Ngày 16/09/2022, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính trị thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề "Ảnh hưởng của già hóa dân số đến phát triển kinh tế". Đây là một vấn đề ngày càng gây quan ngại ở Việt Nam, bởi vì tốc độ lão hóa quá nhanh của dân số Việt Nam có thể gây tác hại đến nền kinh tế.
Người già chờ được khám mắt tại xã Hiệp Hòa, tỉnh Thái Bình, Việt Nam, ngày 06/07/2005. AP – Richard Vogel STF
Việt Nam được xem là một trong các quốc gia có tốc độ lão hóa dân số nhanh nhất thế giới. Theo thống kê của văn phòng Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam, những người từ 60 tuổi trở lên chiếm 11,9% tổng dân số vào năm 2019 và đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ tăng lên hơn 25%. Đến năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội "già hóa" sang xã hội "già".
Theo chiều hướng đó, Tổng cục Thống kê Việt Nam dự báo, dân số Việt Nam từ 65 tuổi sẽ vượt 15% tổng dân số vào năm 2039. Đây sẽ là thời điểm chấm dứt thời kỳ "dân số vàng" ở Việt Nam.
Theo UNFPA, sự thay đổi này ở Việt Nam không chỉ nhờ giảm tỷ lệ tử vong và tăng tuổi thọ, mà phần lớn là do giảm mạnh tỷ lệ sinh. Tỷ lệ sinh sụt giảm trong những thập kỷ qua đã tác động rất lớn tới cơ cấu dân số của Việt Nam, làm đẩy nhanh tốc độ già hóa dân số.
Ngoài việc đặt ra các vấn đề mặt y tế, xã hội, có nguy cơ là tình trạng lão hóa dân số gây tác hại cho nền kinh tế Việt Nam, hay đúng hơn là tác hại cho các lợi thế của Việt Nam về lao động.
Trả lời RFI Việt ngữ, bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) ở Việt Nam, ghi nhận :
" Hiện giờ Việt Nam vẫn có tỷ lệ dân số trẻ cao nhất trong lịch sử của nước này, số người trẻ tuổi vẫn còn rất nhiều. Nói chung là "cửa sổ dân số" vẫn còn mở, theo dự đoán sẽ còn mở cho đến năm 2039.
Số người trong độ tuổi lao động vẫn sẽ còn tăng cho đến năm 2034, nhưng theo dự đoán thì kể từ năm 2035 sẽ bắt đầu giảm. Lúc đó sẽ chỉ còn chưa tới 2 người trong độ tuổi lao động để "nuôi" một người lớn tuổi, phải sống dựa vào người khác, so với hiện nay là vẫn còn 4 người trong độ tuổi lao động nuôi một người già. Như vậy là tỷ lệ người sống phụ thuộc sẽ tăng mãi. Và điều này sẽ có ảnh hưởng đến lực lượng lao động".
Vào cuối tháng 8 vừa qua, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) đã công bố một nghiên cứu cho thấy, do ảnh hưởng của già hóa dân số và chi phí lao động tăng, Việt Nam sẽ sớm mất lợi thế về lao động giá rẻ. Nghiên cứu mang tên "Thực trạng phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam" do JICA thực hiện từ tháng 9/2021 đến tháng 5/2022, thông qua phỏng vấn và khảo sát diện rộng hơn 1.000 tổ chức khu vực công và tư.
Nghiên cứu cho rằng, cho dù bị ảnh hưởng của đại dịch, hay cho dù có những thay đổi về cơ cấu kinh tế, nguồn cung lao động của Việt Nam sẽ vẫn ổn định trong ngắn hạn và trung hạn. Năm 2020, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam vẫn còn là 74,4%, cao đáng kể so với tỷ lệ 60,5% của thế giới và tỷ lệ 67,2% của vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Tuy nhiên, về lâu dài, nguồn dự trữ lao động sẽ ngày càng giảm đi. Vào năm 2015, Việt Nam còn ở trong "thời kỳ dân số vàng", với 70% dân số ở độ tuổi từ 15 đến 64, tức là trong độ tuổi lao động hợp pháp. Nhưng dân số Việt Nam sẽ già đi "cực kỳ nhanh" vào năm 2050, chỉ còn 60% dân số trong độ tuổi lao động và một phần dân số lao động đó sẽ trên 60 tuổi.
Theo JICA, xu hướng già hóa dân số nhanh chóng như vậy sẽ khiến tăng trưởng kinh tế chậm lại đáng kể và làm tăng khả năng thiếu lao động. Lực lượng lao động càng giảm đi thì hậu quả tất yếu là tiền lương lao động sẽ tăng lên. Cho nên, nghiên cứu của JICA kết luận : "Việt Nam sẽ mất lợi thế về lao động giá rẻ trong các ngành đòi hỏi kỹ năng thấp và sử dụng nhiều lao động".
Theo JICA, một trong những giải pháp cho tình trạng này là tăng năng suất lao động. Nhưng quá trình cải thiện năng suất lao động ở Việt Nam không dễ dàng. Thứ nhất, chuyển dịch lao động kém năng suất từ nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã là yếu tố chính góp phần vào tăng trưởng năng suất ở Việt Nam trong 20 năm qua. Tuy nhiên, đóng góp vào tăng trưởng năng suất từ quá trình chuyển đổi này đã gần như đã cạn kiệt.
Thứ hai là quy mô doanh nghiệp : Phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp hộ gia đình có quy mô nhỏ và rất nhỏ, thiếu phương tiện kinh tế đáng kể để đầu tư và cải tiến công nghệ, thiết bị, tổ chức hoặc sản xuất.
Thứ ba là kỹ năng của người lao động. Trình độ học vấn thấp là một trong những yếu tố khiến Việt Nam gần đây được xác định là một trong những nước có năng suất lao động thấp nhất khu vực. Cho nên, nghiên cứu của JICA khuyến nghị : "Việt Nam cần cải thiện công tác giáo dục và đào tạo cho lực lượng lao động vì mục tiêu tăng năng suất lao động, để từ đó tăng khả năng của đất nước cạnh tranh, hội nhập toàn cầu".
Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, bà Naomi Kitahara, thì cho rằng một trong những giải pháp để kềm chế tốc độ lão hóa dân số là khuyến khích sinh đẻ :
"Thứ nhất, tỷ lệ sinh con ở hiện là 2 con/phụ nữ. Tỷ lệ này là lý tưởng vào thời gian mà Việt Nam còn là một quốc gia nghèo, còn là một quốc gia có thu nhập thấp. Nhưng trong một thập niên, Việt Nam đã đạt rất nhiều thành công về phát triển kinh tế xã hội và nay đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Cho nên, chúng tôi khuyên chính phủ Việt Nam nên điều chỉnh chính sách dân số theo hướng để cho các gia đình được tự do, đúng theo các nguyên tắc của Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển, tức là các cặp vợ chồng được quyết định một cách tự do và có trách nhiệm về số con, thời điểm sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh. Chúng tôi khuyến cáo Việt Nam tạo điều kiện cho hướng điều chỉnh đó để đáp ứng những yêu cầu về lực lượng lao động.
Nhưng một điều cũng rất quan trọng đó là Việt Nam phải có những đầu tư đúng đắn vào giới trẻ, nhất là về mặt y tế và giáo dục, bao gồm cả sức khỏe sinh lý và giáo dục sinh sản, cũng như giáo dục giới tính và tình dục toàn diện và giáo dục kỹ năng sống.
Đồng thời, đối với người lớn tuổi, chúng ta phải xem họ như là một yếu tố của phát triển, chứ không phải là một gánh nặng của xã hội, vì ngày nay người già đa số vẫn còn khỏe mạnh, vẫn còn khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc. Theo một điều tra năm 2019, 42,8% số người già vẫn còn có khả năng làm việc để có thu nhập ở Việt Nam, nhất là những người già nhưng chưa lớn tuổi lắm. Cho nên, phải tính đến nguồn lực này trong đội ngũ lao động ở Việt Nam".
Theo bà Naomi Kitahara, như vậy Việt Nam phải tạo môi trường thuận lợi để những người lớn tuổi còn đủ sức lao động có thể tiếp tục làm việc :
"Điều rất quan trọng là tạo một môi trường thuận lợi cho người lớn tuổi có thể tiếp tục làm việc và tiếp thu những kỹ năng mới qua một quá trình học suốt đời. Chúng ta không chỉ tạo công ăn việc làm cho người già còn phải tạo một môi trường thích hợp để người lớn tuổi có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
Đa số những người lớn tuổi muốn tiếp tục làm việc nhưng họ lại gặp những vấn đề về sức khỏe, cho nên phải có những giải pháp thích hợp để người già ở Việt Nam không còn phải "chiến đấu" với những vấn đề về sức khỏe đó khi trở thành người già. Những người trẻ tuổi ở Việt Nam phải được chuẩn bị tốt cho cuộc sống tuổi già. Cách tiếp cận già hóa dân số đó chúng tôi gọi là cách tiếp cận theo vòng đời (life-cycle).
Chính phủ cũng phải tiếp tục phát triển hệ thống an sinh xã hội cho người già để giảm thiểu tối đa các tác động của tuổi già. Hệ thống an sinh xã hội này phải tạo ra một "tấm đệm" để người già có thể chống đỡ với mọi cú sốc. Đó là một yếu tố rất quan trọng góp phần giúp Việt Nam đạt những mục tiêu phát triển cho năm 2030".
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 17/10/2022
World Bank : Già hóa dân số có thể khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại
VOA, 10/10/2021
Ngân hàng Thế giới (World Bank) mới đây đưa ra nhận định rằng Việt Nam "cần cải cách để đảm bảo tiếp tục tăng trưởng trong bối cảnh dân số già hóa" tại quốc gia Đông Nam Á này.
Việt Nam cần cải cách để đảm bảo tiếp tục tăng trưởng trong bối cảnh dân số già hóa
Một báo cáo mới công bố của World Bank cho rằng "già hóa dân số có thể khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, làm tăng chi tiêu công và gia tăng áp lực đối với hệ thống cung cấp dịch vụ công nếu không có các cải cách kịp thời".
Báo cáo có tên gọi "Việt Nam : thích ứng với xã hội già hóa", do Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp thực hiện và công bố hôm 1/10, cho thấy, so với các quốc gia đã từng trải qua tình trạng già hóa dân số như Việt Nam đang trải qua hiện nay, thì "cả trình độ phát triển kinh tế lẫn thu nhập bình quân của Việt Nam đều thấp hơn".
"Viễn cảnh ‘chưa giàu đã già’ có nghĩa là Việt Nam sẽ phải đối mặt với một loạt thách thức quan trọng mà để giải quyết sẽ không tránh khỏi những lựa chọn chính sách khó khăn", thông cáo của hai tổ chức có đoạn.
"Việt Nam đã thành công trong việc tận dụng lực lượng lao động dồi dào để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ba thập kỷ qua", bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, được trích lời nói trong thông báo về bản báo cáo. "Giờ đây, cùng với quá trình già hóa dân số, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng kỹ năng cho lực lượng lao động để thúc đẩy đổi mới và nâng cao năng suất nền kinh tế cũng như bắt đầu tiến hành cải cách lương hưu ngay từ bây giờ để duy trì sinh kế cho người cao tuổi trong những thập kỷ tới".
Theo World Bank, với tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng, người cao tuổi dự kiến sẽ chiếm từ 10% - 20% dân số Việt Nam vào năm 2035. Tổ chức tài chính quốc tế này cũng nói thêm rằng tỷ lệ phụ thuộc tuổi già của Việt Nam, được tính bằng số người trên 65 tuổi chia cho số người trong độ tuổi lao động, ước tính sẽ tăng gấp đôi từ 0,11 năm 2019 lên 0,22 năm 2039.
Báo cáo của World Bank và JICA cho thấy tốc độ tăng trưởng dài hạn trong giai đoạn 2020 – 2050 sẽ chậm lại 0, 9 điểm phần trăm so với 15 năm qua khi Việt Nam chuyển dần sang cơ cấu dân số già.
Ngoài ra, cũng theo báo cáo này, việc đáp ứng nhu cầu của một xã hội già hóa cũng được dự báo sẽ tiêu tốn thêm từ 1, 4% đến 4, 6% GDP, và việc mở rộng phạm vi bao phủ và cải thiện chất lượng dịch vụ tất yếu sẽ dẫn đến tăng chi phí tài khóa.
Thông cáo của World Bank trích lời ông Shimizu Akira, Trưởng đại diện Văn phòng JICA Việt Nam, nói rằng "kể từ khi trở thành quốc gia siêu già vào năm 1960, Nhật Bản đã trải qua nhiều hệ lụy khác nhau của quá trình già hóa, đặc biệt là những tác động liên quan đến việc điều chỉnh các chương trình bảo trợ xã hội và thúc đẩy chăm sóc tại cộng đồng".
"Đã có nhiều thành công nhưng cũng không ít kinh nghiệm cay đắng. Chúng tôi hy vọng những bài học chia sẻ này sẽ hữu ích để giúp Việt Nam không chỉ ứng phó được với tình trạng thay đổi nhân khẩu học mà còn thu được lợi ích từ đó", ông Akira nói, theo World Bank.
Báo cáo, vốn được thực hiện trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa JICA và Ngân hàng Thế giới nhằm hỗ trợ các cơ quan hoạch định chính sách Việt Nam đưa ra các giải pháp chuẩn bị cho một xã hội già hóa, đưa ra khuyến nghị để Việt Nam có thể quản lý tình trạng già hóa dân số một cách hiệu quả, dựa trên bài học kinh nghiệm ở các quốc gia khác đã trải qua quá trình chuyển đổi nhân khẩu học tương tự, ví dụ như Nhật Bản.
Theo World Bank, các khuyến nghị này bao gồm những cải cách cần thiết để cải thiện sự tham gia của lực lượng lao động và nâng cao năng suất, tăng cường hiệu quả chi tiêu công và củng cố hệ thống cung cấp dịch vụ. Báo cáo cũng khuyến nghị các hành động chính sách trong bốn lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ xu hướng già hóa là thị trường lao động, lương hưu, y tế và chăm sóc người cao tuổi.
Theo tạp chí Bảo hiểm xã hội thuộc cơ quan ngôn luận của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, kết quả Tổng Điều tra Dân số hồi năm 2019 cho thấy, dân số Việt Nam "đang già hóa với tốc độ nhanh chưa từng thấy". Tạp chí này viết rằng Việt Nam có 11, 4 triệu người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên, chiếm 11, 86% tổng dân số, và chỉ số già hóa tăng từ 35, 9% vào năm 2009 lên 48, 8% vào năm 2019.
*********************
Việt Nam : 31,8 triệu người bị ảnh hưởng thu nhập trong quý 3 vì dịch Covid-19
VOA, 08/10/2021
Có đến 31 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 và thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động thuộc hầu hết các ngành kinh tế trong quý III đều giảm đáng kể so với quý trước và với cùng kỳ năm ngoái, Tổng cục Thống kê Việt Nam cho biết trong một báo cáo mới công bố.
Làn sóng công nhân tháo chạy khỏi Thành phố Hồ Chí Minh sau khi lệnh phong toả được nới lỏng. Phần lớn trong số họ đã bị thất nghiệp nhiều tháng qua vì thành phố bị phong tỏa.
Theo đó, thu nhập bình quân hàng tháng trong quý 3 của người lao động Việt Nam là 5,2 triệu đồng (229 USD), giảm 847.000 đồng so với quý trước và 573.000 đồng so với năm trước.
Người lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ bị ảnh hưởng nhiều nhất về thu nhập với thu nhập bình quân 6,2 triệu đồng/tháng, giảm 13,5% so với quý trước và có đến 68,9% lao động bị ảnh hưởng.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết trong số 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, bao gồm người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập…
Sau khu vực dịch vụ, khu vực bị ảnh hưởng nặng nề tiếp theo những nhân công làm trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 66,4% lao động bị ảnh hưởng, kế đó là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 27,0%.
Báo cáo cũng cho biết trong quý III, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên ở độ tuổi 15-24 là 7,24%, cao hơn 0,26 điểm phần trăm so với Quý II, và số lao động thất nghiệp thanh niên hiện đã chiếm tới 32,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước.
Thị trường lao động của Việt Nam đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong quý III vì các biện pháp phong toả, cách ly chống lại đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư.
Sau khi Việt Nam nới lỏng các biện pháp phòng dịch trên, hàng triệu nhân công đã tháo chạy khỏi các trung tâm sản xuất lớn, tạo thành làn sóng di cư chưa từng có trong nhiều thập niên qua.
TTXVN dẫn lời bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho rằng việc thu hút lao động trở lại thị trường lao động trong bối cảnh hiện nay là một thách thức khá lớn đối với doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam.
************************
Phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19 thế nào khi giải ngân vốn đầu tư công chậm ?
RFA, 06/10/2021
Chỉ còn hơn ba tháng là hết năm 2021, nhưng Việt Nam chỉ mới giải ngân đầu tư công hơn 47% trên tổng số 500 ngàn tỷ đồng. Số liệu vừa nói được đưa ra tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Thủ tướng Chính phủ hôm 5/10 với các bộ, ngành và địa phương về đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2021.
Một cây cầu đang xây dựng ở Hà Nội vào ngày 5 tháng 10 năm 2021. Nhac Nguyen / AFP
Tại cuộc họp, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính còn cho biết có 36 bộ, cơ quan Trung ương và tám địa phương giải ngân vốn đầu tư công chỉ đạt dưới 40% kế hoạch.
Theo các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn đầu tư công khoảng 250 ngàn tỷ đồng còn lại của năm 2021 là nguồn lực rất quan trọng trong lúc dịch Covid-19 tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và đời sống nhân dân.
Trong khi đó, Bộ Tài chính Việt Nam vào ngày 17/9 đã khẳng định với báo chí Nhà nước rằng ngân sách dự phòng trung ương năm 2021 với 17.500 tỉ đồng đã được chi hết, nhưng nhu cầu chi cho phòng chống dịch Covid-19 và hỗ trợ đời sống người dân còn rất lớn. Nếu vốn đầu tư công được bơm vào nền kinh tế một cách mạnh mẽ, thì chắc chắn sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm và đời sống người dân sẽ bớt khó khăn khi ngân sách cạn tiền hỗ trợ theo lời Bộ Tài chính.
Vì sao vốn đầu tư công lại bị các Bộ ngành địa phương chậm giải ngân như vậy ? Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương - CIEM, nhận định với RFA hôm 6/10 :
"Đầu tư công là một nhân tố rất quan trọng để kinh tế tư nhân phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy Thủ tướng đã có quan tâm và đôn đốc việc giải ngân đầu tư công. Vấn đề trong thời gian vừa qua là Việt Nam có Đại hội đảng, sau đó đã có Chính phủ mới, nhiều tỉnh đã có bầu Chủ tịch tỉnh mới... tất cả những thay đổi đó làm cho những người lãnh đạo cần có thời gian để tiếp xúc với dự án, với công trình, với công việc... Và có thể đấy là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đầu tư công và giải ngân có chậm hơn mức bình thường và chậm hơn so với yêu cầu. Vì bây giờ đã tháng 10 rồi mà chỉ giải ngân chưa đến 40%, chỉ còn hơn ba tháng nữa mà phải giải ngân đến 60% số vốn theo kế hoạch còn lại, thì đấy rõ ràng là sự chậm trễ".
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng, phải cố gắng làm sao trong thời gian tới đây đốc thúc giải ngân, nhất là tập trung vào các công trình trọng điểm, để có thể đưa vào sử dụng dự án đầu tư công đó. Ông Doanh hy vọng sau sự đốc thúc của Thủ tướng Chính phủ như vậy, thì đầu tư công sẽ được giải ngân nhanh gọn hơn.
Chuyên gia kinh tế, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Đinh Trọng Thịnh, trưởng bộ môn Quản trị Tài chính quốc tế của Học viện Tài chính Việt Nam, khi trả lời RFA liên quan vấn đề này nhận định :
"Khi đã được phê duyệt, có vốn vay... nhưng do thắt chặt quản lý kinh tế, chống tham nhũng, đòi hỏi đầu tư công phải có hiệu quả, và người đứng đầu phải chịu trách nhiệm nếu không đạt. Do đó, hiện nay nhiều bộ ngành địa phương thấy nếu tiếp tục sẽ không hiệu quả, người đứng đầu sẽ bị điều tra vì ‘thấy không hiệu quả nhưng vẫn làm’... Nên nhiều nơi đã chậm giải ngân để xem xét có dừng dự án để trả lại vốn đầu tư công hay không ?"
Những tấm nhựa được thiết lập để giảm thiểu sự tiếp xúc gần tại một khu chợ ẩm ướt trong khu phố cổ của Hà Nội vào ngày 24 tháng 9 năm 2021, sau khi các hạn chế nhằm phòng chống Covid-19 được nới lỏng sau hai tháng. Manan Vastyayana / AFP.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 27/9/2021, Bộ này đã nhận được đề xuất của 15 bộ, cơ quan trung ương và 23 địa phương xin trả lại gần 22 ngàn tỷ đồng vốn ngân sách trung ương năm 2021. Trong đó, vốn đầu tư công trong nước là gần bốn ngàn tỷ đồng và vốn đầu tư công từ nguồn vốn nước ngoài ODA là gần 18 ngàn tỷ đồng.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng độc lập, người có 32 năm kinh nghiệm làm ngành tài chính ngân hàng tại nhiều quốc gia cho biết, vốn vay ODA để được giải ngân cần phải thỏa mãn nhiều điều kiện :
"Các nguồn vốn ODA các nước tài trợ cho Việt Nam bị ràng buộc bời nhiều điều kiện lắm. Trước hết Việt Nam đã vào các nước có thu nhập trung bình nên không còn lợi thế như trước, bây giờ lãi suất tăng lên và điều kiện vay cũng khó khăn hơn. Đặc biệt các gói ODA của các chính phủ ràng buộc với điều kiện phải mua nguyên vật liệu của họ nếu dùng ODA phát triển hạ tầng cơ sở".
Bên cạnh đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, còn có điều kiện tài chính đối với vốn ODA, Việt Nam phải có vốn đối ứng, tức vốn khởi đầu, rồi sau đó các chính phủ mới tài trợ. Vì vậy nếu chưa thỏa các điều kiện thì chưa thể nhận vốn. Ngoài ra, ông còn cho biết điều kiện quan trọng nhất thường vướng mắc ở Việt Nam là việc thỏa thuận giá đền bù cho dân khi giải tỏa mặt bằng thực hiện dự án :
"Khi thực hiện chương trình hạ tầng cơ sở mà dùng vốn ODA, chưa phải có tiền là làm ngay, mà còn phải giải tỏa mặt bằng và bồi thường cho người dân. Nhưng nhiều khi, giữa chính phủ và người dân ở đó chưa đi đến thỏa thuận về giá cả mà người dân được bồi thường, chính vì thế cũng chưa thể thực hiện dự án. Tóm lại với nhiều điều kiện như thế, không phải cứ có tiền là sử dụng được ngay. Và do đó, nhiều cơ quan bộ ngành đã trả lại số tiền đó".
Liên quan vấn đề giải tỏa mặt bằng và bồi thường cho người dân gặp trở ngại, theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh là do có sự trùng lắp, chồng chéo trong quy định luật pháp về đầu tư và đầu tư công. Ông đưa ra giải thích :
"Ví dụ như muốn thực hiện đầu tư công thì vấn đề là phải có quỹ đất đai, quỹ đất đai thì phải có đền bù... Mà đền bù thì giá của nhà nước quy định so với giá thị trường có một khoảng cách khá xa. Vì vậy cho nên cần phải có các quyết định thích hợp để giải quyết những vấn đề chồng chéo, những cái chưa ăn khớp... Đấy là những điều thực tế cứ diễn ra và đòi hỏi những người quyết định thích hợp. Thì sắp tới đây cũng mong Quốc hội sẽ có các quyết định thích hợp để giải quyết các vướng mắc này và tạo điều kiện để cho đầu tư công được thực hiện một cách suôn sẻ hơn".
Trong khi Bộ Tài chính Việt Nam khẳng định ngân sách dự phòng trung ương năm 2021 đã được chi hết, thì ông Nguyễn Minh Cường - Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB khi trả lời báo chí Nhà nước hôm 28/9 cho rằng, Việt Nam đang lo bảo toàn ngân sách nhiều hơn là đầu tư cho tăng trưởng, thể hiện ở việc chi tiêu của Chính phủ Việt Nam dành cho an sinh xã hội hiện còn ở mức khiêm tốn. Trong khi theo ADB, ngân sách Việt Nam vẫn thặng dư, trần nợ công của Việt Nam sau đánh giá chỉ ở mức 44% GDP - thấp nhất trong khu vực.
Tổng Cục thống kê Việt Nam dự báo tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sẽ chỉ ở mức 2,5% trong năm nay, thấp hơn nhiều so với mục tiêu chính thức là 6,5%. Nguyên nhân vì các chính sách chống Covid-19 cứng rắn đã tác động đến hầu hết mọi ‘ngóc ngách’ của nền kinh tế nước này.
********************
RFA, 08/10/2021
Phố chuyển "màu"…
Phố Tây Bùi Viện, một địa điểm quen thuộc với không chỉ du khách nước ngoài mà còn cả những người trẻ Việt Nam. Con phố nằm ngay giữa trung tâm thành phố, được mệnh danh "ph ố không ngủ" tràn ngập biển hiệu của các công ty lữ hành, quán bar, nhà hàng, quán nhậu, đồ ăn vỉa hè… trước dịch luôn chật kín người khi đêm đến.
RFA
Tuy nhiên, sau bốn tháng giãn cách xã hội, giờ nhiều người không còn nhận ra khu Phố Tây Bùi Viện sầm uất ngày nào, vì giờ đây khu phố đã thay đổi diện mạo hoàn toàn. Những bảng hiệu đèn màu nay được thay bằng những biển hiệu tạm rao bán các loại rau, củ, quả, thực phẩm tươi sống…
Trao đổi với phóng viên RFA, một ông chủ quán ăn chia sẻ về sự thay đổi này :
"Thời điểm trước thì kinh doanh cho thuê xe máy, sau này dịch bệnh ở nước ngoài, nước ngoài không qua nữa mới chuyển qua mua bán quán ăn, quán nhậu, vừa bán xong thì bị dịch ngưng suốt mới vừa giãn cách bày ra bán trang trải qua ngày chứ chưa biết lời lỗ bao nhiêu. Giờ trước mắt kiếm vừa có ăn cho con, vừa có ăn cho gia đình, vừa có đồ sinh hoạt.
Nói chung khó khăn cái gì thì mình chuyển theo cái đấy, cuộc sống mà, đi theo thời điểm, đi theo môi trường, cứ nhắm làm được gì cứ làm trang trải cuộc sống, còn đối với làm (trong) tình trạng dịch Covid-19 thế này không thể nào đủ tiền đóng tiền mặt bằng, không đủ tiền ăn lấy gì đóng tiền mặt bằng".
Theo quan sát của chúng tôi, tại đây khá nhiều nhà hàng, quán ăn từ lớn đến nhỏ đều đang thay đổi "hình th ức kinh doanh" mà theo như họ chia sẻ là thay đổi để kiếm ăn, trả tiền hỗ trợ nhân viên. Nói với chúng tôi về công việc "trái tay" để thích nghi với thời dịch Covid-19, một quản lý tại nhà hàng trên phố Bùi Viện cho biết :
"Tình hình dịch bệnh thế này thì quán bar, nhà hàng phải đóng cửa hết. Ông chủ bây giờ mới thay sang nghề này được hai tháng nhưng tôi nghĩ khi nào dịch bệnh hết thì ông chủ sẽ quay về ngành quán bar, nhà hàng. Còn bây giờ cứ tạm thời được đến đâu hay đến đấy".
Cũng theo người quản lý này thì việc chị phải duy trì công việc theo sự thay đổi của ông chủ cũng là vì mong muốn sau dịch sẽ lại được tiếp tục công việc nhà hàng của mình, còn bây giờ chỉ là để kiếm thêm thu nhập. Chị nói tiếp :
"Cũng duy trì được cho nhân viên, để ông chủ trả được phần nào đấy cho nhân viên làm chứ người ta đi làm người ta phải có lương mà giờ ông chủ mà đóng cửa hoài thế này lấy tiền đâu mà trả cho nhân viên ? Bắt buộc ông chủ xoay sang cái này gọi là chắc trả tiền lương cho nhân viên chứ để gánh được nơi này tiền nhà hơi khó, bán rau làm gì có tiền trả tiền nhà ?"
Vì không muốn cho nhân viên nghỉ việc do nhà hàng, quán bar không thể hoạt động được trong mùa dịch nên nhiều chủ quán bar vẫn nuôi đội ngũ nhân viên trụ cột của mình. Tuy vậy, trải qua hơn bốn tháng không kinh doanh, giờ Thành phố nới lỏng giãn cách, nhiều chủ nhà hàng, quán bar cho nhân viên tự đứng bán rau, củ kiếm sống.
"Quán nhậu mà bà chủ thấy nuôi không nổi nữa giờ cho nhân viên bán kiếm tiền ăn, bán rồi xúm nhau chia nhau ăn.
Sau mấy tháng nằm chèo queo, đói, mấy này làm có tiền ăn, người được mấy chục cũng đỡ chứ ai cho".
"Nhà hàng, quán bar mà giờ ông chủ bà chủ chuyển qua bán rau tạm thời, khi nào quán bar hoạt động trở lại thì thôi. Giờ cầm chừng lo cho gia đình.
Giờ do khó khăn quá thì bắt buộc phải chuyển ngành, chuyển nghề chứ biết sao giờ. Giờ bán rau, củ, quả, hàng tươi sống của Đà Lạt gửi xuống.
Nói chung là cũng có tiền trang trải cuộc sống, lo cơm nước hàng ngày cho gia đình".
Nhà hàng, quán bar đổi thành tiệm bán rau, củ. RFA
Đây không chỉ là tình trạng riêng của người tự đứng ra kinh doanh, mà ngay cả những người lao động tại khu phố Tây trước đây cũng phải tự đứng lên tìm một hướng đi khác để kiếm kế mưu sinh :
"Giờ tôi bán ở Bùi Viện này từ hồi đầu dịch tới giờ, nhà hàng đóng cửa hết nên tôi phải đi mưu sinh.
Trước đây tôi làm bên phục vụ nhà hàng, có dịch tôi không trở về làm nữa mới được mớ tiền đem ra bán dưa hấu, bán trái cây lây lất tới giờ.
Tôi không được hỗ trợ, không nhận tiền trợ cấp, không ai cho gì hết, mình xoay sở, tự sống thôi.
Nói chung giờ mình bươn chải cuộc sống mình, tới đâu hay tới đó, đủ ăn thôi, chờ tới khi nào mở cửa lại thì mình đi làm chuyện khác lại".
Đợt dịch Covid-19 tái bùng phát lần thứ tư tại Việt Nam kể từ cuối tháng 4/2021 đã khiến nền kinh tế cả nước nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất đất nước hình chữ S nói riêng phải chịu những tổn thất nặng nề.
Trong đó, ngành du lịch, một trong những ngành kinh tế trọng điểm đem lại nguồn thu lớn đã bị ảnh hưởng mạnh do chính phủ Hà Nội phải đóng cửa biên giới để hạn chế sự lây lan SARS-CoV-2.
Không còn khách nước ngoài lưu trú hay tụ họp mỗi khi đêm đến, phố Tây Bùi Viện nay đã chuyển mình hoàn toàn trong điều kiện ‘bình thường mới’. Lẽ dĩ nhiên, những người kinh doanh tại đây cũng phải thay đổi mỗi ngày cho phù hợp với môi trường mới này, nhưng dường như tương lai phía trước vẫn quá mông lung với họ :
"Cuộc sống bây giờ, sau này không biết thế nào, không biết có bán cái này hay bán quán này, cứ đảo lộn lung tung, thật sự không biết đi hướng nào".
Tuy vậy, dù Phố Bùi Viện có thay đổi từ khu phố đi bộ sầm uất thành khu buôn bán thực phẩm, đâu đó vẫn luôn có người ủng hộ những người kinh doanh tại đây :
"Tôi ở gần đây nên đến mua ủng hộ mọi người, với lại bây giờ đâu đi siêu thị các thứ được nên đến đây cho nhanh, tiện".
"Thấy gần ở đây nên tôi đến mua ủng hộ. Tình hình bây giờ ai cũng khó khăn nhưng phải cố gắng vượt qua".
Được biết, Cục hàng không Việt Nam vừa đề nghị chính quyền các địa phương lên kế hoạch mở lại đường bay nội địa kể từ 10/10/2021. Khoảng 16 địa phương trong số 21 tỉnh/thành có sân bay đã đồng ý với đề nghị trên.
Trước đó, vào cuối tháng 9/2021, Bộ VH-TT&DL cũng đã ban hành kế hoạch triển khai các chính sách kích cầu, phục hồi hoạt động du lịch, lữ hành giai đoạn cuối năm 2021 và đầu năm 2022. Trước thông tin này, nhiều người dân Thành phố Hồ Chí Minh hy vọng Khu phố Ba Lô-Phố Tây Bùi Viện sẽ lại sớm sáng đèn, sầm uất như xưa…
Trong bản cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, công bố vào tháng 07/2016, Ngân Hàng Thế Giới cho biết là Việt Nam chuẩn bị bước vào giai đoạn lão hóa dân số với một tốc độ rất nhanh.
Một xưởng may ở Hải Dương. Tình trạng lão hóa dân số sẽ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của Việt Nam, nếu năng suất không được nâng cao.Reuters
Vào thời điểm 2016 có khoảng 7% dân số Việt Nam, tương đương 6,5 triệu người, từ 65 tuổi trở lên. Vào năm 2040, số người từ 65 tuổi trở lên dự báo sẽ tăng gấp 3, lên đến 18,4 triệu người, chiếm 17% dân số. Nói theo cách khác, tỷ lệ phụ thuộc, tức là số người từ 65 tuổi trở lên so với số người trong độ tuổi lao động, dự báo sẽ tăng gần gấp 3, từ 10% hiện nay lên 26% vào năm 2040. Tốc độ lão hóa tại Việt Nam, theo Ngân Hàng Thế Giới, là thuộc hàng cao nhất thế giới từ trước đến nay.
Tình trạng lão hóa này đang đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam về mặt kinh tế lẫn xã hội. Sau đây xin mời quý vị nghe ý kiến của chị Nguyễn Ngọc Quỳnh, chuyên viên về an sinh xã hội của Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 03/04/2017.
RFI : Thưa chị Nguyễn Ngọc Quỳnh, trước hết xin chị cho biết là những lý do nào khiến dân số Việt Nam lão hóa nhanh như vậy ?
Nguyễn Ngọc Quỳnh : Việt Nam đang trong một bối cảnh rất đặc biệt, đó là vừa có dân số trẻ mà vừa đang già hóa, khác với những nước khác là phải qua giai đoạn dân số trẻ rồi mới đến dân số già. Có hai lý do chính khiến tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số Việt Nam tăng rất nhanh. Thứ nhất là mức sinh giảm và thứ hai là tuổi thọ tăng rất cao.
Vào khoảng năm 1975, ở Việt Nam phụ nữ có từ 5 đến 6 con, thì hiện nay, tính trung bình trên cả nước, phụ nữ chỉ sinh khoảng 2 con và ở nhiều tỉnh thành thì mức sinh còn xuống dưới 2 con, ví dụ ở như thành phố Hồ Chí Minh hoặc Bình Dương, trung bình mỗi phụ nữ chỉ sinh khoảng hơn 1 con. Chính vì vậy mà tốc độ gia tăng dân số giảm đi và số trẻ em ít hơn.
Cùng với xu hướng đó là tuổi thọ trung bình của dân số Việt Nam cũng tăng rất nhanh. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của toàn bộ dân số là hơn 73 tuổi, tăng đến 5 tuổi so với 10 năm trước đây.
Hai lý do đó khiến cho hiện nay tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số tăng dần, trung bình khoảng độ 7 đến 8%/năm. Hiện nay, Việt Nam đang có khoảng 11% dân số là người 60 tuổi trở lên.
RFI : Thành phần người già ở Việt Nam hiện nay có những đặc điểm gì giống và khác với người già ở các nước khác trong khu vực ?
Nguyễn Ngọc Quỳnh : Có một điểm chung giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, đó là xu hướng nữ hóa dân số cao tuổi. Trong nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên thì tỷ lệ nữ giới cao hơn rất nhiều so với nam giới. Ở độ tuổi càng cao thì tỷ lệ nữ chiếm càng nhiều. Ở Việt Nam, trong nhóm tuổi từ 60 đến 69 thì tỷ lệ nữ chiếm khoảng 54%, nhưng trong nhóm từ 70 đến 79 tuổi thì tỷ lệ nữ chiếm đến 60% và nhóm từ 80 tuổi trở lên thì tỷ lệ nữ chiếm tới hơn 60%. Đó là xu hướng chung của nhiều nước vì bản chất là phụ nữ sống lâu hơn nam giới và tỷ lệ tử vong ở nữ thì ít hơn nam giới.
Tuy nhiên, ở Việt Nam có những điểm khác. Thứ nhất là do tỷ lệ nữ cao hơn nam giới, nên tỷ lệ phụ nữ goá bụa và sống cô đơn nhiều hơn, nhưng ở Việt Nam thì những phụ nữ này gặp khó khăn hơn rất nhiều khi về già so với các nước khác như Singapore vì tích lũy và thu nhập của phụ nữ là kém hơn, trong khi đó thì về già, chi phí cho y tế lại đắt đỏ hơn là nhiều do không phải ai cũng có bảo hiểm y tế. Đây là điểm làm cho phụ nữ cao tuổi ở Việt Nam gặp khó khăn hơn rất là nhiều so với các nước khác.
Một điểm nữa đó là tỷ lệ người cao tuổi nghèo ở Việt Nam khá cao với khoảng 17% người cao tuổi là người nghèo, trong khi tỷ lệ trung bình của quốc gia là 10%. Ngoài ra, từ xưa đến nay, Việt Nam cũng giống như một số nước châu Á khác, đó là người già sống với con cháu trong những gia đình tam hay tứ đại đồng đường rất là nhiều.
Tuy nhiên hiện nay, xu hướng gia đình nhỏ lại là một xu hướng rất là mạnh, thay đổi rất chóng mặt, cho nên số người cao tuổi sống một mình lại càng nhiều. Một đặc thù nữa của Việt Nam là, do thanh niên nông thôn di cư lên thành phố để kiểm sống, để lại con cho bố mẹ nuôi, nên có rất nhiều gia đình gọi là "khuyết thế hệ", tức là người già sống với cháu và nuôi cháu để cho con đi làm. Chính vì vậy, gánh nặng về kinh tế và gánh nặng về chăm sóc cho người cao tuổi càng cao hơn so với các quốc gia khác.
RFI : Tình trạng già hóa này sẽ có ảnh hưởng gì đến lực lượng lao động và với nền kinh tế Việt Nam nói chung ?
Nguyễn Ngọc Quỳnh : Việt Nam hiện có một lực lượng lao động khá đông đảo, vì dân số Việt Nam có đặc thù là vừa có cơ cấu dân số "vàng", tức là có một lực lượng rất là lớn, nhưng đồng thời đã bước vào giai đoạn già hóa dân số. Dù chúng ta có một lực lượng lao động đông đảo, nhưng năng suất lao động của chúng ta lại không cao : năng suất lao động của 15 người Việt Nam mới bằng năng suất lao động của 1 người Singapore.
Với một tốc độ già hóa dân số rất nhanh như vậy và năng suất lao động chưa cao, thì nó sẽ dẫn đến tình trạng năng suất lao động của chúng ta đang có xu hướng giảm đi nếu không có thay đổi gì. Đồng thời, do già hóa cho nên tốc độ gia tăng dân số trong độ tuổi lao động sẽ chậm dần. Đến khoảng 2030-2032, lực lượng lao động của Việt Nam sẽ bắt đầu giảm, chứ không tăng lên nữa. Bên cạnh đó, độ tuổi trung bình của lực lượng lao động của chúng ta cũng đang tăng lên, ví dụ như năm 2010, độ tuổi trung bình của lực lượng lao động là 34 tuổi, thì đến năm 2017, độ tuổi trung bình này đã tăng lên 41 tuổi, tức là càng ngày lực lượng lao động của chúng ta càng già đi. Nếu không có gì thay đổi thì năng suất lao động sẽ giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Nếu nhìn vào ở các nước phát triển như Nhật và Mỹ, ta sẽ thấy, vì họ có dân số già, nên họ đều phải dựa vào việc tăng năng suất lao động nhờ tự động hóa, tức là sử dụng máy móc. Nhưng nếu chúng ta dựa vào tự động hóa quá nhiều, thì chúng ta lại đang dư thừa một nhóm dân số trong độ tuổi lao động. Cho nên vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào tăng năng suất lao động ở lực lượng lao động rất đông đảo này, và đồng thời tăng cả năng suất lao động trong nhóm người cao tuổi, vì có hơn 60% người cao tuổi hiện vẫn đang làm việc, do thu nhập của họ quá thấp và họ làm việc gần như là toàn thời gian, đến 36 giờ/tuần, không kém gì người trong độ tuổi lao động.
RFI : Tình trạng lão hóa này đang đặt ra những vấn đề gì về mặt an sinh xã hội ở Việt Nam ?
Nguyễn Ngọc Quỳnh : Đây là một thách thức rất lớn. Tính ra chỉ có một nửa người cao tuổi ở Việt Nam đang nhận được một hỗ trợ như lương hưu hoặc trợ giúp xã hội nào đấy. Một nửa còn lại là hoàn toàn không nhận được bất cứ trợ giúp hay hỗ trợ thu nhập nào từ hệ thống an sinh xã hội cả.
Thách thức rất lớn là làm thế nào hệ thống an sinh xã hội này bao phủ được 50% còn lại. Đây là một vấn đề rất là khó. Đồng thời trong tương lai, với tốc độ già hóa như vậy, số người cao tuổi còn tăng lên rất nhiều. Đến khoảng năm 2050 thì một phần tư dân số Việt Nam sẽ là người từ 60 tuổi trở lên.
Như vậy hệ thống an sinh xã hội sẽ phải chi trả cho số lượng người nhiều hơn và chi trả cho một thời gian dài hơn, do tuổi thọ tăng cao. Chính vì thế chi trả cho hệ thống an sinh xã hội rất là nhiều. Bên cạnh đó, hiện nay quỹ hưu trí đang trong tình trạng là cách đóng/hưởng cho quỹ hưu trí thật sự chưa phù hợp. Theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, đến khoảng năm 2035, quỹ hưu trí của Việt Nam sẽ bắt đầu cạn kiệt. Nếu chính phủ không thay đổi cách đóng/hưởng, thì đến năm 2035, chính phủ sẽ phải bù đắp tiền để tránh vỡ quỹ. Tiền bù đắp này có thể chiếm từ 30 đến 50% GDP. Như vậy, đất nước sẽ rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách vô cùng lớn.
Trích báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới 07/2016
Báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới giải thích, nguyên nhân chính dẫn đến quá trình lão hóa nhanh ở Việt Nam đó là do tỷ lệ sinh giảm mạnh. Tỷ lệ sinh gộp đã giảm từ 6 xuống còn 1,95 - 2,09 trong giai đoạn 1970-2015 do thu nhập tăng, trình độ văn hóa tăng và chính sách mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con được áp dụng từ đầu những năm 1980 và chính thức áp dụng từ năm 1993. Trong cùng thời gian đó tuổi thọ trung bình đã tăng từ 60 lên 76 (năm 2014).
Những xu thế trên sẽ tác động đáng kể lên con số và tỉ trọng dân số trong độ tuổi lao động. Theo cách tính của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế ILO, tỉ trọng dân số trong độ tuổi lao động (từ 15-64 tuổi) so với tổng dân số của Việt Nam dự kiến sẽ giảm 5% từ nay cho tới đầu thập kỉ 2040, mặc dù con số tuyệt đối vẫn tăng cho tới 2038 và đạt trên 72 triệu người so với mức hiện nay là 66 triệu. Sau thời điểm đó, dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm dần. Diễn biến như vậy làm cho bức tranh dân số khá phức tạp.
Trong thời gian ngắn sắp tới, tình trạng già hoá nhanh sẽ trở thành hiện thực, nhưng theo Ngân Hàng Thế Giới, Việt Nam vẫn còn cơ hội để thích ứng với thực tế đó. Đồng thời, mặc dù số người trong độ tuổi lao động chưa giảm ngay như trường hợp tại Thái Lan hoặc Trung Quốc, nhưng lợi thế dân số mà Việt Nam đã hưởng lợi đáng kể từ khi thực hiện đổi mới sẽ giảm dần tác dụng. Xu thế này sẽ bị đảo ngược vào cuối những năm 2030.
Do vậy, khả năng dựa vào sự gia tăng lực lượng lao động của Việt Nam, coi đó là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng, đã gần cạn kiệt. Trong tương lai, tăng trưởng sẽ phải dựa vào nâng cao nguồn vốn con người và năng suất lao động.
So với các nước giàu trong khu vực Đông Á và các nước OECD thì Việt Nam bắt đầu lão hoá với mức thu nhập thấp hơn nhiều, hay nói cách khác năng lực tài chính và hành chính cần có để quản lý quá trình này sẽ bị hạn chế. Ngay cả khi duy trì được mức tăng trưởng mạnh và bền vững thì tốc độ lão hoá tại Việt Nam cũng làm cho Việt Nam "già truớc khi giàu".
Tốc độ chuyển tiếp dân số tại Việt Nam gây ra thách thức mới đối với các nhà hoạch định chính sách, chủ doanh nghiệp, người lao động và người dân. Một số thách thức đòi hỏi phải giải quyết cấp thiết, một số cho phép điều chỉnh theo thời gian.
Tình trạng già hoá đòi hỏi phải có hành động chính sách và thay đổi hành vi trong một số lĩnh vực. Thách thức trên thị trường lao động là phải chuẩn bị tốt trước thực trạng giảm dân số trong độ tuổi lao động và nâng cao năng suất lao động của lực lượng lao động còn lại. Về mặt tài khoá, rủi ro lớn nhất và cấp bách nhất là sự bền vững tài chính của hệ thống hưu trí và tỉ lệ tham gia thấp hiện nay. Ngoài ra, còn có các thách thức khác liên quan đến chăm sóc y tế và chăm sóc tuổi già.
Tác động của hiện tượng già hoá lên nền kinh tế vĩ mô : Ở cấp vĩ mô, dự đoán tác động lên tăng trưởng kinh tế là việc làm khó do hành vi và chính sách sẽ thay đổi trong một xã hội già hóa. ADB sử dụng mô hình hạch toán tăng trưởng và dự đoán rằng hiện tượng già hoá sẽ chưa tác động lên tăng trưởng trong thập kỉ này, nhưng sẽ tác động tiêu cực ở mức nhẹ lên tăng trưởng trong thập kỉ 2020 và mức độ tiêu cực sẽ tăng dần trong các thập kỷ sau đó. Giới nghiên cứu Việt Nam dự đoán rằng già hoá sẽ gây tác động tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế kể từ năm 2017 nếu năng suất lao động không cải thiện.