt Nam là "chiến trường then chốt của các nhà sản xuất bia".
Tôi lưỡng lự đưa ra bình luận về "văn hoá uống rượu" của người Việt Nam, chỉ có điều nó phản ánh đúng bản năng con người mãi mê nhậu nhẹt bê tha (s’adonner à la boisson) như là một phương tiện giúp cho mối quan hệ và hiếu khách, và phục vụ như một người bạn đồng hành vững chắc vào những dịp đặc biệt. "Vô tửu bất thành lễ", tôi tin rằng nó được dịch là "không có chất cồn, thì các nghi thức mất đi đặc tính của nó". "Không say, không về" (có cái gì đó dọc theo dòng chữ "không say rượu, không về nhà") tôi được cho biết nó vẫn là một thành ngữ phổ biến, dành cho những người trong giai đoạn miệt mài trong một chầu rượu say bí tỉ.
Mặc dù nhúng nhẹ ngón chân của tôi vào vùng nước mặn của nhân chủng học, tôi đã nghĩ từ lâu (có thể đúng hoặc không đúng) rằng một người có thể nói nhiều về bình đẳng giới trong một xã hội bằng cái nhìn, và vô số, về phụ nữ uống rượu nơi công cộng. Một du khách chỉ ra ngoài vào một đêm ở Việt Nam thì không thể biết hết, nhưng nhận thấy sự đa dạng như thế, đặc biệt khi so sánh với nước láng giềng Campuchia, nơi hiếm thấy hơn.
Nhưng ngày nay, rượu có một tầm quan trọng chính trị rõ ràng hơn. Nhà sản xuất rượu bia chính ở Việt Nam, Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), nhà sản xuất bia hàng đầu của đất nước và Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội (Habeco), là doanh nghiệp nhà nước trong một thời gian dài, bảo đảm doanh thu đủ cho Đảng cộng sản. Thị trường bia của cả nước năm ngoái có trị giá khoảng 6,5 tỷ đô la.
Tuy nhiên, bây giờ Đảng đã quyết định bán những cổ phần đáng kể của các công ty này, một phần trong kế hoạch của họ để tách ra khỏi toàn bộ hoặc một phần từ 375 doanh nghiệp nhà nước vào năm 2020. Tháng này đã bán phần lớn cổ phần của Sabeco, được cho là đợt phát hành cổ phiếu cho công chúng (IPO) lớn nhất của một DNNN trong lịch sử Việt Nam. Mặc dù có sự quan tâm của một số công ty quốc tế lớn khác, nhưng Thai Beverage, do nhà tài phiệt Charoen Sirivadhanabhakdi quản lý, là nhà đầu tư duy nhất, chiếm 54% cổ phần với giá 4,8 tỷ USD, hầu hết số tiền này sẽ được đưa vào quỹ của chính phủ. Chính phủ cũng có kế hoạch bán một lượng lớn cổ phần của Habeco vào đầu năm tới.
Reuters cho biết hồi tháng trước, trước khi có tin bán : "Việc bán Sabeco có thể cung cấp một kế hoạch chi tiết để tư nhân hóa các công ty khác mà Hà Nội đang xem xét như là một phần của cải cách kinh tế rộng lớn hơn". Nó đã không hoàn toàn diễn ra đúng như kế hoạch. Có những kỳ vọng rằng các công ty lớn của Nhật Bản và châu Âu sẽ đầu tư, nhưng họ đã bị cản trở bởi mức giá 14,09 USD trên mỗi cổ phần mà chính phủ định giá.
Tuy nhiên, việc bán Sabeco chỉ có thể được coi là thành công của Đảng. Ngày nay, họ bị thiếu nợ nần và không có đủ vốn để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng cần thiết để giữ cho nền kinh tế ngày càng phát triển, và quan trọng hơn đối với đảng viên, duy trì một số tính hợp pháp cho Đảng trong mắt công chúng, những người đang ngày càng tò mò (và quan trọng) về mục đích của họ ngày hôm nay. Như vậy, 4,8 tỷ USD có được từ việc bán Sabeco có thể chứng minh công cụ [để đem lại lợi ích gì].
Thật vậy, không giống như các nhà cai trị trong quá khứ của Việt Nam, Đảng cộng sản không có ý muốn hạn chế tình trạng say xỉn của công dân, cũng không kiểm soát thị trường rượu bằng biện pháp áp bức. Có lẽ lịch sử đã dạy cho họ nên bỏ mặc chuyện rượu chè, để nó không khuấy động tinh thần của người dân vốn đã bị đàn áp. Mục tiêu duy nhất của Đảng cho thấy, họ kiếm tiền từ đó.
David Hutt
Trúc Lam dịch
Nguồn : © Copyright Tiếng Dân, 27/12/2017,