Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Kính tặng chị Bé Ký

Dặm_về.pdf

Hè năm 1987, tại nhà của hai họa sĩ Bé Ký-Hồ Thành Đức, bạn bè tụ họp khá đông, hơn 20 người, họa sĩ đa số, nhạc sĩ thiểu số, không có thi sĩ, nhưng không thể không có thi ca, nhất là dưới chế độ bạo quyền độc đảng công an trị, rình rập để vây bủa văn nghệ sĩ miền Nam, với mắt cú cùng nanh sói của nó.

damve

Theo thói quen của bạn bè mỗi lần được tụ họp thì bất cứ giá nào các bài thơ hay phải xuất hiện, và phải tìm cho ra một bạn tình nguyện đọc các bài thơ đó, tối hôm đó bài được chọn là bài : Kẻ ở (Mai chị về) được đồng loạt yêu cầu. Trước khi người đọc bài thơ này được đọc, thì bạn bè bàn tán rôm rả về bài này, không phải của bác Quang Dũng, bác ấy chỉ giữ hộ, rồi nhận nhiệm vụ công bố và trao truyền bài này tới những ai thích thơ, yêu thơ, quý thơ.

Có bạn còn xác chứng luôn là bài này tên là Dặm về, mà tác giả là Nguyễn Đình Tiên, viết vào mùa Thu 1945. Bạn bè thích bàn tán cho vui, nhưng khi bài này được đọc lên thì sự xúc động tập thể là chuyện hoàn toàn có thật, một cảm xúc được cảm nhận qua sự tập trung, sự yên lặng, tất cả lắng nghe với lòng trân quý :

Mai chị về, em gửi gì không ?

Mai chị về nhớ má em hồng

Đường đi không gió, lòng sao lạnh

Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong.

Bài thơ mang tên là Dặm về, hay Kẻ ở, rồi Mai chị về, cả ba tựa này đều hay và đều đẹp cả, nhưng thượng nguồn của bài thơ, khi bài thơ được xuất hành bằng một câu hỏi.

Và những ai yêu quý bài thơ này thì vừa muốn được trả lời thỏa đáng về các câu hỏi, lại vừa muốn là những câu hỏi này cứ là câu hỏi, không cần phải trả lời thẳng thừng : Mai chị về, câu hỏi là : Chị về đâu ? Về quê chồng ? Hay về lại quê của chị ? Chị về đâu mà nỗi buồn của chị đã định vị đến rợn người ngay những thi từ đầu tiên : lòng sao lạnh.

Hình ảnh thơ : Bụi vướng ngang đầu là một hình ảnh lạ trong thi ca của Việt Nam, lại rất thông minh để phục vụ tận tình cho nhạc tính thơ, chế tác ra nội chất thơ : mong nhớ mong.

Hai người thầy của thi ca Pháp trong thế kỷ thứ XX là Bonnefoy và Char, cứ lần tìm mãi câu trả lời là : hình ảnh thơnhạc tính thơ tạo nên nội chất thơ, hay ngược lại vậy, chính nội chất thơ dắt díu hình ảnh thơ, dắt dìu nhạc tính thơ. Và theo nhà triết học tài ba hiện nay của Pháp -và của thế giới- là Badiou, thì khi cả ba : hình ảnh thơ, nhạc tính thơ, nội chất thơ nhập nội lại với nhau thì tư tưởng thơ sẽ ra an nhiên tự tại mà ra đời, một loại tư tưởng có tự tin để diễn luận, có tự chủ để giải luận. Đây là đặc điểm của thi catriết học không có, vì triết học phải diễn luận rồi giải luận theo một hệ thống lý luận, theo một cấu trúc lập luận từ khái niệm tới lý thuyết ; thi ca thì không, cứ khơi khơi tự sinh rồi tự tồn, không cần hệ thống, chẳng qua cấu trúc.

Quê chị về xa tít dặm xa

Rừng thu chiều xao xác canh gà

Sương buông khắp lối đường muôn ngã

Ngựa lạc cành hoang, qua lướt qua.

Bài thơ này lại đưa ra một vấn đề khác, bắt người đọc phải nhìn-để-thấy, vẫn chưa xong, phải thấy-để-thấu cái xa tít (Quê chị về xa tít dặm xa).

Mann khi nhận giải Nobel về văn học, ông vẫn mang một nỗi buồn, và ông trách là dân tộc Đức của ông đã nhìn bọn diệt chủng Đức quốc xã của Hitler, một cách quá hời hợt. Bọn này đâu phải trên trời rơi xuống, rồi gây ra đệ Nhị thế chiến, mà trước đó chúng đã thắng cử trước 1939-1945, chúng cầm quyền vì dân Đức đã bỏ phiếu cho chúng. Nên chúng mới rảnh tay, gây thế chiến, tạo diệt chủng để truy cùng diệt tận người Do Thái, ông trách dân Đức của ông là : nhìn mà không thấy. Nói người phải nghĩ tới ta là Việt tộc hiện nay nhìn chế độ độc đảng toàn trị, thì có thấy đó chính là liên minh của mọi cái ác : bạo quyền công an trị, âm quyền thanh trừng trị, tà quyền tham nhũng trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, ma quyền ngu dân trị…

Bạn có thể trách tôi sao đang bình thơ lại nói qua chuyện chính trị vậy ? Bạn ơi bài này, nếu được sáng tác năm 1945, thì lúc đó đã có các văn nghệ sĩ nhìn thấy được rồi bản chất thâm, độc, ác, hiểm của chuyên chính vô sản, mà thực chất là chuyên chính vô học. Lấy cái thâm bứng cái thức, lấy cái độc tẩy cái tri, lấy cái ác nhổ cái trí, lấy cái hiểm xóa cái giác.

Thanh Tâm Tuyền cùng các bạn văn nghệ sĩ của ông đã rời đám Việt Minh, vì thấy và thấu bản chất bạo động cách mạng chỉ là bạo lực công an trị. Trong những lần bạn bè gặp nhau sau những năm tháng địa ngục của các trại cải tạo (1975-1985), Thanh Tâm Tuyền thường đọc cho bạn bè nghe một bài thơ về nhận thức của trí thức và văn nghệ sĩ khi rời đám mang bản chất thâm, độc, ác, hiểm của chuyên chính vô học, và câu đầu tiên của bài thơ là : "Đã thấy bên sông màu thuyền thợ".

Cái ngày mà chuyên chính vô sản với màu thuyền thợ của nó, thì chỉ là cái vỏ vô sản bề ngoài, và thực chất của nó là chuyên chính vô học, cụ thể là vô minh trong vô tri, vô giác trong vô cảm, nói gần nói xa không qua nói thật là chúng lấy cái ngucái ác để diệt cái khôncái thức. Tôi có lạc đề không khi thi từ : "Đã thấy bên sông màu thuyền thợ" có cùng đường đi nẻo về với câu "Sương buông khắp lối đường muôn ngã". Rồi tác giả lại đưa luôn ra thuyết hậu quả trong hệ lụy của những ai bị lừa gạt trong kháng chiến, trong cách mạng, trong giải phóng : "Ngựa lạc cành hoang, qua lướt qua".

Tôi có giả thuyết này và tôi xin được bảo vệ nó, cụ thể là tác giả đã tiên tri trước được cái lầm đường lạc lối của cả một dân tộc, khi để cái ngucái ác diệt cái khôncái thức, và Việt tộc đã sa vào mê hồn trận vô định sương buông khắp lối trong vô minh đường muôn ngã. Nội lực tiên tri của thi ca là thượng nguồn để tư tưởng thi ca được định hình với tháng rộng năm dài.

Một công hai chuyện, phải trở lại thượng nguồn của cổ triết để xem-xét-xử lại cách nhận định của tổ triết là Platon, khi tổ muốn đuổi thi ca ra khỏi cộng hòa triết học của tổ. Chỉ vì theo viện dẫn của tổ thì thi ca có những lời hay ý đẹp để chiêu dụ, để mê hoặc, để tán tỉnh và thi ca không có lý nghiêm túc, cái luận nghiêm minh của triết học. Và với tháng rộng năm dài, thì Nietzsche đã xem-xét-xử lại câu chuyện này và tới kết luận ngượ lại là : thi ca không những là thượng nguồn của tư tưởng, mà còn là nguồn cơn củ nhiều sáng tạo trong triết học.

Ngựa chị dừng bên thác trong veo

Lòng chị buồn khi nắng qua đèo

Nơi đây, lá rạt vương chân ngựa

Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo.

Cũng vẫn hình ảnh thơ tuyệt đẹp, nhạc tính thơ tinh tế, nội chất thơ làm nên nội lực thơ, đưa nội công thi từ vào nội kết :

Ngựa chị dừng bên thác trong veo

Lòng chị buồn khi nắng qua đèo.

Câu chuyện về hình ảnh thơ tuyệt đẹp, nhạc tính thơ tinh tế, nội chất làm nên nội lực có ngay trong mạch, trong luồng của bài thơ này. Nếu ta lý luận cấu trúc thơ làm nên tư tưởng thơ thì bây giờ ta phải chọn một lối đi khác để thấy một chân trời khác của thi ca là bài thơ có một hơi thở liên tục tạo ra thế liên hoàn của các thi từ, mà người đọc lẫn người nghe đều nhận ra cả bài thơ là một hơi thở trong suốt. Không một hình ảnh nào làm thi tứ bị đứt đoạn, không một nhạc tính nào làm bài thơ bị đứt khúc.

Hình như nhạc sĩ Cung Tiến đã cảm nhận sâu xa mạchluồn khi được liên hoàn thì sẽ tạo ra một hơi thở toàn vẹn, từ nội lực thi từ làm nên nội công thi tứ, để kiến trúc nội chất thi ca. Cung Tiến đã phổ nhạc bài thơ này và Cung Tiến đã thành công, thành công bằng lực hội tụ của thi ca và âm nhạc, trong một hơi thở, một mạch, một luồn. Năm 1995 tại Paris, cũng một công hai việc, nhân dịp tân gia, tôi mời Cung Tiến để giới thiệu nhạc sĩ với nhà nhân học G. Condominas, một chuyên gia của dân tộc học mà cũng là tổ về dân tộc chí các sắc tộc của Việt Nam, và Đông Nam Á.

Khi khách Tây ra về hết rồi sau bữa tiệc, thì Cung Tiến đã đọc bài thơ này, và nhạc sĩ đã trao được hơi thở của bài thơ này tới người nghe, nơi mà thi ca và âm nhạc không còn lãnh thổ rỏ ràng, không còn biên giới rành mạch nữa. Cung Tiến đã tạo được xúc cảm tới người nghe bằng giọng của người đã thấu đậm hơi thở của thi ca. Trong sinh hoạt văn nghệ của thế kỷ XX tại Việt Nam, khi được nghe Hoàng Cầm, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền và Cung Tiến đọc thơ thì xúc cảm đã vượt qua để vượt xa khoái cảm.

Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang

Ngựa chị vừa qua thác sao vàng

Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa

Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn.

Thầy Bonnefoy cứ dặn đi dặn lại đám môn sinh chúng tôi tại Collège de France, cuối thế kỷ XX qua rằng thi ca trước hết là kinh nghiệm tri thức được thí nghiệm bởi tiếng người. Mà tiếng người đây chứa bao chuyện nhân tri giữa nhân gian, nhân trí giữa nhân thế, nhân tính giữa nhân lý... Mà trong tiếng người có hình ảnh thơ : Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang ; có luôn hành tác thơ : Ngựa chị vừa qua thác sao vàng ; có cả sự vận hành thơ : Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa ; để tất cả được hội tụ trong tình cảnh thơ : Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn. Liên hợp hình ảnh thơ-hành tác thơ-vận hành thơ để có tổng kết thơ bằng tình cảnh thơ, từ đó xây dựng tư tưởng thơ, đây là câu chuyện"động trời" của thi ca.

Người hiểu ra câu chuyện này không ai khác hơn là Bắc đẩu của triết học thế kỷ thứ XX :

Heidegger, Trường sơn của hiện tượng học, triết gia này đã đi tìm sự nghiệp thi ca của Hölderlin, để thấy cho thấu liên minh hình ảnh thơ-hành tác thơ-vận hành thơ-tình cảnh thơ đã làm nên tư tưởng thơ. Miệt mài trong kiên định, ông tìm luôn tới thi sĩ Celan, để xin được đối thoại về tính nội kết giữa thi ca và triết học. Ai cũng biết Heidegger đã từng ủng hộ rồi cổ súy cho Đức Quốc Xã, chính bọn này đã gây ra diệt chủng chống dân tộc Do thái của Celan. Một cuộc hội ngộ, không tạo được tái ngộ, nhưng đã mở đường cho hạnh ngộ giữa thi ca và triết học, để hậu thế thấy-cho-thấu là ý định "tống cổ" thi ca khỏi cộng hòa triết học của Platon là một ý đồ sai trật. Riêng Celan thì đã trao được tâm tư của mình về "tiếng người trong thi ca", luôn đẩy ngôn ngữ đến tận cùng giới hạn của ngôn ngữ để tạo ra cho bằng được tư tưởng thơ. Khi phải lưu vong vì là nạn nhân của Đức quốc xã gây thế chiến rồi gây diệt chủng dân tộc Do Thái của ông, cho tới ngày ông quyết định tự vẫn ông giữ cho bằng được "tiếng người trong thi ca". Vì thủa sinh thời người ta cứ hỏi thi sĩ là ông không có quê hương, vong quốc thì có vong thân, vong hồn không ? Ông có buồn không ? Ông có thấy mất mát nhiều không ? Ông thản nhiên trả lời : "Từ lâu rồi, quê hương của tôi chính là tiếng mẹ đẻ của tôi". Và Heidegger hiểu hơn ai hết là triết học luôn cần một hệ thống lý luận để lập luận, mà thi ca chỉ cần một bài thơ là có thể làm cho chúng ta thay đổi nhân sinh quan, chuyển đổi thế giới quan, chuyển hóa luôn vũ trụ quan. Chúng ta cứ yêu thương nhiều tiếng mẹ đẻ, vì thi ca của tiếng mẹ đẻ này trong tâm hồn của mọi con dân thuộc Việt tộc, của một giống nòi luôn có những bài thơ, như bài Dặm về (Kẻ ở hay Mai chị về), làm luân chuyển để thăng hoa : nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan của chúng ta.

Lê Hữu Khóa

(18/08/2021)

damve3

 

Kẻ ở

(phiên bản 1)


Mai chị về em gửi gì không ?

Mai chị về nhớ má em hồng

Đường đi không gió lòng sao lạnh

Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong

Quê chị về xa mù dặm xa

Rừng thu chiều xao xác canh gà

Hoa rơi khắp lối, sương muôn ngã

Ngựa lạc rừng hoang qua lướt qua

Ngựa chị dừng bên thác trong veo

Lòng chị buồn khi nắng qua đèo

Nơi đây lá giạt vương chân ngựa

Hươu chạy quay đầu theo ngó theo

Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang

Ngựa chị dừng bên thác trăng vàng

Sao rơi đáy nước vương chân ngựa

Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng.

 

Dặm về

(phiên bản 2)

Mai chị về, em gửi gì không ?

Mai chị về nhớ má em hồng

Đường đi không gió, lòng sao lạnh ?

Bụi vượt ngang đầu mong nhớ mong.


Quê chị về xa tít dặm xa

Rừng thu chiều xao xác canh gà

Sương buông khắp lối đường muôn ngả

Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua.


Ngựa chị dừng bên thác trong veo

Lòng chị buồn khi nắng qua đèo

Nơi đây, lá rạt vương chân ngựa

Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo.

Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang

Ngựa chị vừa qua thác trăng vàng

Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa

Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn.

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa

1. Đồng luận : đồng bào tạo đồng tộc…

Đồng bào tạo đồng tộc, dựng đồng hội, nhận đồng thuyền.

Cùng đồng bào chia nhau ngày khốn khó giữa mùa đại dịch cúm tàu.

Đồng luận 6

dongbao1

Đồng thể

Đồng bào, không phải là một vật thể ở ngoài tôi để tôi mổ xẻ phân tích rồi phân loại như mọi vật thể vô tri hoặc hữu tri mà tôi thấy chung quanh tôi.

Đồng bào, cũng không phải là một hiện thể ở trong tôi như các nội tạng của thân thể tôi để y khoa có thể soi rọi mà chữa bệnh rồi trị bệnh cho tôi.

Đồng bào, là biểu tượng có từ rễ của rễ, gốc của gốc, cội của cội, nguồn của nguồn, để giải thích mọi hiện thể máu, xương, gân, cốt của riêng tôi mà khoa học không chuẩn đoán được nòi của nòi, giống của giống, tông của tông, tích của tích đã có mặt ngay trong thượng nguồn của thựơng nguồn từ khi cha sinh mẹ đẻ ra tôi.

Đồng bào, là hai từ mà tôi sẽ không cảm nhận được như một vật thể ở ngoài tôi, mà tôi phải cảm nhận được sự vận hành của nó ngay trong tôi bằng tình cảm yêu nước thương nòi của tôi, để tôi phải cảm nhận được nhịp hành tác của nó ngay trong tôi về ý nghĩa đất mẹ quê cha của tôi.

Đồng bào chính là sự tận dụng tối đa dường như tuyệt đối của nội lực đồng thai, sung lực đồng mẹ, hùng lực đồng cha, mãnh lực đồng tộc để Việt tộc luôn tồn tại mà không tồn vong !

Đồng cội

Đồng bào thì chắc chắn là đồng cội, từ đồng rễ tới đồng gốc, hai chữ đồng bào giấu kín trong mỗi con dân Việt một nỗi lo suốt cuộc nhân sinh, nỗi lo đó là cuộc bể dâu nhân thế làm cho con dân này quên đi nguồn, quên đi cội, quên đường đi nẻo về quê mẹ, đất cha.

Chính nỗi lo này đã chế tác ra tiềm lực của ký ức là không được quên nơi chôn nhau cắt rốn của mình, không được quên đất tổ mà cũng là đất tiên thủa nào sinh ra đồng bào Việt tộc.

Khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tự đặt cho mình một câu hỏi trong ca khúc Biết đâu nguồn cội, nhạc sĩ đã trao cho chúng ta thông điệp : những kẻ quên đi nguồn cội là những kẻ bị thu nhỏ lại… rồi tan biến giữa đời, một thông điệp nhắc mọi con dân Việt hãy tự biết bảo vệ nội hàm đồng cội của mình : "Tôi vui chơi giữa đời, ối a biết đâu nguồn cội... Tôi thu bóng tôi... Tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời"… chúng ta không để đồng bào trong đồng cội tan biến nhé !

Biết đâu nguồn cội - nhạc Trịnh Công Sơn - tiếng hát Khánh Ly

Đồng kiến

Đồng bào, là tổng kết về tri thức về điều kiện thai nghén ở cấp độ dân tộc, dựa trên ý thức về sự trưởng thành đồng loạt của trăm con, tạo ra nhận thức về đồng sinh trong đồng mệnh.

Đồng bào như vậy không phải là vật thể hiển hiện trước mắt ta, cũng không phải là đối tượng chạm được để cảm nhận được.

Đồng bào là biểu tưởng với sức mạnh riêng của nó, có ngay bên trong của hệ thức, nơi mà ý thức làm nên sung lực của tiềm thức, nơi mà nhận thức tạo nên nội lực của những con dân Việt đồng kiến từ sử ký tới sử luận về dân tộc mình : đồng kiến của đồng tộc.

Chính đồng kiến về đồng tộc đồng tông, đồng tích, đồng nòi… đã vượt lên các biểu tượng tầm thường khác bằng sức mạnh riêng của cảm nhận, dù cảm nhận không giải thích được bằng các luận cứ khách quan của khoa học.

Chính sự cảm nhận làm nên cảm xúc của mọi con dân Việt có cùng đồng kiến : nhìn như nhau để thấy cùng nhau, đã làm nên nội lực của đồng tộc, có liên kết giữa đồng bào để chế tác ra hùng lực của đồng tâm.

Đồng nẻo

Đồng bào, nói lên kết quả của đồng nòi, đồng tông, đồng tích mang hệ quả của đồng thai, đồng mẹ, đồng cha, tạo ra liên kết của đồng rễ, đồng cội, đồng gốc, đồng nguồn, mà hiệu quả đạo lý có ngay trong sự trở về : trở về nguồn, trở về gốc, trở về rễ, trở về cội trong lá rụng về cội.

Lịch sử của Việt tộc cũng là sự hình thành một giáo lý của phạm trù trở về : trở về quê cha đất tổ, trở về quê mẹ, trở về đất cha, trở về đất nước…

Tản Đà nói lên nỗi lo của mình trong bài Thề non nước : "Nước đi đi mãi không về cùng non", nỗi lo này làm sáng lên một ý lực của mọi con dân Việt : nước thuộc đường đi nẻo về cùng non.

Thề non nước - thơ Tản Đà - nhạc Y Vân - tiếng hát Hoàng Oanh và Mai Hương trước 1975

Sự trở về là một sức mạnh, một sức mạnh thuần khiết của đồng bào, đồng thai, đồng mẹ, đồng cha, đồng nòi, đồng tông, đồng tích… một sức mạnh của những kẻ hậu sinh nơi hạ nguồn nhưng luôn biết đường đi nẻo về thượng nguồn, dù thượng nguồn này vừa xa, vừa cao…

Xa vì khoảng cách mà khoảng cách chính là thử thách, cao vì mức độ mà mức độ là trình độ ! Nên câu chuyện đồng bào là câu chuyện trình độ nhận thức cao, sâu, xa, rộng của con dân Việt, nhận thức này hoàn toàn ngược lại với bọn đội lốt người Việt nhưng đã quên đường đi, đã mất nẻo về từ khi chúng có tâm địa phản dân hại nước để buôn dân bán nước !

Đồng quan

Đồng bào, mang mỹ quan dân tộc đồng nhân trong đồng dạng, cùng nhau ra đời và cùng nhau chấp nhận thứ thách của nhân sinh, thăng trầm của nhân kiếp, vượt thoát khó khăn của nhân thế để vượt thắng chướng ngại của nhân tình thế thái.

Chính mỹ quan này làm nên chỗ dựa cho mỹ cảm của đồng bào trong đó có mọi đồng bào, có cuộc đời. Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền nhận ra mỹ quan, mỹ cảm để làm rõ lên mỹ thi : "Tôi đẹp như hình tôi, như mọi người, như cuộc đời".

Nơi đây mỹ thi đã hình thành mỹ ngữ của câu chuyện đồng bào : cùng nhau sinh ra, cùng nhau đẹp, cùng đẹp với cuộc đời.

Liên kết thầm lặng nhưng đầy xúc cảm của mỹ quan-mỹ cảm-mỹ thi-mỹ ngữ tới từ cùng gốc, cùng rễ, cùng cội, cùng nguồn mang cái đẹp từ nhân diện tới nhân dạng làm nên nhân cách đẹp giữa cuộc đời đẹp.

Đồng tin

Đồng bào, hai chữ lẳng lặng mang theo một lời nguyện, mà Nguyễn Du đã mượn lời của Kiều để mô thức hóa một nhân sinh quan, trong đó nhân đạo là thời gian thật dài trùm phủ từ quá khứ, hiện tại, vị lai mà Phật học đã phạm trù hóa trong thuật ngữ ba sinh : Nhớ lời nguyện ước ba sinh. Xa xôi ai có biết tình chăng ai ? Nơi mà đồng bào đồng lộ để đồng sinh mang tầm vóc của đồng tin, một niềm tin vào cuộc sống, làm nên nỗi niềm sâu lắng, trầm kín trong nội tâm của mỗi con dân Việt.

Đồng bào tâm tưởng nằm yên bên trong mỗi chúng ta, đồng bào tâm trí nằm sâu bên trong mỗi chúng ta.

Đồng bào ở sâu trong lòng ta, thân thuộc nên thân quen trong tâm khảm ta. Khi liên minh ngấm ngầm tâm tưởng-tâm trí-tâm khảm đã trở thành đồng tin, thì liên minh này sẽ làm nên từ ý thức về cuộc đời của mỗi con dân Việt.

Đồng nguyện

Đồng bào, chỉ hai chữ nhưng vừa sâu, vừa cao trong mỗi chúng ta không để cuộc đời này bị các bọn buôn dân bán nước xé tan nát đất nước ta, làm tan tác giống nòi ta.

Chủ động giữ nước, chủ quyết giữ nòi, làm nên chủ thể có tâm thức trong một nhân dạng tỉnh thức, để nắm chính vận mạng của mình ngay trong hiện tại, để luôn sáng suốt mà chuẩn bị cho mọi thử thách trong tương lai : đây là tâm nguyện của phạm trù đồng bào tạo nên tâm thức giúp các con dân Việt gần nhau hơn chỉ cần biết một giá trị : đồng bào.

Chữ hai chữ đồng bào mà mọi người Việt được trang bị đầy đủ và mạnh mẽ một liên minh với hùng lực vô song : tâm tưởng-tâm trí-tâm khảm-tâm thức-tâm nguyện.

Đồng linh

Đồng bào, mọi con dân Việt chúng ta xin được làm đồng bào với mọi con dân Việt, mọi công dân Việt, như tự nhân ra cái đẹp biết tự đẹp khi nhận ra nhau, khi nhìn ra nhau, khi xem nhau là đồng bào. Chính gốc, rễ, cội, nguồn của nội hàm đồng bào làm nên tầm nhìn tâm linh của Việt tộc, rồi tầm nhìn làm nên tầm vóc tâm nguyện của Việt tộcđây chính là giá trị tâm linh thượng nguồn của Việt sử.

Đồng bào, là hiện hữu của đồng thai, nơi tinh cha huyết mẹ đã làm nên một dân tộc biết lập quốc, rồi biết giữ đất, giữ nước như giữ chính giá trị đồng bào-đồng thai của mình.

Một giá trị tâm linh luôn là một hành động có thượng nguồn của sự ra đời cùng gốc, cùng rễ, cùng cội, cùng nguồn, cùng nhau thăng hoa trong đồng giống, đồng nòi, đồng tông, đồng tộc.

Đồng thiêng

Đồng bào, chính là cái đẹp sơ nguyên làm nên mọi cái đẹp hiện hữu của đồng tổ, đồng đất, đồng nước, đồng quê. Từ đây, liên đới giữa đồng giống, đồng nòi, đồng tông, đồng tộc đồng tổ, đồng đất, đồng nước, đồng quê sẽ làm nên sức mạnh xóa tan mọi thăng trầm, cho người Việt bớt khổ, cho đời Việt bớt buồn, mở lối cho thăng trầm phải qua đi, cho trầm luân không còn ám kiếp Việt nữa.

Đồng bào đích thị là định luận của các giá trị tâm linh Việt, có mặt như một hùng lực để xóa đi nỗi khổ niềm đau của nhân kiếp Việt.

Tiếng thương đồng bào trong từ miệng chúng ta sẽ dẫn chúng ta đến một đồng lộ để từ đó tiếng thương đồng bào sẽ là tiếng thương muôn loài, tiếng thương yêu người, có tiếng thương người như thương thân… thương người như thương mình…

Đồng truyện

Đồng bào, mang giá trị tâm linh của nhận thức trong hiện trạng của sự tỉnh thức để từ đó là sự thức suốt với Việt sử. Từ đây, xuất hiện một nhân tri Việt về đồng nòi, đồng giống, đồng tông, đồng tích làm nhân lý Việt về đồng mẹ, đồng cha, đồng đất, đồng nước, sự thức tỉnh tạo nên sự tỉnh táo mãi mãi, làm nền cho sự nhận thức thường xuyên cho cả đời người của mỗi con dân Việt.

Bọn cõng rắn cắn gà nhà trong ý định phản dân hại nước, bọn mang voi về dày mả tổ trong ý đồ buôn dân bán nước đã đánh mất tâm thức : sự tỉnh thức để sự thức suốt với giòng sinh mệnh của Việt tộc, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phạm trù hóa được qua ca từ : Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi !

Bọn cõng rắn cắn gà nhà để phản dân hại nước, bọn mang voi về dày mả tổ để buôn dân bán nước, không có ý niệm gì về sinh mệnh đồng bào.

Chính sinh mệnh đồng bào trong phương trình tỉnh thức-nhận thức, làm nền cho mọi hành động mang nội chất tâm linh được xây dựng từ tâm thức Việt về đồng bào Việt.

-------------------------

Đồng luận 7

dongbao2

Đồng phán

Đồng bào, là sinh linh của mọi sinh linh, nơi mà mọi sinh vật đều là sinh linh, mỗi sinh mạng đều thiêng liêng trước quyền được sống, ngay trên thượng nguồn trong đồng thai, đồng nghén, sự sống của trăm con Việt đã tự khẳng định hiện hữu của sinh linh.

Từ đây, khẳng định một Việt luật dựa trên một Việt quyền nơi mà mọi con dân Việt đều là sinh linh được sống bằng giá trị tâm linh của đồng bào.

Từ đây, chúng ta nhận ra sự bất khuất của sinh linh qua thi từ của Trần Dần : "Càng chết tôi càng bất tử".

Không một bạo quyền độc tài nào, không một tà quyền tham quan nào, không một ma quyền tham tiền nào có thể diệt được nguồn sinh linh bất tử này.

Không một vòng lao lý nào, không một nhục hình nào, một khổ sai nào khuất phục được các giá trị tâm linh của sinh linh đồng bào này.

Khi cái bất tử đã vượt lên cái chết, thì cốt lõi của tâm linh biết hình thành sự tha thứ : Hãy ôm lấy thế giới này, tha thứ cho nó. Hãy thắp sáng những chòm sao cũ. Cả những vì sao đã tắt từ lâu.

Đồng cõi

Đồng bào cho xuất hiện : đồng thiêng, ở đây Bùi Giáng trao cho mọi con dân Việt hai thông điệp thiêng.

Thông điệp thứ nhất : "Vì đời là rất mực thiêng liêng", thông điệp thứ nhì : "Thiêng liêng không chia biệt cõi miền" để sống và để vượt qua dị biệt, vì tất cả là đồng bào, vì tất cả là đồng loại.

Đã là đồng bào thì không dị biệt, vì đã đồng thai, đồng nghén nên không rơi vào sự phân biệt giữa các con dân đồng giống, đồng nòi, đồng tông, đồng tích…

Khinh thường đồng bào không có chỗ đứng trong nhân cách Việt, khinh miệt đồng loại không có ghế ngồi trong nhân vị Việt. Đồng bào thì chắc chắn là ra đời đồng cõi, chào đời đồng miền, vì đã đồng quê, đồng đất, đồng nước...

Bùi Giáng nhắn nhủ Việt tộc bằng thi từ của một di chúc tâm linh đồng bào vừa rộng, vừa sâu hay, vừa cao : "Đã mở cõi thì đừng có ngăn miền !".

Đồng thanh

Đồng bào xa lạ với lối sinh sống trong cô đơn, kiểu sinh tồn trong cô lẻ, có đồng bào chung quanh thìđừng tự cô lập mình mỗi lần đối diện với các giá trị tâm linh về đồng bào, đồng thai, đồng mẹ, đồng cha…

Chính sự cảm nhận sâu xa về các giá trị tâm linh đồng rễ, đồng gốc, đồng cội, đồng nguồn… đã chế tác ra hai tuyệt chất mới : thanh khí tinh anh,hiệu quảhiển nhiên của giá trị tâm linh đồng bào giữa đời, với ý thức đồng sinh, đồng mệnh, đồng hội, đồng thuyền trước vũ trụ, từ đó tạo nên sự sáng suốt riêng, để tìm tới thanh khí, bằng cái tinh anh.

Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã mô thức hóa được nội dung của thanh khí, làm nên nội chất của tinh anh : Chúng ta biến, em ơi thành thanh khí. Cho tan ra hòa hợp với tinh anh. Ý lực tâm linh của thanh khí, đã tạo ra sự đồng cảm với đồng vũ trụ, để người được thăng hoa giữa đồng thế giới. Trên con đường ý thức đồng bào, con dân Việt có nhân sinh quan của mình, nó không hề nhỏ hẹp kiểu "ếch ngồi đáy giếng", nhân sinh quan đồng bào đã chan hòa trong thế giới quan đồng sinh, đồng mệnh, hòa hợp trong vũ trụ quan của đồng đất, đồng nước…

Đồng lối

Đồng bào, một giá trị tâm linh luôn giúp Việt tộc vượt qua oán, sầu, thù, hận… khi cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn của thế kỷ qua, đã tạo ra thảm cảnh gà nhà (đã) bôi mặt đá nhau.

Giết nhau chưa đủ, sau 1975, khi thắng trận thì độc đảng độc quyền trong toàn trị đã lộ chân tướng bạo quyền trong cuồng quyền mà bỏ tù các đồng bào miền Nam vào các trại học tập, đẩy họ đi các vùng kinh tế mới, để cuối cùng các đồng bào này phải thí thân ngoài biển cả, thí mạng cho hải tặc giữa biển khơi.

Hàng triệu người ra đi, hàng trăm nghìn người bỏ thây giữa biển ; biển Đông giờ là nghĩa trang tập thể vô hình của các đồng bào Việt bị thiệt mạng trên đường đi tìm tự do, đi tìm dân chủ, đi tìm nhân quyền.

Câu chuyện của đồng bào vượt biên phải bỏ quê mẹ đất cha, vì họ mang một đạo lý của bao dung, khoan hồng, rộng lượng, vị tha luôn được hội tụ chung quanh hai chữ đồng bào.

Đồng nẻo

Đồng bào, phải đồng thuyền, đó là thảm cảnh của đồng bào thuyền nhân sau 1975, họ không hề vong quốc vì họ không hề vong tộc, chính bọn tà quyền phản dân hai nước, chính lũ ma quyền buôn dân bán nước, chính chúng mới vong thân vì chúng đã vong quốc.

Đạo lý của bao dung, khoan hồng, rộng lượng, vị tha được hội tụ chung quanh hai chữ đồng bào, được kết tụ trong thi từ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền : "Lòng phiêu linh không chút oán sầu". Đó là lúc ông thấy sự thoải mái đã đánh thức được tuệ giác để "không chút oán sầu", để giúp ông luôn nhận ra đồng bào của ông, luôn nhìn ra quê mẹ, đất cha của ông, luôn đặt ông vào nhân vị đồng thuyền trong bão táp cùng với đồng bào của ông.

Đồng bào, chỉ có hai chữ nhưng đãtạo ra các điều kiện từ tâm để mở ra cõi tâm linh chính là kết quả của một nội công, của một bản lĩnh biết gạt ra, biết buông bỏ, biết tháo gỡ, biết trút rũ cho bằng hết mọi oán thù, để có tâm trí "không chút oán sầu" để đồng bào phải là thực thể đi trên lưng bạo quyền lộng quyền, dẫm lên trên vai tà quyền tham quyền, đạp trên đầu ma quyền lạm quyền, để tiếp tục đi tới bằng đường đi nẻo về của đất nước, của dân tộc, của giống nòi, đây chính là đường xưa quen lối của hai từ đồng bào !

Đồng ca

Đồng bào, từ đồng tông, đồng giống, đồng nòi tới đồng sinh, động mệnh, đồng thuyền, đồng hội, đã sống rõ nét trong ca khúc Việt Nam, Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy.

Việt Nam, Việt Nam tên gọi là người…

Việt Nam đem vào sông núi tự do, công bằng, bác ái muôn đời.

Đồng bào từ lập quốc tới giữ nước đã là nạn nhân của bao tàn phá chiến tranh, bị đổ nát sâu đậm trong hồn Việt mới thấy hết giá trị của tự do, công bằng, bác ái. Đồng bào như định đi tìm nhân quyền, một nhân quyền bao la, quyền để yêu mình, yêu đồng loại để yêu đồng bào…

Việt Nam không đòi xương máu,

Việt Nam kêu gọi thương nhau, Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu

Việt tộc không đòi xương máu, quyết tâm ra khỏi vòng điêu lụy của xương máu, để giữ nguyên nhân dạng đồng bào.

Trong đồng bào có cuộc sống giữa đời :

Việt Nam trên đường tương lai,

lửa thiêng soi toàn thế giới,

Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời.

Ý lực đồng bào chính là ý nguyện của lửa thiêng để đủ sức soi toàn thế giới ; đó là hùng lực để chúng ta đủ bản lĩnh biếtnguyện tranh đấu cho đời…

Việt Nam, Việt Nam…

tình yêu đây là khí giới,

tình thương đem về muôn nơi,

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người

Từ ý lực đồng bào nơi tình yêu đời đã thành khí giới của nhân tâm, có nhân phẩm Việt vào nhân ái.

Tầm vóc trao tặng tình thương cho muôn nơinhân tâm Việt làm rộng nhân từ,có nội công với tiếng nói đi xây tình ngườinhân đạo Việt.

Đồng chuỗi

Đồng bào, hai chữ mà một nghĩa trợ duyên để trợ lực Việt tộc thoát khổ nạn trong ngục tù của bạo quyền, qua ý thức đồng bào giờ đã thành trí tuệ vì nhân lý, giờ đã là nhận thức của tuệ giác vì nhân tính, đây là chuyện hằng ngày hiện nay của lương tâm Việt tộc, đang trong vòng lao lý bất nhân của liên minh âm binh giữa bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tài, ma quyền độc tôn. Mỗi khi thực thể đồng bào bị vật vã, khi sinh mệnh Việt tộc rơi trongcuồng quyền, thì sự xuất hiện của huyền lực đồng bào vực dậy chiều cao của nhân phẩm, để đánh thức chiều sâu của nhân tâm, để khơi ra chiều rộng của nhân từ, và nối theo chiều dài của nhân đạo để Việt tộc nhận ra nhân dạng đồng bào. Sức mạnh tâm linh trong đồng chuỗi làm nên động lực của đồng bào : vực dậy-đánh thức-khơi ra-nối theo để tái tạo sức sống cho Việt tộc.

Đồng cời

Đồng bào, một nội hàm sâu lắng trong tâm khảm Việt, có khi phải cời lên để nội hàm này biến thành hùng lực mà bảo vệ gióng nòi, bảo vệ dân tộc, bảo vệ đất nước.

Tô Thùy Yên ghi nhận hành động cời, hành tác cời trong thi từ của ông : "Trở trời ngồi lại cời than. Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh".

Cời là một động từ lạ trong Việt ngữ, cời là khơi lên, nhưng không phải là khuấy lên, nhẹ nhàng khơi dậy, chớ không phải hấp tấp quậy lên ; phải trầm tĩnh trong trầm lặng để cời, phải tĩnh tâm trong trầm tư để cời, một động tác của người Việt thanh biết tư duy sâu đậm, chớ không phải của kẻ tục chỉ muốn tò mò để tọc mạch.

Cời lên cái luôn nhen nhúm, cời lại cái chất lửa đang bị đe dọa vùi lấp bởi cái tà ; cời để giữ lửa, giữ nhiệt, giữ chất sống, dù cuộc sống đang tàn tạ.

Cời như quyết tâm không để chất sống có trong chất lửa của mỗi chúng ta bị vùi chôn bởi cái bạo của cuồng quyền, cái của ma quyền.

Cời lửa nhỏ biến nó thành lửa hồng, nếu lửa hồng trở lại thì cuộc sống còn đây, và đồng bào là chất sống, vì đã là lửa, đã trở về làm ấm thân, ấm đời, ấm luôn cả ba sinh (quá khứ, hiện tại, vị lai).

Cời để được ấm cho bây giờ và ấm cho mai sau ; cời để tự sưởi thân, cời để hơ nóng đất nước mà mình đang có mặt, cõi đồng sinh mà mình đang trú, chốn đồng bào mà mình đang sống.

Đồng duyên

Đồng bào, có thượng nguồn là đồng duyên : "Nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây". Một câu vừa ngạn ngữ, vừa dân ca của Việt tộc, mang sung lực biến cái tôi thành cái ta để ra cái mình (quê mình).

Hai chữ đầu : nhờ duyên đã tạo ra cả một vũ trụ mới, được mở ra khi mọi điều kiện tốt lành đã có để tụ duyên trước khi thành đồng bào của nhau, có quê mẹ đất cha để khởi duyên, để một duyên-hai nợ-ba tình được khơi mào.

Không cảm nhận hết hai chữ đồngduyên, thì sẽ không đứng bền trên không gian văn hóa Việt được, không sống dài trong thời gian văn minh Việt được, nhất là không ra vào thảnh thơi được trong cõi tâm linh văn hiến Việt được.

duyên thì có mọi chuyện, từ đồng cha tới đồng mẹ, còn vôduyên thì không có gì cả, thậm chí còn bị coi là vô phúc nữa : vô phúc vì thiếu tơ duyên đồng thai, vô phúc vì vắng trần duyên đồng nghén.

Riêng từ : nhờ, vừa là chỗ dựa cho hội duyên đồng lứa, vừa là sức bật cho xướng duyên đồng nòi, vì nhờ đây là kết quả của hợp duyên đồng tông ; nơi mà mọi điều kiện thuận lợi đã có để đồng tích, nơi mà tam cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, tâm cảnh) đã nhập làm một để thành : thuận duyên đồng bào

Đồng dậy !

Đồng bào, một nội hàm mang một đạo lý tương thân làm nên tương trợ, nó luôn bị đe dọa bởi bạo quyền, luôn bị chà đạp bởi tà quyền, luôn bị vùi dập bởi ma quyền, luôn bị miệt thị bởi cuồng quyền.

Thi sĩ Tô Thùy Yên nhận ra rất sớm điều này, ngay trong thi từ của ông chúng ta thấy hai chữ mà một nghĩa : đồng bào luôn bị rình rập để bị thủ tiêu : "Lịch sử dường như đã ngất lã. Sau những liên hồi vật vã điên cuồng".

Mỗi lần "lịch sử ngất lã" chúng ta luôn nhờ hai chữ đồng bào vực chúng ta đứng dậy, giúp chúng ta thẳng lưng, đẩy chúng ta đi tới để lấy lại nhân vị mà bảo trì nhân cách, nhận lại nhân phẩm để bảo vệ nhân nghĩa…

-------------------------

Đồng luận 8

dongbao3

Đồng luận

Đồng bào, ra đời như một huyền sử, nhưng biết lớn lên như một hằng sử của Việt tộc, luôn nhận ra nhau là đồng bào, vì là đồng mẹ, đồng cha, đồng thai, đồng tông, đồng tộc…

Từ đây muốn bảo vệ giống nòi trước hết là phải bảo trì dân tộc, bảo trị đất nước, và từ đây nội hàm đồng bào đã hình thành ra một tư tưởng, có đồng chất của nó là đồng rễ, đồng cội, đồng gốc, đồng nguồn, đồng đất, đồng nước…

Đồng nội chất tạo dựng nên một hệ thống giá trị vừa có tri thức, vừa có kinh nghiệm ; và hệ thống giá trị này đã hình thành một hệ thống tư tưởng vừa có giáo lý, vừa có luận chứng.

Đồng bào của huyền sử, của hằng sử giờ đã là đồng bào giá trị tâm linh, tri thức dân tộc, giáo lý tổ tiên, luận chứng giống nòi…

Đồng nhịp

Đồng bào, là bước đi đầu tiên của Việt tộc để dựng nước, lập cơ đồ, những bước tiếp theo là giữ tiền đồ của tổ tiên, gìn giữ quê hương trước giông bão, trước bao bão tố của thăng trầm lúc mất nước, lúc tìm lại được đất nước sau bao họa nạn của họa đồng hóa.

Đồng bào ngược chiều vì ngược nghĩa với đồng hóa, vì bị đồng hóa là bị mất rễ, mất gốc, mất cội, mất nguồn ; rồi sau đó là mất tông, mất tích, mất tăm… mất nhân dạng, mất Việt tộc, mất đồng bào.

Chúng ta hiện nay đang bị đe dọa trước họa đồng hóa tới từ Tàu tặc mang ý đồ của hệ xâm : xâm lấn để xâm chiến, xâm lược để xâm lăng, và Tàu tặc đã nắm cổ được tà quyền phản dân, đã xỏ mũi được ma quyền hại nước.

Nếu muốn bảo vệ được Việt tộc, nếu muốn bảo trì trọn vẹn nghĩa đồng bào, thì chính mỗi con dân Việt phải là chủ thể để chủ quyết trong chủ động mà nhận bổn phận với đồng bào, nhận trách nhiệm với đất nước.

Hãy song hành cùng thi từ của Thanh Tâm Tuyền : "Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão", trưởng thành ngay trong bão tố làchấp nhận mọi hy sinh để giữ nước.

Biết : "Bóp lấy tim tôi thành nhịp thở" để tỉnh giấc trước họa bị đồng hóa, cùng dân tộc tạo một nhịp thở mới : nhịp thở đồng bào để cùng nhau tiếp tục đồng tộc đồng tông, đồng tích, đồng quê, đồng đất, đồng nước…

Đồng tầm

Đồng bào, mang một sức mạnh luôn cao hơn một thực thể mà ta va, chạm, rờ, mó được.

Đồng bào có một sức mạnh vừa huyền sử vừa tâm linh, vừa hằng sử vừa đạo lý, vì hai chữ đồng bào là tầm nhìn của một giống nòi làm nên tầm vóc của dân tộc.

Tầm nhìn cao làm tầm vóc lớn theo, tầm nhìn càng xa tạo tầm vóc càng rộng, tầm nhìn càng sâu dựng tầm vóc càng hướng thượng : đồng thượng là đồng nhìn về một hướng cao, sâu, xa, rộng, để làm đẹp cho nhân dạng của mình, cho nhân dạng của đồng loại đang đồng tộc, đồng tông với mình.

Tầm nhìn cao làm nên đời sống cao, tầm nhìn cao này hoàn toàn nghịch lý với các tầm nhìn ích kỷ, vị kỷ, ai chết mặc ai

Tầm nhìn cao này lại càng nghịch lý và nghịch luận với các tầm nhìn của tà quyền phản dân hại nước của loại cõng rắn cắn gà nhà ; của ma quyền buôn dân bán nước của loài mang voi về dày mả tổ…

Đồng thượng trị vì bằng tầm nhìn cao với đời sống cao, nó nghịch chiều nghịch hướng với tầm nhìn tà với đời sống ma.

Đồng sống

Đồng bào, hai từ này khi xuất hiện giữa hiểm họa bị đồng hóa bởi Tàu tặc trong tương lai rất gần, khi tà quyền lãnh đạo đã khoanh tay-cúi đầu-quỳ gối trước ngoại xâm Tàu tà ; khi ma quyền nội xâm đã vơ vết hết tiền bạc của dân tộc, nạo vét hết tài nguyên của đất nước.

Và, nội xâm cùng ngoại xâm đang biến quê hương gấm vóc của Việt tộc thành một bãi rác ô uế nhiễm thải, chóng chày sẽ là bãi tha ma, vắng biệt hồn thiêng sông núi mà tổ tiên Việt đã trao truyền cho con dân Việt thủa nào !

Từ đây, hai từ đồng bào, sẽ tách cuộc sống của mỗi công dân Việt ra làm đôi, thành hai cuộc sống khác nhau : cuộc sống thứ nhất vô tri trong chén cơm manh áo, vô giác trong giá áo túi cơm, vô minh trong cơm áo gạo tiền.

Cuộc sống thứ nhì vừa thật, vừa cao là phải bảo vệ cho bằng được giống nòi Việt với quê hương gấm vóc, với hồn thiêng sông núi. Hãy vận dụng thông minh đồng bào của cuộc sống thứ nhì, vì chỉ có cuộc sống thứ nhì mới bảo vệ được mọi cuộc sống khác.

Đồng thiêng

Đồng bào, chỉ có hai từ nhưng đã để lộ ra hai chân lý sống, đối nghịch nhau nhưng nếu con dân Việt có thông minh Việt sẽ thấy cả hai -thường và thiêng- hỗ trợ, bổ sung, bổ khuyết cho nhau, đó là hai chân lý sống : cuộc sống thườngcuộc sống thiêng.

Nơi mà cuộc sống thường luôn muốn hợp khuôn để hợp pháp, hợp luật để hợp thời, nơi đây cuộc sống thường luôn bị bạo quyền độc tài truy hiếp, luôn bị tà quyền tham nhũng truy hãm, luôn bị ma quyền tham tiền truy hại.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, nội xâm luôn vơ vét, ngoại xâm luôn nạo vét trên lưng, trên vai, trên đầu cuộc sống thường. Ngược lại thì cuộc sống thiêng có đồng gốc, đồng rễ, đồng cội, đồng nguồn nên tinh thuần, vì có tình đồng hương trong lành song hành cùng nghĩa đồng bào trong sáng.

Đồng thật

Đồng bào, chỉ có hai từ nhưng biết làm nên cuộc sống thiêng mang tinh thuần để giữ trong lành, lấy tinh chất để bảo tồn trong sáng, cùng lúc bảo vệ luôn cuộc sống thường-nhưng-thật, thật trong giáo lý tổ tiên, thật trong đạo lý dân tộc, thật trong luân lý giống nòi.

Cuộc sống thiêng của gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau, hoàn toàn nghịch lý, nghịch luận, nghịch chiều, nghịch lối với cuộc sống thường nếu chỉ biết cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước bạo quyền độc tài, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, thì nó phải chấp nhận mọi hậu nạn cõng rắn cắn gà nhà của loài buôn dân bán nước, vì cuộc sống thường này đã bị nắm đầu xỏ mũi bởi tạp chất của âm binh. Từ đây nội hàm đồng bào sẽ tự tan biến !

Thật đáng sợ khi vô tình biến cuộc sống bình thường nhục thành ra cuộc sống tầm thường hèn !

Đồng lòng

Đồng bào, chính là nội chất sâu xa của cái thực trong thực trạng làm nên cái thật của sự thật, để chúng ta phải nhận ra đồng lòng với nhau thì trước đó chúng ta phải thật lòng với nhau.

Liên kết thật-lòng-để-đồng-lòng là sức mạnh thật sự của Việt tộc, đã đưa Ngô Quyền một sớm một chiều chấm dứt 1000 năm bị đô hộ, đã đưa Trần Hưng Đạo cất cao giọng trong Hịch tướng sĩ, để Nguyễn Trãi tổng kết được thật-đồng-lòng trong Bình Ngô đại cáo, để Quang Trung biến thành tổng lực trong thần tốc để tống cổ quân Thanh ra khỏi bờ cõi.

Thật là nội lực, lòng là sung lực, đồng là hùng lực, ngay nơi hẹn, đúng lúc hẹn của yêu nước thương nòi, thì thật-đồng-lòng sẽ thành mãnh lực quét sạch bạo quyền độc đảng, xóa sạch tà quyền tham nhũng, khử sạch ma quyền tham tiền buôn dân bán nước.

Từ đây, mọi con dân Việt sẽ nhận ra : thật là sạch, lòng là sáng, đồng là mạnh ! Sạch-sáng-mạnh sẽ xua mọi bóng đêm của âm binh ra khỏi quê mẹ đất cha.

Đồng Việt

Đồng bào, tạo được nội chất của đất thật, nước thật, giống thật, nòi thật, tộc thật, sử thật làm nên Việt thật, với giáo lý Việt thật của miếng khi đói bằng gói khi no, văn hóa Việt thật của hạt muối cắn làm đôivăn hiến Việt thật của một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, tất cả được chế tác ra từ người Việt thật.

Sự thật của người Việt thật làm nên tổng thể của Việt tộc thật, hoàn toàn nghịch chiều, nghịch hướng với loại vô nhân của ai chết mặc ai, của loài bất nhân bây chết mặc bây.

Nên Việt tộc thật, hoàn toàn nghịch lý, nghịch luận với loại vô đức của quan hệ-tiền tệ-hậu duệ, của loài thất tâm cướp ngày là quan được nuôi dưỡng trong hệ thống bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tài, ma quyền độc tôn, quỷ quyền độc trị, chúng đang cuồng quyền trong trộm, cắp, cướp, giật để vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước với lòng lang dạ sói để hủy diệt đi người Việt thật, để truy triệt Việt tộc thật.

Đồng bi

Đồng bào, chỉ có hai từ nhưng ngày ngày trở nên sắc nhọn trong tâm khảm mọi con dân Việt, trước hiểm họa mất nước sẽ bị Tàu tặc đô hộ và đồng hóa, qua liên minh giữa nội xâm độc tài tà quyền bán nước và ngoại xâm quỷ quyền Tàu tà cướp nước.

Đồng bào, nội hàm sắc bén sẽ chẻ đôi sự mang trá của ý đồ cõng rắn cắn gà nhà, sự gian manh của mưu đồ dắt voi về dày mả tổ.

Tại đây để lộ trong cuộc sống Việt, hai loại người Việt : một loại phục tùng, một loại bất tuân.

Loại người Việt phục tùng cúi đầu trước bạo quyền như đã cúi đầu trước thảm họa phản dân hại nước ; khoanh tay trước tà quyền như đã khoanh tay trước bi nạn buôn dân bán nước ; quỳ gối trước ma quyền như đã quỳ gối trước hoạn cảnh buôn tông bán tổ. Phục tùng để cam chịu trong hèn dạng, để gánh chịu rồi trong nhục kiếp, để rồi tả tơi trước âm binh, trước diệt vong.

Loại người Việt bất tuân bằng lý trí của công lý, với trí tuệ của công bằng, qua tuệ giác của tự do, cả ba : lý trí, trí tuệ, tuệ giác xuất thân để bác ái, vị tha, từ bi giữa đồng bào xuất hiện. Nên bất tuân chỉ để dẹp bạo quyền, đuổi tà quyền, triệt ma quyền, nên bất tuân không hề là chuyện nổi loạn vô trách nhiệm, không hề là chuyện nổi giận vắng bổn phận. Trách nhiệm và bổn phận của bất tuân có mặt trong tự do-công bằng-bác ái, cũng chính là nội chất làm nên nội hàm đồng bào.

Đồng lành

Đồng bào, như hùng lực của kiếm thiêng hồ Gươm thủa nào đã trao cho minh quân để chẻ đôi mà tách cái thật ra khỏi cái gian, để trắng đen được phân loại để phân tích, phân biệt để phân minh.

Cái thật có cái sáng của yêu nước thương nòi, có cái trong của ân sâu nghĩa nặng với đồng tộc, đồng tông, đồng tổ, đồng tích… vì đã từ lâu đồng rễ, đồng cội, đồng gốc, đồng nguồn.

Cái gian mang cái tà của phản dân hại nước, mang cái ma của buôn tông bán tổ để cái quỷ của buôn dân bán nước được đột nhập nội đất Việt, nước Việt. Cái thật của đồng bào, chính là cái thật của đồng thai, đồng nghén trên đồng đất, đồng nước

Cái gian phải mua đi bán lại bằng bước đầu là buôn chức bán quyền để đi thêm bước thứ hai là buôn thần bán thánh, như bán chính linh hồn Việt tộc của mình.

Cái gian bán chính nội chất đồng bào của mình, để thành ma xó trong ma quyền, ma bùn trong tà quyền, ma trơi trong quỷ quyền.

Cái gian luồn lách trong âm địa để sống chui nhủi như âm binh.

Cái gian nhận kiếp dơi để tiếp phận chuột, nửa dơi nửa chuột để dễ buôn gian bán lận !

Cái thật thảnh thơi trong cao đẹp, thư thái trong tốt lành.

Cái thật thư thả trong ánh sáng của đạo lý, thong dong trước bình minh của lẽ phải.

-----------------------

Đồng luận 9

dongbao4

Đồng đời

Đồng bào, hai từ của thượng nguồn đồng mẹ, đồng cha để đồng nòi, đồng tông, đồng tích đã hình thành trong công cha nghĩa mẹ của mọi người Việt.

Phải thấy được chân dung và nhân dạng của mẹ cha trong đời sống hằng ngày để thấy sâu xa trên thượng nguồn huyền sử con Rồng cháu Tiên, đã hình thành hằng sử con Hồng, cháu Lạc.

Muốn thấy đồng bào trong đồng nghén trăm trứng, đồng thai trăm con, thì hãy nhận ra công cha nghĩa mẹ trong thường nhật của nhân nghĩa :

"Đêm đêm thắp ngọn đèn trời.

Cầu cho cha mẹ sống đời với con" !

đồng bào là giá trị tâm linh không trên trời rơi xuống, cũng không ở dưới đất trồi lên, nó có thượng nguồn là hành động cụ thể của đồng mẹ, đồng cha để cả hai đồng này làm nên sự nghiệp của đồng bào, đồng chăm sóc con cái để hậu sinh luôn nhớ là mình đồng nguồn.

Đồng lực

Đồng bào, làm nên định nghĩa đồng thai mang tâm linh có tầm vóc của nhân từ cha, có nội công của nhân nghĩa mẹ làm nên nhân đạo con, để các thế hệ mai sau nhận ra nhân văn trong luân lý đồng bào, với nhân bản trong giáo lý đồng tông, cùng nhân vị trong đạo đức đồng tộc và cứ thế làm người với chiều cao tâm linh đồng nòi.

Từ chối sống bằng bản năng "đói ăn, khát uống" của ma lực ; chối từ sống bằng thú tính "ăn tươi, nuốt sống" của bạo lực, để chống được tà tính vong thân mang tà lực vong quốc.

Giáo lý đồng bào, trước khi con dân Việt tiếp nhận giáo dục trong học đường và kiến thức ngoài xã hội, đó là các giá trị tâm linh của hệ đồng : đồng mẹ, đồng cha, đồng nghén, đồng thai, đồng nòi, đồng tông, đồng tích…

Các giá trị này không hiển hiện ra hằng ngày trước mắt ta, mà là một nội công của tâm lực đồng nòi làm nên trí lực đồng tông, vực dậy thể lực đồng tộc để cứu nước, để giữ nước.

Đồng chung

Đồng bào, như một sự khởi hành cùng nhau, cùng lúc của trăm con cùng mẹ, cùng cha, biết chung sống để sống chung, dù trong cuộc sống có sinh ly, đó là lúc 50 con phải lên phía rừng, 50 con kia đi về phía biển.

Câu chuyện chung-sống-để-sống-chung trên quê mẹ đất cha có nội công của sống-vui-để-vui-sống. Không một ai coi hai chữ đồng bào là một loại nhà tù, nhà giam, mà ngược lại, hai chữ đồng bào là sự xuất hiện liên kết của hai phạm trù ngày càng xích lại gần nhau hơn : chung và vui, để làm nên chung-vui.

Nhưng chúng ta cũng có những con dân Việt bực, giận, trách, than về dân Việt (dân mình ngu, dân mình dại, dân mình khờ, dân mình không khôn, dân mình không thông minh), tại đây cũng có ít nhất hai loại người.

Loại thứ nhất bực, giận, trách, than về dân Việt nhưng không bao giờ bỏ, gạt, xóa, đuổi đồng bào, giận mà thương, trách đồng bào mà nước mắt cứ rơi, buồn nhưng không bỏ.

Loại thứ nhì bực, giận, trách, than về dân Việt với giọng điệu khinh mạt, với lời lẽ phỉ báng, họ sẵn sàng bỏ, gạt, xóa, đuổi đồng bào, xé lẻ để chơi riêng, tách ra để dễ chuồn khi đồng bào bị lâm nạn, loại này không phải là đồng bào. Vì chính chúng không xem dân tộc là đồng bào, vì chính chúng đãvô tâm nên vô thức, chúng đã vong quốc nên vong thân từ lâu rồi

Đồng hương

Đồng bào, như một sự thật có sâu trong tâm tưởng làm nền cho tâm trí Việt biết xuất lực về phía đồng sinh, nơi có đất nước trọn vẹn, nơi có dân tộc độc lập, nơi có văn hóa làm nên nhân văn Việt, có văn minh làm nên nhân trí Việt, có văn hiến làm nên nhân đạo Việt.

Nhân Việt này được tôi luyện từ đồng bào tới đồng hương, từ đồng hội tới đồng thuyềnNhân Việt này của người Việt hiện nay rất ngỡ ngàng trước bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, trước tà quyền tham nhũng buôn dân bán nước, trước ma quyền tham tiền buôn tông bán tổ.

Chúng lẩn khuất trong liên minh âm binh của chúng để vơ vét tiền bạc của đồng bào, bòn rút tài nguyên của đất nước.

Chúng lại vênh mặt trước đồng bào khi chúng khoe biệt dinh, biệt phủ của chúng với thẻ xanh, quốc tịch ngoại, sẵn sàng cao bay xa chạy khi đồng bào bị ngoại xâm tha hóa để đồng hóa.

Bọn này không phải là đồng bào của chúng ta, chúng chỉ đồng bạo, đồng tà, đồng ma với nhau để đồng bẩn trong trộm, cắp, cướp, giật… Vì chúng đã đồng liệt, đồng bại ngay trong nhân cách Việt của chúng !

Đồng tri

Đồng bào, hai từ qua lại từ huyền sử tới hằng sử, thấm đậm trong tôi, luôn đề nghị tôi làm cho được ba chuyện trong chính cuộc đời của tôi : biết-hiểu-hành.

Trước hết là tôi phải hiểu tôi từ đâu tới ? Câu trả lời về gốc, rễ, cội, nguồn của tôi, sao lạ quá ? Nó bắt đầu bằng chữ đồng : đồng đất, đồng nước, đồng núi, đồng biển với những người chung quanh tôi, cũng bắt đầu bằng chữ đồng : đồng giống, đồng nòi, đồng tồn, đồng tích.

Từ đây tôi hiểu được sự sinh tồn, tôi phải chấp nhận thử thách trong thăng trầm của đồng thuyền, chia sẻ những niềm vui sướng của đồng hội cũng dựa vào một chữ đồng nữa : đồng quêđồng tổ, đồng hươngđồng tộc.

Thượng nguồn là biết, trung nguồn là hiểu để có hạ nguồn của hành (hành động, hành tác, hành trì) để bảo về một chữ đồng thật sâu đậm : đồng tâm, đồng tri, đồng trí để đồng quyết khi phải dấn thân để bảo vệ đất nước, khi phải hy sinh để bảo trì giống nòi…

Đồng giáo

Đồng bào, không chỉ là biểu tượng của huyền sử Việt, đã thành hằng sử Việt, mà là một quá trình linh diệu tự sinh con tới nuôi con, để con biết yêu nước thương nòi, để con biết công cha nghĩa mẹ.

Đó là câu chuyện "Lên non mới biết non cao. Nuôi con mới biết công lao mẫu từ", trường khúc nuôi con của trường ca mẫu từ, đây chính là chuyện luân lý của gia phong làm nên giáo dục gia đình, vì đây là một giá trị tâm linh, với chiều cao đạo lý của nó.

Hãy bắt đầu bằng chữ cao, cao như non, cao như tầm vóc của người mẹ không những chỉ là mẹ của các con, mà còn là một chủ thể của sự hy sinh, đại diện cho nhân loại có trăm con, nhưng luôn biết dấn thân để cáng đáng từng đứa con. Mẹ là nhân phẩm được tạo ra bởi nhân từ, mẹ là nhân nghĩa được tạo ra bởi nhân tâm.

Chính giá trị tâm linh này là chỗ dựa cho luân lý trong giáo dục gia đình, có giáo khoa đồng bào cho xã hội, lập nên giáo trình đồng tộc cho cả một văn hóa, luôn có chỗ dựa là giáo án đồng tông. Mẹ cha khi đưa các đứa con vào đời nơi mà tâm linh và giáo dục là một.

Giáo dục và tâm linh song hành và nhập nội vào nhau dễ dàng, vì đồng điệu để đồng hành trong đạo lý Việt tộc, quyện vào nhau như đồng đôi, đồng lứa, vì cùng đồng tâm trong đạo đức biết hy sinh cho các thế hệ mới, non, trẻ, mai, hậu...

Đồng thoại

Đồng bào, là tri thức khi Việt tộc kể cho nhau nghe qua bao thế kỷ, qua bao thế hệ chuyện thuở Việt tộc dựng nước, Lạc Long Quân và Âu Cơ có 100 trứng, thành 100 đứa con biết gọi nhau là đồng bào, cùng cha cùng một bào thai mẹ.

Việt tộc kể cho nhau nghe thêm bao chuyện khác, nào là Sơn Tinh, Thủy Tinh của một quê hương có núi trên đất, có nước ngoài khơi, nên Việt tộc gọi quê hương mình là Đất Nước…

Huyền thoại thì không thuộc về phạm trù của khoa học chính xác, nhưng khoa học xã hội và nhân văn thì có ý kiến sắc sảo về ảnh hưởng tâm linh của huyền thoại, mặc dầu không xác chứng được tính toán học của huyền thoại.

Đây là một hệ vấn đề thật hay trong khoa học xã hội và nhân văn, vì khi nghiên cứu về huyền thoại đã được trao truyền qua bao thế kỷ, qua bao thế hệ, thì huyền thoại đã trở thành hằng sử, như linh hồn của Việt tộc, như giá trị tâm linh của Việt sử.

Các huyền sử đi lại thong dong trong thư thái của không gian và thời gian của lịch sử, bằng chứng là các huyền sử có mặt trong giáo khoa, giáo trình, giáo án của trường học, làm nên cột xương sống tâm linh cho giáo dục.

Cho nên chỉ có những ai buộc tội huyền thoại của một dân tộc toàn là chuyện mê tín, dị đoan, thì chính họ sẽ lạc vào cõi vô minh trong vô thức, nên vô tri trong vô trí, chóng chày sẽ bị rơi vào hố vô giác rồi trở thành vô cảm trước các giá trị tâm linh, nơi có sự phối hợp linh diệu giữa huyền thoạilịch sử.

Đồng thoa

Đồng bào, sự giao thoa diệu kỳ giữa huyền thoạilịch sử trong cấu trúc tạo chuyện làm nên chất linh ứng của huyền sử, mà nội dung là nâng cao nhân phẩm bằng chiều cao của các giá trị tâm linh, nơi mà thiện sẽ thắng ác, nơi mà sự sống sẽ là sức thông minh của ánh sáng sẽ xua đi tất cả bóng tối của quỷ quyền.

Khi mà mọi bạo quyền tới từ tà quyền đều không có chỗ đứng cạnh nhân phẩm, con người sẽ không cho nó thổi độc chất vào nhân tri, không cho nó biến thành ma quyền với âm binh của nó để hoành hành nhân cách, hãm hại nhân thế. Trong phương trình huyền thoại-lịch sử, thì Việt tộc có Thạch Sanh một thân một mình chém chằn tinh, một công hai việc, không những để cứu công chúa, biểu tượng của cái đẹp ; mà còn cứu dân tức là cứu người, cứu đồng bào của mình.

Đồng thể

Đồng bào, là thực thể sinh động từ huyền sử, tích hằng sử làm nên nhân dạng của Việt tộc, nó luôn bị sát hại bởi bạo quyền sẵn sàng sát nhân, mà sát thủ là tà quyền đã thành cuồng quyền trong ma lộ của nó.

Chúng giết đồng bào, nơi mà mọi con dân Việt có đồng mẹ, đồng cha, đồng thai, đồng tổ, đồng tông, đồng tích… nơi mà tương thân và tương trợ chỉ là một trong đồng lòng, đồng tâm, đồng quyết, đồng hành… để giữ đất, giữ nước, giữ tiền đồ của t tiên, giữ tương lai cho ma hậu.

Chúng tráo trá vào đó diệntà, ma tướng, quỷ dạng của đồng phạm, đồng lõa, đồng mưu, để đồng đảng trong đồng tội.

Chúng diệt nhân tài là nguyên khí của quốc gia và chỉ thâu nhận đồng phạm để đồng thuyền với chúng trong hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền).

Chúng khử nhân tính đồng bào của bầu ơi thương lấy bí cùng và chỉ tiếp nhận đồng lõa để làm đồng bọn cùng chúng trong hệ bất (bất minh, bất tín, bất lương, bất nhân) mà chia chác với nhau sau khi vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước.

Chúng triệt nhân lý yêu nước thương nòi của Việt tộc và chỉ thâu phục bọn đồng sàng như đồng chí để đồng mưu với chúng bằng hệ gian (gian dối, gian trá, gian xảo, gian manh) từ phản dân hại nước tới buôn dân bán nước cho Tàu tặc.

Lấy xảo diện thay nhân diện, lấy gian dạng thay nhân dạng, để làm đường đi nước bước của chúng trong tà lộ của ma kiếp.

Đồng thương

Đồng bào, không chỉ là biểu tượng của huyền sử : linh thể của hằng sử Việt ! Mà còn là tiếng nói, vang vang mỗi ngày trên đất nước, chỉ cần nghe tiếng đồng bào để nhận ra giọng đồng hương.

Vậy khi bạn đi xa rồi về lại quê nhà, xóm cũ, làng xưa, các bạn cứ lắng tai nghe tiếng đồng bào trong giọng đồng hương : "mẹ ơi", "bố ơi", "con ơi", "mình ơi" rồi đâu đó có câu trả lời là : ơi !

Thật linh diệu chỉ một âm thôi, ta không cần biết "ơi" là nguyên âm hay phụ âm, vì là con dân Việt, nên ta biết chắc bẩm nó là chủ âm ! Nó làm chủ trong mọi nội lực gắn bó với đồngbào, trong mọi sung lực liên kết với đồng tộc.

Chỉ một chữ : "ơi" thôi thì tiếng đồng bào được nhận ra, giọng đồng hương được nghe thấy. Nghe để thấy chính là tâm lực tạo nên ý lực của những kẻ đồng quê, đồng xóm, đồng làng, đồng vùng, đồng miền…

Vì vậy từ ngay bây giờ các bạn hãy đưa một sự tự tu tập cho chính mình mỗi lần các bạn nghe được tiếng đồng bào, nhận ra được giọng đồng hương được, đó là lúc các bạn nên nhớ tới người nhạc sĩ quý yêu của chúng ta là Phạm Đình Chương, trong ca khúc Xóm Đêm nhé, trong đó có một ca từ mà đồng bào đã thành đồng thương từ lâu lắm rồi : "Nghe không gian tiếng yêu thương nhiều. Hứa cho đời thôi đìu hiu…".

Xóm Đêm - nhạc Phạm Đình Chương - tiếng hát Họa Mi

Các bạn nhớ tự tu tập nhé !

---------------------------

Đồng luận 10

dongbao5

Đồng quyết

Đồng bào, là quyết định trọn vẹn của ăn đời ở kiếp với đạo lý Việt một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, để vĩnh viễn xa lánh kiếp ăn nhờ ở đậu để buôn dân bán nước.

Đồng bào, là quyết đoán trọn lòng vì quê mẹ đất cha với giáo lý Việt bầu ơi thương lấy bí cùng, để hoàn toàn lánh biệt phận ăn tục nói phét để buôn thần bán thánh.

Đồng bào, là quyết tâm trọn trí vì quê tổ đất tông với luân lý Việt bầu ơi thương lấy bí cùng, để hoàn toàn lánh biệt phận ăn vụng nói ngoa để phản dân hại nước.

Đồng bào, là quyết chí loại bạo quyền đang buôn đất, bán đồng, khử tà quyền đang buôn rừng bán biển quê hương, triệt ma quyền đang buôn giống bán nòi cho ngoại xâm.

Đồng nền

Đồng bào, như nền mẹ, nền cha làm nên nền đất, nền nước, nền rừng, nền biển của Việt tộc, nơi mà giống nòi Việt làm nên dân tộc Việt đứng vững, đứng bền trên đó để nhận ra sự thật của hoàn cảnh đất nước, họan cảnh dân tộc, thảm cảnh giống nòi hiện nay trước họa ngoại xâm tới từ Tàu tặc.

Hãy đứng chắc, đứng mạnh trên nền đồng bào này để nhận diện ra các dị diện nội xâm : quỷ quyền độc tài trong phản dân hại nước, tà quyền độc trị trong buôn dân bán nước, ma quyền độc tôn trong buôn tông bán tổ.

Hãy đứng cao, đứng rộng để nhận ra các quái dạng của chúng ; chúng là ma trơi sống nhố nhăng trong biệt phủ, biệt dinh của chúng ; chúng là ma xó sống với túi đầy tiền của đồng bào, với thẻ xanh, quốc tịch ngoại, chuẩn bị luồn chạy khi đất nước vang bước ngoại xâm ; chúng là ma bùn sống chui, sáng làm công an, trưa đánh bạc lận, tối tụ họp với côn đồ, với lưu manh, với du đảng, với xã hội đen chờ khuya khoắt để tự họp rồi toan tính như âm binh trong bóng tối.

Đồng đi !

Đồng bào, là thượng nguồn của Việt tộc sẽ cùng nhau bước đi vào cuộc sống, nhưng có nhiều cách đi : đi tới để đi xa, đi xa để đi rộng, đi rộng để đi cao, mà không quên đi sâu vào đạo lý của chữ nhân.

Có nhân sinh quan của nhân tâm, nhân từ làm rễ cho nhân tính, nhân lý, vì biết thương người như thể thương thân.

Có thế giới quan của nhân đạo, nhân nghĩa làm nguồn cho nhân tri, nhân trí, vì biết uống nước nhớ nguồn.

Có vũ trụ quan của nhân bản, nhân văn làm nguồn cho nhân vị, nhân cách, vì biết ăn ở có hậu, với đồng bào, đồng loại, mà không quên tử tế với môi sinh, đứng đắn với môi trường.

Đi cao, sâu, xa, rộng vì biết học làm người, để biết người biết ta, biết buông bỏ bản năng đói ăn khát uống trong phản xạ ăn tươi nuốt sống, để thấy bằng nhân phẩm là miếng ăn là miếng tồi tàn, để thấu nhân dạng trong ăn coi nồi ngồi coi hướng, vì biết trên biết dưới, biết trước biết sau...

Đồng bào là thượng nguồn trước khi biết đi để xây dựng bờ cõi, giờ đây đã biết đi trên con đường giáo lý : đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn.

Đồng vọng !

Đồng bào cũng là nỗi nhớ về đất, về nước của đồng rễ, đồng cội, đồng gốc, đồng nguồn, một khả năng giờ đã thành năng khiếu của đồng tông, đồng tộc, đồng tích.

Dù phải lưu vong xa quê mẹ đất cha, nhưng không hề vong quốc, chưa hề vong thân vì luôn biết đồng vọng về nguồn.

Thi từ của Cao Tần (Lê Tất Điều) đã biến đồng vọng thành đồng nhận ra đồng hương :

"Hôm nay ra biển ngồi ngơ ngẩn.

Nhúng hai giò xuống nước Thái Bình Dương.

Cho hơi ta dạt vào ô bờ Cấp.

Chạm thân ái vào lưng đất mẹ đau thương".

Hàng triệu triệu đồng bào phải bỏ quê hương mà đi tìm tự do, đi tìm nhân quyền để giữ nhân vị trước bạo quyền, tà quyền, ma quyền.

Đồng bào thủa nào của đất mẹ quê cha, giờ là đồng bào của tất cả châu lục, luôn biết đồng vọng để thấu là đất mẹ còn đau thương

Đồng ưu !

Đồng bào trên chặn đường lưu vong để đi tìm tự do, đi tìm nhân quyền, để giữ nhân vị trước bạo quyền, tà quyền, ma quyền, cũng là nỗi đau đáu làm nên từ nỗi khổ niềm đau nơi xứ lạ quê người, vì không được tiếp tục đồng đất, đồng nước, trong đồng quê, đồng hương, với những đồng bào đã ở lại.

Nhận vong để bị mất đồng, nỗi khổ sâu lắng này làm nên nỗi buồn chơi vơi kia, có trong thi từ của Thanh Nam :

"Trôi dạt từ Đông lên cõi Bắc.

Hành trình trơ một gánh ưu tư.

Quê người nghĩ xót thân lưu lạc.

Đất khách đâu ngờ buổi viễn du".

Các đồng bào đang sống trên quê mẹ đất cha : đừng quên các đồng bào của mình đang bị trôi dạt ; đừng quên các đồng bào của mình đang trơ một gánh ưu tư ; đừng quên các đồng bào của mình đang xót thân lưu lạc ; đừng quên các đồng bào của mình đã đâu ngờ buổi viễn du nhé !

Đồng nguôi !

Đồng bào trên chặng đường lưu vong để đi tìm tự do, đi tìm nhân quyền, đi tìm cõi sống để tiếp tục được sống khôn chết thiêng, vì ai rồi cũng phải chết, sống nay chết mai mà !

Nhưng qua đời có đồng bào, với đồng bào có khác không với qua đời vắng đồng bào, trống đồng bào ?

Câu trả lời có hay không đã lắng trụ ngay trong tâm hồn của mỗi con dân Việt : khi còn sống bạn có tấm lòng gì với nội hàm, với giá trị, với ý nghĩa về hai chữ : đồng bào.

Nếu bạn không nhận ra nội hàm, không thấy được giá trị, không thấu rõ ý nghĩa của hai chữ : đồng bào thì chắc bạn sẽ buồn lắm khi lìa đời.

Bạn hãy đọc thật chậm để nghe thật sâu tâm trạng của thi sĩ Du Tử Lê bằng giai điệu của nhạc sĩ Phạm Đình Chương :

"Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển…

Ngược trôi đi đưa hình hài trở về…

Bên kia trời là quê hương tôi đó…

Ngày nào ta trở về để ta thấy quê hương lần cuối…

Thả tôi đi cho hồn người được nguôi…".

Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển (thơ Du Tử Lê - nhạc Phạm Đình Chương) - tiếng hát Anh Khoa

Chỉ khi hình hài trở về quê hương tôi đó… thì hồn người được nguôi bạn à !

Đồng khơi !

Đồng bào, cũng là tư tưởng để dẫn dắt Việt tộc biến nhân tri của nhân loại thành nhân Việt để đẩy cổng hẹp của ngăn sông cấm chợ, của biên giới bế môn tỏa cảng mà mở rộng cửa tâm hồn mình với luận thi của Bùi Giáng : đã mở cõi thì đừng ngăn miền.

Đồng bào, như tư tưởng rộng mở của hằng trăm con, biết lên rừng để nhìn từ cao mà nhìn xa trông rộng, biết xuống biển để ra khơi, để đi một ngày đàng học một sàng khôn.

Đừng khung hai chữ đồng bào trong rọ cá, chuồng chim, mà nghe để thấy trong hai chữ đồng bàonhưđể ra khơi mà thấy mặt trùng dương, để đồng bào là đồng vận của hội trùng dương của Việt tộc biết hòa chung vào nhân loại.

Đồng cùng !

Đồng bào nếu là tư tưởng ra-khơi-để-thấu-trùng khơi thì hãy nhận thêm một nghĩa mới : tổng thể vô biên, nơi mà đồng bào là tổng thể trọn vẹn của Việt tộc nhưng là một tổng thể của vô biên, của vô tận, của vô cùng, để luôn được làm chủ thể để chủ động mà biết hỏi người để khôn lên, như thi từ của Tô Thùy Yên : Hỡi ai bên cõi vô cùng tận ?

Phạm trù vô cùng tận là nội hàm của tự do, để tự do đi tìm công bằng mà thấy cho rõ bác ái. Trong bác ái có vị tha, có từ bi, có cả thông minh luôn biết vấn nạn về chính số phận của chính mình, nơi mà nhân sinh ngập thăng trầm, nơi mà nhân thế đầy khổ ải, nơi mà thi sĩ này đã gởi tới nhân loại một thông điệp hãy cẩn trọng trước bạo quyền, trước tà quyền, trước ma quyền. Nơi mà thi sĩ đã gởi được tâm can của mình : "Có thấy lòng ta những đảo điên".

Hỡi đồng bào ! Hãy nhận ra những đảo điên trong thực tại của Việt tộc mà tỉnh giấc ! tỉnh giấc ! tỉnh giấc !

Đồng chất !

Đồng bào dường như là tinh chất Việt được trao truyền bởi tổ tiên Việt trải qua bao thăng trầm ngay trên đất nước Việt, ngay trên giòng sinh mệnh Việt, luôn được giữ như là nguyên chấtViệt.

Kết tinh giữa tinh chất Việt ở thượng nguồn thủa dựng nước và nguyên chất Việt tại hạ nguồn thời giữ nước đặt mỗi con dân Việt trước chọn lựa sắc nhọn giữa : còn và mất !

Còn đất, còn nước thì còn tinh chất Việt nguyên chất Việt, ngược lại mất đất, mất nước bởi ngoại xâm thì tinh chất Việt sẽ tan nguyên chất Việt sẽ tiêu !

Đây là một chọn lựa giữa sống còn trong độc lập và bị đồng hóa để nhận kiếp nô lệ.

Từ đây phải nhận cho ra để nhìn cho thấu là : mọi bạo quyền độc tài phản dân hại nước chỉ là lũ vong hồn, mọi tà quyền độc trị buôn dân bán nước chỉ là đám vong quốc, mọi ma quyền độc trị buôn tông bán tộc chỉ là bọn vong thân.

vong hồn, vong quốc, vong thân là một tập hợp âm binh đã mất không những quê mẹ đất cha, mà đã mất luôn tâm hồn của đạo đức và trí tuệ của đạo lý, tệ hơn nữa là chúng đã mất giòng, mất giống trong mạt kiếp của vong nô.

Đồng mình !

Đồng bào mở ra ít nhất ba cánh cửa để mỗi tâm hồn Việt không còn là một cá thể riêng rẽ bị cô lẻ ngay trong cuộc sống, để mỗi con dân Việt không còn là một cá nhân đơn độc để phải cô đơn ngay giữa nhân thế.

Cánh cửa thứ nhất của đồng bào đã mở giúp tôi rời nhà tù ích kỷ của chính cái tôi vị kỷ, nơi mình đang lạ lẫm trong thiên hạ của ai chết mặc ai.

Khi cánh cửa thứ nhất đã mở ra nhận thức : chung quanh tôi đã có đồng bào tôi, mà đồng bào tôi đã có trước khi tôi sinh ra đời, đồng bào đã có từ lâu ; ở đây cánh cửa thứ nhì sẽ mở ra để dắt cái tôi tới gặp cái ta. Mà cái ta là số nhiều có liên kết, không còn là số lẻ trong lẻ loi, cái ta là một số nhiều mang keo sơn của tương thân, tương trợ. Từ đây cái tôi ích kỷ được thay bằng cái tôi có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào ; mà cũng từ đây cái tôi mới này không còn sợ bị chết đuối giữa giòng mà không có ai chung quanh để cứu vớt rồi cưu mang mình.

Đến cánh cửa thứ ba thì cái ta nhận ra một sung lực mới đang chờ nó, đó chính là cái mình, chính là cái chung để bảo vệ mọi cái ta, mọi cái tôi, vì cái mình này sẽ là nền của cái ta để làm nên tường vách cho cái tôi, để chính cái mình là mái, là nóc che chở cái tôi khỏi phải bụi đời, không phải chịu kiếp oan hồn khi rời nhân thế.

Ngạn ngữ "nhờ duyên ta biết quê mình nơi đây" giờ được cho phép chuyển thân để đổi thế, để trở thành : "nhờ mình ta biết cái ta nơi này"… 

Đồng thạo !

Đồng bào không phải là một biểu tượng xa xưa đã chết lặng trong một huyền thoại xa xăm, mà ngược lại Đồng bào là hình tượng sinh động luôn được vận động trong thử thách để được vận hành ngay trong thăng trầm trước họa ngoại xâm đang de dọa giống nòi, đang tìm mọi cách để diệt đồng tộc, hủy đồng tông, triệt đồng nòi, giết đồng giống.

Đồng bào, hình tượng sinh động tự vận động tới vận hành thấy rõ trong Hội Nghị Diên Hồng của đời Trần, biết vận động đồng quyết, biết vận hành đồng lòng mà đánh cho quỵ, cho sụp quân Nguyên ; dù chúng có hung hãn với bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng chúng phải đổ, phải rụng ngay trên đất Việt.

Như vậy hai chữ đồng bào của đồng tông, đồng tộc, đồng giống, đồng nòi đã và sẽ được đặt trên thế kiềng ba chân : chân thứ nhất của thông thái lấy vốn đồng bào của tổ tiên để giải quyết chuyện sống còn hiện tại của tổ quốc ; chân thứ nhì của thông minh lấy vốn đồng bào để dựng lên đoàn kết của cả một dân tộc ; chân thứ ba của thông thạo lấy vốn đồng bào để chế tác ra sức mạnh toàn dân để đánh thắng giặc.

Khi mỗi con dân Việt muốn vận động để vận hành công cuộc cứu nước để giữ nước thì phải vận não bằng phương trình đồng bào thông thái-thông minh-thông thạo.

Đồng sáng !

Đồng bào là hiện thể sinh động vì là rễ của cội tâm linh Việt tộc, hai chữ Đồng bào khẳng định một nội hàm, một giá trị, một tư tưởng hoàn toàn nghịch chiều, nghịch hướng để luôn luôn nghịch lý, nghịch luận với đồng hóa. Vì đồng hóa là ý đồ tới từ ý muốn thâm, độc, ác, hiểm của ngoại xâm để làm xấu, tồi, tục, dở từ nội dung tới nội chất thực thể đồng bào.

Mưu ma chước quỷ của đồng hóa luôn đi trên tà lộ của ma đạo tha hóa : Tha hóa để đồng hóa ! Tha hóa với sự thông đồng của nội xâm : bạo quyền độc đảng phản dân hại nước, tà quyền buôn dân bán nước, ma quyền buôn tông bán tổ.

Từ đây, con dân Việt phải biết hóa giải ý đồ đồng hóa bằng cách xóa giải ý định tha hóa Việt tộc của ngoại xâm Tàu tặc. Mà quá trình hóa giải để xóa giải có trong phương trình của hệ sáng : lấy sáng kiến phải cứu nước để tự cứu mình, biến thành sáng lập ra các phong trào đấu tranh để giữ nước, để giữ giống nòi mà chống đồng hóa.

Tận dụng liên kết giữa sáng kiến sáng lập để cho ra đời những sáng tạo ngay trong xã hội dân sự bằng tri thức mới : lấy nhân quyền làm văn hiến, lấy dân chủ làm văn minh, lấy đa nguyên để chế tác ra văn hóa đa dũng, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu…

Khi hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) kết hợp cùng hệ văn (văn hiến-văn minh-văn hóa) mới này sẽ biến đồng bào thành đồng sáng trong công cuộc cứu nước để giữ nước.

Đồng đặc !

Đồng bào là khả năng nhận ra tức khắc gốc, rễ, cội, nguồn của Việt tộc, ngữ pháp đồng bào không hình tượng hóa một vẻ đẹp cao xa, không vinh danh một tấm lòng cao đẹp, không hứa hẹn hão về một cuộc đời hạnh phúc.

Nhưng đồng bào đưa huyền sử gặp hằng sử để Việt sử viết rõ hằng tính của Việt tộc bằng đặc tính của thượng nguồn đồng thai, đồng bào, làm nên hạ nguồn đồng tông, đồng tộc.

Hằng tính đồng bào qua không gian giữ nước, qua thời gian dựng nước mang đậm dấu ấn đặc tính đồng bào làm nên đặc sắc văn hóa Việt, giúp con dân Việt nhận ra đặc thù bản sắc Việt. Khi con cháu Việt nhận ra đồng bào chính là tập hợp của đặc tính-đặc sắc-đặc thù của giống nòi Việt, con cháu Việt sẽ thấy và thấu được đặc ân Việt ngay trong chính huyết quản của mình./.

dongbao00

Đồng_Luận_-_Lê_Hữu_Khóa.pdf

Lê Hữu Khóa

(17/04/2020)

---------------------

lhk0 Lê Hữu Khóa

- Giáo sư Đại học Lille

- Giám đốc Anthropol-Asie

- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á

- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO Liên Hiệp Quốc

- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris

- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á

- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa

Phần 7

Quyền

"Một quyền lực này thì không bao giờ yêu thích một quyền lực khác".

G. Flaubert

politique7

Thực quyền theo các tiêu chí trên làm nên được chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, nếu các lãnh đạo hiện nay không hiểu các tiêu chí này thì nên : buông quyền ! rời quyền ! bỏ quyền !

Thực quyền

Thực quyền, không có công thức cũng không có mô hình, nên không có định nghĩa để áp dụng vào thực tế, nếu áp dụng quyền lực một cách máy móc thô bạo vào thực trạng của xã hội thì nó sẽ tạo ra phản quyền, như phản lực để chống lại áp chế, khống chế, để chống lại áp đặt dưới nhiều mức độ, dưới nhiều trình độ, qua trực diện hay phản diện với quyền lực.

Thực quyền luôn được quyết định qua 3T (trí năng-tài năng-khả năng) của lãnh đạo, trong đó trí năng mang thực lực của 3L (lý luận-lập luận-giãi luận) được vận dụng trong thực tế qua các chính sách. Tại đây, tài năng của lãnh đạo làm rõ một 3T trọng tâm khác (tri thức-ý thức-nhận thực) của quần chúng, tạo ra khả năng của lãnh đạo trong 3K (khai trí-khai lý-khai minh) cho nhân dân, để nhân dân ủng hộ cụ thể các chính sách của lãnh đạo.

Thực quyền luôn được hỗ trợ bởi 3N gốc rễ (nhân bản-nhân văn-nhân tính) trong giá trị 3V (văn hóa-văn minh-văn hiến) của một dân tộc, trong đó lãnh đạo phải biết vận dụng lý trí của một 3N của lý trí (nhân lý-nhân tri-nhân trí) luôn có mặt chỗ trung tâm trong các chính sách của lãnh đạo. Từ đó nhân dân sẽ thấy rõ 3N cốt lõi (nhân nghĩa-nhân đạo-nhân phẩm) có mặt từ lý thuyết luận tới phương pháp luận của lãnh đạo, mà nhân dân có quyền kiểm định qua kết quả và hậu quả của các chính sách này.

Thực quyền luôn nằm trong khung của 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh) của một đất nước, của một dân tộc, có nền là 3T (tình hình-tình trạng-tình huống) của thời đại và thời cuộc. Trong đó, tình hình toàn cầu hóa hiện nay đang tạo các quyền lực mới tới từ khoa học kỹ thuật sinh ra một 3T mới (tin tức-thông tin-truyền thông) qua internet, qua mạng xã hội, đây vừa là thực quyền và vừa là thực chủ để khai mào dân chủ. Từ đây, tạo được tình trạng đa thông tin trong đa quyền lực, sinh ra những tình huống sinh động cho đa nguyên, linh động cho nhân quyền. Chính ba hùng lực của dân chủ-nhân quyền-đa nguyên tạo ra 3L (sung lực-nội lực-trí lực) cho nhân dân qua mạng xã hội.

Thực quyền sẽ biến độc quyền của 3Đ (độc tài-độc đoán-độc đảng) thành lỗi thời vì nó chỉ là "ma bùn" trong tà quyền, chỉ là "ma xó" trong bạo quyền, chỉ vì độc tôn đã vào "ma đạo" của độc hại, ngược lại nhân loại đang theo đa, để có đa (thực) quyền, để tạo ra đa lý, đa trí, đa tri, đa tài, đa năng, đa hiệu...

Thực quyền theo các tiêu chí trên làm nên được chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, nếu các lãnh đạo hiện nay không hiểu các tiêu chí này thì nên : buông quyền ! rời quyền ! bỏ quyền !

Quyền để quyết

quyền để quyết : quyết đoán để quyết định. Quyết đoán bằng năng lực biết chủ động để khách quan hóa các kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức trong tỉnh táo để sáng suốt khi xây dựng quyết tâm, hoàn toàn ngược lại với độc đoán không nhận kiến thức để loại bỏ tư vấn, không nhận tri thức để trừ khử đối thoại.

Quyết đoán mở mọi cửa trước khi quyết, ngược lại với độc đoán đóng mọi cửa trước và sau khi quyết. Quyết đoán để đi về phía chân trời có mặt trời, trái hẳn với độc đoán, đã quyết trong cực đoan, với hành vi quá khích, nên "cắm đầu, cắm cổ" đi mà không tỉnh táo tìm phương hướng, đi mà không sáng suốt cùng với các kẻ đồng hành khác.

Quyết đoán trong quyết định là kết quả tích cực của hạ nguồn sau khi điều tra cơ bản đã kết luận tính khả thi của chính sách dựa trên tính thực thi của chương trình. Quá trình này trái ngược hẳn với phản xa tùy tiện và dễ dãi của "đồng tâm nhất trí", với "toàn thể giơ tay biểu hiện sự đồng tình", trong sự vô tri của lệ thuộc, tới từ vô minh vắng kiến thức sinh ra vô thức, luôn tìm cách khử ý thức.

Quyết đoán bằng quyết định để làm chính trị là nhận vai trò chủ thể 100%, làm lãnh đạo là nhận vai trò chủ thể hơn100%, vì định nghĩa của chủ thể là : tác nhân nhận trách nhiệm trước cộng đồng, nhận bổn phận trước tập thể qua tự do để xây dựng tự chủ cho chính mình, từ đó lấy sáng kiến để sáng tạo, dùng kết quả tích cực của sáng tạo của cá nhân mình để phục vụ cộng đồng, để thăng hoa tập thể.

Quyết đoán để quyết định tôn trọng quy trình thông minh của dân chủ : đề nghị-đối thoại-quyết định-hành động trong đó lý luận qua dữ kiện thắng các hành vi cực đoan, lập luận bằng chứng từ vượt các thái độ quá khích, giãi luận với minh chứng lấp các phản xạ bảo thụ, diễn luận dựa tri thức xóa các thói quen thủ cựu.

Những kẻ lãnh đạo "sống lâu lên lão làng" nhờ "cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối" thì nên xem lại và nên rút lui sớm. Những kẻ "ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau" dùng manh xảo "gà què ăn tựa cối xay" lại càng nên rời các ghế lãnh đạo càng sớm càng đỡ khổ dân. Nhất là bọn "cố đấm ăn xôi" trong manh trá "thượng đội hạ đạp", thì đừng cho chúng một chỗ đứng, chỗ ngồi nào cả trong lãnh đạo.

Quyền để hành

Quyền để hành để hành động qua chính sách, để hành xử theo đạo lý thương nước- yêu dân, theo luân lý vì dân-vì nước, trong đạo đức giữ nước-dựng nước, chớ không phải để lập ra độc đảng để độc tôn, độc tài, độc quyền, để sinh ra chuyên quyền để bám quyền, tham quyền, lạm quyền.

Quyền để hành có lý trí của biết thời để giữ thế, đưa quyền lực vào thực tiễn, chống lại tính sơ cứng của mọi ý thức hệ, với mục tiêu là làm thay đổi các quy luật cứng, các tiêu chí cằn, các chỉ tiêu bất di bất dịch không tạo được phát triển, không giải quyết được chuyện "cơm no, áo ấm", trong hoài bão "trong ấm, ngoài êm", với ý nguyện "dân giàu nước mạnh".

Quyền để hành để thay đổi nhân sinh quan hạn hẹp của nhân tình mù quáng theo nhân thế, để thế vào đó là nhân tình phải có nhân tính, dựa vào nhân tri để nâng nhân trí, từ đó có nhân văn, nhân bản qua nhân đạo và nhân nghĩa. Nhân vừa là thượng nguồn của quyền, vừa là hạ nguồn của hành, cũng vừa là cầu nối để liên kết giữa quyềnhành. Hệ nhân phải có mặt trong mọi tư duy, sinh hoạt, đời sống chính trị của lãnh đạo Quyền để hành để chuyển đổi thế giới quan của nhân dân, giúp dân chúng thấy được nhân dân trong nhân loại, trong tương quan sống còn giữa dân tộc và thế giới, trong đó chính trị tỉnh-lãnh đạo thức làm được chuyện giãi luận thương đồng bào thì phải thương đồng loại cùng trong hệ nhân với mình, biết đồng hội-đồng thuyền trong nhân chủng, thấu đồng cam-đồng khổ để bảo vệ nhân loài.

Quyền để hành để chuyển hóa vũ trụ quan của xa hội, trong đó môi trường là môi sinh, làm được chuyện môi giới để nhân dân dụng nhân lý-nhân tri-nhân trí bảo vệ 3S (chất sống-sự sống-quyền sống) của mọi sinh vật, trong đó con người biết chăm sóc, cứu vớt động vật, thực vật như chăm lo, cứu rỗi chính nhân loại trong vũ trụ quan nhân bản mà nhân dân nhận diện được trong mọi chính sách của chính quyền.

Quyền nâng dân

Quyền nâng dân là một thực tế trong các nước văn minh tức là các quốc gia hiện nay có nhân quyền nhờ dân chủ, thực tế này có được là nhờ chính thể của họ có chính quyền dùng quyền lực để nâng nhân dân của họ lên về mọi mặt, nhất là về nhân trinhân trí. Đây là mối lo, "mất ăn mất ngủ", của các chế độ độc tài hay độc đảng đang chứng kiến rất rõ mối quan hệ gắn bó giữa nhân quyền qua dân chủnhân tri qua nhân trí.

Quyền nâng dân không những nâng mực sống của nhân dân, mà hùng lực của nó tại quốc gia hiện nay có nhân quyền, dân chủ tức là có văn minh là chuyển hóa các cá nhân, trước hết thành các cá thể phải được chính quyền tôn trọng, để thực sự có vị, có thế, có lực của chủ thể. Định nghĩa của chủ thể là quyền giành tự do cho mình để lấy sáng kiến trong sinh hoạt xã hội. Trong đó sinh hoạt chính trị qua tuyển cử, đầu phiếu luôn làm tăng sức sáng tạo của chủ thể để càng ngày càng có nhiều tự do hơn, chính đây là sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ : hệ độc (độc tài, độc đảng, độc quyền, độc tôn) và hệ đa (đa nguyên, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu). Chính sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ này đã biến thành sự mâu thuẫn, rồi trở thành xung đột, để xung kích lẫn nhau trong quan niệm cũng như trong chuyện thực thi quyền lực. Hệ độc thì tìm cách loại, tiêu, hủy, diệt sáng kiến và sáng tạo ; còn hệ đa nâng, cõng, đở, đấy sáng kiến và sáng tạo của cá nhân, không còn là những cá thể lẻ loi, mà thực sự là chủ thể có vị, có thế, có lực trong sinh hoạt xã hội cũng như trong sinh hoạt chính trị.

Quyền nâng dân là quyền nâng sáng kiến của cá nhân để cá nhân có cơ hội mà nâng tập thể, cộng đồng, dân tộc, là quyền nâng sáng tạo của chủ thể qua phát minh dùng thông minh của mình để đóng góp trực tiếp vào nguyện vọng "cơm no, áo ấm" cho dân tộc. Sức mạnh của chủ thể hiện diện luôn trong ý nguyện "nước giàu, dân mạnh", vì chính các chủ thể được chính quyền tạo điều kiện thuận lợi từ giáo dục tới xã hội để dễ dàng vào quy trình của khám phá, tạo ra các phát minh để đẩy mạnh phát triển, thực sự đóng góp vào chuyện "thay đời, đổi kiếp" của dân tộc theo hướng thăng hoa.

Quyền nâng dân cụ thể là để đảm bảo sáng kiến của chủ thể biết dụng tự do của mình để sáng tạo, từ đó nhận trách nhiệm trực tiếp với đất nước, từ đó nhận bổn phận tức khắc với dân tộc. Đây là nhiệm vụ của chính quyền, là "thiên vụ" của kẻ lãnh đạo, và nếu muốn lãnh đạo mà không có một ý niệm gì về chuyện dùng quyền lực của mình để nâng dân tộc mình lên thì đừng lãnh đạo ! Thì đừng chiếm chổ của người khác, nhất là khi họ là những chủ thể chính thống !

Quyền đẩy lòng tin dân chủ

Quyền đẩy lòng tin dân chủ khi mà lãnh đạo chính trị có quyền lực trong tay, chính là lòng tin vào nhân phẩm, nhân đạo, nhân nghĩa, làm nên nhân bản, nhân văn để bảo vệ nhân tình, nhân sinh bằng nhân trinhân trí. Chính lòng tin này bảo đảm tuổi thọ cho một chính quyền, tuổi trọng cho một chế độ, tuổi dầy cho chính trị tỉnh-lãnh đạo thức. Thức vì thông minh để hiểu thấu được cái cao, sâu, xa, rộng của lòng tin, cái hay, đẹp, tốt, lành, của dân chủ.

Quyền đẩy lòng tin dân chủ là một chỉ báo để nhận định chế độ độc (độc đảng, độc quyền, độc trị, độc tài, độc trị) hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đang áp đặt lên số phận của Việt tộc là quái thai đối với hệ luận chính trị tỉnh-lãnh đạo thức. Cụ thể là hành vi "đảng cử, dân bầu", để dân chỉ có thể bầu cho đảng viên, với đại đa số dân biểu quốc hội đều là đảng viên, cùng lúc tổ chức mọi định chế và cơ chế từ hàng dọc tới hàng ngang đều là đảng viên, chia quyền lẫn nhau để chia chác với nhau qua độc quyền-lạm quyền-tham quyền, rồi đi thi thẳng vào hệ ma đạo tham quyền-tham nhũng-tham ô. Nội chất quái thai sinh ra các ung thư liên đới, trước nhất là ung thư này ăn mòn chất xám trong hệ của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức,nhận thức), sau đó là ăn nạo hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo), để cuối cùng là nạo rổng hệ phát (phát minh, phát tiển). Quái thai loạn trí song hành cùng nhiều ung thư loạn tuệ : số phận của Việt tộc thật bi đát ! Nhưng số kiếp Việt tộc có thật đáng bi quan hay không ?

Quyền đẩy lòng tin dân chủ để lập lại lòng tin dân tộc với chính trị, chính giới, qua chính tri, chính lý mà phải bắt đầu bằng sự xuất hiện của một người, một nhóm ngay trong nội bộ của Đảng cộng sản Việt Nam đại diện cho luân lý chính trị của tổ tiên, mà Việt tộc xếp vào hệ minh (minh đạo, minh vương, minh quân, minh chúa, minh chủ, minh sư...) để sáng tạo ra hoặc sáng tạo lại hệ đa (đa tri, đa trí, đa tài, đa năng, đa hiệu...) qua đa nguyên. Và, nhờ nó rút ra các nọc độc quá độc hại của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn). Không có dân chủ nếu không có đa nguyên, trước hết là để bảo vệ nhân quyền qua hệ nhân (nhân phẩm, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn, nhân tri, nhân trí). Không có dân chủ thi cũng đừng mong có công bằng để chống bất công, lại cũng đừng chờ có công pháp để bảo đảm tự do bác ái !

Quyền đẩy lòng tin dân chủ được thể hiện qua thành tâm của chính trị tỉnh-lãnh đạo thức, xem mỗi cá nhân Việt là một chủ thể Việt được tham gia trực tiếp vào vấn đề Việt, trước mắt là chủ quyền Việt trong đó có toàn vẹn lãnh thổ Việt với ít nhất ba đòi hỏi Việt : "cơm no, áo ấm", "trong ấm ngoài yên", dân giầu nước mạnh", ba đòi hỏi rất tối thiểu trong thông minh Việt, vì Việt tộc không vô minh !

Quyền tạo chủ thể

Quyền tạo chủ thể, là thử thách mà cũng là quyết tâm của các lãnh đạo các quốc gia văn minh hiện nay nhờ có dân chủ để bảo vệ nhân quyền, đây chính là liêm sỉ của kẻ lãnh đạo có lương tâm trong chính trị, thấy rõ qua lương tri các chính sách liêm chính, trong đó cá nhân, không những là cá thể phải được tôn trọng, mà chịnh trị tỉnh-lãnh đạo thức phải giúp họ chuyển hóa thành chủ thể. Và, cá tính của chủ thể là yêu dân chủ vì quý nhân quyền, trọng công bằng vì yêu bác ái, nâng niu tự do để sáng tạo trong tất cả sinh hoạt của xã hội, lấy phương hướng "nước giầu, dân mạnh" của dân tộc để định hướng "nhân loại thái hòa" cho thế giới. Chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam dẫn dắt chưa hề có hành động chính trị này, vì ngày ngày họ luôn tìm cách tiêu diệt tất cả các sáng kiến về phương trình chuyển tiếp cá nhân-cá thể-chủ thể. Chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam là chính quyền bị xếp vào "hạng tồi" trong bảng xếp hạng các chính quyền bảo vệ các chủ thể dân chủ.

Quyền tạo chủ thểthông minh lãnh đạo chính trị, nếu muốn có tuổi thọ cao trong chính trường, có tuổi trọng trong chính giới, có tuổi dày trong chính kiến, chính thông minh lãnh đạo chính trị này là năng lực chuyển một xã hội quần chúng bị tuyên truyền "đưa đường dẫn lối" trở thành xã hội chủ thể với các cá nhân cá tính tham gia vào việc "ích nước, lợi dân". Quyết tâm chuyển hóa một xã hội quần chúng qua một xã hội chủ thể mà mọi người dân đều có bổn phận và quyền lợi trực tiếp, có trách nhiệm và tư quyền tức khắc, dựa vào hiến pháp, phát luật, định chế, cơ chế... để chủ thể hóa cá nhân. Chính quyền do Đảng cộng sản Việt Nam dắt díu chưa hề có lập luận chính trị này, vì giờ họ luôn tìm mọi cách truy diệt tất cả các sáng tạo về quy trình chuyển tiếp chủ thể hóa cá nhân, với thực tâm cá nhân hóa các hành động dân chủ. Chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam là chính quyền bị xếp vào "hạng bét" trong bảng xếp hạng các chính quyền bảo vệ các hành động dân chủ.

Quyền yêu luật

Quyền yêu luật là nền của nhân quyền, gốc của dân chủ, rễ của công bằng, cội của công lý, và các chính quyền liêm khiết phải dùng quyền lực của mình để thực hiện được lòng tin vào luật của nhân dân, từ đó tạo ra hiến pháp, công pháp, có liêm chính trong sinh hoạt xã hội, có liêm minh trong hành động chính trị, để có liêm sỉ trong mọi chính sách của lãnh đạo. Hãy bắt đầu bằng cách tôn trọng luật từ chính các lãnh đạo để có giáo lý trong mọi hành tác lãnh đạo, vì mỗi sinh hoạt xã hội đều có nguồn máy tổ chức đặc trưng, có quy luật vận động và vận hành đặc thù. Tại đây, tất cả mọi sinh hoạt xã hội đều phải được pháp luật định vị qua "sân chơi, trò chơi, luật chơi" mà mọi thành viên của cộng đồng sinh hoạt đó công nhận và thừa nhận. Không có chuyện độc đảng để độc quyền, độc quyền để chuyên quyền, chuyên quyền để bám quyền, bám quyền để lạm quyền, từ đó lách luật, không lách luật được thì tráo luật, không tráo luật được thì xé luật. Đó là quá trình phạm luật, thường xuyên và thường trực của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đảng này, ngày càng khinh luật từ các năm qua, trắng trợn nhập nội vào tham nhũng, tham ô để vơ vét trong không gian bất chấp luật !

Quyền yêu luật trong phương trình nhân quyền-dân chủ-công bằng-công pháp, từ lãnh đạo chính trị cầm đầu chính quyền cho tới thường dân chính là cột xương sống của đạo lý dân tộc, luân lý xã hội, đạo đức chính trị, vì sao ? Vì tất cả các khúc mắc, các khó khăn, các ngõ cụt của một đất nước, nếu không giải quyết thỏa đáng bằng đạo lý dân tộc, luân lý xã hội, đạo đức chính trị, thì sẽ được xử lý qua pháp luật. Chính pháp luật là tác nhân chính để minh bạch hóa, liêm khiết hóa, trong sạch hóa mọi chính sách, chính thể trong sinh hoạt và hành động chính trị. Đó là cách lý giải trực luận để giải quyết dứt khoát nhiều khổ nạn của Việt tộc hiện nay, nơi mà bất công ngày ngày đào sâu, đạo rộng các hệ lụy bất bình đẳng trong xã hội Việt bây giờ.

Quyền yêu luậtquyền chủ thể hóa cá nhân song hành cùng tự do hóa chủ thể trong khung chung của luật pháp hóa xã hội, từ chính quyền tới dân chúng, từ lãnh đạo tới mọi cá nhân trong xã hội ; trong đó luật pháp hóa xã hội phải song đôi với luật pháp hóa chính quyền, nơi đây mọi lãnh đạo phải nhận, phải chịu, phải tuân luật pháp trong quy luật công bằng được bảo trì bởi công pháp là được bảo vệ mà cũng được xét xử qua luật pháp.

Quyền nhận thức sử tính

Quyền nhận thức sử tính của chính trị tỉnh-lãnh đạo thức là nhận thức lịch sử qua sử học, có nghiên cứu, có điều tra, có kiểm định, có sát quyết để sử liệu phải có đủ dữ kiện kiểm chứng thực được, để được thừa nhận là chứng từ để thành sử kiện, trong đó lãnh đạo sáng suốt nhờ tỉnh táo tìm ra được sử luận để hiểu được sử Việt, nhờ nắm được sử tính một cách khách quan. Trong sử này, có công trạng của các vì khai quốc công thần, nhưng cũng có bọn "sâu dân, mọc nước", chúng bán nước vì tư lợi, Việt tộc đã xếp chúng vào loại : "cõng rắn cắn gà nhà", "mang voi dầy mồ tổ", cha ông ta có công "dựng nước, giữ nước", riêng bọn nảy "bán nước như chơi", để dân tộc bị lâm vào nạn vong quốc "một sớm một chiều" cũng "như chơi" !

Quyền nhận thức sử tínhminh quyền của lãnh đạo, vì biết số kẻ "bán nước, buôn dân" không phải là hằng số mà là biến số tùy thuộc không những vào lòng yêu nước của mỗi con dân, nhất là của mỗi lãnh đạo, mà còn tùy thuộc vào 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh) tạo ra tâm cảnh giữa quyền tư lợi trong đó hệ của đạo đức (luân lý, đạo lý) trong giáo dục, hệ này phải được giáo dưỡng qua một hệ khác của lý trí (lý luận, lập luận, diển luận, giãi luận) để làm tròn bổn phận của kẻ lãnh đạo, vì "quốc thái, dân an" trong việc giữ toàn vẹn lãnh thổ, giữ trọn vẹn cơ đồ của tổ tiên. Nếu chúng ta yêu quý, tôn vinh Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung... đã xử lý trọn vẹn hai hệ lý trên ; của đạo đức của lý trí, thì chúng ta cũng phải hiểu thật rõ, thật đúng, thật sâu về "bọn bán nước" qua 3T (tâm địa-tâm tà-tâm lý) của chúng, như Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, mà không quên Hoàng Văn Hoan, ủy viên Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam... nơi mà tướng Hoàng Trương Long thố lộ là "bọn bán nước" hiện nay trong bộ máy lãnh đạo là "từ trăm này sinh ra trăm kia !", chúng ngày càng nhiều hay ngày càng ít thì là hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng của lãnh đạo hiện nay.

Quyền nhận thức sử tínhtrí quyền của lãnh đạo, luôn dựa trên kinh nghiệm của cha ông để"lột mặt nạ bọn bán nước buôn dân", dụng sử tính để hiểu sử xưa trong thông minh lãnh đạo để nắm sử nay, biết chuyển hóa thành chính quyền hiện đại để sử nay phải hay, đẹp, tốt, lành hơn sử xưa. Đó chính là sử luận để thấu hiểu sâu, xa, cao, rộng được sử Việt. Chính quyền hiện đại kiến thức sử tính, ý thức sử nay, có tri thức sử luận là chính quyền biết phối hợp tất cả ngành khoa học, từ khoa học kỹ thuật, thông tin, truyền thông cho tới khoa học xã hội và nhân văn, không những để hình sự hóa bọn bán nước mà còn tỉnh táo và sáng suốt để giúp các con dân không rơi vào vực thẳm bán nước, làm bụi đời rổng nhân phẩm, làm oan hồn trống nhân nghĩa !

Quyền chủ hóa nhân quyền

Quyền chủ hóa nhân quyền là lằn ranh phân chia làm ra mức phân định giữa một chính quyền vì văn minh của xã hội, vì phát triển của đất nước, vì đạo lý của dân tộc, luôn ngược lại với loại chính quyền lấy độc quyền để lạm quyền, lấy độc tài để diệt đa tài của nhân dân. Chính nhân quyền khi được tôn trọng sẽ có các cá nhân trở thành chủ thể lấy tự do của mình để sáng tạo ra các phát minh "ích nước, lợi dân", sẽ có các tập thể lấy tự chủ của mình để chế tác ra các sáng kiến mới vì "dân giàu, nước mạnh", sẽ có các cộng đồng lấy tự giác của mình để bảo trì các giá trị, các di sản, các đạo lý của tổ tiên qua "cha truyền, con nối" theo nghĩa đẹp.

Quyền chủ hóa nhân quyền, khi nhân tình được nhân tính nâng lên, khi nhân thế được nhân tri đẩy lên, khi nhân loại được nhân lý đề cao, thì chính nhân quyền này sẽ có nhân bản, nhân văn, tạo ra ý thức tập thể, sinh ra nhận thức cộng đồng, giúp chế tác ra tâm thức cá nhân, biết tôn trọng công lợi để bảo vệ tư lợi. Từ đây, lãnh đạo chính trị sẽ làm cầu nối để nhân quyền gặp được chủ quyền (cho dân, vì dân), trong đó nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, phê chuẩn các kết quả qua hiệu quảhậu quả của các chính sách, trực tiếp sử dụng chủ quyền của mình trong pháp luật để đầu phiếu, để tuyển cử, tạo ra tranh cử, để có được lãnh đạo thực tài và liêm chính trong sạch.

Quyền chủ hóa nhân quyền để văn minh hóa xã hội, văn hiến hóa dân tộc, mà cụ thể là có chính sách minh bạch để kẻ xấu không lấy được danh nghĩa của tôn giáo để "buôn thần, bán thánh", biến chuyện "xây chùa, lập miếu" thành chuyện làm thương mại, trong đó bọn "buôn chùa, bán Phật", được thu tiền trắng trợn qua xảo thuật : mua lộc, mua sớ... Chúng lại còn tổ chức với bọn tham những trong chính quyền địa phương để lập các trạm thu phí gần chùa ngay trên núi, trên đồi, đối với các con tin mê tín, dị đoan của chúng, thí thân đến các nơi này để thiêu tiền sẵn sàng thiêu thân để thiêu đạo, trực tiếp cho bọn ma giáo nhưng lại mặc áo cà sa bỏ túi bạc tỷ hàng tuần, hàng tháng.

Quyền chủ hóa nhân quyền lý trí, biết tách nếp sống văn minh ra khỏi thói quen mê tín, tách lý tính ra khỏi cuồng tín, chuyện tách ra để trực diện đấu tranh với cái xấu, tồi, tục, dở của ngu dân, lý trí này bắt buộc phải có trong tư duy của người lãnh đạo. Họ phải biết bảo vệ vốn liếng của tổ tiên mình, qua sự thật của lịch sử, qua chân lý của niềm tin, qua các giá trị đạo lý làm nên lẽ phải, để dân tộc được khai sáng và thực sự làm chủ lòng tin của mình, như làm chủ số phận của họ. Từ đó, biết khai thác sức mạnh của mình không để cái ma đạo của mê tín, dị đoan quyết định số kiếp họ. Quyền chủ hóa nhân quyền là vinh dự của các kẻ lãnh đạo biết trao, biết tặng, biết dâng lên cho tổ quốc mình, cho dân tộc mình quyền làm chủ chữ nhân qua chữ lý !

Quyền dân chủ hóa nhân tính

Quyền dân chủ hóa nhân tính trong nhân tình để nhân thế sống có nhân bản, đối xử với nhau có nhân văn, xử thế với nhau có nhân nghĩa, khi đó nhân tính này chắc chắn sẽ được bảo đảm không những bởi nhân đạonhân từ, mà còn được bảo hành bởi nhân lý, nhân tri, nhân trí. Cả hệ nhân này nằm gọn trong luật nhân quả chính trị, khi nhân của lãnh đạo sẽ sinh ra quả của chính sách, tạo ra hệ quả để nhân dân thấu rõ được các lãnh đạo có biết "ăn ở có hậu" hay không, vì "ăn ở không có hậu" sẽ bị "triệt hậu", sẽ thành "vô hậu", sẽ bị "người đời rủa trong truyền kiếp" !

Quyền dân chủ hóa nhân tính không phải chỉ là một tên gọi, một quyết tâm, một chính sách nhất thời, nó chính là nhân học nằm giữa trung tâm của chính trị học ; nơi mà lý thuyết luận nhân tâm của nó chính là phương pháp luận nhân trí của nó ; nơi mà khoa học luận nhân lý của nó chính là tri thức luận nhân nghĩa của nó. Nó không lý thuyết, nó chẳng mơ hồ, nó thoát mông lung, nó thắng xảo thuật trong hành động chính trị : vì nó là nó ! Vì nhân tính biết mình là ai ? Vì nhân tínhnhân tính. Nên nó không bao giờ sợ nhân thế, nó còn có sung lực làm nên nhân bản, có tiềm lực làm ra nhân văn, có mãnh lực tạo ra nhân từ. Vì nhân tính hiển hiện khuyên, dìu, dẫn, dắt, để nhân tình biết sống chung trong nhân loại.

Quyền dân chủ hóa nhân tính chống nghèo đói vì hạnh phúc "đủ ăn, đủ mặc" ; chống chiến tranh vì "quốc thái, dân an" ; chống thế chiến vì "nhân loại thái hòa" có trong , trong ngôn, trong từ của lãnh đạo các quốc gia văn minh vì dân chủ, khôn ngoan vì nhân quyền, thông minh nhờ nhân lý của nhân tính, mà chúng ta được nghe hàng ngày, hàng tháng, hàng năm trên diễn đàn của Liên Hiệp Quốc. Trong những lúc đó các lãnh đạo của các chế độ độc tài, độc đảng, độc quyền, độc tôn lấy tham quyền để đẻ ra quái thai tham quan, sinh ra bao ung thư tham nhũng, bao hoạn bịnh tham ô, thì chúng ta thấy chúng cúi đầu, lặng thinh... để nghe và... để nhục ! Các loại lãnh đạo này đừng tiếp tục "nhục nước, nhục dân" của họ trên chính trường quốc tế nữa !

*****************

Phần 8

Trị

"Tất cả các chế độ công sản hay cộng sản

đều thất bại trong lịch sử loài người

cũng chỉ vì chúng không tôn trọng tự do sáng tạo của cá nhân".

M.Gauchet

politique8

Các lãnh đạo chính trị từ trước đến nay của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang dựng lên qua tuyên truyền loại tự hào ảo này : xin ngừng lại ngay !

Tự... tại

(tự lập-tự chủ-tự cường)

Tự chủ nâng tự lập, tự lập tăng tự chủ, cả hai tương tác lẫn nhau, với thời gian, với thành công sẽ tạo ra tự cường, trong đó quyết tâm dứt khoát, thật mới và thật mạnh là : bỏ thói quen xin viện trợ, gạt thói xấu đi ăn xin quốc ngoại, giữ tự trọng để khi vào các đàm phán quốc tế không cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối, mà ngược lại phải thẳng lưng-ngẩng đầu-mạnh bước. Đừng tự hào mình cần cù, thông minh, cùng lúc cứ ngửa tay đi xin của người, các đàn anh lãnh đạo hãy làm gương cho đàn con, đàn cháu, đàn em sẽ lãnh đạo đất nước này : bỏ xin để làm, làm để tự lực, tự lực để nắm tự chủ, để giữ tự lập, nhất là tự lực tự trọng ! Hãy học người, chứ đừng xin người, học để bằng người, xin người chỉ để người khinh ! Tự chủ mang theo ít nhất là sáu ý lực khi tạo dựng ra chính sách : tự chủ về sáng kiến, tự chủ về quyết định, tự chủ về phương tiện, tự chủ về mục đích, tự chủ về hành động, tự chủ về cách ứng dụng vào thực tế. Tại đây, viện trợ quốc tế về khoa học kỹ thuật để tăng sức tự chủ, viện trợ quốc ngoại về chất xám, về tư vấn để nâng lực tự lập, ta không tự chối, vì một chính sách chính trị đứng đắn luôn tạo ra tự cường, không lạc lối vào lệ thuộc, vì lệ thuộc bắt kẻ ăn xin phải đi ăn xin suốt kiếp !

Tự lập mang theo ít nhất là hai nội lực khi chế tác ra chính sách : sáng kiến sáng tạo, đây là chuyện rất cụ thể sáng kiến trong đề nghị sáng tạo ra sản phẩm, làm nên năng suất, hiệu suất để tăng sản xuất. Tại đây, kinh nghiệm quốc tế, tài năng của các nước văn minh, tiên tiến được vận dụng tích cực một cách có ý thức vào thực tế của xã hội nước nhà, vào thực tại của dân tộc, không viển vông để bị lạc lối, cũng không bừa bãi để bị "rút ruột" đầu tư lẫn nguyên liệu bởi bọn tham ô.

Tự cường khai thác tính chủ động tương tác của tự chủ nâng tự lập, tự lập tăng tự chủ, được phân tích qua một chuyên ngành mới là kinh tế tri thức dạy ta là sẽ có một phương trình mới sinh ra trong quá trình lãnh đạo : tự chủ về phương tiện phải đi đôi với tự chủ với thích ứng, cùng lúc tự lập về công cụ phải song hành với tự lập về sáng kiến, tất cả luôn bị thu gọn vào một hệ số mà kẻ lãnh đạo phải làm "đầu tầu" để nhân dân và quần chúng luôn đóng vai tích cực trong "hệ sáng tạo thường xuyên", để vượt qua khó khăn !

Nếu muốn làm lãnh đạo mà không ở thế, ở vị, ở vai, ở lực của "hệ sáng tạo thường xuyên" thì đừng nên lãnh đạo ! vì sẽ không có tự chủtự lập để tự cường, và sẽ đánh mất tự tin, từ đấy sẽ không còn là lãnh đạo chính trị mà chỉ là ăn xin, ăn mày, ăn bám, ăn mòn chính trị.

Tự... lên

(tự tin-tự tạo-tự trọng-tự hào)

Tự tin luôn là động cơ mà cũng là hằng số trong lãnh đạo, chính lãnh đạo tự tin trên đường lối của mình qua xây dựng qua chính sách, từ lý luận đến phương án, từ lập luận đến công trình, dựa trên giãi luận của tiềm lực của dân tộc, các tiềm năng của đất nước. Nhân dân tự tin vì lãnh đạo tự tin ! Và chính trị thức-lãnh đạo tỉnh là nội lực lãnh đạo luôn có một giáo khoa chính trị từ đề nghị đến đám phán, tự quyết định đến hành động, một giáo khoa chính trị tạo được niềm tin rộng rãi trong xã hội ; Nhật Bản đã làm được điều này ngay trong thảm bại của họ sau đệ nghị thế chiến.

Tự tạo, lấy tự tin làm nền, nhưng cũng lấy đạo lý lao động (thức khuya dậy sớm) làm gốc, lấy tự tin để tra sáng kiến tìm sáng tạo, nhưng cũng lấy đạo đức lao công (một nắng hai sương) làm cội. Có nền, có gốc, có cội vững và bền vì có rễ sâu, và mạnh của cần lao dựa trên cần kiệm (ăn bữa sáng lo bữa tối), biết chắt chiu để làm đại sự, cùng lúc biết học các kinh nghiệm hay, các gương sáng tài, các tri thức cao để : góp gió thành bão, Hàn Quốc đã làm được chuyện này, chỉ non nửa thế kỷ, khi biết học không những phương Tây, mà cận kề là Nhật Bản.

Tự trọng,gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi ý chí đi lên của một dân tộc, mọi ý nguyện thăng hoa của một giống nòi, mà lãnh đạo chính trị biến thành ý lực trong chính sách của mình, rồi chế tác ra thành thực lực trong hành động lãnh đạo. Hãy gạt ra chiến thuật ngu dân biển người trong chiến tranh kiểu Trung Quốc, xua ra luôn kiểu giải thích thành công của Trung Quốc qua lao động với lương bổng rẻ... để thấy cái cao cũng là cái sâu của dân tộc này là họ có lòng tự trọng, quyết tâm thực hiện được những thành tựu, thành quả, thành đạt, thành công của hai quốc gia láng giềng là Nhật Bản và Hàn Quốc. Mà không quên vai trò lãnh đạo của Đặng Tử Bình vừa có sáng suốt để đưa Hán tộc thăng hoa qua bốn hiện đại, vừa tỉnh táo thay đổi triệt để chính trị quan khi tới thăm Hoa Kỳ lần đầu, trực diện để trực quan, từ đó có đủ sáng suốt và tỉnh táo để thay đời, đổi kiếp cho bằng được số phận của Trung Quốc.

Tự hào chỉ có khi có cơ sở của tự tin-tự tạo-tự trọng, cụ thể hóa qua cơ ngơi của thành tựu, thành quả, thành đạt, thành công qua nhiều sinh hoạt của xã hội, nếu không có hai cơ sở-cơ ngơi này thì tự hào cái gì ? Đó chỉ là tự hào liều-tự hào hảo-tự hào xuẩn vì nó bị dựng lên bởi tự hào rổng-tự hào trống-tự hào điêu !

Các lãnh đạo chính trị từ trước đến nay của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang dựng lên qua tuyên truyền loại tự hào ảo này : xin ngừng lại ngay ! Mà phải bắt đầu xem lại phương trình tự tin-tự tạo-tự trọng-tự hào ; tiếp theo là học gương sáng của : Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, và không quên đường đi nước bước của Đài Loan, Singapour trong thế kỷ qua, vì đây mới chính là chính trị quan tỉnh thức từ hệ tự.

Tạo

(sáng kiến-sáng tạo-sáng lập)

Tạo, qua các quá trình : chế tạo, sáng tạo trong tự tạo, được hiểu như khám phá, như phát minh, như sáng chế, và trong đó vai trò lãnh đạo có rất nhiều cửa ngỏ để vào nhiều hành động lãnh đạo, tạo ra sức bật cho xã hội, sức tăng trưởng cho kinh tế. Có sáng kiến trong đề nghị, trong đối thoại... để sáng tạo ra sản phẩm, công trình, từ đó sáng lập từ hạ tầng tới thượng tầng các quy trình, quy mô mới làm thay đổi bộ mặt xã hội, cùng lúc nâng mức sống của nhân dân.

Sáng tạo trong lãnh đạo chính trị khởi nguồn qua sáng kiến dưới dạng đề nghị các chính sách, và trong mọi chính sách có ít nhất là hai mức độ khác nhau dựa trên ba chỉ báo : sân chơi, trò chơi, luật chơi để quyết định hành động lãnh đạo. Thứ nhất là cải cách, trong đó lãnh đạo giữ sân chơi, trò chơi, mà chỉ đổi luật chơi cho hợp hơn, hay hơn, hiệu quả hơn. Thứ nhì là cách mạng, tại đây lãnh đạo xóa sân chơi, dẹp trò chơi, thay luật chơi, làm lại hết, có khi phải làm lại từ đầu, với tốn kém, với hao tổn, với hy sinh. Nếu không phân biệt được cải cách cách mạng qua mức độ đầu tư sức người, vốn liếng để phân định được biên giới giữa cải cách chỉ là thay đổi tường và vách mà vẫn giữ nền và móng. Ngược lại, cách mạngđổi đời (tuyệt đối trong biến đổi) theo nghĩa tích cực cho thành phần này và tiêu cực cho thành phần kia ; không biết phân biệt để hiểu phân định giữa cải cách cách mạng thì đừng nên lãnh đạo ! Nếu lãnh đạo trong vô tri thì chỉ gây ra đổ vỡ, chết chóc, suy vong đất nước, suy kiệt giống nòi.

Sáng tạo trong lãnh đạo chính trị có thể huy động qua công trình, tại đây điều tra cơ bản song hành cùng kiểm tra thống kê, để khi chính sách đi vào quy trình thì trên thượng nguồn vốn người sẽ đi cùng với vốn của, chất xám hài hòa cùng vật liệu, hậu cần trợ lực cho tiền phương, đây không những đúng chỉ trên mặt trận quân sự, ngoại giao mà đúng cả trên lĩnh vực kinh tế và sản xuất. Mỗi sáng tạo luôn có cái giá phải trả, mỗi giá đòi hỏi lãnh đạo phải sáng suốt trong đầu tư, phải tỉnh táo trong quyết định.

Sáng tạo trong lãnh đạo chính trị có thể thể hiện qua cải tổ, qua cải tiến, qua trùng tu, nơi đây thông minh của lãnh đạo chính trị là không "tham đó, bỏ đây", mù quáng vì tiên tiến mà quên cội nguồn, ngược lại biết đều chế để đều hòa giữa hiện đại và truyền thống. Đưa cái mới hay để hòa với cái cũ tốt, đưa cái đẹp mới khám phá để song hành cùng cái lành xưa đã có sẵn. Mọi chính sách đều bắt lãnh đạo trả một cái giá nào đó, trong đó thành công sẽ tạo uy tín cho lãnh đạo, thất bại sẽ hủy diệt niềm tin của nhân dân đối với lãnh đạo, vì chữ tin làm nên chữ tín.

Đồng

(Đồng cảm-đồng giao-đồng lòng = đồng hội, đồng thuyền)

Đồng bào, tiếng gọi thiêng liêng giữa người Việt với nhau, luôn mang theo ý thức của một dân tộc sinh ra trong cùng một bào thai, đây cũng là hằng số cơ may của các lãnh đạo chính trị trong lịch sử Việt, chỉ vì nó có hùng lực tập hợp tức khắc khối đại đoàn kết dân tộc mỗi khi đất nước bị ngoại xâm đe dọa, mỗi khi tiền đồ tổ tiên bị xâm phạm từ lãnh thổ tới văn hóa. Trong khi đó, các lãnh đạo Tầu thì gọi nhân dân họ là : thiên hạ, bá tánh... vừa xa lạ, vừa thờ ơ, so với từ đồng bào.

Đồng cảm, chính là thử thách thường xuyên của lãnh đạo chính trị, trước các thử thách của thời cuộc, trước các thăng trầm trong thời thế, nơi mà đồng bào nếu có lòng tin với chính giới, sẽ có sự đồng cảm với lãnh đạo, nếu những kẻ nầy có công tâm để bảo vệ sự liêm chính của họ, có công lý để bảo trì sự liêm sỉ của họ trong chính sách cũng như trong hành động chính trị hằng ngày của họ.

Đồng giao, biến niềm tin của nhân dân thành tâm giao với lãnh đạo chính trị, nếu họ biết yêu nước-thương dân, làm việc và hy sinh vì nước-vì dân. Đây là thất bại xem như lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam trong gần một thế kỷ qua với hành vi độc đoán vì độc tài, độc tôn vì độc đảng, dùng chuyên chính để chuyên quyền, từ đó bạo lực đi đôi với tham ô, bạo quyền song hành cùng tham nhũng.

Đồng lòng, khi vận nước lâm nguy, lấy đồng tâm giữa nhân dân và lãnh đạo để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đây là tinh thể của chính trị, vì nó bất chấp mọi kẻ thù, dù lớn, mạnh cỡ nào. Nơi đây, Việt tộc đã có châm ngôn luân lý, ngạn ngữ đạo lý để sẵn sàng hành động : "cả nước một lòng", ngữ pháp của sung lực-nội công-bản lĩnh Việt tộc có thể đẩy lùi, đánh văng mọi ngoại xâm.

Đồng hội, đồng thuyền, chính là phương châm của lãnh đạo chính trị, nơi mà chính thể chính là chính nghĩa của chính sách cứu nước, giữ nước, làm thăng hoa dân tộc. Tình hình hiện nay của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, qua hối lộ đã vơ vét bao tiền của của nhân dân, một số đã có thẻ xanh, quốc tịch ngoại, sẵn sàng "cao chạy, xa bay" thì chắc chắn sẽ không có chuyện đồng hội, đồng thuyền, mà chỉ có chuyện mà Nguyễn Du đã có lần dặn con cháu nên cẩn trọng : "Trong khi chắp cánh liền cành, mà lòng rẻ rúng đã dành một bên".

Bọn lãnh đạo nào đã giựt của-vét tiền của dân, lén lút để có thẻ xanh, quốc tịch ngoại trong túi, nếu muốn hiểu chữ đồng, thì cũng chưa muộn, hãy ngồi thật yên để ngẫm giáo lý Việt dầy nhân tính, không oán thù, qua ái ngữ : "Nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta".

Chí

(ý chí-quyết chí-bền chí)

"Có chí", là câu trả lời của Dala Lama, lãnh tụ tinh thần kháng chiến Tây Tạng, trả lời với các người Việt đã gặp được ngài và hỏi ý kiến ngài về tương lai đen tối đang bị Tầu tặc đe dọa, có thể sẽ chịu số phận mất nước như nhân dân của ông. Ngài trả lời là tin người Việt "có chí", đó chính là hằng số của Việt tộc, giữ cho bằng được độc lập tổ quốc Việt, ngài trả lời như vậy với tất cả sự sáng suốt của ngài. Ý chí, là gốc của chuyện "có chí", ngay trên thượng nguồn ý chí của một dân tộc được thấy qua chuyện quyết tâm của một giống nòi giữ cho bằng được đất nước của tổ tiên, như giữ bản sắc, văn hóa, văn minh, văn hiến của dân tộc như tin vào bản lĩnh của độc lập, nội công của chủ quyền, như giữ chính nhân phẩm của mình.

Quyết chí, mài thật sắc, dũa thật nhọn ý chí để nó vừa bén, vừa bền với thời gian, trong đó quyết tâm song hành cùng ý chí sẽ tạo ra bền lòng trước thử thách, chuyện này lại thấy rất rõ trong lịch sử của Việt tộc, sau một ngàn năm nô lệ, nhưng Ngô Quyền đã cởi trói, chặt xiềng nô lệ bằng một chiến thắng thật vẻ vang. Thấy rất rõ trong đời Trần, ba lần đánh quỵ sụp bọn hung hăng nhất là Nguyên Mông, thầy càng rõ hơn trong chuyện bền gan của Lê Lợi, Nguyễn Trãi trong trường kỳ kháng chiến tại Chí Linh.

Bền chí, nuôi quyết chí qua thời gian, làm nó vững bền trong không gian kháng chiến cũng như xây dựng, nơi mà lãnh đạo luôn có niềm tin vào Việt tộc luôn bền chí bền lòng trong khó khăn, bền tâm trước các thăng trầm, nếu không hiểu chữ chí trong hằng số Việt : thì đừng lãnh đạo ! Chính bọn "mang voi dày mồ tổ", chính kẻ "cõng rắn cắn gà nhà" đã không hiểu nên chúng chóng chầy cũng mang số phận ma bùn, ma xó, trước khi thành oan hồn trong cảnh "chết bờ, chết bụi", trong khi Việt tộc luôn tồn tại để giữ chủ quyền và độc lập của mình. Chí nguyện, là một ẩn số của thử thách hiện nay đối với các lãnh đạo trong thời gian tới, vì chính ý chí làm nên ý lực chế tác ra ý nguyện của nhân dân, nơi ý nguyền của Việt tộc chính là nhân phẩm Việt trong độc lập dân tộc với toàn vẹn lãnh thổ Việt. Nếu không hiểu phương trình ý chí-ý lực-ý nguyện-ý nguyền làm lên khối đại đoàn kết dân tộc, qua hội nghị Diên Hồng, qua bao lần quyết chí để quyết chiếnquyết thắng thì đừng lãnh đạo, lãnh đạo mà không có tư duy quyết chí-quyết chiến-quyết thắng thì chỉ làm nhục nước-hèn dân thôi !

Thành

(thành tựu-thành quả-thành đạt-thành công)

Thành tựu, trong cần mẫn trong lao động dẫn tới tích của-tụ vốn để nới ngõ-mở cửa cho xuất khẩu, để tìm thêm các thành tựu khác trong thương mại, mà luôn không quên là chúng ta có những hàng xóm đi buôn rất giỏi, quản lý xuất nhập khẩu rất tài, có tầm cỡ lớn không những trong Châu Á mà trên cả thế giới hiện nay : Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour, mà không quên Thái Lan, Mã Lai, lại càng phải chú ý các bước tiến gần đây của Campuchia, Lào.

Khi nghiên cứu đặc biệt về thành tựu, các chuyên gia tìm ra được ít nhất là ba nguyên nhân : thành tựu trên vốn liếng sẵn có từ lâu (như nông nghiệp của Việt Nam), thành tựu trên sở trường vừa tới từ địa dư-đại lý-địa phận của một đất nước (như thuận lợi trong chuyên môn hóa trồng trọt và xuất khẩu cà phê của Việt Nam), nhưng yếu tố quan trọng hằng đầu vẫn là chính trị sáng-lãnh đạo thức để có được một chính trị quan thích ứng-thích nghi-thích hợp với tình hình hình của thế giới hiện nay.

Thành quả, là kết quả đạt được trong từng khu vực, vừa được so sánh từng ngành nghề, vừa được tổng kết của tất cả các sinh hoạt từ sản suất tới tiêu thụ, từ xuất khẩu qua nhập khẩu, từ kinh tế qua thương mại, tạo nên sức bật làm thăng hoa giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, trong đó thành tựu của sáng tạo trong khoa học kỹ thuật luôn được mở cửa bởi quyết tâm của các chính sách, được thăng tiến rồi thăng hoa nhờ quyết tâm của lãnh đạo chính trị. Nơi mà lãnh đạo chính trị giỏi biết khai thác thời thế mà không chịu đựng thời thế ; nơi mà lãnh đạo chính trị tài biết tạo ra thuận thời-mẩn thế ; nơi mà lãnh đạo chính trị lớn biết biến thất thế thành thuận kế, biết chuyển thất thời thành thuận mưu ; các minh vương, minh quân, minh sư của các đời Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê... đã có chiến tích, chiến công trước các tình huống rất xấu, rất nguy.

Thành đạt, dùng thành tựu cũ làm ra thành tựu mới, dùng thành quả xưa làm ra thành quả mới, hiệu quả năm nay hơn hiệu quả năm qua, tăng trưởng liên tục để không ngừng thăng tiến, những gì đã đạt được sẽ làm dàn phóng cho các thành đạt sắp tới. Đầu tư thì không "vung tay quá trán", sản xuất thì "leo thang-nâng cấp", trong xã hội có "trong ấm, ngoài êm".

Thành công chính là kết quả thật sự của phương trình tổng thể thành tựu-thành quả-thành đạt, không những làm gốc, rễ, cội, nguồn cho chuyện "ăn no-mặc ấm", có cùng lúc với "ăn chắc, mặc bền", mà lãnh đạo chính trị giỏi-tài-lớn không ngần ngại biến hoài bão "ăn ngon, mặc đẹp" thành hiện thực ! Đây chính là danh dự thành nhân của lãnh đạo chính trị !

Tranh

(tranh tài-tranh đua-tranh đấu)

Tranh tài luôn có trong quan hệ quốc tế, từ kinh tế, thương mại, xuất khẩu qua giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, nó trở thành nỗi bất hạnh của nhân loại trong tranh tài để chạy đua vũ trang, nhưng nó là cơ may cho các khám phá kỹ thuật, y học vừa bảo đảm tiện nghi, sức khỏe, vừa nâng tuổi thọ, vì trực tiếp phục vụ con người và đời sống. Các quốc gia có lãnh đạo chính trị cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối trước hiện thực tranh tài quốc tế đều -trực tiếp hoặc gián tiếp- đưa dân tộc của mình vào hố sâu !

Tranh đua, theo nghĩa tranh tài thường xuyên vừa là động cơ chính, vừa là sự vận hành thường trực của toàn cầu hóa hiện nay, nơi đời sống xã hội thay đổi hằng ngày với mạng truyền thông toàn cầu, trực tiếp, tức khắc, tạo ra không khí, bối cảnh tranh đua từng ngày trong kinh tế, thương mại, xuất khẩu, khoa học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, nghệ thuật… Tại đây, chính trị tỉnh-lãnh đạo thức phải có chính trị quan mở để học các phát minh hay, các nghệ thuật đẹp, các kinh tế tốt, các kỹ thuật lành. Nhưng không mở vô điều kiện, vô tội vạ, mở để chấp nhận tranh đua, để biết người, biết ta, không bị lỗi thời trong kiến thức, lạc đường trong tri thức, lầm hướng trong nhận thức.

Tranh đấu, không hề vắng mặt trong lãnh đạo chính trị, đấu tranh chống bất bình đẳng để chống bất công, để tìm tới công bằng. Tranh đấu vì "cơm no, áo ấm" để có "trong ấm, ngoài êm" là đấu tranh trực tiếp hay gián tiếp cho nhân quyền. Tranh đấu vì tự do để có dân chủ là đấu tranh mà không quên lấy đoàn kếttương trợ để phục vụ cho bác ái, có đạo lý "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ", vì có đạo đức "bầu ơi thương lấy bí cùng". Tranh đấu chống vô cảm, vô giác để chống luôn vô tri, vô minh. Tranh đấu để giữ lương tâm, để vững lương tri, để làm người lương thiện !

Tranh tài-tranh đua-tranh đấu, hoàn toàn ngược lại với "tranh của" tới tự các động cơ xấu, tồi, tục, dở của lòng tham lam muốn lấy của người thân, người nhà, người dân ; lại khác hẳn với "tranh quyền" thường mang theo các ý đồ thâm, độc, ác, hiểm để truy diệt động chí, đồng đội, đồng đảng. Vì tranh tài-tranh đua-tranh đấu thăng hoa nhân trí, thăng tiến nhân tri, để phục vụ trực tiếp cho nhân bảnnhân văn ; trái ngược với "tranh của" làm thấp nhân nghĩa, với "tranh quyền" hạ thấp nhân đạo. Bi kịch của Việt tộc hiện nay mà nguyên nhân là sự độc đảng trong tranh quyền-tranh của, đã hủy diệt bao cơ hội tranh tài-tranh đua-tranh đấu của bao thế hệ không có cơ hội vận dụng tài năng, năng khiếu để so tài cùng láng giềng và thế giới !

Hiệu

(hiệu quả-hiệu năng-hiệu suất)

Hiệu quả tạo ra kết quả tích cực theo hướng đi lên trong chức năng, vài trò của lãnh đạo, đo lường được qua định chấtđịnh lượng trong công việc hằng ngày dựa trên các chỉ tiêu của chính sách được chính lãnh đạo đặt ra. Đo lường được qua quy trình làm ra các sản phẩm mới, đo lường được qua khả năng xử lý các công việc đã và đang bị tồn đọng từ bao lâu nay ; nhưng đo lường thông minh nhất về hiệu quả lãnh đạo là : nhờ sự sáng suốt của lãnh đạo mà tập thể tăng năng xuất, nhờ sự thông thái của lãnh đạo mà cộng đồng tăng sản xuất. Chính nhờ lãnh đạo giỏi mà dân tộc biết "thức khuya dậy sớm", nhận chuyện "một nắng, hai sương" với tất cả ý thức muốn đi lên, có lúc chấp nhận luôn chuyện "thắt lưng, buột bụng", để cùng với lãnh đạo làm được chuyện"ăn bữa sáng, lo bữa tối", với tất cả ý thức của "đồng hội, đồng thuyền" cùng lãnh đạo. Các láng giềng của Việt Nam : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapour đã làm được các việc này với lòng quả cảm, với nhận thức của tự trọng của dân tộc họ.

Hiệu năng, mang mức độ đi lên, mang cường độ đi xa trong hiệu quả, tăng hiệu suất trong lao động, nâng sản suất đi lên, tại đây kẻ lãnh đạo và người dân không lãnh đạo khác nhau ở chỗ là làm lãnh đạo thì phải hiểu thời-biết thế, muốn thấu cả thời lẫn thế thì phải biết khai thác phương trình 3C (bối cảnh-hoàn cảnh-thực cảnh). Trong đó bối cảnh, bó buộc kẻ lãnh đạo phải nhận định sắc bén các dữ kiện của bây giờở đây để "cái khó (không) bó cái khôn", nếu lãnh đạo chính trị mà cứ ra rả nhắc đi nhắc lại như phản xạ"cái khó bó cái khôn" thì đừng lãnh đạo, để vai trò đó cho người khác làm ! Tiếp theo là hoàn cảnh, mang những biến số thời cuộc nơi mà chính trị, kinh tế, thương mại, giáo dục, văn hóa... mang những ẩn số riêng của mỗi khu vực, có cơ cấu riêng, có sự vận hành riêng, thậm chí có những tiến độ, khủng hoảng và suy thoái riêng của nó. Trên đây, định lượng trong kinh tế và thương mại được hiệu suất hóa dễ hơn trong giáo dục và văn hóa.

Từ đó lãnh đạo phải rành mạch là : đầu tư vào con người luôn là chiến lược dài hạn và hữu hiệu hơn là đầu tư vào máy móc, vào công cụ, vì chính con người sẽ đủ tâm, đủ lực để hiện đại hóa, để hiệu năng hóa máy móc và công cụ. Cuối cùng là thực cảnh, thực tế của xã hội, thực tại của dân tộc chính là hằng số cụ thể để lãnh đạo làm ra chính sách, tại đây "có thực (tế) với vực được đạo", chính phương trình thực cảnh (thực tế-thực tại) bó kẻ lãnh đạo phải tìm ra quỷ đạo thực dụng tích cực (ít tốn kếm nhất, ít chi tiêu nhất, ít hao tổn nhất, ít đau khổ nhất...).

Hiệu quả của thực dụng tích cực sẽ kết hợp với hiệu năng lãnh đạo một cách hữu hiệu nhất để tạo ra thành công cho lãnh đạo.

Chống... đứt ruột

Chống... đứt ruột là từ ngữ được sử dụng như châm ngôn của chính giới các nước văn minh, giữ được dân chủ vì nắm được nhân quyền, luôn dặn dò nhau khi làm lãnh đạo ; một ngữ pháp chính trị được dụng như phương châm lãnh đạo hàng ngày : quyết tâm không để mất tiền đồ mà tổ tiên, cụ thể là không để mất di sản lẫn văn hóa, không để mất chất xám trí thức lẫn hệ thống huấn luyện và đào tạo các thế hệ tương lai, với các hằng số chống đứt ruột như chống các ý đồ bành trướng xăm lăng muốn bứng gốc-nạo rễ vốn liếng của dân tộc mình, xin kể vài lãnh vực then chốt phải bảo vệ cho bằng được sau đây :

1. Không để đối phương mua bán hoặc thao túng hệ đào tạo chuyên môn, trong đó phải bảo vệ cho bằng được hệ thống đại học của nước nhà. Bi kịch hiện nay của trí thức và sinh viên Việt là chính quyền đang nhắm mắt để Trung Quốc mua các đại học dân lập của Việt Nam, hậu quả sẽ không lường hết được.

2. Không chấp nhận đối phương quậy nát rồi ô nhiễm môi trường của đất nước, vì môi trường của đất nước là môi sinh của dân tộc, chuyện sống còn của bao thế hệ là đây. Thảm kịch đã diễn ra với ô nhiễm môi trường trầm trọng gây ra bởi Formosa, ô nhiễm môi trường trầm trọng sẽ là ô nhiễm môi sinh trầm kha ; hậu nạn không ai thẩm định được, chưa kể oan nạn sẽ tiếp tục xẩy ra với cách khai thác bô-xít, cây rừng của Tầu trên Tây nguyên, cùng với bao nhà máy dầy độc chất rải đầy trên các vùng miền của đất nước.

3. Không cho ngoại xâm quyết định cơ sở hạ tầng của mình, từ quốc lộ tới đường cao tốc, từ nhà ga tới sân bay, từ đô thị hóa tới tổ chức giao thông không, thủy, bộ. Thảm kịch đang xảy ra trước mắt Việt tộc với bao doanh nghiệp và doanh nhân Trung Quốc đã thành đa số trong tất cả các đầu tư quốc tế tại Việt Nam, họ đang quyết định cơ sở hạ tầng của đất nước mà ý đồ xâm lược vừa lén lút, vừa quy mô, sẽ gây ra một loại ung thư địa dư kinh tế và quân sự, mà ta không sao trở tay đúng lúc khi âm mưu xâm lược thành hiện thực ngay trên cơ ngơi của ta.

Gây đứt ruột trong tâm địa của đối phương là làm hai chuyện cùng lúc : cắt ruột nạo ruột ; trước hết là cắt ruột để cắt toàn vẹn lãnh thổ của một dân tộc ; nạo ruột là đào cho rổng mọi tài nguyên, mọi tiềm năng của một đất nước.

Đảng cộng sản Việt Nam với các lãnh đạo hiện nay đã nghiên cứu đầy đủ về bài toán thâm, độc, ác, hiểm gây đứt ruột-cắt đứt ruột-nạo rổng ruột của Tầu tặc chưa ? Không tỉnh táo và không sáng suốt với 3 ẩn số ruột này thì đừng lãnh đạo !

Tam thuật lãnh đạo :

3Đ = đề nghị+đối thoại+đàm phán

3C = bối cảnh+hoàn cảnh+tâm cảnh

3Ư = thích ứng+linh ứng+diệu ứng.

Kỹ thuật lãnh đạo luôn được thao tác như nghệ thuật lãnh đạo trong chính trị cũng như trong quản lý, qua một quá trình hành xử với thái độ có văn minh, cùng các hành vi có văn hóa, thể hiện bằng hành động mang sự thông minh sắc sảo : sự thông minh biết tôn trọng lẫn nhau. Đây là một quá trình giáo dục mà các lãnh đạo độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc đảng) phải học nhiều của các nước có nhân quyền, biết dân chủ, tổ chức theo đa (đa nguyên, đa tài, đa năng, đa hiệu).

3Đ = đề nghị+đối thoại+đàm phán, quá trình này đưa mọi sáng kiến, mọi sáng tạo vào khung các phướng án hướng về tập thể, trong đó đề nghị là khả năng làm sáng ý muốn, làm rõ ý định để khi vào đối thoại thì dữ kiện song hành cùng chứng từ, để lý luận trong đối thoại thành lập luận phục vụ tập thể. Và, khúc quanh là đàm phán -để đấu giá và trả giá- nơi làm rõ quyền lợi và quyền lực của mỗi bên, tạo tiền để cho giai đoạn tiên quyết là : quyết định tập thể, sẽ là gốc, cội, nền cho chung kết tức là hành động cụ thể của tập thể đó.

3C = bối cảnh+hoàn cảnh+tâm cảnh, là thượng nguồn của quá trình tạo ra 3Đ = đề nghị+đối thoại+đàm phán. Chính bối cảnh của môi trường thực tế điều kiện hóa mọi hoàn cảnh cụ thể của cả tập thể, bó kẻ lãnh đạo phải nắm tình hình thực tiễn để xây chính sách, tạo đề án, lập chương trình. Từ bối cảnh được nhận định tổng quan dựa trên hoàn cảnh được nhận thức bởi lãnh đạo, thì chiến lược để thực hiện các phương án đã mang tính thực tiễn (bám thực tế, hiểu thực dụng để sáng tạo qua thực thi), trong đó sự sáng suốt của kẻ lãnh đạo là thấu suốt tâm cảnh của quần chúng, thấu đáo các diển biến tâm cảnh đó qua quá trình thực thi các chính sách.

3Ư = thích ứng+linh ứng+diệu ứng, là quá trình dùng tri thức lãnh đạo để vào thực hành lãnh đạo, khi biết thích ứng"cái khó bó cái khôn", thì không bó tay, vì làm lãnh đạo là để giúp tập thể vượt qua cái khó, nếu bó tay thì đừng lãnh đạo. Linh ứng, được cụ thể hóa bắng các hành động : linh động thích ứng, linh động xử lý, linh động giải quyết. Khi đó kẻ lãnh đạo đã biết "cởi trói, thoát rào" để tìm diệu ứng từ tất cả các đồng minh gần xa giúp cho đường lối lãnh đạo thăng hoa, hòa giải các khó khăn trong đó vai trò của tri thức luận (tìm tri thức mới để củng cố tri thức đã có) nơi mà khoa học, kỹ thuật, truyền thông… giúp kẻ lãnh đạo tiếp nhận linh diệu các tiềm năng mới vừa được tri thức mới khai thác để đưa vào thực tiễn của cuộc sống.

Hãy lãnh đạo với phản xạ tri thức đi tìm tri thức, để kiến thức vững đã có tạo nên kiến thức mới làm khôn lãnh đạo : khôn ra để khôn lên… Mỗi ngày lãnh đạo quần chúng mà không khôn ra để khôn lên thì nên từ chức, càng sớm càng đỡ làm khổ dân !

******************

Phần 9

Hành

Khác biệt sinh ra khoảng cách,

đừng sợ khoảng cách : chính khác biệt làm giầu kiến thức

và khoảng cách làm giầu cho đối thoại".

F. Jullien

politique9

Khi hành xử được dựa vào hành trang, thì hành trình của kẻ lãnh đạo chính là thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức), chính trị thức với lãnh đạo tỉnh !

Thức tỉnh ngược lại với ngu si, ngu muội, ngu mê, trong bi kịch vô tri, vô minh, vô giác, cội nguồn của bao bi nạn cho Việt tộc.

Hành

Hành vi của kẻ lãnh đạo phản ảnh ít nhất hai cốt lõi trong thực chất của con người lãnh đạo : khả năng lãnh đạođạo đức lãnh đạo, hai cốt lõi vượt xa và vượt ngoài các khẩu lệnh tuyên truyền : hồngchuyên, rổng về diễn luận và trống về giải luận. Khả năng lãnh đạo có nền là giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án), quyết định khả năng của học, nơi mà học vịhọc hàm luôn được căn cứ vào học lực, cấm tuyệt đối chuyện học giả, thi giả, bằng giả. Chính học lực, tức là học thật, thi thật, bằng thật, kết tinh ra phương trình học lực-học thật để bảo trì cho thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức).

Ở đây, tất cả đều thật về tiềm năng, đều thực về khả năng lãnh đạo, phương trình giáo-học-thức không có chỗ cho chuyện "đánh lận con đen". Chính liêm chính trong giáo-học-thức nên có liêm sỉ trong đạo đức lãnh đạo, nếu được làm việc trong các cơ chế công minh, trong một chế độ liêm minh, dụng công bằng qua công lý để thực hiện được chuyện so ra mới biết ngắn dài trong vai trò, chức năng lãnh đạo. Tại đây, phương trình gian lận quan hệ-tiền tệ-hậu duệ không hủy diệt được trí tuệ lãnh đạo. Nhân dân luôn có thẩm quyền để so sánh các khả năng giữa các lãnh đạo, và sau này lịch sử sẽ làm tiếp chuyện cân, đo, đong, đếm này khi các lãnh đạo rời cõi đời này.

Hành động của kẻ lãnh đạo nói lên cũng ít nhất ba chuyện : "biết người, biết ta", vì không hồ đồ trong phản xạ "suy bụng ta ra bụng người", lại càng cẩn trọng trong chuyện "được mắt ta ra mắt người", tựu trung là lãnh đạo sống với người (nhân tình, nhân thế, nhân loại), lãnh đạo vì người (nhân tính, nhân nghĩa, nhân đạo), bằng mong muốn phục vụ người (nhân tri, nhân trí, nhân văn), chớ không phải lãnh đạo vì mình, phục vụ lợi ít riêng tư của mình. Đây là thất bại lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam (từ sau 1975 khi hòa bình được lập lại) đã tư hữu hóa quyền lực và quyền lợi công sức lao động của đồng bào và tài nguyên của đất nước để làm chuyện "đi buôn riêng", và khi đã biến công lợi thành tư lợi thì bị mù quáng hóa ngay trong việc tranh giành giữa các phe nhóm lãnh đạo, như các mafia đang trừ khử nhau, mà quên nhiệm vụ phải thăng hoa Việt tộc như bổn phận chính của mọi lãnh đạo.

Hành xử của lãnh đạo trong chuyện "đối nhân xử thế" qua việc "yêu nước thương dân", đòi hỏi phải tổ chức lại hành trang của lãnh đạo trong đó quy trình giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án), chế tác ra học, nơi mà học lực quyết định học vị và kiểm nhận học hàm, trong quá trình học thật. Khi hành xử được dựa vào hành trang, thì hành trình của kẻ lãnh đạo chính là thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức), chính trị thức với lãnh đạo tỉnh ! Thức tỉnh ngược lại với ngu si, ngu muội, ngu mê, trong bi kịch vô tri, vô minh, vô giác, cội nguồn của bao bi nạn cho Việt tộc.

Tốt

Tốt, là kết quả cụ thể của mọi hành động, tốt thiết thực là : khá hơn, tốt đi theo hướng tích cực : giỏi hơn. Tốt, luôn có bối cảnh của một thượng nguồn : một xã hội tốt là một xã hội có một định chế tốt, một định chế tốt là kết quả của một chính sách tốt, một chính sách tốt là hiệu quả của một chính trị tốt, một chính trị tốt tới từ lãnh đạo tốtgiỏi. Tốt, luôn có thực cảnh của một hạ nguồn : một xã hội tốt làm ra một đời sống tốt, với những cá nhân tốt, tập thể tốt, cộng đồng tốt. Thực trạng của xã hội của Việt Nam hiện nay là đời sống không tốt, xã hội không tốt, định chế không tốt, chính sách không tốt, chính trị không tốt, chắc chắn là lãnh đạo không tốtkhông giỏi !

Lao

Lao trong ngữ pháp luôn mang theo hai nội nghĩa, tích cực và tiêu cực, cả hai đều phải được các kẻ muốn lãnh đạo phải suy ngẫm, suy càng sâu thì nghĩ càng cao, vì nếu tích cực sẽ có hiệu quả tốt, nếu tiêu cực sẽ tạo hậu quả xấu.

Lao chỉ đạo lao động biết "thức khuya, dậy sớm", biến hiệu năng thành hiệu quả ; biết "một nắng hai sương", lấy hiệu quả làm hiệu lực ; biết "lấy công làm lời" lấy hiệu lực làm thực lực, thì liêm sỉ nghề nghiệp sẽ tới, lương tri công việc sẽ rõ, vì lương tâm lao động đã có. Câu chuyện này càng đúng hơn và rất dễ thấy trong giới lãnh đạo của các nước tiên tiến, văn minh, nơi mà dân chủ và nhân quyền hiển hiện trong : người thật, việc thật và lao động thật.

Tất cả hệ lao đều có thể so sánh được, và trong bối cảnh của chính trị nội đảng để nội quyền, nơi mà tiền tệhậu duệ tạo ra quen biết, quen biết tạo ra quái thai của nó là : quên việc ! Với người giả, việc giả, lao động giả, dẫn tới dối trá trong thống kê, dối gian trong tổng kết. Hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực chế tác ra thực lực đã được khách quan hóa, với các chỉ báo chính xác về định chất và định lượng trong lao động hằng ngày của mỗi dân tộc.

Nếu lãnh đạo đã biết là Việt tộc cùng một nôi văn hóa, văn minh trong tam giáo đồng nguyên với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, và họ đã đóng vai trò làm chủ từ lao động qua sáng tạo khoa học kỹ thuật, trong khi đó dân ta vẫn phải đi làm công, với quy chế lao động tồi, với điều kiện chuyên môn thấp, để nay trong nước và ngoài nước rơi vào cảnh lao nô.

Nếu lãnh đạo đã biết mà để dân mình tiếp tục sống trong sự khinh miệt này thì đừng lãnh đạo nữa ! Liêm sỉ lãnh đạo có trong sự tự trọng khi lãnh đạo, phải biết rút lui để nhường chỗ cho hiệu năng mới, hiệu quả mới, hiệu lực mới chế tác ra thực lực mới.

Lao trong lãnh đạo chính trị có đặc tính riêng là lao tâm vì dân tộc, vì đất nước, có luôn đặc thù riêng là lao trí vì tương lai của bao thế hệ trẻ, vì nhân trí, nhân tri phục vụ cho nhân lý, nhân sinh. Nó khác hẳn và không dính dáng gì tới lao nô là nhục hình, chướng kiếp của một số đồng bào mình không có lối ra trong một xã hội quá bất công hiện nay, với bọn tham quan "cướp ngày là quan", tham ô "ăn cổ đi trước, lội nước đi sau", tham nhũng "ngồi mát, ăn bát vàng". Chúng không hề biết mực thước của lao động, không hề có chuẩn mực của lao tâm, lao trí, chúng chỉ biết vơ vét rồi tẩu tán tiền của dân tộc, để khi luật pháp và công pháp vạch mặt chỉ tên chúng, thì chữ lao lúc đó đã trở thành lao lý !

Chủ

Chủ là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi lãnh đạo chính trị, dù kẻ lãnh đạo mang bất cứ hình thức bề ngoài bằng một chế độ, bằng một ý thức hệ, bằng một tuyên truyền, bằng một khẩu lệnh.

Chủ qua tự chủ trước hết trên số phận dân tộc mình, bằng cách làm chủ vận mệnh đất nước mình, làm chủ trong lao động, làm chủ luôn trong sáng kiến lao động để biến sáng kiến thành sáng tạo, dụng sáng tạo để thay đời đổi kiếp mình, trước làm công sau làm chủ. Các láng giềng gần xa, cùng một nôi văn hóa, văn minh trong tam giáo đồng nguyên với Việt tộc, như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đã thành công. Chúng ta tại sao không thành công ? Tại sao ta không làm được ? Trong đó câu trả lời có trong vị thế của lãnh đạo chính trị, với vai trò lãnh đạo chính trị phải được xem là tất yếu ! Chức năng lãnh đạo chính trị phải được xem là thiết yếu ! Trên đó tài năng lãnh đạo chính trị chính là giãi luận cho nhiều ẩn số. Ẩn số thứ nhất có trong định nghĩa về chủ thể cho mọi công dân, trong đó chủ thể có hoàn toàn tự chủ để thăng hoa tự do của mình, dùng tự do của mình để sinh hoạt trong xã hội.

Tự chủ ngay trong sáng kiến trước thể chế chính trị, có đầu phiếu thật, với ứng cử viên giỏi, từ đó làm cho cơ chế xã hội đi lên theo hướng bình đẳng và công bằng, không những qua các hội đoàn mà còn qua đa nguyên, trong đó đa tài, đa trí, đa hiệu được mọi định chế công nhận. Không có chủ thể thì chính lãnh đạo chính trị sẽ chột, què, ngọng, lãng. Ẩn số thứ nhì là nhận định về chủ quyền của dân tộc, của đất nước, trong quan hệ quốc tế, trước các cường quốc, trong đó đối xử tử tế với láng giềng, đối đáp chỉnh lý trước các ý đồ xấu của ngoại xâm.

Trong chủ quyềnchủ tri về chính lịch sử của mình nơi mà tổ tiên kiên cường không sợ và không chấp nhận bất cứ một cuộc ngoại xâm nào. Trong chủ quyềnchủ trí về chính dân tộc nơi mà bản sắc Việt tộc chính là nhân phẩm Việt tộc, không chấp nhận bị khống chế vì không muốn bị khuất phục, bị thuần hóa. Ẩn số thứ ba là tổng kết qua tổng lực của phương trình chủ thể-chủ quyền-chủ tri- chủ trí làm nên chủ lực trong lao động, trong đấu tranh, trong ngoại giao, trong quân sự, trong các đối nhân xử thế trong nhân sinh, trước nhân loại. Không có ý thức chủ thể để tự chủ, để làm chủ thì đừng lãnh đạo !

Giáo... thoại

Giáo thoại là giáo dục bằng đối thoại trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, trên đạo lý của công bằng giữa quyền lực của kẻ lãnh đạo và quyền lợi của người chấp nhận người khác lãnh đạo mình. Đối thoại này dựa trên giáo khoa của kẻ lãnh đạo : "nói có sách, mách có chứng", từ dữ kiện qua chứng từ, từ lý luận qua lập luận, làm ra giáo khoa của kẻ lãnh đạo chính trị có giáo án"ích nước, lợi dân", của kẻ lãnh đạo chính trị có giáo trình hoàn chỉnh trong chính lý "đầu xuôi, đuôi lọt", tất cả dựa trên giáo dục của kẻ lãnh đạo chính trị là "người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu".

Giáo thoại là lộ trình thông minh của mọi chính sách, trong đó mọi công đoạn quản lý được tổ chức theo phương trình giáo khoa-giáo án-giáo trình, nơi mà mọi giai đoạn giáo thoại, quần chúng thấy rõ mức độ của chính sách qua trình độ của kẻ lãnh đạo. Chính phương trình mức độ-trình độ xác nhận khả năng lãnh đạo của kẻ đang lãnh đạo, không có chuyện "lấy vải thưa che mắt thánh", mắt thánh đây là mắt của tổ tiên, mắt của dân tộc. Hành vi độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn) với phản xạ "cả vú lập miệng em", chỉ là chuyện trống mức độ-thiếu trình độ ; ngược lại với giáo thoại tôn trọng phương trình tiềm năng-khả năng-kỹ năng lãnh đạo, mà quần chúng rất rõ khi phán đoán kẻ lãnh đạo : "so ra mới biết ngắn dài".

Ba phương trình song hành : phương trình giáo khoa-giáo án-giáo trình, phương trình mức độ-trình độ, phương trình tiềm năng-khả năng-kỹ năng lãnh đạo, đúc kết : nội công, bản lĩnh, tầm vóc của kẻ lãnh đạo ; làm gốc, làm nền cho giáo thoại, bảo đảm kết quả tích cực cho phương trình thứ tư đồng giao-đồng cảm-đồng tâm-đồng hành giữa lãnh đạo và quần chúng. Thật tiếc và thật lạ là bốn phương trình trên chưa bao giờ là phản xạ của các lãnh đạo (độc đảng) hiện nay khi ban hành các chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam ; cả bốn phương trình này cũng chẳng bao giờ vào giáo dục, giáo khoa, giáo án, giáo trình trong quy trình đào tạo lãnh đạo trong tổ chức và quản lý ; cả bốn phương trình này rốt cuộc sẽ không bao giờ trở thành : sự thông minh tôn trọng lẫn nhau giữa lãnh đạo và dân tộc !

Đối... nghịch

Đối đầu với thử thách, với thăng trầm trong lãnh đạo là chuyện "cơm bữa" trong chính trị, kể cả với những lực lượng có chính kiến khác ngược, chống, phản lại lãnh đạo cũng là chuyện "đi chợ" để nuôi thân, nuôi trí, nuôi tâm, nếu không chấp nhận chuyện đối đầu để hiểu thêm tình hình, để có nhận định tổng quan, để hiểu tâm lý và tính toán của các kẻ khác ta thì đừng nên lãnh đạo.

Đối đầu chính là trực diện với khó khăn để tìm đáp số, cũng là để "thử lửa" các lý lẽ của chính mình trước thực tế của vấn đề, thực chất của hoàn cảnh.

Đối phương, luôn có mặt trong đời sống chính trị, luôn hiện diện mỗi lần ban hành một chính sách, thường trực xuất hiện trong cuộc sống xã hội vì khác biệt, vì đối nghịch về quyền lợi và quyền lực với lãnh đạo chính trị đương nhiệm. Nhưng lãnh đạo chính trị mà khôn ngoan thì không bao giờ biến đối phương thành kẻ thù, tránh tối đa biến đối phương thành tử thù. Chỉ vì diệt, trừ, khử, giết đối phương chính là đang diệt, trừ, khử, giết thông minh của chính mình, vì đối phương thấy, hiểu, thấu, sống những dữ kiện, những kinh nghiệm, những vốn liếng mà lãnh đạo chính trị không có, không biết, không hiểu ; nếu không thấu chuyện phải học đối phương thì đừng lãnh đạo chính trị !

Đối lập, triệu tập đối kháng, mời gọi đối trọng để tạo ra cán cân lực lượng thuận lợi để đề kháng, để chống đối lãnh đạo chính trị, đây cũng là chuyện "cơm bữa", "đi chợ", "thử lửa", mà lãnh đạo chính trị phải công nhận để cẩn trọng hơn, để nhìn rộng hơn, để thấu suốt sau hơn. Tại đây, tuyên truyền một chiều, áp đặt ý thức hệ, thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo chỉ là chuyện dìm dân trong ngu dân, xuẩn động trong bị động, lãnh đạo chính trị là phải nhận đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận), cội nguồn của đa nguyên, cũng là gốc rễ của thông minh chính trị !

Đối... thoại

Đối kháng, sẽ có mặt trước, cùng lúc và sau khi ban hành một chính sách, rồi kéo dài theo năm tháng, nơi đây chữ nhẫn (nhẫn nại, nhẫn nhục, nhẫn nhịn) sẽ dạy cho lãnh đạo chính trị bài học "đá mòn nhưng dạ chẳng mòn" để cùng đối kháng hiểu ra chân lý : "có (sự) thực mới vực được đạo". Có chân lý, có sự thật mới có lẽ phải.

Đối trọng, qua lý luận về thực tế, qua lập luận bằng chứng từ, qua giãi luận bằng phương pháp, qua diễn luận bằng chính sách, có chiến thuật và chiến lược, cùng lúc lãnh đạo khôn là lãnh đạo luôn nghe, luôn nhận, luôn tiếp, luôn đón đối trọng như chào, nhận, đón, tiếp các phản biện khách quan, các phản đề có trách nhiệm vì có cùng một công lợi.

Đối tác, khác hẳn với đối phương, vì đối tác khai minh, ít nhất là hai cái minh mà lãnh đạo chính trị phải biết để nắm, phải nắm để hành động : liên minh tức khắc bây giờ và ở đây và nếu lãnh đạo chính trị mà khôn ngoan thì biến thành đồng minh rộng trong không gian, dài theo thời gian, để phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp các chính sách của lãnh đạo chính trị. Phương trình liên minh-đồng minh chính là phương pháp luận của "thêm bạn-bớt thù".

Đối thoại, chính là thực hành thông minh chính trị, nó tổng kết thông minh của đối phương, đối kháng, đối lập để mở cửa cho các phương trình chính trị mới, cởi mở hơn vì cao, sâu, xa, rộng hơn ý định-ý muốn-ý đồ ban đầu của lãnh đạo chính trị. Đối thoại chấp nhận đối đầu để nhận diện đối trọng, để hiểu thêm về đối kháng, để liên kết chặt chẽ hơn với đối tác. Đối thoại để xem lại bản lĩnh, tầm vóc chính trị của lãnh đạo có đủ lực hóa giải đối phương, đối kháng, đối lập hay không ? Đối thoại để xem lại tiềm năng, tiềm lực của lãnh đạo chính trị có đủ sức khai thác tối đa đối trọng, đối tác hay không ?

Phản... (không) động

Phản động, là loại ngữ vựng độc tài, ngữ văn độc đoán, ngữ pháp độc quyền, càng được lãnh đạo chính trị độc đảng lạm dụng như phản xạ để buộc tội cùng lúc lách tránh đối thoại để tìm ra đáp số ; như phản ứng để thóa mạ cùng lúc tránh né đàm phán để tìm ra cách giải quyết, đó là phản ngữ của kẻ lãnh đạo đuối lý, cạn luận. Nó là loại phản cảm trong bạo hành chính trị, nó được dùng rộng rãi qua tuyên truyền để gieo sợ hãi trong xã hội, cùng lúc để đe dọa quần chúng đang trên hai quỹ đạo thông minh : đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận)đa nguyên (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí). Lạm ngữ phản động chỉ nói lên chuyện chột, què, ngọng, điếc trong tư duy chính trị, chỉ khơi lên chuyện xấu, tồi, tục, dở trong hành động chính trị "cả vú lấp miệng em" của các kẻ lãnh đạo bất tài, vô trí.

Phản kháng là chuyện "thường tình" trong lãnh đạo chính trị, là chuyện "thường nhật" trong sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, kinh tế... không hiểu chuyện "thường tình"-"thường nhật" trong lãnh đạo chính trị thì đừng lãnh đạo ! Một chính sách khi ra đời, nếu nó có lợi cho đa số, thì chắc chắn nó có hại cho một thiểu số, và chính sự liêm minh của chính quyền, sự liêm chính của lãnh đạo là nguồn gốc làm nên giáo khoa chính trị để giải thích, để thuyết phục quần chúng. Bản lĩnh chính trị là phải liêm khiết hóa đối kháng, nội công chính khách là phải trong sạch hóa (mà không thanh lọc hóa) các lực lượng đối kháng qua 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán).

Phản bác, có thể là thượng nguồn, có thể là hạ nguồn của phản kháng, xuất hiện trước hoặc sau, có khi cùng lúc khi lãnh đạo chính trị ban hành một chính sách. Phản bác trong thông minh lãnh đạo chính trị, ngược lại với phỉ báng, trái chiều với thóa mạ, lại càng không "cùng mâm, cùng chiếu" với chụp mũ, vu khống, nếu phản bác công nhận hai quy trình tích cực của thông minh chính trị : đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận)đa nguyên (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí, được thực hiện và kiểm soát bằng 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán).

Phản (để)... tỉnh

Phản hồi, không những là khả năng trực diện với quần chúng đang bức xúc về chính sách hoặc đường lối của lãnh đạo chính trị, mà còn là năng lực của lãnh đạo chính trị biết phản hồi ngay, như một phản ứng nhanh nhẹn, bén nhạy trên chính đường lối lãnh đạo do mình đề ra.

Nếu phản hồi tổng kết được tất cả các phản kháng, thống hợp được tất cả các phản bác một cách tích cực qua 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán), sẽ tạo ra bản lĩnh thuyết minh, sẽ nâng lên tầm vóc thuyết phục của lãnh đạo chính trị. Muốn lãnh đạo chính trị mà không biết, không tạo ra được phản hồi, cứ để mặc các hồ sơ chất đống, cứ bỏ qua các vụ oan án, cứ nhắm mắt trước các đề nghị hoàn thiện của các chuyên gia, của quần chúng thì đừng lãnh đạo nữa ! Vì tránh né phản hồi thì chỉ "hao cơm, tốn của" của dân, chóng chầy trở thành "sâu dân, mọt nước", một loại ký sinh trùng chính trị "ăn đậu, ở nhờ" trong sinh hoạt chính trị. Nếu nhận ra mình là như loại "ăn trên, ngồi trốc" để "ăn bám, ăn hại" thì nên rút lui càng sớm càng hay, để chỗ cho người khác có lý lịch thông minh chính trị : đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận)đa nguyên (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí) thể hiện qua 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán) thay thế mình !

Phản biện, luôn tích cực nếu nó khách quan, khoa học, hợp lý, trọn tình, nó lại càng tích cực khi nó nêu được khuyết điểm, nhược điểm, nhất là khuyết tật của lãnh đạo chính trị, nó lại càng có ích khi chính kiến của nó thực sự hiệu quả chống lại tà kiến, được che phủ bởi tà ngữ của ma đạo lẫn xen vào sinh hoạt lãnh đạo để tha hóa, để biến chất, để lũng đoạn chính sách của lãnh đạo. Biết nhận, đón, tiếp, nghe tất cả các phản biện luôn là đức của chức, chính là đạo của trị, vì biết nghe nên biết trị !

Phản tỉnh, luôn là nhu cầu tư duy của lãnh đạo chính trị biết sửa sai, biết chỉnh cái xấu, tồi, tục, dở, để đưa cái hay, đẹp, tốt, lành vào chính sách (vì dân-vì nước), cùng lúc loại, khử, trừ, bỏ mọi cái thâm, độc, ác, hiểm của địch luôn tạo chiến trường đôi để làm ta suy kiệt sớm : "thù trong, giặc ngoài". Không giành thời gian đầy đủ cho phản tỉnh để tỉnh thức, lấy thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) để biết thao thức, thì đừng lãnh đạo ! Thao thứcđau đáu qua việc nước-việc dân. Nếu không biết phản tỉnh-tỉnh thức-thao thức thì nên chọn nghề khác mà làm, vì lãnh đạo chính trị vượt lên chuyện nghề, nó là nghề của thương dân-yêu nước, nó là nghiệp của vì dân-vì nước !

Kết

Kết quả, bằng hiệu quả, cùng lúc giới hạn tối đa các hậu quả, trong đó hiệu năng lãnh đạo chính là khả năng lãnh đạo, đây chính là mục đích của mọi hành động chính trị, nơi mà lãnh đạo chính trị phải cân, đo, đong, đếm tận tường khi thực hiện các chính sách, tại đây lãnh đạo chính trị luôn đóng vai trò trung tâm để đảm nhận các trách nhiệm chính thức. Làm sai thì phải xin lỗi và từ chức, hãy bỏ ngay loại văn hóa chính trị độc tài, vô trách nhiệm vì vô minh, vô tri vì không biết bổn phận với nước-với dân, chỉ xin lỗi mà không chịu từ chức, xin lỗi rồi làm tiếp mà không bị công lý qua công pháp, không bị tra, hỏi, vấn, xét bởi luật pháp, bởi tư pháp độc lập với hành pháp.

Kết nối ngược hẳn với kết nạp để tạo bè, lập đảng ; kết nối là khả năng của lãnh đạo chính trị biết tập hợp các sức mạnh đã có sẵn từ mọi nơi, biết tập trung các tiềm năng đã có rồi từ mọi phía, biết kết hợp để đưa tiềm năng, tiềm lực vào thực tế tổ chức và quản lý, để biến nó thành nội công, nội lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Tại đây phải hiểu cho tường tận công lực của đa (đa tài, đa năng, đa sắc, đa hiệu, đa trí, đa nguyên). Nếu chưa tìm được đa thì phải tìm cho ra minh, với minh vương (Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tôn...), minh quân (Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...), để tạo được một mặt trận rộng rãi như Việt tộc đã từng thấy qua Hội nghị Diên Hồng.

Kết đoàn, biến các sức mạnh rời rạc thành một sức mạnh đại thể, làm nên hiệu quả của kết tụ trong đó sức mạnh của một dân tộc là một khối hoàn chỉnh, vững chắc với thời gian, chính sức mạnh đoàn kết keo sơn tạo ra : kết chặt nhận thử thách để bảo vệ đất nước, nhận bổn phận và trách nhiệm đầy đủ, kể cả hy sinh để dân tộc được thăng hoa.

Kết lũy mang phẩm của chất, lực của lượng để kết tinh ra khối đại đoàn kết, nơi mà tất cả tinh hoa của dân tộc, tinh nhuệ của giống nòi làm nên thành quả lớn nhất trong lãnh đạo chính trị ! Đây là sức mạnh khai thị và khai minh trong lời trăn trối của Trần Hưng Đạo đã dặn dò Trần Anh Tông : "không sợ Nguyên Mông, vì nhân dân sẽ là "rễ sâu, gốc chắc" cho lãnh đạo !".

********************

Phần 10

Việt

"Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn,

Lấy trí nhân thay cường bạo".

Nguyễn Trãi

politique10

Muốn biết mình có phải là lãnh đạo chính trị Việt gốc hay không ? mình sẽ lãnh đạo một dân tộc nào ? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối.

Việt gốc

(Ta là ai ?)

Muốn biết mình có phải là lãnh đạo chính trị Việt gốc hay không ? (theo nội dung yêu nước thương nòi, với ý nghĩa thiêng liêng nhất của định nghĩa "đồng bào", chớ không phải chỉ cần có quốc tịch Việt hay tổ tiên Việt là đủ), thì phải tự khẳng định rằng ít nhất ba việc mình chính là con dân của một dân tộc :

  • Không bao giờ khuất phục bất cứ ngoại xâm nào, tới từ bất cứ phương trời nào, dù chúng có to nhất, có giầu nhất.
  • Không bao giờ chịu phận mất nước, làm thân nô lệ, dù phải trả những giá rất đắt để giữ độc lập.
  • Nhận quyết tâm độc lập dân tộc như tiếp cùng lúc hai hệ vấn đề : một là bản sắc Việt tính bất di bất dịch, hai là về nhân phẩm Việt lực của mình.

Ba khẳng định chính kiến chính là ba xác nhận chính trị để kẻ lãnh đạo trước hết biết mình là ai ? Sau đó để biết mình sẽ lãnh đạo một dân tộc nào ? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối. Như vậy, những kẻ không có, hoặc không muốn có ba chính kiến này thì đừng lãnh đạo chính trị, vì họ sẽ nhận thất bại và chóng chầy sẽ bị kết án là phản dân, hại nước !

Việt chính

(5C = chính đạo-chính nghĩa-chính lý-chính khí-chính ngôn)

Việt chính, ngược hẳn với Việt gian,chính đạo nhờ có chính nghĩa, có chính tâm song hành cùng chính lý, có chính khí nên có chính ngôn, trước sau như một, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, muốn làm lãnh đạo thì sẵn sàng hy sinh vì dân tộc, chết vì nước. Chắc chắn không phải là loại lãnh đạo, vừa vơ vét, vừa có thẻ xanh, có quốc tịch ngoại quốc, để khi Tàu tặc tới, vật đổi sao dời trong thời cuộc lại bỏ chạy qua phương Tây, rồi lẩn lút như đám ma bùn, ma xó.

Vật đổi sao dời trong đời người là có thật, vật đổi sao dời lại càng đúng trong chính giới với "nắng sớm, mưa chiều", "sớm nở, tối tàn" ; trong đó nếu có bọn xấu thì chuyện "lừa thày, phản bạn" đối với chúng là chuyện "cơm bữa" ! Chúng đang là đám tham quan hiện nay đang làm giầu nhờ tham nhũng. Chúng sẵn sàng lúc chúng mượn giọng lưỡi cách mạng, để mạt sát các người yêu nước, các kẻ thương dân, không là bè đảng với chúng, chúng thóa mạ họ là : Việt gian.

Hãy dùng định nghĩa Việt chính để lật trần ngược ngữ Việt gian, cùng lúc lột mặt nạ bọn Việt gian hiện đại đang nghênh ngang trong vai trò lãnh đạo chính trị, đó là bọn luồn từ phương trình xoay quyền lực qua quyền lợi qua phương trình chuyển công lợi qua tư lợi, bằng cách khai thác tận tủy phương trình tham quan-tham quyền-tham ô-tham nhũng, biến không ít một bộ phận dân tộc thành dân đen, dân oan !

Việt rễ

("rễ sâu, gốc chắc" của niềm tin)

Rễ làm cội chắc, gốc vững, khi Trần Hưng Đạo bên giường bịnh vào giờ trăn trối mà Trần Anh Tông vẫn luôn lo lắng bọn quân Nguyên dù thua thảm bại ba lần trên đất nước Việt dưới triều Trần, nhưng vẫn không bỏ mộng xâm lược của chúng ; Hưng Đạo vương chỉ khuyên : nếu có dân là có "rễ sâu, gốc chắc" thì không có gì phải lo ! Bài học "rễ sâu, gốc chắc" này, Trần tướng quân dặn dò cho nhiều đời sau phải hiểu là dân tộc và lãnh đạo : một lòng trong quyết tâm, quyết chí, để quyết đoán và quyết định trước mọi thử thách, mọi thăng trầm đang đe dọa Việt tộc. Dân chúng và chính trị một lòng thì làm được chuyện "dời non, lấp bễ", cụ thể là "châu chấu đá xe" được lập đi lập lại nhiều lần trong Việt sử : nhỏ nhưng thắng được lớn, không sợ cường quốc và không sợ cường bạo, chỉ sợ là không có chính nghĩa. Sử liệu giờ đã thành sử luận, không hiểu được sử luận này thì đừng lãnh đạo chính trị !

"Rễ sâu, gốc chắc" từ chuyện cả nước một lòng có thượng nguồn là niềm tin, như đất nuôi rễ, như nền giữ gốc, tin vào chính, có chính nghĩa sẽ có chính tâm, có chính tâm sẽ có chính lý, có chính lý sẽ có chính ngôn, có chính ngôn sẽ có chính khí, tạo nên sung lực để vận động khí thế của dân tộc, trong chiến tranh cũng như trong phát triển.

Niềm tin hiện nay rõ ràng là không có, bề trên lãnh đạo độc quyền nên độc đoán, độc đảng nên độc tài, từ lộng quyền tới tham quyền, thì làm gì có chuyện một lòng, trong thực cảnh dân chúng một bộ phận lớn đang thành dân đen. Lãnh đạo biến quyền lực thành quyền lợi, cướp đất, đoạt nhà, biến một bộ phận không nhỏ dân tộc thành dân oan. Chuyện một lòng hiện nay là chuyện hão, chuyện mất lòng mới là chuyện thật. Mất lòng tin mất niềm tin, và mất luôn cả thông tin chân thật bởi một chế độ chỉ biết tuyên truyền một chiều, sợ đa tin như sợ đa luận ! Sợ chính luận như sợ chính nghĩa ! Không tạo được "rễ sâu, gốc chắc", vì không có ý thức chính trị về chuyện một lòng, vì không có tri thức lãnh đạo về chuyện niềm tin, thì đừng lãnh đạo chính trị, lãnh đạo thì chỉ làm khổ dân, chỉ làm tăng lượng dân đendân oan trong dân tộc như hiện nay.

Việt hiền minh

(3Thực = thực tại-thực cảnh-thực tế 3Thức = tri thức-ý thức-nhận thức)

Hiền minh, chọn hiền triết để lãnh đạo, chọn minh triết để quản lý, tạo ra chính sách không qua định kiến và chỉ đạo không bằng tà kiến. Có chính kiến (chính thống trong liêm chính), nhưng cũng có luôn trung dung để tránh cực đoan, có trung đạo để không sa vào quá khích.

Hiền minh có chính lý trong trung dung, có chính tâm trong trung đạo, loại được cực đoan, xóa được quá khích, nên tiếp nhận thực tế trong tỉnh táo, chọn ra đường lối đúng trong sáng suốt, luôn linh hoạt trong các biến đổi của tình hình. Biết chọn trung dung đa của đa chiều (ngã tư, ngã sáu, ngã bẩy...) chứ không ngu dại mà chọn độc của độc đạo, vì quá khích của độc đảng sinh ra cực đoan của độc quyền, dẫn tới thui chột của độc tài, và chóng chầy sẽ rơi vào : ngõ cụt !

Hiền minh, hiền ngoan nhưng luôn có thông minh, luôn hiểu sự thật qua nhiều nguồn, thấu chân lý qua nhiều gốc, nhận lẽ phải qua nhiều rễ, tiếp đón cuộc sống qua đa tri của đa trí, nên không tự sát trên độc lộ của độc đảng vì độc thân. Hiểu thực tại sâu xa của cuộc đời nhờ nắm được thực cảnh tức khắc bây giờ và ở đây, không bị ý thức hệ viển vông làm lầm đường lạc lối, luôn lấy thực tại-thực cảnh để hiểu thực tế, không bị ý thức hệ tung hỏa mù, không bị độc thị đầu độc độc não.

Hiền minh trong chính trị không phải là thái độ sinh hoạt hiền lành, phong cách làm việc ngoan ngoãn, mà cụ thể là sự tinh khôi trong khi dụng phương trình 3T (thực tại-thực cảnh-thực tế) để chống lại vô tri, vô minh, vô tri của 3Đ (độc tàiđộc thị đầu độc độc não). Lãnh đạo hiền minh thì nắm chắc 3 thực (thực tại-thực cảnh-thực tế) nhờ có 3 thức (tri thức-ý thức-nhận thức).

Hiền minh, không giả vờ thong dong, không đóng kịch ung dung, mà sáng suốt trong thư thái, tỉnh táo trong thư thả, nên khoan thai trong lãnh đạo vì nắm mỗi tay một phương trình : 3 thực (thực tại-thực cảnh-thực tế) song đôi cùng 3 thức (tri thức-ý thức-nhận thức).

Việt tri

(4T = tổng quát-tổng quan-tổng thể-tổng cộng)

Tri, nơi mà tri thức làm ra chính tri, nơi mà hiểu thấu có được nhờ hiểu đúng dữ kiện và hiểu trúng kiến thức, không có thái độ "ba phải", không có hành vi "chung chung", chắc chắn sẽ không có chuyện hiểu giả-giảng giả-dạy giả trong giáo dục chính trị cũng như trong truyền đạt khi lãnh đạo. Cái giả giết cái thực, truy diệt cả lẽ phải, thủ tiêu luôn niềm tin ; câu chuyện một bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ, đạo văn là chuyện giết chết kiến thức, truy diệt cả giáo lý, thủ tiêu luôn đạo đức ; một chuyện chỉ có thể xẩy ra trong một đất nước bị áp chế và bưng bít bởi độc đảng sinh ra quái thai độc quyền-chuyên quyền-tham quyền, đẻ ra loại ung thư thâm tối mua quyền bán chức, giữa các lực lượng tham quyền để tham nhũng.

Tri, có vai vóc của phân tích tổng quát, có tầm vóc của giải thích toàn bộ, chống cục bộ, nó chống lại chuyện lấy cây che rừng, lấy tay che mặt trời, lấy vải thưa che mắt thánh, trong lãnh đạo chính trị phải hiểu thánh đây chính là dân ! Phân tích tổng quát để có nhận định tổng quan, nơi mà quyết định chính trị để làm ra chính sách luôn là một lý luận tổng thể, nơi mà tổng cộng tri thức tới từ tổng công (tổng cộng của công mọi vốn liếng, tiềm lực, tài nguyên...) của dân tộc. Hiểu và thực phương trình 4T (tổng quát-tổng quan-tổng thể-tổng cộng) chính là tài trí của kẻ lãnh đạo.

Tri, có phân chia để phân tích, có phân tách ra để phân loại, nhưng không rơi vào cục bộ để bị rơi vào chia rẽ, chia năm sẻ bẩy sẽ diệt đoàn kết, chia bè sẻ phái thì sẽ giết tương trợ. Minh tri để minh trí, lấy cái công để điều chế cái riêng, luôn chống lại cái phiến diện, nhất là chống lại chuyện lấy riêng rẻ của tư lợi để điều hành cái tổng thể của đất nước, đây chính là lỗi lầm lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam. Khi họ đã chọn tư quyền chỉ cứu đảng mà không cứu nước, họ đã rơi vào cái bẫy của Hội nghị Thành Đô, 1991, nơi mà Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc chính là : kẻ cầm cần câu, kẻ móc lưỡi câu, kẻ đưa mồi câu, để Đảng cộng sản Việt Nam là cá đã cắn câu, để rồi một ngày nào đó Việt tộc sẽ như : cá nằm trên thớt !

Việt đẹp

(đẹp chống tục, chống ngu, chống nhảm)

Việt đẹp là một đất nước đẹp từ địa lý tới cảnh quan, là một dân tộc đẹp từ tâm hồn đau khổ vì chiến tranh tới đạo lý yêu hòa bình, nhưng không chấp nhận xâm lăng, không cúi đầu trước ngoại bang dù là cường quốc. Cái đẹp này người ta thấy trong lịch sử rồi nhận ra được trong văn hóa, để nhận rõ hơn văn minh Việt chính là nhân phẩm Việt, tạo nên bản sắc Việt : luôn bất khuất để giữ độc lập, không khuất phục trước mọi bạo quyền. Đây là chuyện phải rõ trong mọi tư duy bình thường cho mọi lãnh đạo chính trị.

Vậy mà, đầu năm nay 2018, nhân dân Việt "rùng mình" khi nghe thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ví đất nước Việt như một cô gái đẹp, với các từ ngữ của hình thể, không có lý luận nên chẳng có lập luận, tới từ một thủ tướng vô tri trong lập ngữ và vô minh lập ngôn. Chưa xong, dân Việt lại "rởn óc" khi nghe có một phó chủ tịch quốc hội, tiếp tục ví đất nước Việt như một cô gái đẹp, với các động từ (rờ, sờ, mó...) loại thô ngữ tục ngôn, tà lý với lời tồi, vô giác với hồn thiêng sông núi vì vô tri với tiền đồ tổ tiên của Việt tộc : thật là từ sỉ nhục qua điếm nhục ! Những kẻ lãnh đạo này, vô luận nên vô tri đã lăng nhục đất nước Việt !

Những loại lãnh đạo này vô minh, vô tri, vô giác, họ đã quên là tổ tiên dạy con cháu mỗi lần miệng ra lời, trước đó phải uốn lưỡi nhiều lần ; chúng không hề biết uốn lưỡi với mỹ ngữ, mà chỉ biết cong lưỡi để thô ngữ, tục ngôn. Nếu không được giáo dục về đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, vì không được giáo dưỡng đàng hoàng từ gia đình tới học đường, vì không được giáo huấn tử tế từ học đường tới xã hội ; thì phải biết tự giáo dục, không khó, rất dễ, họ chỉ cần nghe thật kỹ ca từ các ca khúc tự tình dân tộc của Phạm Duy (tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời). Nghe thật rõ các ca từ về của đất nước Việt của Trịnh Công Sơn :

Rừng núi dang tay nối lại biển xa

Tay đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...

Bàn tay ta nắm nối trọn một vòng Việt Nam...

Biển xanh sống gấm nối liền một vòng tử sinh...

(Nối vòng tay lớn)

Nếu không hiểu hồn thiêng sông núi do tổ tiên để lại thì đừng lãnh đạo !

Việt hóa

(3H = hóa-hòa-hợp)

Hóa giải để hòa giải đã có nhiều lần trong Việt sử, từ minh quân tới minh chúa, từ Trần Nhân Tông qua nhiều nguồn xung đột nội chính, trước đại họa xâm lăng của Nguyên Mông, cho tới Quang Trung khi đã tống quân Thanh ra khỏi bờ cõi, lấy lại Thăng Long với những năm tháng dài chia rẽ thâm sâu của nội chiến Trịnh-Nguyễn. Đây là sự thông minh của kẻ lãnh đạo luôn lấy khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh cho chính lãnh đạo.

Hóa giải để hòa giải có bài học đầu tiên trong lãnh đạo qua đúc kết của thi hào Nguyễn Du : "phải dung kẻ dưới mới là lượng trên", mà trong tình hình của hơn 40 năm qua, từ khi hòa bình được lập lại, có thống nhất đất nước, 1975, vậy mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không biết chuyển câu trên thành phương châm mới : phải hòa giải với kẻ bại để hóa giải mọi hậu quả của chiến tranh, để tạo được hòa hợp dân tộc.

Hóa giải để hòa giải luôn là cử chỉ đầu tiên đưa tay-dang tay-nối tay của kẻ thắng trước kẻ bại, không cần bắt đầu bằng xin lỗi, tha tội, mà qua thực tế của đất nước, bằng những hành động cụ thể của mọi người, mọi phía, cùng nhau xây dựng lại quê hương, cùng nhau đưa dân tộc đi lên, đẩy giống nòi thăng hoa với thế giới văn minh.

Hóa giải để hòa giải trong phương châm đa chiều để có đa trí, cùng lúc đa tri để tạo ra đa hiệu, dựa trên đa tài để có đa năng, lấy cái đa để xa cái độc hại của độc quyền qua độc đảng, đây chính là hành động thông minh của lãnh đạo chính trị, biết biến tiềm lực của mọi nơi thành hiệu lực tổng hợp từ mọi phía, tạo ra hiệu quả thống hợp từ mọi tiềm năng của mọi người, mọi tập thể, mọi cộng đồng.

Hóa giải để hòa giải có rễ trong hóa, trong hòa, trong hợp, trong đó hóa giải không những mọi hiềm khích mà luôn cả mọi oan khiên, hòa lấy hòa bình trước mắt chế tác ra thái bình bền vững ; hợp biến tổng hợp mọi tiềm năng để tạo ra thống hợp mọi hiệu năng, làm nên thành công của phương trình mà tất cả lãnh đạo đều phải biết : phương trình 3H (hóa-hòa-hợp).

Việt chung

(chung chống riêng, chống độc, chống đặc)

Ngày ngày sống cạnh nhau thì chưa chắc là sống chung, vì đã chung thì không có riêng, vì chungchia sẻ, chính ngữ pháp cộng sản, cũng từ đó mà ra, nhưng trong thực tế nó chỉ là một khẩu lịnh để tuyên truyền, để đưa đẩy quần chúng, dùng loại ý thức hệ để vận động cộng đồng, rồi dìu dắt quần chúng vào độc đạo của độc đảng, trong đó chuyện lãnh đạo "đánh lận con đen" sẽ bộc lộ rất rõ dưới ánh sáng của sự thật-chân lý-lẽ phải.

Thất bại luân lý, thảm bại đạo lý của người cộng sản là trong thực chất, khi cướp được chính quyền thì chính các đảng cộng sản luôn tạo ra sinh hoạt riêng, đời sống riêng, tổ chức riêng, cơ cấu riêng... chính những cái riêng này mới là thực chất để hiểu rõ bản chất : đứng riêng để đứng trên cái chung của dân tộc, đây là chuyện lừa đảo, dùng chuyên quyền để tham quyền, dụng tham quyền để tham nhũng. Vì cái riêng của họ, dẫn họ vào cái độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) tạo ra cái đặc (đặc quyền, đặc lợi), dành chỗ đặc biệt để "ăn trên ngồi trốc", để ăn riêng (ngon), ở riêng (rộng), đây là khởi điểm báo hiệu ngày tàn của một tập đoàn lãnh đạo (nếu không biết tự thay đổi).

Thất bại luân lý vì rỗng luân lý, là thảm bại đạo lý vì trống đạo lý, vì giọng lưỡi "là đày tớ cho nhân dân" chỉ là xảo ngữ, đã làm họ phải "tự lột mặt nạ" họ, khi họ tạo ra cái riêng thật ưu đãi cho chính họ. Khi họ lấy hằng trăm mẫu đất cạnh thủ đô Hà Nội, với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng để xây nghĩa trang cho cán bộ cao cấp ! Một hành động bất chính trắng trợn : lấy tiền người sống để phục vụ cho họ, kể cả khi họ đã rời cõi đời này ! Nếu đúng "là đày tớ cho nhân dân" thì tại sao không lấy tiền này để lo cho dân đen, dân oan ?

Từ thất bại luân lý này qua thảm bại đạo lý kia, họ còn tự tạo ra đặc lợi riêng là buôn bán cả trên danh nghĩa của các liệt sĩ, bằng cách xây các tượng đài liệt sĩ, cũng hàng ngàn tỷ. Họ có thấy là người sống không có nhà phải vào ở trong nghĩa trang để sống, họ có thấy là các người dân nghèo đang ăn xin chung quanh các tượng đài liệt sĩ.

Thất bại luân lý trước mắt dẫn tới thảm bại đạo lý mai sau, chính cái riêng, cái độc, cái đặc đang nạo diệt cái chung ngay trong tư duy của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, ngày ngày đưa họ xa cái đồng cam-cộng khổ, cái thương nước-trọng dân, cái vì dân-vì nước, họ làm lãnh đạo mà quên các phương châm này thì khoa học lãnh đạo có thể nhắc họ là : họ đang tự đào mồ mà chôn chính họ !

Việt tri

(cộng đồng tương trợ hữu cơ)

Cộng đồng tương trợ hữu cơ, nơi mà dân tộc là một cộng đồng khắng khít qua đoàn kết chặt chẽ để chế tác ra tương trợ sống trong một xã hội hữu cơ, không máy móc một cách thẳng thừng, trắng trợn kiểu "tiền trao cháo múc", lại còn được thô lỗ hóa qua đám từ của một xã hội loạn lạc luân lý như hiện nay : "ăn bánh trả tiền". Ngược lại hoàn toàn, cộng đồng tương trợ hữu cơ mang nội lực "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ", có nội công "máu chảy, ruột mềm", có nội hành liên đới "bầu ơi thương lấy bí cùng". Đây là một đạo lý hữu cơ, không coi nhân dân là công cụ, không xem quần chúng là dụng cụ, mà là các chủ thể sống vì nhau, vì biết liên đới nhau, biết bảo vệ nhau, nơi mà trái tim đau, thì não cũng đau theo, nơi mà phổi khó thở thì tim cũng không dễ sống.

Cộng đồng tương trợ hữu cơ luôn là bài học đôi cho tất cả các lãnh đạo của các nước văn minh, tiên tiến, nơi mà luân lý cộng đồng, đạo lý tương trợ, đạo đức hữu cơ luôn mang theo hiệu quả sản xuất, hiệu năng quản lý, hiệu suất cho chính sách. Tương trợ để tăng hiệu quả chính là thông minh của chính giới.

Cộng đồng tương trợ hữu cơ đưa nhân thế vào nhân tính, đưa nhân tình vào nhân tính, nơi đây các phản xạ ích kỷ, tư lợi, cá nhân chủ nghĩa không bao giờ có được tầm vóc quốc gia, có vai vóc cộng đồng, có gân cốt của lãnh đạo cao minh vì biết lấy nhân nghĩa làm nhân tri. Cộng đồng tương trợ hữu cơ đang "dở sống, dở chết" trong xã hội Việt tộc do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đang bị trật hướng, ngược chiều, với các nội tạng không có thực chất tương trợ hữu cơ, nơi đây mà não bộ lãnh đạo đang bị ung thư óc vì chuyên quyền-bạo quyền-tham quyền, sinh ra cùng với ung thư máu lây lan toàn cơ thể tham quyền-tham ô-tham nhũng, ngày ngày hủy diệt các kháng tố "thương người như thể thương thân" đưa tính mạng của Việt tộc tới nan bịnh, trọng bịnh, bạo bịnh...

Cộng đồng tương trợ hữu cơ sẽ có, nếu các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam biết chế tác, biết gầy dựng (như mọi lãnh đạo chính trị thông minh của các quốc gia văn minh đã thực hiện được) được ba định đề biến nó thành một chính sách hoàn chỉnh với ý chí chính trị kiên cường : dụng tự do để chế tác công bằng, dùng công bằng để gầy dựng bác ái. Nếu bác ái là tình thương đồng loại, nhất là tình thương dành cho đồng bào, thì chắc chắc bác ái là tiềm năng, động cơ, sung lực cho tương trợ.

Việt tâm

(hiện hữu tâm linh-tri thức)

Hiện hữu tâm linh-tri thức, là sự có mặt qua các giá trị tâm linh dựa trên một hệ thống tri thức vừa hợp lý vừa trọn vẹn, nơi mà nhân đạonhân tri là một tổng thể để đưa nhân tình vào quỹ đạo nhân nghĩa, đây là thử thách tinh thần lớn nhất của sinh hoạt chính trị, và nếu làm được thì sẽ là thành công đạo lý lớn nhất của kẻ lãnh đạo. Hiện nay, các diễn biến trong quyền lực chính trị thì ai cũng thấy là đang diễn biến hoàn toàn ngược lại, với các lãnh đạo đang thanh toán nhau qua ân oán giang hồ, đang thanh trừng nhau bằng luật rừng, theo phản xạ vô tri thắng làm vua, thua làm giặc, không có đạo đức sẽ không có hậu đây là chân lý khách quan và lịch sử của đạo đức học làm nền cho mọi hành động chính trị.

Chính cái bề trên không những bất tín-bội thề với dân tộc trong phương trình tự do-ấm no-hạnh phúc, mà lại lấy bạo quyền để chuyên quyền đã làm cho các giá trị tinh thần của dân tộc đã bị sa vào bùn bẩn, từ đó các thước đo luân lý cộng đồng, các khuôn mẫu đạo lý tập thể bị suy kiệt tới cùng tận, để trong xã hội hiện nay cái bạo động của cường quyền công an đánh giết quần chúng, làm chất xúc tác xấu cho chuyện phát triển bạo hành trong học đường, trong gia đình, bạo giới của nam đối với nữ. Cái độc (độc đảng, độc quyền, đôc tài, độc tôn, độc trị) luôn là ổ rắn cho chuyện phát triển cho cái bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành, bạo giới), liên minh giữa độc và bạo sinh ra lầm than trong nhân dân, làm đảo lộn mọi bậc thang tâm linh và tri thức có thể truy diệt được nếu lãnh đạo có bản lĩnh của minh quân, có tầm vóc của minh chúa, có nội công của minh chủ (trong lúc chờ đợi dân chủ rồi nhân quyền thực sự tới với Việt tộc). Chuyện này đã có trong Việt sử qua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tôn... biết lấy tâm linh để chỉ đạo, biết dụng tri thức để lãnh đạo. Các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đừng ngụy biện là không có gương sáng, không có mô hình hay, không có khuôn mẫu đẹp để lãnh đạo, hãy học kỹ ba điều có thực trước mắt : học tổ tiên, học láng giềng đã thành công, học thế giới văn minh đang đặt tiền đề cho hiện hữu tâm linh-tri thức cho một nhân loại tốt lành giữa toàn cầu hóa hiện nay.

Lê Hữu Khóa

(25/01/2020)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa

Phần 4

Luận

"Quyền lực vận hành và

luân chuyển qua các quan hệ xã hội"

R.Boudon

politique4

Thực luận

Nhân dân không bắt các lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam đi học lại, để xóa các hậu quả về tụt hậu kinh tế, tệ nạn xã hội, đồi trụy luân lý, suy kiệt chất xám... chúng ta chỉ yêu cầu các lãnh đạo này trở lại ngay tức khắc các bài học mà tổ tiên đã để lại cho con cháu, các bài học này rất dễ hiểu nên rất dễ học, dễ học nên rất dễ trao truyền, dễ trao truyền nên rất dễ đối thoại, dễ đối thoại nên rất có đồng thuận, đồng tâm :

Có thực mới vực được đạo, với thực của sự thực để nuôi chân lýlẽ phải và với thực như thực phẩm để nuôi dân, nuôi con cháu, với liên minh chặt chẽ của sự thực qua chính ngôn của lãnh đạo, với chân lý phục vụ cho công lý, với lẽ phải làm nền cho đạo lý hay, đẹp, tốt, lành.

Có chính sách đúng, với chính trị cao, được chỉ đạo bởi lãnh đạo giỏi, theo đúng bài học của tổ tiên : có tích mới dịch nên tuồng, dựa trên năng lực lãnh đạo (khôn cậy, khéo nhờ, khó chịu), lấy tự chủ để làm chủ (khôn làm cột cái, dại làm cột con), có định hướng chủ lực, biết thời hiểu thế, nắm kế thấu mưu, làm lớn thắng to, để sớm thăng hoa dân tộc (khôn làm lẻ, khéo làm mùa).

Trước mắt là loại ra cho bằng được bọn "sâu dân, mọt nước", hãy xếp loại chúng :

  • bọn cơ hội trên tài nguyên đất nước (thừa gió bẻ măng).
  • bọn đầu cơ trên tiềm năng dân tộc (thừa nước đục thả câu).
  • bọn đầu nậu trên tiền của nhân dân (mượn đầu heo nấu cháo).
  • bọn trục lợi túi tham không đáy (bắt cá hai tay).

Trước hiểm họa xâm lược của Tàu tặc, làm lãnh đạo phải nghiệm ngày đêm về hệ mất mà Việt ngữ đã rất rành mạch trong ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp :

  • mất mát là thiệt thòi về tiềm năng, bị hao tổn tiềm lực...
  • mất thân là mất mạng, chết trong thất bại…
  • mất đời là mất cuộc sống, mất xã hội, mất văn hóa…
  • mất hết là mất tất cả, không còn gì cho hiện tại lẫn tương lai…
  • mất trọn là mất tất cả, kể cả gia đình, quyến thuộc, thống tộc, dân tộc…
  • mất trắng là mất tất cả, kể cả gốc, rễ, cội, nguồn…

Mất phải được liên tục suy nghĩ-suy tư-suy ngẫm bởi lãnh đạo, từ mức độ tới cường độ của quốc nạn sắp tới : vong quốc !

Cởi... bỏ

Trong tầm vóc toàn cầu với nhiều triệu môn sinh, thiền sư Thích Nhất Hạnh được các nhân vật lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, 2006-2007, hỏi ý kiến về tình hình cũng như về tương lai của dân tộc, của đất nước, thiền sư chỉ khuyên gẫy gọn một câu một câu là :"nên cởi bỏ ý thức hệ cộng sản cùng lúc giải thể Đảng cộng sản Việt Nam càng sớm càng hay !", các chủ thể trẻ mong muốn đóng góp với dân tộc, với đất nước trong vai trò lãnh đạo nên suy nghĩ thêm về lời khuyên này.

"Cởi bỏ ý thức hệ cộng sản cùng lúc giải thể Đảng cộng sản Việt Nam !" trước hết là khẳng định khả năng cởi bỏ cái độc hại của cái độc đảng, để cởi bỏ cái độc đoán tới từ cái độc quyền, để cởi bỏ cái độc tôn tới từ cái độc trị. Độc đảng luôn độc hại, vì nó làm mù quáng hóa kẻ lãnh đạo, tạo ra vô minh để đưa lãnh đạo tới vô tri, cuối cùng là vô giác trước nỗi khổ của dân tộc, niềm đau của giống nòi, với cái độc chỉ thấy nó mà không thấy nhân tình chung quanh để có nhân tính trong kiếp làm người !

Cởi bỏ, là sung lực của Phật giáo, nó không hề thụ động vì ươn hèn, quay lưng tránh bổn phận, tháo chạy bỏ trách nhiệm, ngược lại nó mang sự thông minh của giác ngộ, giúp kẻ đã mù, câm, điếctham, sân, si đã mang ma đạo vào nhân trí để gây đổ vỡ cho nhân tri phải cải tà quy chính.

Kéo dài độc đảng là kéo dài sự mê chấp trong tư duy để tiếp tục cái mê cung trong hành động chính trị quên đất nước, xua dân tộc để chạy theo phương hướng chuyên chính để chuyên quyền, một lộ trình vô định của vô tri. Cởi bỏ hệ mê (mê muội, mê si, mê chấp, mê cung) chính là sự sáng suốt trong lãnh đạo chính trị. Cởi bỏ cái để tìm cái giác để có cái ngộ là thử thách -chính thức và chính thống- của tập thể lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay nếu họ còn thiết tha với tiền đồ của Việt tộc !

Cởi... mở

Cởi mở trong lãnh đạo chính trị, không dựa trên một cá tính của một cá nhân lãnh đạo với phong thái thoải mái, không dựa trên tâm lý của một cá thể lãnh đạo với hành vi vui vẻ, mà nó chính là giáo dục chính trị sẽ biến thành phản xạ tích cực khi lãnh đạo. Cởi mở trong lãnh đạo chính trị là khả năng đón tiếp kiến thức mới, kinh nghiệm lành, phương án tốt, tư vấn hay, trong tư thế luôn luôn mong muốn học hỏi, biết nghe để biết đón, biết tiếp để biết nhận, biết nhận vì biết trao !

Cởi mở trong lãnh đạo chính trị vừa là nền trong đạo lý chính trị, luôn gần dân, không xa rời quần chúng, vừa là cầu nối để dân chúng được trao đổi về chính sách với lãnh đạo, được đối thoại với chính quyền, được thảo luận với chính phủ. Không mỵ dân, cũng không đạo đức giả, mà dựa vào khả năng lãnh đạo với lý luận về chính sách, với lập luận về đường lối luôn có giáo khoa chính trị, khi gặp nhân dân. Mở lý trí lãnh đạo để nhân dân có thể nói, tiếp, nghe, nhận chính kiến của mình mà không có chuyện "ăn trên, ngồi trốc" để áp đặt chuyện "cả vú lấp miệng em".

Cởi mở để tạo quan hệ với quần chúng, với nhân dân, và làm cho quan hệ này vững, bền một cách thường trực, một quan hệ không hề "vô thưởng, vô phạt", mà là một quan hệ ngày càng cao, sâu, xa, rộng, và luôn dựa trên chính giáo của hai bên, có nền là đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của một dân tộc, với lộ trình hai chiều "trên nói dưới nghe""dưới nói trên nghe".

Khi xã hội học chính trị và khoa học chính trị đã cùng chia sẻ phân tích với tâm lý học là lãnh đạo cũng là người (là phàm nhân trước khi thành vĩ nhân nếu có thành quả lỗi lạc vì dân tộc), cũng luôn cần hai nhu cầu : cởi mở để có quan hệ giữa người và người, cởi mở để có sự thỏa mãn trong quan hệ xã hội. Nếu là lãnh đạo mà không có quan hệ với quần chúng bên ngoài thì rất đáng sợ ! Đây có thể là loại tâm thần lạc vào chính giới !

Chính có lãnh đạo chính trị hiện nay đang xa rời nhân dân, mặc cho dân đen lầm lũi, mặc cho dân oan lang thang, mà nên làm ngược lại để có tâm niệm chính trị : làm lãnh đạo không phải chỉ tạo ra của cải cho dân, mà còn phải tạo ra quan hệ bền, chắc, vững, lâu với dân !

Từ bất công tới oan khiên

Bất bình đẳng có mặt trong xã hội, nó tới từ nhiều nguyên do, nhưng không phải bất bình đẳng nào cũng mang tới bất công. Bất bình đẳng là hệ vấn đề của xã hội, bất công là phạm trù có trong xã hội, nhưng được phân giải qua hệ của công pháp, nền móng của pháp luật. Một trong những thất bại lớn của lãnh đạo chính trị là không giải quyết được bất công, mà lại còn gây ra oan khiên, ở đây bất công trở nên oan ức không chấp nhận được, biến nạn nhân của oan án thành kiếp oan khiên, đến chết cũng không yên, thành oan hồn giữa cõi dương của người sống. Nếu bị oan vì chính sách, thì chính kẻ lãnh đạo phải được mang ra xử thật công minh, đưa ra phân xử thật công bằng, không có chuyện đặc quyền dành cho lãnh đạo, không có chuyện làm lãnh đạo thì thoát được tòa án. Pháp luật sinh ra để xử mọi vụ án, và không chừa bất cứ lãnh đạo ở cấp nào trong chính quyền, cấp cao nào trong đảng !

Thử thách hàng đầu của lãnh đạo chính trị là dùng cái thực để làm nên cái tốt, ngày ngày xóa cái nghèo để tránh cái khổ cho dân. Để nhìn thấy được cái khổ trong cõi người thì không khó ! Tại đây, cái khổ được nhận diện qua sự sống còn, ngược lại sống thường là sống bình thường, bình an trong thoải mái, sống mà không phải đấu tranh từng ngày, từng giờ. Trong khi đó sống còn là phải đấu tranh để sống, muốn sống phải tranh sống, sống mà như "dở chết, dở sống", sống lay lất, cụ thể trước mắt chúng ta là trường hợp của dân đen, dân oan, nơi mà oan khiên xuất hiện rõ ràng trong cuộc sống, trong xã hội, nếu làm lãnh đạo mà nhắm mắt, không xử lý, không giải quyết thì không những đã có lỗi mà còn mang tội nữa !

Sống còn mang ba chỉ báo xã hội học : sống trong lo âu (ăn bữa sáng lo bữa tối), sống như nạn nhân (trên dao, dưới búa), sống trong sự đe dọa (sống nay, chết mai), khi ba chỉ báo này đã rõ không những trong dân đen, dân oan, mà ngày ngày gia tăng trong thường dân, cho đến dân thường cũng phải "mất ăn, mất ngủ". Trong đó trẻ con trên miền cao miền xa "ăn lá để sống", kẻ già trong thành thị "bới rác để sinh nhai" thì lãnh đạo chính trị đã bị thất bại nặng nề. Thất bại này thảm hại, vì nó sinh ra oan khiên. Tại đây, oan khiên đã biến thành chỉ báo khách quan của khoa học chính trị : bắt lãnh đạo phải thay đổi triệt để chính sách quản lý xã hội, và nếu thấy không thực hiện nổi cải cách tuyệt đối chống oan khiên, thì phải từ chức ngay để : cứu oan cho dân tộc !

Tùy thời tạo thế

Tùy thời tạo thế, được con cháu thấy rõ trong các chiến tích trong quân sự của cha ông (Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyển Trãi, Quang Trung…) qua các thành tích quản lý của tổ tiên (Lý, Trần, Lê…), trong đó lấy quy luật của thời gian (thời điểm, thời khắc, thời kỳ…) để lập nên thế (thế trận, thế tiến công, thế phản công…), hệ vấn đề này không những đúng trong quân sự mà cả trong tổ chức và quản lý.

Linh động thích ứng để linh động tìm lối đi, "thời bắt thế, theo thời phải thế" mang tính linh hoạt của hành động trước thời thế, thuận lợi hay bất lợi của nhân cảnh. Lý lịch của các lãnh tụ tài giỏi làm xuất hiện một ẩn số khác có lúc đi ngược với thời thế, đó là ý chí ; tại đây tiềm ẩn một ẩn số khác là năng lực của lãnh đạo là quá trình giải bày ý chí qua đề nghị-đàm phán-quyết định, khi thuyết phục các lãnh đạo khác. Tại đây, sự chuẩn bị kỹ lưỡng các phương án vừa đối phó, vừa đối trọng ngay trên thượng nguồn để dàn xếp chu đáo nội bộ trong đó có chuyện phải cân đối phương trình thời thế-ý chí, để duy tâm không "trùm phủ" lên duy lý. Muốn thành công thì lý trí lãnh tụ phải nhận được sự đồng tình của tất cả hoặc của đa số không những của các thành viên lãnh đạo, mà luôn cả các liên minh trong nội bộ ; từ đó ý chí cá nhân sẽ hình thành ra lý trí của tập thể.

Câu chuyện thượng nguồn để chuyển hóa thời thế-ý chí qua thực lực của ý chí-lý trí là quá trình vừa giải thích, vừa phạm trù hóa ý chí dựa trên tính hiệu quả, có cơ sở của điều tra sơ khởi, thực địa, làm sáng mối tương quan giữa sáng kiến của ý chítình huống tới từ thời thế. Trên thực tế lãnh đạo, phải nên phân biệt : ý chí thường thì dựa trên mô hình, còn hiệu quả thường dựa vào sự biến đổi của tình hình.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các lãnh đạo vừa có quá nhiều tin tức, dữ kiện, chứng từ luôn đa diện, đa chiều, để lấy những quyết định đúng (của chính trị tỉnh-lãnh đạo thức), cùng lúc có các chuyên nghành, với cái chuyên gia để có được những chỉ báo để dự đoán được những chỉ tiêu.

Kẻ lãnh đạo tài giỏi phải biết ít nhất các tiêu chuẩn chọn lựa tư vấn, càng rộng thì càng sâu, càng xa thì càng cao, không "yếu vía" sợ chuyện "lắm thầy nhiều ma", nếu kẻ lãnh đạo đó có bản lĩnh của lý luận, nội công của lập luận, tấm vóc của giải luận để nhận ra năng lực của các cố vấn, qua ít nhất ba khả năng phân tích và phân loại tình hình của họ :

  1. 1.Tính đa phương của bối cảnh.
  2. 2.Tính đa dạng của tình huống.
  3. 3.Tính biến động của thới thế.

Tùy kế lập mưu

Tùy kế lập mưu, khai thác thuận thời mẫn kế, nhưng cùng lúc tìm ra kế phải lập được mưu, trong chính trị cũng như trong ngoại giao, và kinh tế, thương mại cũng không nằm ngoài sự vận hành của mưu lược, khác chiến lược nhận định trên toàn bộ mang tính dài hạn, và chiến thuật có tìm hiệu quả trước mắt mang tính cụ thể của một tình huống. Mưu lược thì ngược lại được sử dụng song song với tính dài hạn của chiến lược, với tính ngắn hạn của chiến thuật, như đòn bẫy-cạm bẫy của tác giả tìm ra mưu lược đó, đòn bẫy cho chính mình được nhanh hơn, rộng hơn, cao hơn, dài hơn, ngược lại là cạm bẫy cho đối phương.

Tùy kế lập mưu nhận định mưu lược như là dàn phóng, dàn nhúng cho ta ; có lúc là giăng bẫy để đối thủ rơi vào vì thiếu cẩn trọng, vì chủ quan, vì vô minh trước địa dư, vì vô tri trước sự thông minh của ta… Và nếu làm được cả hai việc : đòn bẫy cạm bẫy trên một trận địa thì càng hay. Thí dụ không hề thiếu trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt tộc, mà chỉ trong khung kinh nghiệm quân sự trên sông Bạch Đằng, cũng có thể giải thích trọn lý-đủ luận qua các chiến tích của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo.

Tùy kế lập mưu quan trọng ngay trên thượng nguồn của kẻ sáng chế ra nó, và theo tri thức luận của khoa học chính trị, thì kẻ lãnh đạo chịu và nhận sự chi phối ít nhất ba yếu tố :

  • Mô hình hóa ý muốn-ý định-ý đồ của tác giả để đưa tính toán lý thuyết và thực hành cụ thể.
  • Đồ án hóa các phương trình để biến mọi ẩn số thành hằng số để đưa vào chương trình hành động
  • Hợp lý hóa ý chí của mình rồi biến chúng thành chỉ tiêu để thành công khi thực hiện mô hình và đồ án của mình.

Tùy kế lập mưu luôn theo quy luật nhân-thời-địa-thế, nhưng đây chỉ là nhận định ban đầu để phân tích tổng quát, kẻ lãnh đạo lập phương án hành động cụ thể phải suy nghiệm chính xác sự khác biệt (mà cũng là khoảng cách) giữa ý chí ở dạng mô hình lý thuyết và thực hành linh động trên một thực tế nhất định, trong đó có sự tôn trọng sức thông minh của đối phương, đối thủ, chỉ để tránh "thảm bại vì khinh địch".

Tùy kế lập mưu là sáng tạo của trí tuệ dũng lược, dựa trên sáng kiến của tuệ giác sáng suốt có gốc rễ của tài năng "biết nhìn xa trông rộng", đây chính là tiêu chí để chọn lãnh đạo tối cao, nếu không có "cốt cách" này thì đừng giành làm lãnh tụ !

Nội lý diễn biến thực tế

Nội lý diễn biến thực tế nhận định thực tế không theo mô hình mà theo quy luật biến đổi thường trực của nhân thế ; luôn được nhận ra từ tình huống, khi tình huống làm xoay chuyển môi trường hiện tại tạo ra thực trạng của xã hội, bất lợi hoặc thuận lợi cho dân tộc, cho đất nước ; làm lãnh đạo chính trị là nhận định, phân tích để điều tiết hoặc khai phá các thực trạng này.

Nội lý diễn biến thực tế được nhận diện qua biến đổi của thời thế, mở lối cho chính sách hoặc đóng cửa mọi sáng kiến ; làm lãnh đạo chính trị là thấy được, nhận ra nội lý diễn biến của tình hình, sẽ quyết định đúng hiệu quả của một chính sách, và nếu quyết định sai sẽ gây ra hậu quả cho xã hội, cho dân tộc.

Nội lý diễn biến thực tế, khi được lãnh đạo chính trị đánh giá qua nội lý diễn biến của tình hình, thì kẻ lãnh đạo giỏi biết khai thác tiềm năng xấu hoặc tốt của thực trạng ; còn kẻ lãnh đạo tài thì biết khai triển vốn có sẵn để kiếm lời trong thời thế mới ; riêng kẻ lãnh đạo lớn thì biết tìm cho ra các nội lực mới, các đồng minh mới, các liên minh mới, để củng cố thời-thế-vị của đất nước vì dân tộc.

Nội lý diễn biến thực tế trong tư duy của lãnh đạo chính trị chấp nhận chuyện "nắng sớm chiều mưa" trong so sánh lực lượng, bất lợi hay thuận lợi cho mình ; công nhận luôn chuyện "sớm nở, tối tàn" trong các liên minh giữa các đồng minh, bên này hay bên kia ; sẵn sàng đón nhận luôn chuyện "vật đổi, sao dời" không những giữa bạnthù, mà cả về chuyện bất biến giữa chung thủy và phản bội ngay trong nội bộ, làm được tất cả các chuyện này thì xem như "đắc đạo" trong quản lý phương trình lãnh đạo : nội lý diễn biến thực tế-nội lý biến thiên nhân tâm.

Nội lý diễn biến thực tế, khi đã làm sáng tỏ nội lý biến thiên nhân tâm, thì kẻ lãnh đạo giỏi biết khai thác tính hiệu năng cho nội lực của chính mình ; còn kẻ lãnh đạo tài thì biết khai triển tính hiệu quả cho nội công của chính mình trong thời thế mới ; và kẻ lãnh đạo lớn thì biết tìm tổng hợp của cả tính hiệu năng lẫn tính hiệu quả để hiệu lực hóa chế tác ra một tổng lực mới với kết quả hay, đẹp, tốt, lành nhất cho đất nước, cho dân tộc.

Nội lý diễn biến thực tế tạo ra nội lý biến đổi liên tục, hướng dẫn các kẻ lãnh đạo, giỏi, tài, lớn không bị :

  • nhốt tù trong mô hình chính trị của chính mình, thí dụ đau thương của cải cách ruộng đất (1954-1960), của tết Mậu Thân (1968).
  • còng tay trong phương án chính trị của chính mình, thí dụ bi thảm của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn (1954-1975).

Các kinh nghiệm đau đớn này bắt Việt tộc phải trả những giá quá đắt !

Nhập lý vào thể lực môi trường

Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước đầu tiên trong nhập lý vào nội lực của bối cảnh, trong đó bối cảnh của thực tế làm chuyển đối hệ ý (ý muốn-ý định-ý đồ), lãnh đạo chính trị tài ba sẽ chuyển hóa linh động hệ luận (lý luận, lập luận, giãi luận, diễn luận) của mình theo bối cảnh để biến bối cảnh thành thực lực của mình.

Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước thứ hai là mô hình đôi, trong đó mô hình cứng mang ý chí của chính sách, mô hình mềm đưa thực tế của môi trường, của bối cảnh để làm tăng hiệu lực cho vốn đầu tư, trong đó sự phối hợp nhuần nhuyễn mô hình đôi (cứng và mềm) là khả năng và ý chí của lãnh đạo vừa biết cõng chính sách qua trở ngại, trở lực, vừa biết buông lỏng khi mô hình bóp ngộp thực lực trong thực tế. Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước thứ ba là chiến lược đôi khi gặp nước chảy xiết, thì biết chọn nơi để làm đập nước để giữ nước, biết chọn chỗ thông nước để cho thoát nước ; trên cùng một dòng nước : hai chiến lược này không hề mâu thuẫn nhau, được xử theo lý luận đôi trong thông minh linh động để giải quyết.

Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước thứ tư là nắm hai tay, tay phải là chính sách của hệ lý (lý trí, lẽ, luận), tay trái là chuyển biến khôn lường của hệ thực (thực tế-thực cảnh-thực tại). Nắm hai tay để giữ cả hai, sự liên kết phải-trái, vừa tạo ra tính nội kết, bảo đảm sự tương tác linh hoạt của cả hai, không tách biệt nên không sợ mâu thuẫn, không có xung đột nên không có bùng nổ, đe dọa tính thực tiễn của chính sách. Nhập lý vào thể lực môi trường, có bước thứ năm là tính hiệu quả đôi, lấy chính sách để kích thích tình hình phát triển theo hệ sáng (sáng tỏ-sáng kiến-sáng tạo) với hiệu quả có trong sự đồng tình và ủng hộ của tập thể, cộng đồng làm nên khối đại đoàn kết cho dân tộc. Song hành cùng với hệ khai (khai thị-khai minh-khai trí) để phục vụ cho khai thác mọi tiềm năng, tiềm lực, của môi trường qua hành động chính trị cụ thể. Nhập lý vào thể lực môi trường có bước thứ sáu là biến tình hình thực tế thành lực đẩy làm xoay chuyển môi trường ban đầu theo quỹ đạo của chính sách lãnh đạo trong đó hệ thực (thực tế-thực cảnh-thực tại) giờ đã nhận sự chi phối của hệ khai (khai thị-khai minh-khai trí), tạo ra thực tế mới : nhập lý vào sung lực khai phá qua hệ sáng (sáng tỏ-sáng kiến-sáng tạo), từ đây lãnh đạo mới thực sự có chiến-lược-thật-trong-tình-hình-thật.

Lý mục đích của luận phương tiện

Lý mục đích của luận phương tiện, không liên quan gì tới loại khẩu lệnh "lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện", sống sượng trong diễn luận, mù quáng trong giãi luận, loại khẩu lệnh này sẽ không có một cứu cánh nào có nhân lý, nhân tri, nhân nhân, nếu phương tiện của nó không tôn trọng nhân bản, nhân bản, nhân tính. Ngược lại, lý mục đích của luận phương tiện luôn được diễn biến trên quá trình nhận thức của hệ lương (lương thiện-lương tâm-lương tri), không ép ý đồ chính trị của lãnh đạo qua một ý thức hệ vô tri, vô cảm, vô nhân.

Lý mục đích của luận phương tiện, có thượng nguồn của nhân bản, nhân bản, nhân tính, sẽ hướng để tránh được các khuyết tật sinh ra trong tư duy trong lãnh đạo chính trị là :

  • Mô hình hóa một cách cứng ngắt các đồ án.
  • Kế hoạch hóa một cách thô thiển khi triển khai các phương án.
  • Duy tâm hóa một cách thiển cận các quá trình sử dụng phương tiện…

Lý mục đích của luận phương tiện, cũng có công cụ, kỹ thuật, đầu tư của phương tiện trong hạ nguồn để giữ cái lý trí của lý mục đích và cái hợp lý của luận phương tiện để đạt được :

  • Tính hợp lý của 3Đ (đề nghị-đối thoại-đàm phán)
  • Tính thực tế của 3S (sáng lý-sáng kiến-sáng tạo)
  • Tính khả thi của 3K (khai minh-khai trí-khai phá)

Lý mục đích của luận phương tiện luôn có sự phối hợp chặt chẽ của phương trình lý trí mục đích-hợp lý phương tiện, dựng lên tư duy hành luận của lãnh đạo trong hành động lãnh đạo qua 3B :

  • Bảo đảm khối đoàn kết dân tộc.
  • Bảo trì vốn liếng xã hội.
  • Bảo quản tiền đồ tổ tiên.

Lý mục đích của luận phương tiện luôn thường xuyên đánh giá để tìm hiểu thực chất để có thực lực trên 3T :

  • Tiềm năng thuận lợi của bối cảnh thực tại.
  • Tiềm lực của các liên minh mới xuất hiện trong thực cảnh.
  • Khả năng khai thác các đồng minh mới trong thực tế.

Lý mục đích của nhân trí, luận phương tiệnluận của nhân bản, không biết, không thấu, không hiểu thì tốt nhất là : đừng nên lãnh đạo !

Luận tạo lực trong thuận lý

Luận tạo lực trong thuận lý, luận mang của lý trí ra chống lại chuyện triển khai những phương án trước khi nắm tình hình, trước khi điều tra cơ bản, trước khi nghiên cứu thực địa để nắm 3T thứ nhất (thực trạng-thực cảnh-thực tế), của lý trí dụng để thấy rõ các trở ngại, các chướng ngại của 3T này.

Luận tạo lực trong thuận lý bắt đầu bằng chuẩn đoán theo các chỉ báo khách quan để đánh giá một 3T thứ hai (thực tại-thực lực-thực tiển), nơi mà lý thuyết xơ cứng sẽ lùi lại để các hành động cụ thể mang nội chất tích cực là hiểu vấn đề đêt vượt khó khăn, lấy sáng kiến để thoát các ngõ cụt, lấy sáng tạo để biến vượt thoát thành vượt thắng.

Luận tạo lực trong thuận lý sẽ cho xuất hiện một 3T thứ ba (thích ứng-thích nghi-thích hợp), trong đó nhập nội với 3T (thực trạng-thực cảnh-thực tế) để không bị bỏ rơi bởi hiện tại của bây giờở đây. Kế tiếp là thích nghi theo lời dạy của tổ tiên : "tùy cơ ứng biến" nhưng cùng lúc phải sáng tạo ra các thuận lý mới để xoay chuyển tình thế, cụ thể là chuyển hóa các so sánh lực lượng, biến bất lợi thành thuận lợi. Chính khả năng lãnh đạo biết sáng tạo ra các thuận lý mới, để đưa thích ứng thích nghi vào quy trình của thích hợp, hỗ trợ bởi các thuận lý mới, để không bi quan chịu đựng cảnh "thời bắt thế theo thời phải thế" ; từ đây biết biến vượt thoát thành vượt thắng để không mang theo tính thất thế tạo ra chủ bại của "qua sông thì phải lụy đò".

Luận tạo lực trong thuận lý, là tạo ra khả năng hội nhập của lãnh đạo trong phương trình 3N (nội chất-nội lực-nội công), trong đó nội chất chính là lý trí bảo vệ chuyện hay, đẹp, tốt, lành trong một chính sách sáng suốt, vì lãnh đạo có nội lực của 3L (lý luận-lập luận-giãi luận), để biến nó thành nội công của lãnh đạo. Nội công này sẽ làm nên bản lĩnh chính trị, tầm vóc của chính sách, nơi đây cũng là nơi để suy nghiệm bài học lãnh đạo của tổ tiên "so ra mới biết ngắn dài" để phân định hai loại lãnh đạo : hữu tài hay bất tài.

Luận tạo lực trong thuận lý, không hề là chuyện lý thuyết mơ hồ, tạo ra mờ ảo trong hành động chính trị, mà là khả năng quản lý và tổ chức 3L (sung lực-hùng lực-mảnh lực). Tại đây, sung lực tới từ tiềm năng của đất nước, tiềm lực của dân tộc để tạo ra hùng lực trong xã hội với nhân dân đã hiểu rõ 3T (tự tin-tự chủ-tự cường) chế tác ra mãnh lực chống ngoại xâm để bảo vệ bờ cõi, tạo nên sức bật trong việc xây dựng cho bằng được chuyện "dân giàu, nước mạnh".

Luận tạo lực trong thuận lý, chế tác ra tổng lực của "thuận lý luận", có thượng nguồn của lý trí, có trung nguồn của chỉ đạo linh động, có hạ nguồn trong tổng hợp 3T+3L+3N, để làm nên thành công của lãnh đạo. Và, kẻ lãnh đạo giỏi, người lãnh đạo tài phải biết vận hành trong mọi hành tác chính trị.

******************

Phần 5

Chính

"Quyền lực không sợ sự thực,

quyền lực chỉ sợ các phong trào xã hội dựa trên sự thật"

G. Deleuse

politique5

Chính quyền độc đã làm bao chuyện độc hại ngoài chuyện diệt dân chủ, tự do, đa nguyên, nó đã diệt tiềm năng, tiềm lực của khoa học xã hội và nhân văn, ngay trong trứng nước ! Nó đã bóp chết học thuật như bóp ngộp sức thông minh sắc nhọn của tri thức !

Chính quyền (không) độc

Chính quyền là quyền lực cao nhất và trùm phủ toàn sinh hoạt xã hội, có vai trò trị an song hành cùng quốc phòng, dụng giáo dục để bảo vệ đạo đức và lấy đạo đức để thi hành công lý qua pháp luật. Nhưng một chính quyền thông minh và sáng suốt không nằm ngoài hệ nhân : lấy nhân tính để dìu nhân tình, lấy nhân tri để dắt nhân thế, lấy nhân trí để dẫn nhân loại, đưa tất cả vào nhân đạo, để sống có nhân bản, đối xử có nhân văn, quan hệ có nhân nghĩa. Ước mơ mà Platon đặt tên là cộng đồng lý tưởng.

Chính quyền bảo đảm các định chế xã hội, được ghi trong hiến pháp, bảo hành luôn tất cả cơ chế trong xã hội, tự hành chính tới giáo dục, bảo trì từ ngân sách tới xuất khẩu, từ văn hóa tới luân lý... Chính quyền bảo đảm, bảo trì, bảo hành dường như tất cả mọi sinh hoạt xã hội, và xã hội học chính trị đặt ngược lại vấn đề : vậy ai sẽ bảo đảm, bảo trì, bảo hành chính quyền ? Trong các quốc gia có dân chủ, chính đầu phiếu qua bầu cử sẽ quyết định câu trả lời qua các chương trình, chính sách cả các đảng phái trên nguyên tắc của đa nguyên quyền chọn lựa lãnh đạo là tự do của người dân, chính đây là câu trả lời thông minh mà hiện nay không có câu trả lời nào thông minh hơn.

Tại một nước không chấp nhận dân chủ, chối gạt đầu phiếu liêm chính, xua mất bầu cử trong sạch, tìm cách tiêu diệt mọi mầm mống của hệ đa (đa nguyên, đa tài, đa năng, đa hiệu, đa diện...) thì cùng lúc chính quyền độc này (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) tìm mọi cách để kiểm duyệt mọi sinh hoạt thông minh của tự do. Trong đó, tự do của khoa học xã hội và nhân văn, từ học thuật tới nghiên cứu, từ điều tra tới điền dả, để công bố các kết quả, từ đó giúp nhân dân nhận ra được thực chất của một chính quyền, trong đó chính trị học, kinh tế học, triết học, xã hội học... chính là những chỉ báo sắc nhọn để nhận ra một chính quyền, một thể chế có thông minh hay không ? Tại các quốc gia văn minh và tiến bộ, khoa học xã hội và nhân văn đóng vai trò khai thị-khai sáng-khai trí cho dân chúng, cho xã hội.

Thảm kịch hiện nay của Việt Nam, là chính quyền độc đã làm bao chuyện độc hại ngoài chuyện diệt dân chủ, tự do, đa nguyên, nó đã diệt tiềm năng, tiềm lực của khoa học xã hội và nhân văn, ngay trong trứng nước ! Nó đã bóp chết học thuật như bóp ngộp sức thông minh sắc nhọn của tri thức !

Chính quyền (không) gian

Nếu chính quyền bảo đảm các định chế xã hội, được ghi trong hiến pháp, bảo hành luôn tất cả cơ chế trong xã hội, tự hành chính tới giáo dục, bảo trì từ ngân sách tới xuất khẩu, từ văn hóa tới luân lý... Chính quyền bảo đảm, bảo trì, bảo hành dường như tất cả mọi sinh hoạt xã hội : thì cũng chính là chính quyền làm sản sinh ra các vấn đề xã hội mới. Và, nếu không giải quyết các vấn đề xã hội mới, thì chính chúng sẽ sinh đẻ ra các khó khăn xã hội mới, nếu khó khăn xã hội mới này không được giải quyết nhanh chóng, chính chúng sẽ tạo ra các tệ nạn xã hội mới, và nếu các tệ nạn xã hội này không được xử lý toàn bộ, chính chúng sẽ sinh bừa không những các bất công xã hội mới, kể cả các bạo động xã hội mới. Hegel định nghĩa một chính quyền chính thống luôn dụng lực của quyền vì lợi ích cho tập thể cho cộng đồng, cho dân tộc.

Tại sao lại xẩy ra chuyện một học trò chỉ mới 11 tuổi hỏi một bộ trưởng Bộ Giáo dục : "Tại sao chính quyền lại để nền giáo dục nước nhà hiện nay toe toét như vậy ?", ông bộ trưởng này đi, ông mới tới : Phùng Xuân Nhạ, giới học thuật điều tra ra ông "đạo văn", ông "biển lận" công trình của người khác, ông có chức giáo sư qua "mua quyền bán chức", để thành bộ trưởng gian vi giả (học giả-thi giả-bằng giả). Chỉ một năm 2017, Hội đồng chức danh giáo sư do ông này làm chủ tịch đã bầu qua con đường nghề lận-nghiệp gian-nghệ giả của ông hơn 1000 giáo sư và phó giáo sư, mà các tiêu chuẩn khoa học của một số không ít là rất mơ hồ vì mờ ảo. Giới đại học không biết họ có học lực hay không ? Có học vị học hàm lúc nào ? Tại sao họ hiện nay có học vị giáo sư trong khi họ không có quá trình giảng dạy trong đại học, không có công trình khoa học để công bố với giới học thuật quốc gia và quốc tế ? Trong số đó có bà bộ trưởng Bộ Y tế : Nguyễn Kim Tiến, không có quá trình giảng dạy, không có công trình khoa học, lại có lối quản lý "chết người" qua chuyện buôn thuốc chống ung thư giả. Việt tộc sẽ đi về đâu với các tác nhân chính quyền kiểu này ? Cái toe toét được nêu trong câu hỏi của một học trò chỉ mới 11 tuổi chỉ là hạ nguồn của tệ nạn do chính cơ chế gây ra, nhưng nếu muốn biết sự thật là phải đi trở ngược lên thượng nguồn của một định chế mà trong đó các chủ nhân chính quyền tự ý gian, dối, lừa, bịp bằng chính các xảo thuật, thủ đoạn nhớp nhúa : ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng "tổ chức (tự) phong" mình là tiến sĩ, song đó là giáo sư của một ngành không có trong bảng liệt kê của khoa học : ngành tổ chức đảng ! Cũng như chủ tịch nước Trần Đại Quang, cũng "tổ chức (tự) phong" mình là tiến sĩ, kế đó là giáo sư của một ngành không có trong bảng liệt kê của khoa học : khoa học an ninh (khoa học công an). Đây là chuyện đang làm trò cười trong giới học thuật chính thống, từ quốc gia ra quốc tế, mà kẻ làm học thuật tại ngoại quốc, hằng ngày thấy các đồng nghiệp phương Tây của mình mang ra làm trò cười cho chính giới trong các chính quyền của các nước dân chủ, đa nguyên, thì tự thấy đây chính là : quốc nhục !

Chính quyền (không) lận

Chính quyền Việt Nam hiện nay, mang thực chất của cường quyền, để lại từ khi có chuyên chính-chuyên quyền-lạm quyền, tức là từ khi có độc quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, loại chính quyền nầy cho tự phép họ gian lận "nói một đằng, làm một nẻo", cùng với phản xạ "cả vú lấp miệng em". Nó hoàn toàn trái ngược lại với định nghĩa bình thường của chính quyền, mà theo tổ của ngành xã hội học Durkheim : "chính quyền đưa thực thể của tư duy vào hành động cụ thể trong thực tế xã hội, qua công cụ hợp lý của chính sách, để điều hành các định chế, các cơ chế vì lợi ích của toàn thể".

Vơ vét tiền của của đồng bào mình, đưa của cải -cắp và cướp- ra ngoài, không qua Trung Quốc cũng cộng sản như họ, mà qua phương Tây, cùng lúc đưa con cái du học và mua nhà về hướng Bắc Mỹ và Tây Âu, tìm cách "hạ cánh an toàn". Một loại tiếng lóng ôm quyền rất thô tục dựa trên cái vô đạo đức của các chủ nhân chính quyền (từ Bộ Chính trị tới Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam) giữ ghế ở trên để ăn cướp), cùng các tác nhân chính quyền (từ chính phủ tới các cấp của chính quyền địa phương) giữ chỗ ở dưới để ăn cắp. Tầm thường hóa chuyện trộm, cắp, cướp, giựt qua độc quyền-tham quyền-lộng quyền, loại chính quyền đó mang trong bản chất lãnh đạo của họ, mang trong tư duy lãnh đạo của họ : bạo quyền !

Trong đây có một bi kịch đang được ẩn giấu, đó chính là thực thể chính quyền Việt Nam nằm trong tay bạo quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, từ đây tạo ra một quốc nạn đang chờ đón Việt tộc ! Ma quyền Tầu tặc đang trùm phủ lên tà quyền quốc nội. Vì Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc đang trùm phủ lên số phận của Đảng cộng sản Việt Nam, vì các chủ nhân chính quyền cùng các tác nhân chính quyền muốn giữ Đảng cộng sản Việt Nam để tiếp tục vơ vét thì phải dựa vào sự bao che của Đảng cộng sản Trung Quốc, mà Đảng cộng sản Trung Quốc thì không bao giờ rời bỏ ma đạo của họ là xâm lược-xâm lấn-xâm chiếm-xâm lăng đất nước Việt ! "Đi với ma mặc áo giấy" là bài học cẩn trọng mà tổ tiên để lại, và trong tình hình "chỉ mành treo chuông" hiện nay của kiếp Việt là chúng ta đang bị truy đuổi-truy lùng-truy quét-truy hại không phải bởi một con ma mà ít nhất là hai con ma : ma quyền Tầu tặc tà quyền quốc nội.

Chính quyền (không) bỏ gốc

Chính quyền (không) bỏ gốc trong một dân tộc biết thờ tổ tiên là một chính quyền biết quý trọng người tuổi trọng, vì họ là cầu nối giữa đạo lý tổ tiên và các thế hệ sinh sau đẻ muộn, họ nối tầm nhìn của kẻ xưa để nối tầm tay của thế giới khuất mặt và thể giới có mặt. Vậy mà, các người lớn tuổi không được bảo vệ, không được chăm sóc, không được tôn trọng như bao đời nay trong lịch sử của Việt tộc. Một số không nhỏ bị gia đình bỏ rơi, bị xã hội xem rẻ, bị chính quyền quên trong chính nhiệm vụ của chính quyền là phải bảo vệ những kẻ già yếu. Hãy tạm gạt qua câu "kính lão đắc thọ", biến chuyện nâng người lớn tuổi để tìm đường sống lâu trong lúc nhiều tuổi, mà hãy chỉ đối xử bình thường của kẻ biết ơn-mang ơn, không cần phải trả ơn, chỉ cần thành kính với họ trong gia đoạn lão-bịnh-tử.

Có không ít các người tuổi trọng mà không được quý trọng, chịu cảnh "tứ cố vô thân", ngày ngày "đầu đường, xó chợ", lang thang "cù bất, cù bơ", thấp bé như "bụi đời", lẻ loi như "oan hồn", thậm chí phải "ăn mày, ăn xin" để "sống vất vưởng qua ngày". Nếu một chính quyền mà để người dân tuổi trọng trong tình trạng như vậy thì chính quyền này có tội với họ, phải lãnh tội trước tổ tiên, phải chịu tội trước luân lý "thờ cha, kính mẹ" theo nghĩa rộng nhất và thật nhất !

Weber định nghĩa : "chính quyền như một tập thể nhân tri sống động có quyền lực trên một lãnh thổ, nhưng phải thực thi quyền lực đó qua các giá trị của nhân tính".nhân tính Việt chính là nhân nghĩa Việt (bầu ơi thương lấy bí cùng), chính là nhân bản Việt (một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ), chính là nhân đạo Việt (máu chảy, ruột mềm), chính là nhân văn Việt (máu chảy tới đâu, ruột đau tới đó). Tại đây, một chính quyền có nhân tri Việt phải hướng dẫn xã hội, phải dẫn dắt người trưởng thành, phải giáo dục thanh thiếu niên, phải giáo dưỡng thiếu nhi (chỉ trong hai từ) : có hậu ! Vì "ăn ở có hậu" mới có lối ra để thoát vô cảm ! Có nẻo đi vượt vô nhân ! Có đường để tránh vô hậu !

Chính quyền (không) phân nửa

Chính quyền (không) phân nửa là một chính quyền không quên một nửa bộ phận của dân tộc là : phụ nữ ! Thói quen "trọng nam khinh nữ" đã thô bỉ trong đấu tranh hiện nay của thế giới cho nam nữ bình quyền, tại Việt Nam nó lại càng bỉ ổi hơn trong thực tế xã hội nơi mà phụ nữ Việt còn bị hà hiếp (nạn nhân của hiếp đáp), có lúc bị cưỡng hiếp (nạn nhân của hiếp dâm), lúc thì ngoài xã hội, thậm chí có lúc là nạn nhân của chính các chủ nhân chính quyền ! Bi kịch mà cũng là hài kịch của Việt tộc, bi đát hơn thảm kịch, dài lâu sinh ra hoạn kịch, nơi mà tuyên truyền ngu dân bắt cả nước học tập theo gương đạo đức của Hồ Chí Minh, thì chính nhân vật này, được kể qua nhiều hồi ký của các kẻ thân cận với ông, từ Trần Đĩnh tới Nguyễn Thư Hiên... là một kẻ lận dâm với nhiều phụ nữ, mà nạn nhân đã bị mất mạng : bà Nông Thị Xuân, sau khi bị rơi vào tay của Trần Quốc Hoàn, bị ám sát, rồi trá hình qua một tai nạn, mà Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn bưng bít. Không ai trong chúng ta buộc tội sinh hoạt dục tính bình thường giữa nữ và nam, nhưng một chính quyền trong sạch phải kết tội thủ phạm khi dục tính đã thành thú tính, sẵn sàng đổi qua sát tính gây tử thương cho đồng loại !

Chuyện chính ở đây là vai trò bưng chải, gánh vác gia đình phụ nữ Việt, biết vùng dậy để thành công trong doanh trường, thành doanh nhân cáng đáng gia đình, doanh nghiệp, mà vẫn bị chèn ép ngay trên chính trường, vắng mặt trong lãnh đạo chính trị, với một thiểu số quá ít để làm theo đổi tình hình hiện nay : để bảo vệ phụ nữ. Một tình hình với một số không nhỏ nam giới hưởng thụ trong nhàn rỗi, từ nhậu nhẹt qua chơi bời, từ trác táng qua tha hóa, tiêu rỗi thời gian qua tiêu thụ bừa bãi trong một quá trình hèn nhục hóa nhân cách nam giới, một chính quyền mà nhắm mắt, quay lưng với các tệ nạn nam giới là một chính quyền có tội với dân tộc.

Tội của chính quyền hiện nay càng nhiều, càng sâu, khi họ để phụ nữ Việt phải đi làm nô tỳ, nô bộc, thậm chí "làm gái" trong nhiều nước láng giềng, mà số phận thua kẻ "đi ở đợ". Trong khi mọi người Việt đều biết không ai thấy những phụ nữ các nước láng giềng trên đất nước Việt, một chế độ mà để bao nhiêu trăm ngàn phụ nữ đi "làm vợ lẽ", "làm điếm", kẻ cả trẻ con. Vậy mà, trên mạng xã hội, cư dân mạng đều thấy bức ảnh một phụ nữ, ăn mặc hở hang, nhưng cầm trên tay biểu ngữ "bán thân không bán nước" ! Đây không những là sự thật về chính quyền hiện nay trong đó có một số không nhỏ lãnh đạo đang trong quy trình bán nước, mà biểu ngữ này còn nói lên một sự thật luân lý sâu xa hơn là phụ nữ phải bán thân thì : nhân cách-tư cách-phong cách của họ còn liêm chính-liêm khiết-liêm sỉ hơn bọn bán nước !

Chính quyền (không) chém ngọn

Chính quyền (không) chém ngọn là chính quyền biết bảo vệ : lộc, chồi, hoa, ngọn của cuộc sống, đó chính là trẻ thơ ! Chính là tương lai đang hiển hiện trước mặt chính quyền đang cầm quyền, phải giáo dục-giáo dưỡng chúng bằng giáo lý của nhân loại, của tổ tiên, trao truyền được nhân tri, nhân trí cho một nhân loại chưa trưởng thành đang chờ đón nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn.

Chính quyền (không) chém ngọn là chính quyền không chấp nhận cảnh trẻ con phải ăn "cơm thiu, cháo hẩm", "ăn lá để no bụng" như một bầy trẻ có động thái thú tính trong giờ cơm tại các trường học vùng sâu-vùng xa, ngày ngày bẩn thỉu, rách rưới, cảm cúm, thất thểu, vượt suối, vượt đèo để đi học trong hiểm nạn.

Chính quyền (không) chém ngọn không thể để một số thầy giáo, cô giáo bạo động ngay trong lớp học, đánh đập các học sinh trước mắt bạn bè của chúng ; không trả bài được thì bị nhục mạ bằng những lời lẽ thô tục. Làm sao có thể dạy được học sinh yêu người, yêu đời bằng bạo lực. Chúng còn bị bạo hành bởi cha mẹ ngay trong gia đình, vùi dập chính các con mình bằng những cực hình mà chính họ thấy xảy ra ngoài đường, trong các đồn công an, trong phim ảnh, trong truyền hình...

Chính quyền (không) chém ngọn, là chính quyền có quyết tâm giới hạn tối đa nạn tự tử của thanh thiếu niên, mà bầy giờ một số em lại cho môi trường học đường để tự vận ; trong một xã hội với nhiều trẻ bị tâm thần mà không được chính quyền qua y tế chăm lo chữa trị, chăm sóc qua điều trị, để sau này sẽ thành loại người lớn nguy hiểm cho gia đình, hàng xóm, tập thể, cộng đồng.

Chính quyền (không) chém ngọn phải dứt khoát trừng trị và xóa cho sạch nạn "ấu dâm" đang lan tràn, đày đọa trẻ con suốt kiếp phải mang số phận địa ngục trần gian trước thế giới người lớn. Không có gì khó để trừng trị, cô lập, vô hiệu hóa các tội phạm này ; các chính quyền văn minh có nhiều phương sách hữu hiệu : cô lập trong các trung tâm điều trị, dùng y học hóa chất ngăn sinh lý tội phạm, dùng phân tâm học hỗ trợ bởi tâm thần học, tận dụng giáo dục tâm lý học từ trong gia đình tới học đường, từ hội đoàn tới pháp luật.

Câu hỏi của Chí Phèo : "Ai cho ta làm người lương thiện ?" mà một trong các câu trả lời đã có sẵn trong một chính quyền liêm minh, với một hệ thống giáo dục liêm chính, tạo điều kiện cho thầy cô liêm sỉ với giáo khoa-giáo trình-giáo án liêm khiết để giáo dưỡng trẻ thơ thành người lương thiện !

Chính quyền (không) xóa não

Chính quyền (không) xóa não là chính quyền biết trọng chất xám, nâng niu tri thức, quý trọng trí thức, vì quý yêu kiến thức, biết dụng không những khoa học kỹ thuật, mà khai thác sáng suốt các nghiên cứu, điều tra, điền dả của khoa học xã hội và nhân văn, nắm chắc các kết quả của học thuật để hiểu sâu nhân tình, hiểu rộng nhân loại, hiểu cao nhân thế, luôn đưa nhân tri vào nhân trí để nâng nhân bản.

Chính quyền (không) xóa não, là chính quyền biết khai thác sử học, để tra đúng sử liệu, tìm trúng sử luận, để hiểu sử tính của một dân tộc, sử địa của một đất nước, và không lập lại sai lầm của quá khứ, biết ưu điểm, trọng điểm của tổ tiên nhưng cũng thấu luôn yếu điểm, nhược điểm, khuyết điểm, kể cả khuyết tật của họ. Hiểu thấu lịch sử để làm khá hơn, tốt hơn, hay hơn, cùng lúc đặt Việt sử, vào sử quốc tế để so sánh từ đồng sử đến dị sử giữa người và ta, trong đó so sánh sắt se với láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với ta. Đó là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, cùng văn hóa với ta tại sao họ thành công làm chủ, còn ta thất bại (trong thảm hại) làm công, làm thợ cho họ thậm chí lao động trong vai nô tỳ, nô bộc cho họ ?

Chính quyền (không) xóa não là chính quyền biết đưa kiến thức của khoa học xã hội và nhân văn làm tri thức cho xã hội hiện tại, có kiến thức xã hội học rồi thì biết sáng lập ra nhân khẩu học để có các chỉ số, chỉ báo, chỉ tiêu trong định chất và định lượng từ sinh suất tới tử suất, từ tuổi thành hôn tới tuổi thọ của các cá nhân, của một dân tộc. Khi đã vững về kinh tế học thì biết sáng tạo ra kinh tế học xã hội để chuẩn đoán rồi để giới hạn ngay trên thượng nguồn chuyện bất bình đẳng (con vua thì được làm vua, con quan thì được làm quan) qua cải tổ giáo dục, chuyện bất công (cá lớn nuốt cá bé) để bảo quản được đạo đức của cha ông.

Chính quyền (không) xóa não là chính quyền biết đưa các khám phá của khoa học xã hội và nhân văn vào ngay trong công tác xã hội, từ thấu hiểu các nhu cầu xã hội tới xử lý các đòi hỏi xã hội, chính tri thức của các nghành này tạo điều kiện cho chính sách đúng hơn, lãnh đạo khôn ra, đây là chỉ báo để định nghĩa sự thông minh trong chính trị. Một chính quyền không liều lĩnh thiêu binh, qua một cuộc bạo chiến mang tên gọi là tổng tiến công tết Mậu Thân, năm 1968 làm thiệt mạng hàng trăm ngàn sinh linh, một cuộc nội chiến (1954-1975) làm mất mạng nhiều triệu động bào, để sau bao năm hòa bình rồi mà Việt tộc cứ tìm đường ra đi, ra nước ngoài như để tự cứu mình và người thân, bỏ lại con người Việt ngày càng sa sút, từ nhân phẩm tới nhân cách !

Chính quyền (không) xóa não là chính quyền biết khiêm tốn trước tri thức, luôn muốn học hỏi ; khiêm nhường với trí thức, luôn nhận các tư vấn đúng, các cố vấn giỏi ; luôn khiêm cung trước "điều hay, lẽ phải" của tổ tiên, xem chuyện cứu nước-giữ nước hơn chính sinh mạng của mình, nếu không nghĩ và không làm như vậy thì đừng lãnh đạo chính trị !

Chính quyền (không) xé lẻ

Chính quyền (không) xé lẻ là chính quyền dùng quyền lực của trí tuệ dân tộc, tài nguyên đất nước để chế tác ra hợp lực trong đó giáo dục phục vụ nhân tri và nhân trí, kinh tế phục vụ cho nhân sinh, văn hóa phục vụ cho nhân văn, đạo lý phục vụ cho nhân cách, lấy nhân nghĩa làm nhân bản. Ý nghĩa của hợp lực có trong kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của tổ tiên qua thuật ngữ : cả nước-toàn dân. Đây chính là thành công của một chính quyền biến hợp lực thành tổng lực.

Chính quyền (không) xé lẻ là chính quyền dùng quyền lực của định chế và cơ chế để làm ra tổng lực cho cả một dân tộc, cho cả một đất nước, không xé lẻ để hưởng riêng, không xé lẻ để cộng sức. Không lòn lách qua lách luật, tránh luật, thậm chí xé luật để tham nhũng-tham ôtham quyềnlộng quyền. Bọn xé lẻ để đi đêm với đối phương, để xé lẻ để đi lén với kẻ thù không thể dung thân trong một chính quyền sạch !

Chính quyền (không) xé lẻ vì tư lợi của lãnh đạo, vì tranh quyền giữa các nhóm lợi ích, thanh trừng nhau trong bạo lực như các mafia, chỉ biết trộm, cắp, cướp, giựt với hành vi "ăn tươi, nuốt trọn", trong cách hành xử "thắng làm vua, thua làm giặc", thắng rồi thì "ăn trên, ngồi trốc", vừa vơ vét, vừa tính chuyện "cao bay, xa chạy" khi đất nước lâm nguy.

Chính quyền (không) xé lẻhợp lực thành tổng lực trong cộng củacộng sức, mà không quên cập nhật hóa các giá trị tâm linh của tổ tiên ; biết duy trì và trao truyền mọi giá trị luân lý và đạo lý qua giáo dục ; biết bảo quản rồi bảo hành mọi di sản vật thể và phi vật thể vì nhân dân, và vì nhân loại. Biết phổ biến hóa các khả năng, các tài năng của từng thành phần xã hội, các tiềm năng và tiềm lực của từng vùng miền, để "vốn liếng hóa" phương trình hợp lực-tổng lực trong các hành động cụ thể của lãnh đạo : lấy vốn cũ để tạo vốn mới !

Chính quyền (không) vùi tri

Tri thức để lãnh đạo chính trị không chỉ tới tự kiến thức khoa học, nó hằng ngày khai trí cho lãnh đạo nếu các lãnh đạo muốn khai minh qua khai thị khi trực diện với dân chúng với xã hội, chuyện chính của tri luôn là có chịu học, chịu hiểu, chịu thấu để chịu đổi, chịu thay, chịu chuyển hóa hay không thôi ! Tri thức về dân chúng với cuộc sống ngày càng nheo nhóc của họ, không biết các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có ý thức, có nhận thực để chuyển thành tâm thứ hay không, khi xuất hiện một tâm lý mới của số đông dân ngày càng bị cái nghèo khó, bị cuộc sống hằng ngày truy bức quá đổi sinh ra tâm lý : "sợ tết !". Tại sao lại sợ tết một thời điểm vừa thiêng liêng, vừa thảnh thơi, phải vui vì là dịp rất vui của cả nước ? lý do chính vẫn là tài chính, kính tế, vật chất : "không có tiền ăn tết", "không đủ tiền nghĩ tết", "tết đến còn làm buồn hơn", "chỉ mong cho tết qua mau"... Tâm trạng này phải đánh thức tâm thức của lãnh đạo, họ phải thực sự phản tỉnh để thấy hiện trạng quần chúng : Tết làm gì cho khổ !

Việt tộc luôn biết "vui tết", thế mà các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có thấy là trong lúc họ nhận quà cáp "ngập mặt", thì có các gia đình chỉ đủ sống nhưng mấy đêm "ba ngày tết" lẳng lặng tặng : "quà tết", "ẩm thực tết", "bánh trái tết"... đi cùng đường cuối phố, để phân phát cho các người dân không nhà, nằm la liệt thảm buồn giữa tết, đó là tình đồng bào trong một xã hội mà đạo đức dân tộc đang bị xuống dốc thảm hại, một xã hội bị một chính quyền bỏ rơi, bỏ đi, bỏ mặc ! Việt tộc không thiếu tình đồng bào, đối với các con dân biết đùm bọc nhau, các lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam có thấy là trong lúc họ vui chơi, chè chén trong dịp tết thì có bao thanh niên vào các xóm nghèo, lên tận vùng cao, vùng xa, vùng sâu để trao tặng quà tết cho các đồng bào trắng tay, trong túng thiếu : "không dám nghĩ tới tết". Nếu các lãnh đạo mà vui hưởng triệt để tết, nhờ bổng lộc qua quà cáp, thì chắc chắn là vô tri, khi bao đồng bào họ cúi đầu trong cảnh thiếu hụt-thiếu thốn : thiếu đói !

Việt tộc hiện nay thấy ngấy lên tới cổ, mỗi lần nghe các mỹ từ : an sinh xã hội, khi quà tặng của các đoàn từ thiện muốn trao tận tay cho các đồng bào nghèo các vùng cao, vùng xa, vùng sâu đã bị chính quyền địa phương với lực lượng công an của họ chặn ngay trước làng, trước thôn, trước cổng ; một đất nước mà làm một cử chỉ bình thường của thiện nguyện cũng bị chặn, cắp, cướp, giật ! Việt tộc hiện nay ngày càng thấy kiểu xảo ngôn : an sinh xã hội trở nên lố bịch với cảnh đồng bào nằm la liệt trong các bịnh viện, nơi mà các dịch vụ làm tiền bất chính trùm phủ lên họ, khi người nhà mang thức ăn được nấu kỹ lưỡng, vậy mà người bịnh không được hưởng, mà phải mua thức ăn của các dịch vụ làm tiền bất chính này, vì "lý do y tế"mà xuất xứ các thực phẩm này không biết từ đâu tới, có độc tố hay không ? Có an toàn hay không ? Chữ tri là hải đăng cho chữ nhân ! Phải thấy chữ tri trong nỗi khổ niềm đau của đồng bào để không vùi tri lãnh đạo !

Chính quyền (không) xiết tuệ

Chính quyền (không) xiết tuệ, nơi mà tuệ giác của dân tộc chính là trí tuệ của lãnh đạo ! Tuệ giác hiện nay của nhân dân nằm ngay trong nỗi khổ niềm đau của họ, vì hơn hết họ hiểu sự cùng quẩn của dân đen, sự oan ức của dân đen : tại sao trong dịp tết này, 2018, có hàng trăm dân oan vẫn ra Hà Nội, dù biết các cơ quan lãnh đạo đã đóng cửa nghĩ tết ! Họ nằm lăn lóc đường Ngô Thì Nhậm, Hà Đông, với khí trời mùa đông miền Bắc, tại sao vậy ? Tại vì họ không còn đất, còn nhà, họ mất hết, họ tới thủ đô để kêu oan, để đòi công lý, mà lãnh đạo chính quyền phải trả lại công lý cho họ, đừng lẻo miệng là "đầy tớ của dân" nữa !

Lãnh đạo đừng lẻo lưỡi "phục vụ dân", hãy thật sự phục vụ nhân dân, bằng cách chống bất công, chống bạo quyền, hãy bảo vệ dân bằng tuệ giác của công bằng. Trí tuệ của lãnh đạo bắt đầu bằng trực diện để trực quan : các cơ quan có những tòa nhà đắt tiền, rộng lớn, cũng từ tiền thuế của dân mà ra ; chính các cơ quan đó, từ địa điểm của các hội tới các địa danh của của chính quyền, thì tất cả cửa nẻo đóng im ỉm ngay cả ngày hành chính bình thường, nơi mà chung quanh dân oan đứng, ngồi, nằm la liệt, họ đang : đi ăn xin công lý đấy ! Họ trực tuyến để trực diện với một chính quyền vô tuệ trước công pháp đấy ! Vì họ có kinh nghiệm với một chính quyền đi bắt cóc các nhà vận động dân chủ, tuyên bố xử họ công khai nhưng chặn dân đi dự ngay trước cổng toà, bỏ tù các nhà vận động dân chủ nhưng khi thả họ ra thì không có chứng thư giam giữ và phóng thích, cùng lúc chối leo lẻo trước quốc tế là Việt Nam không có tù nhân lương tâm. Một chính quyền bắt cóc dân-xử đóng cửa tòa-nhốt bừa bãi-thả thô tục đó là một chính quyền trí tuệ nhúng chàm.

Trí tuệ của lãnh đạo nằm ngay trong đạo lý của lãnh đạo : "đồng cam cộng khổ"với dân, nằm giữa đạo đức của lãnh đạo : "chia cơm xẻ áo" với dân ! Ngược lại cứ để nhân dân tự cứu đói nhau ; mặc thanh niên đi bảo vệ môi trường, môi sinh giữa khu Sơn Trà có động vật trong sổ đỏ, hàng ngày bị đe dọa bởi bọn tướng tá tham quan phá rừng để xây : biệt thự, dinh thự, biệt phủ, nhân cách bọn này không phải lãnh đạo, vì tư cách của chúng thua xa súc vật.Tuệ giác của lãnh đạo rất dễ thấy (nếu lãnh đạo muốn thấy, muốn thấu) qua chính bạo quyền, cho phép công an bạo động với thanh thiếu niên, khi bắt cô bé Cát Linh bị công an bắt, đánh đập, tra hỏi và khi mở cặp của cô học sinh này ra thì thấy toàn : hiến pháp ! Chính bọn công an vô tri, vô giác không sao hiểu nổi có một cô học sinh để dành tiền đi mua hiến pháp để tặng cho bạn bè, cho dân chúng, giúp họ hiểu công pháp, công lý hơn để họ tự bảo vệ họ, vì chính quyền không bảo vệ họ, mà ngược lại hằng ngày hiếp đáp họ.

******************

Phần 6

Thức

"Lịch sử là ác mộng, tôi sống để thức suốt…".

J. Joyce

politique6

Lãnh đạo mà vô thức thì sẽ đưa Việt tộc vào lộ trình vô định hướng vô minh !

Thức

Thức là hệ đào tạo chính trị tất yếu : lấy kiến thức để xây dựng tri thức, nhận trí thức để tạo ý thức, đón nhận thức để có tỉnh thức. Không thạo hệ dây chuyền : kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tỉnh thức thì đừng lãnh đạo, lãnh đạo mà vô thức, thì dẫn tới vô minh, để rơi vào bẫy vô tri, chóng chầy sẽ rơi vào vô giác, gây họa cho dân tộc, tạo nạn cho giống nòi. Thức là hệ lãnh đạo chính trị vừa tỉnh để có tỉnh táo, vừa động để hành động đúng lúc hợp thời, đúng thế. Hãy xem lại quá trình đào tạo lãnh đạo tại các nước văn minh, nếu không nói là tân tiến, ở đó có kiến thức trước quần chúng để gầy dựng tri thức sớm làm nền cho mọi chính sách, tránh hẳn chuyện "sai một ly đi một dặm". Trong đó mọi chuẩn bị trên thượng nguồn phải có một hệ trí thức chỉnh chu làm gốc cho ý thức chu toàn, để không xẩy ra chuyện "sai con toán bán con trâu". Để khi hành động, thì được vũ trang bằng nhận thức chính xác về dữ kiện để có tỉnh thức sáng suốt, "người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển đã dò nông sâu", trước khi nhập cuộc và biết chống chỏi trước mọi thử thách !

Một trong những thất bại to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam, gây bao hậu nạn cho Việt tộc, là Đảng cộng sản Việt Nam không tin, không muốn, không đón, không trọng hệ thức (kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tỉnh thức) trong lãnh đạo chính trị. Hệ thức để khai thị, khai sáng, khai tri, khai trí, mà các nước láng giềng cùng tam giáo đồng nguyên với Việt Nam đã thành công : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Hệ thức luôn được mài thật sắc, dũa thật nhọn qua hệ học, học cho đến nơi, đến chốn để lấy sáng kiến trong thao tác, để thăng hoa qua sáng tạo trên mọi lãnh vực của tri thức, từ khoa học, kỹ thuật tới văn hóa, nghệ thuật...

Vấn nạn thì phải nhận ra hậu nạn : Đảng cộng sản Việt Nam đã tha hóa hệ giáo (giáo dục-giáo khoa-giáo án-giáo trình) đang đi ngược lại quy trình kiên cường giáo dưỡng để bền chí học tập, để xảy ra bao hiện trạng học giả-thi giả bằng giả. Lãnh đạo mà vô thức thì sẽ đưa Việt tộc vào lộ trình vô định hướng vô minh !

Lương

Lương hệ lụy nếu lãnh đạo chính trị vô tâm, là hệ thiện nếu những kẻ lãnh đạo chú tâm. Lương là hệ trình của lương thiện-lương tâm-lương tri, không có lương mà đòi lãnh đạo, thì không chóng thì chầy cũng thành kẻ bất lương ; từ sâu dân mọt nước sẽ tới buôn nước, bán dân.

Lương luôn hệ kiến thức đôi : kiến thức liêm chính về luân lý làm nền kiến thức sáng suốt về quản lý, trong đó bọn tham quan không có chỗ đứng để tham nhũng, không có chỗ ngồi để tham ô. Bọn này không sao hiểu được phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri là một lý luận thông minh, một lập luận thông thái để kẻ cầm cương, nẩy mực sẽ là kẻ chủ động đưa giống nòi tới quốc thái, dân an. Vì với tư duy ích kỷ tối đa làm quan để vơ vét, làm lãnh đạo cào, nạo của cải nhân dân, nên chúng đã bị ung thư ngay trong não bộ và luôn nghĩ phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri chỉ dành cho những ai ngây thơ, thật thà, thậm chí là ngu dại.

Lương thiện, lấy cái trong làm cái sáng, lấy cái thẳng làm cái ngay, công nào của nấy, ngược lại với bọn tham quan làm quan để tham nhũng, sẽ bị lột mặt nạ vì là bọn cướp ngày là quan (cắp của công-cướp của tư), giữa công và tư chúng chỉ thấy chúng, chuyện ai chết mặc ai trong phản xạ của chúng, chuyện cao chạy, xa bay khi đất nước bị ngoại xâm có trong vô tâm nên sống vô thức của chúng.

Lương tâm, lấy tâm nói thương, lấy thương làm thiện, biết nỗi khổ niềm đau của đồng bào nên có lương trong công, có tâm trong việc, nhất là việc nước, việc vì dân. Lương tâm của kẻ lãnh đạo có công tâm, biết công bằng (cả lý lẫn tình), công lý song hành cùng công pháp, luôn được giáo dưỡng qua nhân đạo trước mọi cảnh thương tâm của đồng bào, đồng loại.

Lương tri, tri thức của lương tâm, kiến thức của lương thiện, tỉnh táo trong lãnh đạo vì thương nước, trọng dân ; sáng suốt trong quản lý vì ăn ở có hậu với các thế hệ mai sau. Chuyện lạ là từ lối tuyên truyền một chiều nghe ra rả bao năm nay "học tập theo gương đạo đức của Hồ Chí Minh" cho tới cả một chiều dài lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam đã gần một thế kỷ : phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri chưa bao giờ là chủ đề thảo luận của các lãnh đạo luôn dành độc quyền lãnh đạo đất nước này !

Sạch... trong

Sạch trong đào tạo lãnh đạo nơi mà học lực bảo trì cho học vị, bảo hành cho học hàm ; học trong nghĩa học tập trong tu thân, học hành trong tự rèn luyện, sạch ngược lại với bẩn, với hai loại ô nhiễm trong chính giới : bất tài, vô chí luồn lách qua cửa ngõ tham quan, tham nhũng.

Sạch trong quy trình gầy dựng chính sách, tại đây các thủ đoạn tham ô, tham nhũng bị chặn ngay thượng nguồn, nơi đây kẻ lãnh đạo đi từng bước từ chính sách tới quyết định, từ quyết định tới hành động, từ hành động tới thành quả, lấy cần mẫn để làm rõ bổn phận, lấy chí công để nhận trách nhiệm, lấy hy sinh để thao tác mọi hành vi lãnh đạo. Không hề có chuyện chia chác với nhau để trục lợi riêng.

Sạch trong tiến hành qua cơ chế, từ chỉ đạo qua hành chính, từ quản lý tổng quan tới hành động lãnh đạo cụ thể thường nhật, nơi đây cơ chế sạch để liêm chính hóa mọi thủ tục, để trong sạch hóa mọi tổ chức từ nhân lực tới đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nơi mà kết quả là hiệu quả lãnh đạo, không có chuyện tránh, né, lách, xé luật để đầu cơ, không có chuyện rút ruột vốn, tài nguyên, vật liệu để làm giầu riêng.

Sạch trong hành động chính trị thấy rất rõ trong phong cách lãnh đạo thanh bạch, chấp nhận thanh đạm vì dân tộc, nhận luôn cả thanh bần để tròn nhiệm vụ, để tròn nghĩa vụ với đất nước, lấy đồng lương nuôi cuộc sống cá nhân. Chuyện biệt dinh, biệt phủ là chuyện của bọn đầu cơ chính trị, đầu nậu chính sách, không hề là chuyện của kẻ lãnh đạo liêm sỉ, không hề là hành động lãnh đạo liêm chính.

Sạch... sáng

Sạch để trong chính trị, để sáng lãnh đạo ; sạch từ thượng nguồn trong quá trình đào tạo các cá thể lãnh đạo, sạch trong quy trình gầy dựng chính sách.

Sạch trong đánh giá thành quả và hậu quả phải rõ ngay từ đầu : thấy chuyện hay cho dân tộc, chuyện tốt cho giống nòi, chuyện lành cho xã hội, chuyện đẹp cho đất nước thì đầu tư, thì lập chính sách, thì hành động, trọn vẹn chí công vô tư. Thấy chuyện xấu cho dân tộc, chuyện tồi cho giống nòi, chuyện tục cho xã hội, chuyện dở cho đất nước, thì đừng đầu tư, thì đừng lập chính sách, thì đừng hành động, đánh giá thành quả và hậu quả là chuyện cân, đo, đong, đếm, hoàn toàn duy lý qua lý luận và lập luận có kiểm soát của tập thể, có đối thoại với cộng đồng, có sự đàm phán của nhiều chính kiến đóng vai trò khách quan hóa lãnh đạo chính trị.

Sạch từ đầu đến cuối để tách ra khỏi loại ngụy biện "đánh chuột tránh vỡ bình", mà ta chỉ thấy bạo động với đạo đức giả luôn đi đôi với thanh trừng nội bộ, một loại chính trị rừng, không trong và không sạch. Sạch để tránh loại xảo biện "đưa củi vào lò", một loại bạo hành chính trị luôn đi đôi với thanh lọc bè phái, của bạo lực "mạnh được, yếu thua", của loại bạo quyền "thắng làm vua, thua làm giặc".

Não... bộ

Não bộ dân tộc tùy thuộc phần lớn vào não trạng quần chúng, kết quả của hiện trạng xã hội, thực trạng của đất nước, trong đó bối cảnh chính trị, hoàn cảnh kinh tế, thực cảnh giáo dục, điều khiển từ tư duy tới phản xạ, từ phản ứng tới phản tỉnh của đại chúng đang sống và chia sẻ cùng một văn hóa, đây chính là mức độ văn minh, trình độ văn hiến của một giống nòi, chính đây là bổn phận và trách nhiệm của tất cả những ai muốn lãnh đạo chính trị có não bộ liêm khiết.

Độc đảng sinh đôi với độc tài, độc tôn song hành với độc trị, độc quyền chúng thân với độc đoán, tạo ra tuyên truyền một chiều, sinh ra tư duy ao tù ngay trong tư tưởng, ngay trong não trạng. Trong đó tự do không có dung thân, dân chủ không có chỗ đứng, nhân quyền không có chỗ dựa, từ đây sinh sản ra các loại não bộ lạ lùng, dị kỳ, quái gở mà kẻ lãnh đạo chính trị tỉnh táo, sáng suốt, phải phân tích tới tận gốc, rễ, cội, nguồn.

Những kẻ lãnh đạo chính trị có ý thức vì có tâm thức (thao thức với tiền đồ Việt tộc) phải chịu trách nhiệm về các loại quần chúng sau đây (vì họ chỉ là hậu quả của một loại giáo dục tha hóa một chiều này) :

Vô tri trước nỗi khổ niềm đau của đồng loại : "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ".

Vô minh trước nỗi khó nghiệp quẩn của đồng bào : "máu chảy, ruột mềm".

Vô giác trước cảnh "ăn bờ, ở bụi" của dân đen, dân oan : "sống nay, chết mai" !

Vô tri, vô minh, vô giác trong xã hội, theo giáo lý của tổ tiên Việt tộc và cũng theo phân tích của chính trị học, của xã hội học, chắc chắn là tới từ bề trên : từ các lãnh đạo chính trị !

Não... trạng

Tại sao lại có một loại quần chúng thờ ơ với hiện trạng dân đen, dân oan, bị tước đoạt mọi quyền sống, quyền làm người, bụi đời ngay trên quê hương, làm oan hồn ngay trong xã hội mà họ đang sống ; trong khi đó loại quần chúng này lại lập tập hợp qua mạng xã hội để ủng hộ, lại còn xin : "ở tù thay cho Đinh La Thăng", một loại tham quan sống nhờ tham nhũng, cùng "cá mè một lứa" như bọn lãnh đạo mang tên này ra xử ! Tại sao lại có loại não trạng này của loại quần chúng này giữa Việt tộc ?

Tại sao lại có một loại quần chúng lãnh đạm với công cuộc đấu tranh liêm chính vì nhân quyền, liêm sỉ vì dân chủ của nhiều thành phần trong xã hội dân sự đang trực diện hằng ngày chống bất công, vì công bằng xã hội ; cùng lúc họ tham gia kịch liệt một cách lạ lẫm vào chuyện đời tư của các đại gia (thật ra chỉ là loại trọc phú, nhiều tiền bạc nhưng thiếu tri thức), của các giai nhân (thật ra chỉ có hình thể mà não bộ thì trống vắng) hai loại người này qua báo chí qua thể loại chuyện giật gân, mà họ không hề thắc mắc về đạo đức "một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ", về luân lý "máu chảy, ruột mềm". Tại sao lại có loại não trạng này của loại quần chúng này giữa Việt tộc ?

Tại sao lại có một loại quần chúng quay lưng với một cuộc ô nhiễm tàn khốc tại miền Trung do Formosa gây ra, với hàng triệu đồng bào đang "dở chết, dở sống" tại các vùng biển đang chịu thảm họa môi trường này, ngay trên đất nước-đất sống của cả một giống nòi ; cùng lúc đó họ sôi nổi bàn tán về tiêu thụ, tận hưởng qua nhậu nhẹt hoang phí,với bao thanh niên suốt ngày la cà trong các quán cà phê, để thời gian trôi qua với bao chuyện ngẫu, mà không có tư duy biết tôn trọng tiền đồ của tổ tiên, không biết tự trọng trước nhân phẩm cá nhân mình, ngày ngày bị tha hóa, giờ giờ bị biến phẩm ; tại sao lại có loại não trạng này của loại quần chúng này giữa Việt tộc ?

Nếu muốn lãnh đạo chính trị mà không có các câu trả lời, để có các quyết sách hướng thiện, thăng đức quần chúng thì đừng lãnh đạo nữa !

Dính thân-dính đảng

Dính thân là thực trạng của vài trường hợp mà y khoa thông báo cho chúng ta qua các trường hợp sinh đôi hiếm hoi : hai đứa trẻ ra đời cùng một lúc, có phần lớn các nội tạng nhưng chỉ có một cột xương sống, hai cá thể nhưng phải chia cùng cuộc đời, cùng kiếp sống. Khi y khoa quyết định muốn cứu cả hai thì phải tách ra, để hai là hai, chớ không phải hai là một, tách ra để mỗi kẻ có kiếp riêng, có đời riêng, nếu không tách được thì đứa này có thể là họa của đứa kia. Cụ thể là đứa mạnh luôn làm khổ đứa yếu, đứa mạnh luôn lấy sức mạnh để khống chế, để áp đặt, để bạo hành, để bó buộc đứa yếu bắt làm theo ý muốn, ý định, ý đồ của đứa mạnh.

Dính đảng lại là chuyện có thật trong chuyện chung đời-cộng kiếp giữa hai đảng anh-em : đứa mạnh làm anh là Đảng cộng sản Trung Quốc-Đảng cộng sản Trung Quốc, đứa yếu làm em là Đảng cộng sản Việt Nam-Đảng cộng sản Việt Nam, từ khi hai đảng này ra đời, từ khi hai đảng này chọn quỹ đạo chuyên chính để thống trị qua cái độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn), chọn chuyện ăn đời-ở kiếp với nhau, nhưng trên thực tế thì đây là chuyện vừa cưỡng hôn, vừa cưỡng thân. Một đại họa cho Việt tộc, mà muốn sống còn trong vai em-thế yếu thì phải tìm mọi cách để tách ra, thoát ra, càng sớm càng hay.

Đảng cộng sản Trung Quốc luôn can thiệp, luôn xen vào nội bộ, phân hóa các lãnh đạo, và trên thực tế là tổ chức nhân lực lãnh đạo cho Đảng cộng sản Việt Nam, đứa mạnh-đàn anh luôn tìm cách ở trên cao để chi phối, để quyết định số kiếp đứa yếu-đàn em, bằng những thủ đoạn xấu, tồi, tục, thấp ; bằng các xảo thuật độc, ác, thâm, hiểm. Lúc "chơi ngang" dùng ma đạo để cắt đôi đất nước Việt ngay hiệp định Genève 1954 ; lúc "chơi đểu" cướp biển, cướp đảo của Việt Nam ; chưa kể bao lần "chơi ngược" qua các chiều bài cố vấn quân sự kiểu "biển người" coi sinh mạng Việt như cỏ rác, và nhiều lần "chơi ác" đưa đẩy lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vào con đường giết dân, qua cải cách ruộng đất. Hiện nay, thì bao vây kinh tế Việt, từ nhập khẩu hàng tàu tới gây ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh, giăng bẫy chính trị, tổ chức nội gián, giáo dưỡng bọn phản phúc buôn dân, bán nước, giết hại các lãnh đạo chân chính mưu cầu độc lập, tự chủ cho Việt tộc.

Hãy kết luận : dính thân mà yếu thì chỉ có chết ! Dính đảng mà hèn thì chỉ dẫn đến vong quốc, diệt nòi. Hãy quyết định không dính nữa ! Hãy quyết đoán là tách ra ! tách để sống, tách để giữ nhân phẩm, tách vì có nhân cách, tách một cách dứt khoát để Việt là Việt !

Chuyên... ngược

Đối với chính giới của các nước văn minh và đối với các chuyên gia về Việt Nam, thì lãnh đạo chính trị độc đảng, từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ là một lực lượng luôn hiểu ngược nội hàm, nội chất, nội lực của từ chuyên.

Ngữ văn chuyên trong đào tạo lãnh đạo và quản lý trong các quốc gia văn minh có thượng nguồn qua ngữ pháp là chuyên ngành qua học lực quyết định học hàm và học vị của một lãnh đạo, từ đó có chuyên môn sắc nhọn trên một lãnh vực và được đồng nghiệp, đồng môn, đồng đảng công nhận là chuyên gia, được chấp nhận là chuyên nghiệp, tự rèn luyện tới điêu luyện.

Hệ chuyên ngành-chuyên môn-chuyên gia-chuyên nghiệp chính là hệ huấn luyện lãnh đạo hiện đại và ổn định, không qua hệ chuyên này mà muốn khơi khơi lãnh đạo thì rất đáng ngờ, vậy mà hệ chuyên không hề là ưu tiên trong phân công nhân sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Đảng cộng sản Việt Nam sinh ra trong nôi đấu tranh bằng bạo lực của giai cấp-bất chấp dân tộc, nên không chuyên nghiệpchuyên ngược, qua ngữ văn chuyên, bị thô bạo hóa qua ngữ pháp chuyên chính, để vào quỹ đạo bạo lực của chuyên quyền, mà quá trình tham quyền cố vị giờ đã sinh ra thảm họa mua quyền bán chức trong mọi tầng lớp lãnh đạo. Ngày ngày chuyện chuyên ngược sinh ra bao quái thai : quan hệ-tiền tệ-hậu duệ để truy diệt trí tuệ của chuyên.

Cái chuyên xuôi của hệ chuyên ngành-chuyên môn-chuyên gia-chuyên nghiệp bị gạt bỏ, tiêu hủy, loại trừ, và Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn chuyên ngược qua chuyên chính để chuyên quyền : đây là tử lộ trước toàn cầu hóa hiện nay ! Tại đây chỉ có cái khôn xuôi mới có đất sống ! Còn cái ngu ngược thì sẽ chết "bất đắc kỳ tử" !

Chống... nô

Một lực lượng lãnh đạo có tư duy liêm chính, có chính sách liêm sỉ luôn là một lực lượng có quyết tâm chính trị, có quyết đoán chính sách, có quyết định hành động chống lại : nô (nô lệ, nô bộc, nô tỳ...), mà trước mắt là lao nô đang trùm phủ chúng ta.

Một lực lượng lãnh đạo có bản lĩnh chính trị, luôn lấy nhân cách tổ tiên đã chống ngoại xâm để chống lại kiếp phải làm nô lệ, dù là đã bị đô hộ hằng nghìn năm, dù phải can đảm lấy thân, dù phải quả cảm lấy mạng của chính mình để làm cho bằng được chuyện "Châu chấu đá xe", dù chúng là bất cứ loại thiên triều nào ! Dù chúng có mãnh lực quân sự tới đâu đi nữa, kể có bọn hung hãn nhất là Nguyên Mông, đã bị đời Trần của ta làm cho quỵ sụp tới ba lần.

là kiếp ngược lại với hai loại kiếp người, trong sáng vì trong sạch :

  • Kiếp tự : tự do để có tự quyết, có tự lập để có tự chủ, lấy tự lực tạo ra tự cường.
  • Kiếp chủ : chủ động để hành động, chủ tri của ý thức để tạo ra chủ lực cho tương lai, lấy chủ trí để thực thi chủ quyết.

Thấy người phải nghĩ tới ta, cụ thể là các nước láng giềng cùng nôi văn hóa tam giáo đồng nguyên với Việt tộc đã làm được chuyện hai kiếp (tựchủ) này : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Đây không hề là chuyện xa vời, viển vông, mà là chuyện quyết tâm trong chính trị, quyết chí trong lãnh đạo.

Trước mắt, là hãy tháo hai tròng lao nô đang nô lệ hóa bao thế hệ của Việt tộc :

  • Chống lại chính sách xuất khẩu lao động trá hình hiện nay, mà thực trạng là làm lao nô, với lương bổng của nô lệ, làm kiếp gái bán thân cho các nước láng giềng với kiếp nô tỳ vô cùng đốn mạt !
  • Chống lại chính sách mở cửa cho các doanh nghiệp ngoại quốc, nhất là các nước láng giềng sử dụng lao động Việt với lương rẻ, điều kiện lao động tồi, bảo hiểm lao động hèn ngay trên đất nước Việt đang bị ô nhục hóa !

Nếu các lãnh đạo hiện nay không làm ngay được chuyện này thì nên từ chức ngay, càng sớm càng tốt, để các kẻ có năng lực làm, để thế hệ sau có tiềm năng thực hiện xáo kiếp này, vì không có ai là kẻ lãnh đạo tối cần, vì không có ai là lãnh tụ tối thượng cả, vì như ông bà ta đã dặn dò con cháu : "vắng mợ, chợ vẫn đông" !

Sinh ly

Dân tộc Việt là một, văn hóa Việt là một, ngôn ngữ Việt là một : đây là một cơ may, một vốn vững, vì là một nội công để giữ vững độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của tổ tiên. Nhưng những kẻ lãnh đạo phải vận não nhìn thấu lịch sử Việt để thấy là có mầm sinh ly trong chiều dài lịch sử của Việt tộc, chỉ để ngăn mầm sinh ly này đe dọa khối đại đoàn kết cả nước.

Trong lịch-huyền-sử lập quốc, Lạc Long Quân và Âu Cơ, khi có trăm con, thì năm mươi phải lên núi, năm mươi phải xuống biển, đây là một cuộc sinh ly. Sinh ly có thật trong lịch sử Việt, hằn sâu trong tâm não Việt với hằng thế kỷ Trịnh-Nguyễn phân tranh, chia cắt đất nước, chia lìa dân tộc. Sinh ly hiển hiện ngay trong sử cận hiện đại với cuộc chiến Bắc-Nam, qua giọng lưỡi ý thức hệ, nhưng thật ra chỉ là một cuộc sinh ly trong huynh đệ tương tàn qua ba mươi năm tan nát đất nước. Lại thêm hơn bốn mươi năm hòa bình mà kẻ thắng không đủ bản lãnh để hòa hợp, hòa giải dân tộc, để sinh ly tiếp diễn với hàng triệu đồng bào thí thân vượt biển tìm tự do cho tới hàng triệu đồng bào sẽ gởi nắm xương tàn nơi xứ lạ quê người.

Tại sao sinh ly như một hằng số trong văn học, trong thi ca Việt, với bao tác giả, từ Nguyễn Anh Khanh tới Thâm Tâm : Tống biệt hành. Sinh ly có luôn trong tâm trạng của một thanh niên đã theo Việt Minh, đầy phân vân trước khi lại về thành, giữa lòng cuộc kháng chiến chống Pháp : "Lòng tôi sao vẫn còn biên giới ?" (Phạm Duy, Bên cầu biên giới).

Các kẻ muốn lãnh đạo chính trị phải có bản lĩnh và nội công để nhìn thấu được ẩn số sinh ly có trong tổng thể của dân tộc, vì hằng số sinh ly có lắm lần trong lịch sử dân tộc. Biết ẩn số, hiểu hằng số để không cho chúng xuất hiện một lần nữa trong tương lai, trong các thế hệ mai sau, đây là luân lý chính trị dẫn dắt chính sách chính trị.

Lê Hữu Khóa

(25/01/2020)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa

Phần 1

politique1

Chính luận đưa chính trị vào lý của luận để luận giúp lý cho lãnh đạo chính trị !

Nhân của chính luận

Thấy nước mắt nhân tình để tiếp nhân tâm.

Thấu xương máu nhân thế để nhận nhân nghĩa.

Thấm sinh linh nhân loại để đón nhân tính.

Muốn nhận chức năng, chức vụ, chức danh

lãnh đạo chính trị hiện nay trước Việt tộc :

Thì nên đứng ngay về phía dân đen, trắng tay vì nghèo khổ.

Thì nên đứng cùng phía với dân oan, mất trắng đất, lẫn nhà.

Thì nên đứng chung với công bằng, để có công tâm, để chống bất công.

Thì nên đứng sát phía dân chủ, để sống chết với nhân quyền !

Các vị đang lãnh đạo, đang thất bại trong việc thăng hoa Việt tộc,

xin quý vị xem lại, truy lại, soát lại, suy lại

quá trình đào tạo lãnh đạo tại các quốc gia tiên tiến,

xem lại giáo dục, truy lại giáo khoa, soát lại giáo trình, suy lại giáo án

về lãnh đạo, quản lý và tổ chức, nhất là đào tạo nhân sự trong lãnh đạo.

Chỉ vì nội dung trầm trọng của thất bại trong lãnh đạo chính trị là :

Việt tộc của quý vị phải bị rơi xuống vực !

Chính luận, trong tiểu luận này không phải là thể loại văn được gọi tên là chính luận, mà chính luận ở đây là lý luận chính trị, tạo cơ sở tư duy cho những ai có nguyện vọng hay có tham vọng làm chính trị, muốn lãnh đạo trong một đất nước như Việt Nam, chưa đón được dân chủ, nên chưa nhận được nhân quyền. Lý luận chính trị vừa qua lịch sử, vừa qua thực tế ; không quên kiến thức chính trị là nền chính kiến, nhất là không quên tri thức lãnh đạo làm gốc cho ý thức lãnh đạo.

Chính luận trong tiểu luận này đi tìm cội là chính lý, dựa trên nhân lý, khi quá trình tri thức lãnh đạo chính trị là quá trình lý luận trên thực tế của nhân sinh, là lập luận trên chính sách để phục vụ nhân dân, với năng lực diễn luận các quyết định chính trị trước nhân tri, với hiệu quả giãi luận các hành động lãnh đạo trước nhân trí. Nếu muốn làm chính trị mà không có gốc, rễ, cội, nguồn từ nhân ; lại vắng luôn năng lực và hiệu lực của luận, thì đừng làm chính trị, đừng làm lãnh đạo, vì sẽ làm trong vô tri, sẽ lãnh đạo trong vô minh, sẽ chỉ hại dân, diệt nước.

Chính luận trong tiểu luận này đi tìm gốc là chính tri, nơi mà kiến thức vừa là năng lượng chính trị, vừa là xương cốt của lãnh đạo, vì kiến thức là chất sống nuôi tri thức, tạo tầm vóc cho hiểu biết chính trị, dựng nên bản lĩnh của lãnh đạo từ rường cột là ý thức chính trị, là nhận thức lãnh đạo. Không quản lý nổi phương trình thức (kiến thức-tri thức-ý thức-nhận thức) này thì chỉ đưa dân tộc tới ngu dân, đưa giống nòi tới chướng nghiệp. Và thức luôn được đưa đường, dẫn lối bởi chính, ngược lại với tà, trái lại với ma, chống lại với gian. Chính tri làm thăng hoa chính nghĩa !

Chính luận trong tiểu luận này đi tìm rễ là chính tâm, tạo ra thành tâm để có thành ý, nơi mà sự thành thật làm vững, làm chắc sức hoàn chỉnh của ý thức. Chính ý thức ngay thật tạo nên tâm thức ngay thẳng với mọi người để có chỗ đứng chính thống trong lãnh đạo : nói thì giữ lấy lời, hứa thì phải làm, nơi mà chính tâm làm ra chính quả, vì lừa dân, dối nước thì sẽ không sao có hậu trong chính giới.

Chính luận trong tiểu luận này mang chính khí ; tới tự chính ngôn, nơi mà ý thức chính trị làm cột xuong sống cho luân lý lãnh đạo, có trách nhiệm với chính ngữ vì có bổn phận với chính nghĩa. Qua đó, chính nghĩa tạo hùng lực cho chính khí trong lãnh đạo chính trị, như vậy phải lấy phương trình chính (chính lý, chính tri, chính tâm) để quản lý xã hội, để quản trị cơ chế, để được đi trên chính đạo với chính trị đúng, song hành cùng lãnh đạo đúng.

Chính luận đưa chính trị vào của luận để luận giúp lý cho lãnh đạo chính trị !

Phương pháp luận so sánh & chính trị học phân tích

Tiểu luận này dựa vào cách quá trình phân tích dữ kiện chính trị và giải thích các sự kiện chính trị không những qua chính sách, mà còn qua hành động cụ thể, phối hợp với phân tích nội dung văn bản của chính sách cùng diễn văn của lãnh đạo, qua ngôn ngữ chính trị để giải luận tư duy lãnh đạo, từ đó tìm hiểu các diễn biến có trong ý định-ý muốn-ý đồ của lãnh đạo.

  • Phân tích chính sách : mức độ của một chính sách là trình độ của lãnh đạo trách nhiệm chính sách đó.
  • Phân tích hành động lãnh đạo : mức độ của hành động lãnh đạo là trình độ tư duy của lãnh đạo đó.
  • Phân tích tư duy của lãnh đạo : mức độ tư duy của lãnh đạo là trình độ lý luận để giải quyết các chủ trương của lãnh đạo đó.
  • Phân tích lý luận các chủ trương : mức độ lý luận để giải quyết các chủ trương của lãnh đạo là trình độ trí tuệ của các lãnh đạo đó.
  • Phân tích trí tuệ của lãnh đạo : mức độ trí tuệ của các lãnh đạo là trình độ các công trình ưu tiên của các lãnh đạo đó.
  • Phân tích các công trình ưu tiên : mức độ công trình ưu tiên của các lãnh đạo là trình độ sáng tạo các chính sách phát triển chiến lược.
  • Phân tích các chính sách phát triển chiến lược : mức độ sáng tạo các chính sách phát triển chiến lược là trình độ sáng tạo về phát triển bền vững.
  • Phân tích các chính sách phát triển bền vững : mức độ chính sách phát triển bền vững là trình độ về hiệu quả của các chính sách đó.

Nhân và loại

Có nhiều nhân loại sống cùng chung một nhân loại rộng lớn, mà nhiều nhân loại vì nhiều nhân tính khác nhau, có ít nhất là có hai nhân tính rất đậm nét trong nhân loại chung này :

  • Nhân tính thứ nhất có ý thức luân lý, như có kim chỉ nam trong nhân tình, thấy tốt thì làm, thấy xấu lánh xa, thấy gian thì loại, thấy tà thì xua, thấy ác thì khử. Ý thức luân lý có chỗ dựa là đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) để chế tác ra luân lý (nhận trách nhiệm để đảm bổn phận). Nếu muốn làm lãnh đạo chính trị thì ý thức luân lý phải sắc, kim chỉ nam này phải nhọn.
  • Nhân tính thứ nhì có ý thức duy lý, như có Bắc đẩu đưa đường, dẫn lối giữa đêm, lấy kiến thức của kinh nghiệm (từ lịch sử qua cuộc sống) thấy hợp lý trong thuận cảnh, lấy cụ thể làm thực tế, biến thực tế thành thực dụng. Nếu muốn làm lãnh đạo chính trị thì ý thức duy lý phải rõ, thấy thật rành Bắc đẩu trước mắt.

Nhận ra hai nhân tính ý thức luân lý ý thức duy lý còn phải đi tìm thêm các nhân tính khác, còn nếu không hiểu gì về hai nhân tính tối thiểu này thì tốt nhất đừng làm chính trị, đừng nhận trách nhiệm lãnh đạo.

Nhân và tính

Chữ nhân không phải là đơn thuần là một thuật ngữ, mà là một hệ thống tư tưởng có lý luận, mà kẻ lãnh đạo không biết hoặc không thấy thì sẽ lầm đường lạc lối trong quyết đoán làm gốc cho mọi quyết định, trong quyết sách làm nền cho mọi tổ chức và mọi quản lý. Không biết, không thấy, không nghe, tức là không có nhận thức về chữ nhân thì chỉ mang họa tới cho dân tộc, gây nạn cho giống nòi.

Nhân loại sống trong một bối cảnh lịch sử nhất định : nhân thế, trong những hoàn cảnh xã hội được quyết định từ kinh tế tới giáo dục, từ vật chất tới y tế… từ quan hệ xã hội tới đời sống xã hội : nhân sinh. Chính bối cảnh hoàn cảnh tạo ra tâm cảnh trong quần chúng đó là : nhân tình.

Nhân tính chỉ có khi một dân tộc xác định được các định hướng cộng đồng về đạo lý một nhân sinh quan hay, đẹp, tốt, lành : nhân đạo, từ đó nhận thức ra các bổn phận, các trách nhiệm để xây dựng một giống nòi ăn ở với nhau để sống có hậu : nhân nghĩa.

Nhân tính có hải đăng là nhân đạo, có dự phóng cho mai sau là nhân nghĩa, cả ba tạo ra thế chân kiềng bền vững cho nhân lý của một dân tộc, làm chủ đất nước của mình bằng nhân văn được thể hiện qua bốn hệ nhân trên.

Cả năm hệ nhân : nhân tính, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân lý, nhân văn được trao truyền và lưu truyền qua nhân giáo, trong đó một nền giáo dục đúng đắn tùy thuộc vào môt chính quyền liêm chính, một chính phủ liêm sỉ để bảo đảm nhân trí cùng nhân trí qua giáo khoa, giáo trình, giáo án.

Chính nhân trí cùng nhân trí quyết định trình độ thăng tiến của một đất nước, thăng hoa của một dân tộc, mà ta thấy láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên như Việt Nam đã làm được : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Chính ta không làm được lại tha hóa vào con đường phản nhân trí cùng nhân trí, tạo ra thảm họa học giả-thi giả-bằng giả, tới từ tham nhũng-tham ô-tham quan, tức là lãnh đạo chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đang lầm đường lạc lối, đang hoàn toàn sai !

Nhân và văn

Đừng hiểu tùy tiện thuật ngữ văn trong cách làm từ hiện nay trong các miệng lưỡi của vài lãnh đạo : hàm nghĩa của văn mang ít nhất là ba biến số : văn hóa, văn minh, văn hiến.

Văn hóa, như sức sống vững bền qua nội lực một dân tộc biết biến nội công của tổ tiên mình trong quá khứ thành nội chất cho các sinh hoạt tập thể, cho đời sống cộng đồng trong hiện tại, lại có luôn nội tâm của một giống nòi biết giáo dưỡng con cháu, các thế hệ đời sau biết yêu, quý, thương văn hóa đó.

Văn minh, đòi hỏi nhân tri, luôn mở cửa mời nhân trí, học kiến thức để tự hữu hóa kiến thức, biến kiến thức thành tri thức được bảo vệ có hệ thống, có lý luận, có lập luận, có giãi luận, có diễn luận của trí thức. Vì có văn hóa chưa chắc có văn minh, vì văn minh tạo chỗ đứng nhân quyền và dân chủ, từ đó văn minh làm thăng hoa : công bằng qua tự do, để cùng nhau xây bác ái

Văn minh thấy rất rõ trong một xã hội biết tôn trọng người lớn tuổi, biết bảo trọng phụ nữ, biết bảo vệ thiếu nhi, biết bảo quản thanh thiếu niên trong một hệ thống giáo dục lấy đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, làm nhân văn.

Văn hóa luân chuyển để thích ứng với đời sống hiện đại, văn minh mang sung lực hiện đại hóa văn hóa qua cải cách, qua canh tân, được hỗ trợ bởi khoa học hay, bởi kỹ thuật lành, bởi công nghiệp sạch. Như vây, có văn hóa, chưa chắc có văn minh, làm lãnh đạo chính trị phải đưa văn hóa về hướng văn minh để thăng hoa văn hóa, làm cho văn hóa hay, đẹp, tốt, lành hơn

Văn minh là chiều cao của văn hóa, đẩy văn hóa đi lên, thì văn hiến là bề dầy, là chiều sâu, là chính sử của văn hóa. Chính văn hiến tạo rễ sâu, gốc chắc cho văn minh nâng, đưa, đẩy văn hóa hướng tiến hóa.

Chuyện đáng buồn và đáng lo là các lãnh đạo tối cao của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay không xem, không hiểu, không thấu vì không đủ tầm, không đủ vóc để biến ba biến số : văn hóa, văn minh, văn hiến thành ba hằng số trong các chính sách của họ.

Nhân rộng... lý mở

Làm chính trị với chữ nhân rộng qua cái lý mở là một "nghề" rất khó, làm lãnh đạo chính trị với chữ nhân rộng nhất qua cái lý mở nhất, chắc chắn là một "nghề" khó nhất trên đời ! Vì phải nhận những trách nhiệm nặng, đón những bổn phận rộng, nâng cao đạo đức dân tộc, hiểu xa đạo lý nhân loại. Vậy, nên suy nghĩ kỹ, thật kỹ trước khi chọn "nghề" khó nhất này. Nhân rộng-lý mở vừa là luận thuyết sinh động của chính trị, vừa là thực hành thông minh của lãnh đạo.

Nhân rộng vì nhân vừa gần-vừa xa, nó gần có ngay trước mặt lãnh đạo chính trị. Đó là nhân dân, dân chúng, quần chúng : nghèo hay giầu, vui hay buồn, đau khổ hay hạnh phúc, nếu không trực diện để thấy, để hiểu, để thấu thì đừng đòi làm lãnh đạo chính trị. Còn dành làm để tham ô, trục lợi thì không phải làm chính trị mà là trộm, cắp, cướp, giựt bằng chính trị. Nhân xa vì nó bắt kẻ lãnh đạo phải "nhìn xa, trông rộng", đưa nhân tính vào nhân tình, đưa nhân thế vào nhân tâm, đưa nhân nghĩa vào nhân loại, qua con đường của nhân tri, bằng phương tiện của nhân trí. Nhân là phạm trù của tri thức, bó buộc kẻ lãnh đạo muốn trị (trị dân-trị nước) phải có tri, lấy tri để lập trí.

Lý mở vì mở ra bên ngoài mới tồn tại, mới sống còn, mới có khí trời để thở, mới có thực phẩm để ăn, nhất là có nhân tri của nhân loại bên ngoài để học, có nhân lý của nhân thế bên ngoài để khôn lên, có nhân trí bên ngoài để thông minh lên. Lý mở là lý biết đón, biết tiếp, biết nhận, biết mời : các kinh nghiệm hay, các kiến thức tốt, các bài học đẹp, các nhân thế lành để tạo ra tiềm năng, tiềm lực cho chính ta. Tất cả những lý đóng (đóng cửa, đóng biên giới, đóng lãnh thổ...)độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị, độc đảng) đều đáng nghi ngờ, và nhân dân có quyền ngờ vực mọi lãnh đạo chính trị có ý đồ đóng vì độc.

Nhân rộng-lý mở là nơi hội tụ thông minh chính trị và minh triết lãnh đạo, vì nó được kết tinh bởi hai hùng lực chính trị mà kẻ làm lãnh đạo phải thông hiểu :

  • Lý tưởng chính trị càng rộng thì nhân dân càng khôn (từ khôn có sở hữu là nhân trí, tức là khôn ngoan chớ không phải khôn lanh), ở đây sau khi thành công về chuyện "cơm no, áo ấm" cho dân, thì phải đi tới hướng "dân giàu nước mạnh", lại còn phải đi thêm bước nữa "nhân loại thái hòa".
  • Vô hạn chính trị không bị khung trong một quốc gia, mà ngược lại muốn cho quốc gia đó tồn tại, có chỗ đứng xứng đáng trong quan hệ quốc tế, thì phải tìm liên minh, tìm đồng minh, tất cả trong quy luật vô hạn chính trị luôn "thêm bạn, bớt thù", luôn vô hạn học trong vô biên hiểu để luôn"học người để khôn ta".

Phương trình Nhân rộng-lý mở chính là thông minh chính trị-minh triết lãnh đạo.

Nhân nhập nhân

Nhân nhập nhân vừa là lương tri của chính trị, vừa là lương tâm của lãnh đạo, đây là quá trình nhập nội vào thực tế của nhân dân, thực cảnh của dân chúng, thực tại của quần chúng để thấy, để hiểu, để thấu các vấn đề, các khó khăn, các lầm than của dân tộc, và nếu chỉ ngồi trong bàn giấy, chỉ đóng cửa phòng để họp hành, thì "có mắt cũng như mù" trước hiện thực (bây giờ và ở đây) của xã hội.

Nhân nhập nhân trước hết là lấy nhân tính để nhập nội vào nhân tình ngay trong xã hội mà nhân dân đang sống, đang làm, đang ăn, đang ở, để thấy các trầm luân hằng ngày của nhân sinh, thấy dân đen nhọc nhằn như thế nào, hiểu dân oan tủi nhục ra sao, từ đó mới có ý thức chính trị để có nhận thức lãnh đạo qua chính sách. Chuyện giả vờ dựng kịch đầu năm : từ nguyên chủ tịch Trương Tấn Sang thủa nào tới đương kim chủ tịch Trần Đại Quang, giả bộ cầm cày lang thang cạnh các bờ ruộng với nông dân, mà thực sự thì không hề biết cày là gì ! Đây chuyện chính trị giả, lãnh đạo xạo !

Nhân nhập nhân sau đó là lấy nhân nghĩa để nhập sâu vào nhân thế ngay trong đau đáu "chén cơm manh áo" của nhân dân, ngay trong trằn trọc "cơm áo gạo tiền" của dân chúng, để thấy thật rõ các thiếu thốn hằng ngày trước các lo toan "ăn bữa sáng lo bữa tối", rồi từ đó mài dũa ý thức chính trị cho thật bén, thật sắc để phục vụ cho nhận thức lãnh đạo thật sâu, thật rộng. Chuyện giả vờ dựng kịch đi "ăn phở" với dân thường của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hội An, vậy mà trước đó lại kéo hàng chục xe hộ tống qua phố cổ, nơi mà mọi người phải đi bộ, nơi mà Liên Hiệp Quốc qua Unesco muốn bảo tồn. Đây chỉ là trò chính trị thấp, của lãnh đạo tục !

Nhân nhập nhân tiếp theo là lấy nhân tâm để nhập cho thấm nhân sinh, qua thành tâm của lãnh đạo phải sống với dân để hiểu dân. Đây là chuyện không khó làm, ta đã thấy nhiều lần trong Việt sử, và có không biết bao nhiêu chuyện trong sử của thế giới là vua, quan, tướng "giả dân" để "đi vào dân", để "chia sẻ cùng dân". Từ đó, đặt ý thức chính trị vào chỗ trung tâm của não bộ lãnh đạo, để có chánh ngữ khi tuyên bố : "lấy dân làm gốc" ! Còn chuyện dành đứng hàng đầu trong các lễ hội, chọn ghế ngồi hàng trên trong các hội thảo, bám chỗ ưu tiên để vái lạy trong các chùa chiền chỉ là trò bịp trong chính trị, cho kịch rởm của lãnh đạo !

Nhân nhập nhân để nắm vững phương trình ý thức chính trị-nhận thức lãnh đạo, để hiểu chính nhân dân đưa đường dẫn lối cho chính sách, chính dân chúng soi sáng chính nghĩa của lãnh đạo.

*****************

Phần 2

Nhân… sinh… quan ?

"Con quan thì được làm quan", chỉ nói lên được một loại nhân sinh quan thô tục trong quá trình tái sản suất các bất công trong xã hội, không đủ liêm sỉ lẫn thông minh để tôn trọng hiền tài. Từ đó, đưa xã hội vào quỹ đạo thô bỉ của quy trình : "con vua thì được làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa", một xã hội không có một chân trời của công bằng, không có tương lai của công lý, mà thảm họa hiện nay Việt tộc đang lãnh chịu thực tế "thái tử đảng", trực tiếp hay gián tiếp vùi dập bao nguyên khí quốc gia, tới từ bao thế hệ thanh niên.

politique2"

Làm sao thanh thiếu niên chúng tôi có thể sống đúng, sống tốt trong một xã hội mọi chuyện đều xấu, giáo dục xấu, kinh tế xấu, với các lãnh đạo từ trên xuống dưới đều xấu...".

Đại nạn "thái tử đảng", được dọn đường bởi chuyên quyềntham quyền ngay từ thượng nguồn qua thanh lọc lý lịch gia đình, con cháu của những gia đình bị xem là địch, là ngụy, thì bị diệt lối thăng hoa ngay trong trứng nước. Chuyện "thái tử đảng", trong hệ quả "con quan thì được làm quan", con của bọn lãnh đạo vơ thì con cháu chúng tiếp tục được vét. Đây là hằng số bi đát của chế độ mà thế giới các nước dân chủ, có nhân quyền, lấy bình đẳng làm công lý đang vô cùng khinh miệt.

Muốn dẹp chuyện "thái tử đảng", muốn xóa chuyện "con quan thì được làm quan", muốn khử cho bằng được chuyện "con vua thì được làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa", thì rất dễ và đây là chuyện của lãnh đạo chính trị, có thể làm nhanh, làm gọn, làm triệt để bằng cách tổ chức lại :

  • Sân chơi là giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo án).
  • Trò chơi là học (học lực quyết học vị, học hàm).
  • Luật chơi là chuyên (chuyên ngành, chuyên môn, chuyên nghiệp, chuyên gia).

Nhân không còn sinh "con quan thì được làm quan", qua chuyên quyềntham quyền mà được chính thực hóa bằng phương trình giáo-học-chuyên mới thật sự là nhân sinh quan thông minh và văn minh, vì nó biết dựa trên hệ mở của đa (đa năng, đa hiệu, đa tài, đa dạng) nhờ đa nguyên !

Nhân trong sống đủ

Sống đủ-đủ sống trong nhận định "cơm no, áo ấm" đã là chuyện rất rõ trong lãnh đạo chính trị, vì nó được định lượngđịnh chất bằng các chỉ báo khách quan, các tính toán khoa học, các phân tích thống kê : một người, một gia đình, một quốc gia với bao nhiêu dân, thì cần bao nhiêu thực phẩm, bao nhiêu năng lượng để lao động, để sống bình thường... Chỉ số thu nhập, trung bình sản suất, sức mua trong tiêu thụ cũng được định toán hóa, mô hình hóa, để phân loại một quốc gia là giàu và một số nước là nghèo, và ở giữa là các dân tộc được xem là đủ sống đủ-đủ sống.

Sống đủ-đủ sống phải được phân tích đầy đủ qua khác biệt vùng miền, nơi mà mọi người biết là trên đất Việt, nếu ở vùng sâu-vùng xa thì sống khó-khó sống, chính lãnh đạo phải hằng ngày đau đáu về chuyện sống khó-khó sống này, vì chóng chầy nó sinh ra một bi kịch khác : sống còn-còn sống, đây là nghịch cảnh vì nó nghịch chiều với sống đủ-đủ sống. Vì, sống còn là phải tranh sống hằng ngày để được sống, và còn sống nhưng biết phải đau đớn chấp nhận một quy luật vô cùng bất công là "sống nay, chết mai".

Nên, sống còn-còn sống hiện là thảm kịch của các bé vùng sâu-vùng xa phải ăn lá để sống còn ; và cha mẹ của các bé còn sống nhưng cuộc sống không có lối ra, cuộc đời trước mắt là ngõ cụt ! Sống còn-còn sống là sống thiếu, sống lây lất, sống vật vờ, đó là sống đói, sống khổ. Kể cả sống trong căm phẫn khi thấy các lãnh đạo từ trung ương tới địa phương dựng chuyện xây đài tưởng niệm hàng ngàn tỷ để chia chát, để vơ vét, để biển lận trong cảnh cùng quẩn của dân chúng vùng sâu-vùng xa, đó không những là trường hợp của Sơn La, mà cả của Cao Bằng, Yên Bái... Bọn này không phải lãnh đạo chính trị, chúng chính là bọn "hút máu, nạo tủy" của dân, lấy tiền thuế của dân để làm giàu qua đục khoét ngân sách nhà nước.

Làm lãnh đạo mà không thấy ba chuyện sống đủ-đủ sống khác nhau với sống khó-khó sống, càng khác hơn nữa sống còn-còn sống, vì ba hệ vấn đề khác nhau "một trời một vực", thì các lãnh đạo nầy đừng lãnh đạo nữa.

Sống đủ-đủ sống mà rơi vào sống khó-khó sống để nay mai sa vào sống còn-còn sống hiện đang là số phận ngặt nghèo của rất nhiều đồng bào ta, nhưng họ vẫn sáng suốt để nhận ra là các thiên tai (bão, lũ, lụt...) đi kèm với nhân tai (phá rừng, xã lũ, diệt môi trường...), khi người dân gọi đó là nhân tai thì các lãnh đạo chính trị phải hiểu là họ đang buộc tội lãnh đạo : "trời đánh dân" qua thiên tai thiên tai (bão, lũ, lụt...) trước hết là lỗi, là tội của lãnh đạo, trước đó đã để xẩy ra nhân tai vì lãnh đạo vô trách nhiệm !

Nhân trong sống đúng

Sống đúng là sống trong nhân phẩm, tạo ra nhân cách, dựng được phong cách của cá nhân trong xã hội, bảo vệ được tư cách biết dụng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, để đối nhân xử thế, qua luân lý của tổ tiên có trách nhiệm với giống nòi, có bổn phận với tổ quốc. Nhận chức trong lãnh đạo chính trị phải dựa trên đức của sống đúng trong nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tâm để dụng trong nhân lý, nhân tri, nhân trí, để trị (quản lý, tổ chức) nhân thế, nhân tình, nhân loại. Làm lãnh đạo chính trị là hằng ngày học hệ nhân này, nói cho sâu là tu với nó, tu theo nghĩa tự rèn luyện-tự huấn luyện mình. Trong tôn giáo, ta thấy có kẻ tu được, có kẻ không tu được ; và kẻ tu trọn tức là kẻ tu đúng, thì ta xem như hộ có : chân tu ; trong chính trị ta thấy rất rõ chuyện này có kẻ làm chính trị được, làm trọn đời, làm cả kiếp, và khi rời khỏi cõi đời này, thì dân mang ra để thờ, đó là các lãnh đạo đắc đạo nhờ đã lãnh đạo với chữ : nhân !

Sống đúng còn là sống trong nhân văn, được hiểu theo nghĩa rộng là sống với văn hóa cao, xử thế với văn minh rộng, đối nhân trong văn hiến cao, trong đó lãnh đạo có trách nhiệm làm sáng văn hóa, có bổn phận dụng văn hiến 4000 năm của Việt tộc để đưa văn minh vào đời sống hằng ngày của nhân dân, để người dân sống văn minh trong mọi sinh hoạt xã hội.

Sống đúng cần có cơ sở của một xã hội tốt, qua các định chế tốt tổ chức được các cơ chế tốt, bảo đảm một đời sống thường ngày tốt. Các lãnh đạo phải lắng nghe các câu hỏi của thanh thiếu niên, hằng ngày trên truyền thông mạng xã hội, và phải trả lời các câu đó với hệ nhân một cách chính đáng nhất. Đó là trường hợp của Cát Linh, cô bé miền Trung của xứ Nghệ với câu hỏi : "Làm sao thanh thiếu niên chúng tôi có thể sống đúng, sống tốt trong một xã hội mọi chuyện đều xấu, giáo dục xấu, kinh tế xấu, với các lãnh đạo từ trên xuống dưới đều xấu...". Đó cũng là trường hợp của Lynn Nguyễn, du học sinh Việt tại Anh quốc : "Làm sao thanh thiếu niên chúng tôi có thể học đúng, hiểu đúng, khi lãnh đạo chính trị bưng bít từ tin tức tới đánh tráo lịch sử, mang phản xạ ăn gian nói dối để tuyên truyền, để lừa đảo dân !".

Sống đúng trước hết đối với lãnh đạo chính trị trước hết phải là sống thực, với sự thật làm nên chân lý, chế tác ra lẽ phải để trị (quản lý, tổ chức). Kế tiếp sống đúng đối với lãnh đạo chính là sống sạch, không tham quyền cố vị để trục lợi, nhận thanh bạch, không sợ thanh đạm, bất chấp thanh bần, như vậy mới gánh vác được đại sự !

Nhân trong sống vui

Sống vui hàng ngày để vui sống cả đời, là sự hiển hiện của hạnh phúc, khi sống đủ đã có và sống đúng đã thành, thì thực tế cả một dân tộc sống vui-vui sống chính là niềm vui cao đẹp nhất của lãnh đạo chính trị. Đây không phải là chuyện mơ mòng, mà là chuyện có thật, có thật và kéo dài hàng trăm năm qua hai đời Lý-Trần, mà Việt sử kể lại với thái hòa là thực cảnh nơi mà nhà cửa cứ để mở mà không lo sợ trộm cắp, với thái bình là bối cảnh mà cả nước chuộng thiền, yêu thiền, sống thiền. Có nhiều vua, lắm tướng đánh giặc giỏi, lãnh đạo tài, quản lý đúng, lại còn biết đi tu, trong hiện cảnh của một quốc gia biết "an nhiên, tự tại, với minh vương Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, với minh quân Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo.

Quy trình sống đủ-sống đúng-sống vui phải có trong giáo trình đào tạo lãnh đạo của đất nước, "cầm cương nẩy mực" vì đồng bào, nhận đối thoại thường xuyên với nhân dân, không chỉ vì mục đích kính tế, vật chất mà còn có giáo dục song hành cùng văn hiến, của một dân tộc tìm sự sung túc cùng lúc với các giá trị tâm linh. Không cần phải là nước giầu nhất, mạnh nhất để đạt được chuyện này. Đây chính là chuyện cứu cánh của lãnh đạo chính trị, đó là thực tế của ba quốc gia Bắc Âu nhỏ nhưng không nghèo, ít dân và rất quý dân : Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy. Họ làm đúng trong giáo dục mà không cần đầu tư nhiều tiền như Việt Nam hiện vào tượng đài liệt sĩ, vào nghĩa trang ưu tiên cho cán bộ cao cấp. Họ làm đúng trong kinh tế mà không bán đứng tài nguyên, thiêu hủy môi trường, vì họ biết sống đủ-sống đúng-sống vui và tin vào các giá trị của nhân phẩm. Nhân lý của họ là nhân trí, và nhân đạo của họ là nhân bản. Họ không phải là một trường hợp đơn lẻ, bây giờ lại có Cost Rica, rất nhỏ giữa các quốc gia rất lớn trong Châu Mỹ La tinh nhưng biết trọng môi trường như trọng nhân tính ; lại thêm Népal của Châu Á, biết lấy hạnh phúc của vui sống để làm kim chỉ nam cho mọi chính sách. Tất cả các quốc gia nhỏ này đều biết bảo vệ quê hương họ, bảo trị an ninh trật tự cho dân chúng họ, nhưng họ thật thông minh –nhờ lãnh đạo của họ rất thông minh- biết chọn sống đủ-sống đúng để sống vui, còn hơn là giầu mà ngu ! Lắm tiền nhưng thiếu lạc.

Nhân và quả

Nhân vừa là nguyên nhân, vừa là nhân loại, trong đó nguyên của hạt, của giống, khi gieo vào đất sống, cấy vào nhân sinh luôn theo quy luật "nhân nào quả nấy". Vì, quảkết quả, nếu hay, đẹp, tốt, lành thì là hiệu quả ; còn nếu xấu, tồi, tục, dở thì là hậu quả.

Quy luật "nhân nào quả nấy", được Phật giáo phân giải tận tường, Khổng giáoLão giáo không phân tích ngược lại hoặc khác đi ; trong khoa học xã hội và nhân văn đã dụng nó không những như lý thuyết luận mà còn như phương pháp luận để phân tích chính xác hơn quan hệ xã hội qua chính trị, giữa kẻ thống trịngười bị trị. Nhất là trong chính trị học, luôn lấy quy luật nhân quả làm cốt lõi để giải thích các phản xạ của quần chúng, các phản ứng của nhân chúng trong ngắn hại, trung hạn và dài hạn.

Quy luật "ác quả ác báo" tới để củng cố quy luật "nhân nào quả nấy", cùng lúc mài sắc nhọn hơn diễn luận của quy trình nhân quả, để báo động cho nhân sinh biết cái hậu quả của xấu, tồi, tục, dở đang biến thái qua hậu nạn tới từ thâm, độc, ác, hiểm. Nơi đây, hệ bạo (bạo quyền, bạo lực, bạo hành, bạo động, bạo chúa…) bó buộc các lãnh đạo phải nghiệm thêm cho thật tỉnh táo và sáng suốt thêm một vấn nạn khác, có nhân lý vì có nhân tri : "hại nhân, nhân hại", không biết các lãnh đạo hiện nay có đủ tuệ giác hay không để cụ thể hóa nó hơn nữa : "hại dân, dân hại"

*****************

Phần 3

"Quyền lực không những ở trên cao,

mà lan tỏa để ẩn náu trong mọi quan hệ xã hội"

M.Foucault

politique3

Lý tưởng chính trị vừa chính sách hóa được các phương án phục vụ nhân dân và đất nước, vừa mô hình hóa được các tổ chức cụ thể trong đầu tư và kiểm tra, vừa cụ thể hóa mọi sinh hoạt chính trị,

Luân và lý

Luân khung, là khuôn để định vị và định chất về trách nhiệm và bổn phận giữa cá nhân và tập thể, giữa cộng đồng và dân tộc, giữa công lý hành động ; thì luân cùng lúc là con đường và định hướng cho nhân tính, sống theo hướng nhân đạo. Như vậy, khi vào khung, vào khuôn là đã tìm ra được nhân tính, dựa vào nhân đạo, nên luân là đi vào nhân loại bằng con đường nhân nghĩa !

tới từ kinh nghiệm được chế tác thành kiến thức, tạo ra ý thức qua lý luận đi tìm sự thật, qua lập luận đi tìm chân lý, qua giải luận để có lẽ phải, thì lý không là khung, chẳng phải là khuôn, là một quy trình khám phá, vừa đòi hỏi thông minh, vừa đòi hỏi sáng tạo, vì khung chưa có và khuôn thì biệt dạng, nên lý là đi tìm nhân loại qua con đường của nhân trí !

Luân lý chính trị vừa là đi vào nhân loại vừa là đi tìm nhân loại để hiểu rõ hơn nhân tính, để thấu sâu hơn sự đa dạng của nhân sinh. Nếu không có nội lực đi vào nhân lý, thì không có luôn sung lực đi tìm nhân tri.

Không có đa nhân : nhân lý, nhân tri, nhân trí để phục vụ cho nhân tình, nhân thế, nhân loại đi vào quỹ đạo của nhân nghĩa, nhân văn, nhân bản, thì đừng lãnh đạo chính trị !

Lý tưởng chính trị

Lý tưởng chính trị vừa chính sách hóa được các phương án phục vụ nhân dân và đất nước, vừa mô hình hóa được các tổ chức cụ thể trong đầu tư và kiểm tra, vừa cụ thể hóa mọi sinh hoạt chính trị, nơi mà lãnh đạo chính trị dẫn dắt từ thượng nguồn tới hạ nguồn các quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu trong thực tế. Tại đây, sinh hoạt lãnh đạo chính trị là tổng kết tất cả các sinh hoạt của xã hội, từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ kinh tế đến thương mại, từ giáo dục tới văn hóa… để tìm ra tổng lực làm cho được chuyện dân giầu nước mạnh.

Lý tưởng chính trị làm nên niềm tin chính trị, nếu quốc thái dân an theo hướng đi lên của dân tộc, giới hạn mọi hậu nạn, tăng trưởng mọi sản suất, làm giầu thực sự cho mọi tầng lớp có mặt trong xã hội, thì lý tưởng chính trị đã làm nên sức mạnh chính trị. Quá trình lý tưởng-niềm tin-sức mạnh, không chỉ quyết tâm chính trị, mà nó chính là thông minh chính trị, quá trình này chính là sung lực xuyên qua để nâng lên trình độ chính trị của dân chúng, cường độ nhận thức chính trị của nhân dân.

Lý tưởng chính trị trong năng lực của lãnh đạo chính trị mang luôn tiềm lực thay đổi nhân sinh quan của một dân tộc, lấy nhân tính để giáo dục nhân tình ; làm biến đổi thế giới quan của một giống nòi, lấy nhân tri để hiểu nhân loại ; làm chuyển đổi vũ trụ quan của quần chúng, hiểu môi trường chính là môi sinh cho nhân thế. Nếu phương trình nhân sinh quan-thế giới quan-vũ trụ quan được thăng hoa, thì đây chính là kết quả của tiến bộ, của văn minh, cũng là sự thành công cụ thể của lãnh đạo chính trị.

Lý tưởng chính trị biến cái tầm thường lập đi lập lại không có tiến bộ, đổi cái bình thường vô thưởng, vô phạt, thay cái tầm phào của sống lây lất, đưa tất cả vào quy trình hiện đại hóa có văn minh, cùng lúc giữ được các tuyền thống tốt lành, các di sản hay đẹp, đây chính là quá trình khai thị-khai minh-khai trí có trong bổn phận và trách nhiệm của lãnh đạo chính trị, nếu lãnh đạo liêm chính-liêm minh-liêm khiết.

Lý tưởng chính trị bắt đầu bằng liêm chính-liêm minh-liêm khiết để làm cho bằng được chuyện khai thi-khai minh-khai trí thì đây đúng là lãnh đạo lấy chân thật- chân tình-chân chính để chứng minh được là trong chính trị có chân tu : lấy chức để tạo đức, lấy đức để tạo phúc cho dân, lấy phúc tạo lợi cho nước.

Lý của (lãnh) đạo

Lý của lãnh đạo, hoàn toàn ngược lại với hiện thực của Việt Nam hiện nay, là một Đảng cộng sản Việt Nam lấy ghế để ngồi trên lợi ích của dân tộc, thấy mệnh nước lờ mờ, nhìn nhân dân mông lung, lại có những liên minh chằng chéo với ngoại bang xâm lược là Tầu tặc, các lãnh đạo chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đang mất đi cái lý của lãnh đạo.

Lý của (lãnh) đạo bắt đầu bằng hành động luân lý, hành vi đạo lý nhận trách nhiệm bảo vệ đất nước, bảo bọc nhân dân, bài học nhập môn này trong lãnh đạo chính trị bắt đầu bằng ý lực như mãnh lực trở lại thượng nguồn của dân tộc, ngay trong lịch sử để thấy-và-lấy được những kinh nghiệm của tổ tiên, tài năng của cha ông trong việc dựng nước và giữ nước, chính trị không bao giờ rời lịch sử.

Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ hai nằm ngay trong thực tế, được xây dựng lên bởi nhiều thực tại, trong đó lãnh đạo chính trị phải làm được hai chuyện cùng một lúc, hai chuyện này gần như trái ngược nhau trong thực cảnh, để nắm rõ thực trạng của dân tộc. Một là giải quyết các bất công gây nên căng thẳng, hiềm khích, xung đột trong xã hội ; hai là lập ra chính sách cho tương lai có mục đích chính là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, phát triển đất nước, với mục tiêu cao thượng là đưa xã hội về phía văn minh để thăng hoa dân tộc trên, chính trị không bao giờ rời xã hội.

Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ ba là tập hợp được tất cả tiềm năng của dân tộc, tài nguyên của đất nước trong một sung lực tổng thể để tạo được một ý lực trong chính sách bảo vệ và phát huy đất nước, nơi đây lý tưởng chính trị đi đôi với hành động lãnh đạo. Chính lãnh đạo sẽ biến sung lực thành hùng lực trong phát triển kinh tế và mãnh lực trong quyết tâm bảo vệ bờ cõi quê hương, chính trị không bao giờ rời nhân dân. Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ tư chọn phương hướng để làm định hướng, biết định hướng để thấu các ưu tiên ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, rồi xếp loại và xếp thứ tự các ưu tiên này qua các chính sách để quyết đoán đâu là ưu sách phải thực hiện cho bằng được để dân tộc được thay đời đổi kiếp theo chiều hướng hay, đẹp, tốt, lành, đưa nhân tính vào nhân tình, đưa nhân tri vào nhân loại, đưa nhân thế vào nhân nghĩa, đưa nhân phẩm vào nhân bản, chính trị không bao giờ rời nhân đạo

Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ năm là nắm thời giữ thế -tùy thời lập kế, tùy thế lập mưu- để chọn ra các chính sách nhiều hiệu quả, ít hậu quả, vắng bóng khổ đau, ngày càng đầy phúc lợi cho dân tộc, không bị xơ cứng trong ý thức hệ, không bị nhốt tù bởi các khẩu lịnh tuyền truyền xa thực tế, xa thời thế, chính trị không bao giờ rời thời cuộc. Lý của (lãnh) đạo trong bài học thứ sáu là biến tâm niệm quốc thái dân an thành tâm lực dân giầu nước mạnh, trong đó kẻ lãnh đạo giỏi là kẻ của bây giờ và tại đây, kẻ lãnh đạo tài là kẻ của hiện thực của thế giới hiện nay, kẻ lãnh đạo lớn là kẻ thấu nội cảnh và hiểu ngoại cảnh của đất nước mình, để dùng ngoại cảnh mà nâng nội cảnh.

Lý của ý

Nếu ý tưởng chính trị sinh ra từ lý tưởng lãnh đạo (quốc thái dân an để tiến tới dân giàu nước mạnh) thì ý tưởng chính trị sẽ làm nền cho sáng kiến trong quyết định, cho sáng tạo trong chính sách, từ đó thực tế hóa lý tưởng lãnh đạo. Từ đây nhân dân có thể đặt ra hai yêu cầu cho chính giới lãnh đạo, thứ nhất nếu không có ý tưởng chính trị để phục vụ cho lý tưởng lãnh đạo thì đừng lãnh đạo ! Thứ hai lý tưởng lãnh đạo luôn là ý lực lãnh đạo vượt kinh nghiệm của quá khứ, không lập đi lập lại cái cũ nếu cái cũ không làm dân tộc thăng hoa, đất nước giầu đẹp. Tới đây ta thấy hệ vấn đề lý tưởng lãnh đạo sẽ làm đầu tầu cho mọi sinh hoạt lãnh đạo chính trị, trong đó bọn tham quyền không có ghế ngồi, bọn tham ô không có chỗ đứng, bọn tham nhũng không có chỗ dựa.

Ý tưởng chính trị thể hiện lý tưởng lãnh đạo trong việc đi tìm quốc thái dân an rồi tiến tới dân giàu nước mạnh, thì đây là chuyện thực tiễn chớ không phải chuyện lý thuyết, chuyện thực tế chớ không phải chuyện trừu tượng, và bản lĩnh của lãnh đạo chính trị là đưa ý tưởng chính trị vào nhân sinh, đưa lý tưởng lãnh đạo vào nhân tình, để ý lực lãnh đạo biến thành thực lực chính trị, làm nên thực tế xã hội. Nếu không có lý tưởng lãnh đạo, thì sẽ không thấy, không hiểu, không thấu phương trình biến hóa của ý lực lãnh đạo-thực lực chính trị-thực tế xã hội, theo dân tộc theo hướng thăng hoa. Nếu không nhận ra phương trình này thì đừng lãnh đạo, hay để những kẻ có lý tưởng hơn mình thực hiện phương trình này, biến nó thành chương trình cụ thể trong lãnh đạo chính trị thay mình.Chính lý tưởng lãnh đạo dẫn dắt ý tưởng chính trị tạo ra đường lối chính thống cho mọi sinh hoạt chính trị, chế tác ra các quá trình tuyển chọn chương trình chính trị. Và, nếu lãnh đạo liêm chính với chính sách liêm minh thì lý tưởng lãnh đạo có mặt ngay trong hiến pháp, để điều hành tư pháp, điều chế hành pháp, điều động lập pháp.

Tại đây sân chơi-trò chơi-luật chơi chính trị được cổ vũ bởi lý tưởng dìu dắt ý tưởng, mà ta thấy rất rõ trong các nước dân chủ vì tiên tiến, văn minh vì tôn trọng nhân quyền. Hiện diện của lý tưởng lãnh đạo đưa đường dẫn lối ý tưởng chính trị không hề là chuyện mơ hồ, huyền hoặc trong chính giới, vì nó vừa là mục đích, vừa là động cơ để cải tổ chức các định chế dựa trên phương án lý tưởng lãnh đạo-ý tưởng chính trị. Trong đó ý tưởng chính trị làm gốc cho tư tưởng chính trị, dựa trên lý tưởng lãnh đạo vừa là bàn đạp, vừa là dàn phóng cho mọi chính sách. Trong đó có sự chấp nhận cạnh tranh giữa các ý tưởng chính trị, có sự chấp thuận đấu tranh giữa các lý tưởng lãnh đạo. Đây chính là nội công của sinh hoạt chính trị, nội lực của bản lĩnh lãnh đạo ; nhận cạnh tranh, nhận đấu tranh tới từ đối phương, đối thủ như nhận sự "bồi dưỡng chính trị" tới từ ngoại giới để thêm sức, thêm tài cho sung lực chính trị của mình.

Lý… chỉnh

Chỉnh chu trong hành động chính trị phải dựa vào sự chu đáo của lãnh đạo, trong đó liên tục chỉnh đốn hàng ngũ lãnh đạo, để có hiệu quả trong sinh hoạt chính trị, không ngừng cải tổ theo hướng tốt mà không cần phải dùng xương máu để làm cách mạng. Biết có công bằng qua công lý, để pháp lý có chỗ dựa là pháp luật, vừa nghiêm minh để chống tội ác, vừa biết khoan hồng để giáo dục dân chúng theo hướng tự giác, từ ý thức tới nhận thức.

Lý chỉnh chu nhờ luôn được chỉnh đốn bởi đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, bởi luân lý vững chắc của tổ tiên biết nhận bổn phận và trách nhiệm với non sông, với giống nòi, đây là chuyện có thật và có độ dày (rất dày) trong Việt sử qua quyết tâm của Ngô Quyền, qua quyết đoán của Lý Thường Kiệt, qua hai đời thịnh trị Lý-Trần, qua đạo đức của Nguyễn Trãi, qua mãnh lực của Quang Trung.

Lý chính trị chỉnh chu (quốc thái dân an) luôn được bồi dưỡng bởi lý tưởng chính trị (dân giầu-nước mạnh) không hề là chuyện mơ tưởng chính trị, mơ hồ lãnh đạo, đó là những mô hình sáng, luôn được lau chùi để ngày càng sáng hơn, qua hành động chính trị cụ thể của lãnh đạo : làm chính trị thì đừng chọn cách đi đường mòn trên cái xấu, cái dở, để lập lại cái tồi, cái hèn, mà chọn cái sáng suốt khác để đi lên, trong cái tỉnh táo của lãnh đạo có lý tưởng đi xa vì có quyết tâm đi lên.

Lý chính trị chỉnh chu (quốc thái dân an) qua lý tưởng chính trị (dân giầu-nước mạnh) mang cách xử lý phương trình gần dân-xa thói, tức là luôn gần dân để hiểu mong cầu và đòi hỏi của dân, nhưng xa thói xấu, như xa các lệ tầm phào vì tầm thường trong nhân cách. Cụ thể là dân tình quý trọng các lãnh đạo liêm minh-liêm chính-liêm sỉ, chấp nhận thanh bạch-thanh đạm-thanh bần, và dân tình rất khinh thói khoe của hiện nay của các lãnh đạo xây biệt phủ, biệt dinh, biệt thự của các lãnh đạo thối nát. Cụ thể có ông lãnh đạo tối cao thủa nọ : cựu tổng bí thư Nông Đức Mạnh xây dựng nội thất mạ vàng, người ta khinh vì nó chỉ nói lên cái vô lý của vô minh, vô tri, vô giác của một lãnh đạo. Ta khinh bọn lãnh đạo sống để mạ vàng trong khi dân đen, dân oan ngày càng nhiều, chỉ vì ta thấy chúng ngày càng gần hệ bán nước-ngày càng xa hệ cứu nước !

Lý... trọn

Không trọn lý thì đừng mong trọn tình trong lãnh đạo chính trị trước nhân dân, vì đất nước, vì tiền đồ của tổ tiên ; những mơ hồ trong thuật ngữ : lãnh đạo vừa là kỹ thuật, vừa là nghệ thuật, đã biến thành sáo ngữ, vô thưởng vô phạt, nếu kẻ lãnh đạo không nhận ra nội chất của chính trị chính là nội lực của lãnh đạo, trong đó kết quả của chính sách được đo lường qua hiệu quả của kẻ lãnh đạo. Tại đây học cho kỹ để hành cho đúng là sinh hoạt thường nhất của lực lượng lãnh đạo, trong đó quá trình hành động chính trị được xếp đặt có thứ tự trong quá tình xây dựng chính sách :

Trọn cứu cánh trong lý giải các chính sách, ở đây mục đích chính sẽ lý giải mọi mục tiêu trong thực tế, ở đó chuyện ích nước-lợi dân, là chính, lấy công ích dẫn dắt tư lợi.

Trọn phương tiện, trong giải thích về các giai đoạn đầu tư, từ đây có tự lực để có tự cường, lấy tự chủ để vận động liên minh, kể cả viện trợ quốc tế.

Trọn lợi ích, trong lý giải các thành quả, bằng kết quả hay cho giống nòi, tốt cho dân tộc, đẹp cho văn hóa, lành cho xã hội. Các lợi ích luôn có tính hữu hiệu đẩy lùi được các chuyện xấu, tồi, tục, dở trong xã hội, trong dân chúng.

Trọn đầu tư, biết thuyết phục các chi phí của cả công trình, chống tham nhũng để chống đầu cơ, chống tham ô để chống trục lợi ; cô lập bọn "sâu dân mọt nước", vô hiệu hóa bọn "thừa nước đục thả câu", phong tỏa hóa bọn "mượn đầu heo nấu cháo", chúng sẽ không có chỗ ngồi trong đầu tư, vì chúng không có chỗ đứng trong chính sách.

Trọn thấu hậu quả với những phân tích về các hậu nạn có thể xẩy ra, hậu nạn luôn ở số nhiều về nhân lực cũng như về nhân phẩm, về tài nguyên cũng như về môi trường, về xã hội cũng như về văn hóa, về giáo dục cũng như về luân lý… nếu hậu quả lường được, mà lại nhiều hơn hiệu quả thì đừng ra chính sách, đừng bỏ sức để đầu tư.

Trọn tăng trưởng với các tính toán sinh lời trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong con tính : có rồi thì được quyền có thêm, có ít thì được quyền có nhiều hơn để nâng cao cuộc sống hằng ngày cho nhân dân, trong đó luân lý, đạo lý giáo dưỡng hệ thống giáo dục, lấy kinh tế phục vụ xã hội, lấy lợi nhuận phục vụ lao động, lấy sáng suốt để bảo vệ tài nguyên, lấy tỉnh táo để bảo tồn môi trường, lấy nhân trí để tăng trưởng nhân lý.

Lý gần, lý xa

Lý gần là lý gần với thực tế của nhân dân, trong đó chuyện chén cơm manh áo của dân chúng lãnh đạo phải hiểu, tại đây chuyện cơm áo gạo tiền của quần chúng lãnh đạo phải thấu, ở đây chuyện giá áo túi cơm của nhân dân lãnh đạo phải có sự đồng cảm, không xem thường chuyện thiếu thốn của dân tộc. Ý nguyện thành ý lực đủ ăn, đủ mặc chính là thao thức đau đáu hằng ngày của lãnh đạo chính trị.

Lý xa là chuyện xa nhưng làm được vì nó không xa vời, vì muốn làm lãnh đạo là muốn đưa dân tộc với tới được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên, bền và vững của dân giầu nước mạnh. Lý xa nhưng thực hiện được vì đã có trong vốn liếng văn hóa và giáo dục của tổ tiên : con hơn cha là nhà có phúc, không trên mức độ của vài cá nhân, của vài từng lớp lãnh đạo, mà trên cường độ của cả nước, của toàn dân, trong đó đại đa số được hưởng sống vui để vui sống, không sưu cao thuế nặng, không cường hào ác bá, cụ thể là không có dân đen, không còn dân oan.

Lý gần là lý gần kề với thực trạng của dân tộc, có đủ cơm ăn áo mặc, không phải đi làm lao nô ngay trên đất nước mình cho các doanh nghiệp ngoại quốc, không chịu cảnh nô tỳ cho các nước láng giềng, tuyệt đối không rơi vào cảnh nô lệ của họa tầu tặc. Lý gần vì lãnh đạo có thể làm được tức khắc qua quyết tâm chính trị biết dựa vào lý tưởng chính trị, mà không cần gọi tên qua xảo ngữ để lừa dân là lý tưởng cách mạng !

Lý xa là đưa nhân tri sáng, nhân trí cao vào nhân tình nghèo, vào nhân thế thấp, làm cho bằng được cuộc cách mạng nhân phẩm : quyết chí làm chủ và từ chối làm tớ, để thành công như các nước láng giềng cùng nôi văn minh trong tam giáo đồng nguyên như ta : Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Lấy sáng kiến trong giáo dục làm ra sáng tạo trong khoa học kỹ thuật ; chọn kiếp cao, bỏ kiếp thấp, cụ thể lấy tự chủ để có tự lập lập ra tự cường, tức là chọn tự trọng trước tổ tiên và con cháu, quyết không chọn điếm nhục với láng giềng, với thế giới !

Lý… không chấp nhận thực

Lý không chấp nhận thực (thực tế, thực cảnh, thực trạng) đặc thù của sinh hoạt chính trị không chấp nhận nghèo đói, là lý đặc trưng của chính giới không chấp nhận lạc hậu, làm nên lý đặc điểm của lãnh đạo chính trị, nơi mà lãnh đạo là để xóa nghèo nàn lạc hậu. Còn bọn lãnh đạo nào mà vỗ ngực là lãnh đạo chính trị mà nhắm mắt trước nghèo đói, khoanh tay trước lạc hậu, quỳ gối trước ngoại xâm, lại còn lẳng lặng vơ vét qua chuyên quyền-tham quyền-lạm quyền, gây ra tham nhũng-tham ô. Bọn này không phải làm chính trị, mà chúng chỉ mượn việc lãnh đạo tham quantham bòn rút, tham ăn vì "quen thói bốc trời", mà thi hào Nguyễn Du đã mô hình hóa được bọn tội phạm này.

Lý không chấp nhận thực tế tới từ bất bình đẳng tạo ra bất công, bất công tạo ra bất chấp luân lý, bất tuân đạo lý. Không chấp nhận bất bình đẳng tới từ "con sải nhà chùa thì quét lá đa", vì không chấp nhận bất công tới tự "con vua thì được làm vua", không nhượng bộ chuyện "con quan thì được làm quan", không công nhận hiện trạng thái tử đảng, mà nhân dân không thấy tài năng, cũng không thấy đạo đức của chúng.

Lý không chấp nhận thực cảnh tới từ bọn "cướp ngày là quan", chúng biến đồng bào mình một sớm một chiều thành dân đen, dân oan. Không chấp nhận bọn "đục nước béo cò", không tha thứ bọn "sâu dân, mọc nước", không lùi bước trước bọn "thừa gió bẻ măng", không khoan nhượng bọn "mượn đầu heo nấu cháo", từ "mua quyền bán chức" qua "buôn thần, bán thánh".

Lý không chấp nhận thực trạng tới từ bọn "đem voi dày mồ tổ", không nhắm mắt trước bọn con "cõng rắn cắn gà nhà", không quay lưng đối với bọn "buôn nước bán dân", không chấp nhận chúng vì chúng chỉ thấy chúng ! Cái ích kỷ của chúng sẽ đưa tới chuyện "ai chết mặc ai", nếu chúng nắm các chức lãnh đạo thì chúng sẽ làm chuyện bỏ đồng bào chúng "bây chết mặc bây" !

Nếu muốn làm lãnh đạo mà không tự rèn luyện hằng ngày các lý không chấp nhận thực (thực tế, thực cảnh, thực trạng) này, thì đừng lãnh đạo, vì lãnh đạo thì chỉ "khổ dân, nhục nước".

Lý chống hệ độc

Lý chống hệ độc là chống cặp bày trùng : hệ tư tưởng độc tôný thức hệ độc tài, trong đó hệ thống hóa tư tưởng tập thể sinh ra mô hình hóa tư duy cá nhân, công thức hóa sự đa dạng trong cuộc sống, biến cuộc đời thành độc điệu, rồi trơ trẽn trong đơn điệu. Tức là nhốt đa hiệu trong nhà tù độc trị, vò nát đa năng thành bột trong khuôn bánh cứng nhắc của mô hình độc tôn, nghèo nàn vì vắng đa phương, rỗng đa hướng.

Lý chống hệ tư tưởng độc tôný thức hệ độc tài là loại ra sự độc hại của cái độc quyền, vì khi nó độc tài thì nó sẽ diệt cái đa hiệu của đa tài, biến đa diện thành độc diện. Hệ độc chọn đóng cửa, ngăn biên giới, chặn tự do lưu thông, cấm tự ý truyền thông. Hệ độc chọn "ngăn sông cấm chợ", chọn "bế môn tỏa cảng", chọn "kín cổng, cao tường" để kiểm soát, kiểm tra, kiểm duyệt. Hệ độc cấm chuyện mở cửa, để nhân dân được nhân tri và nhân trí để chọn nhiều chân trời cao, sâu, xa, rộng cho các dự phóng hay, đẹp, tốt, lành. Hệ độc "không thích" nhân dân thoải mái chọn lựa.

Lý chống hệ tư tưởng độc tôný thức hệ độc tài để trực diện chống lại chế độ công an trị thường dùng bạo quyền để đàn áp dân, chống lại chế độ quân sự hóa xã hội, biến dân lành thành kẻ hung hăng gây chiến tranh, đi giết người cho mục đích độc ác của nó, mà không hề vì chuyện "ích nước,lợi dân".

Lý chống hệ tư tưởng độc tôný thức hệ độc tài, để trực tiếp chống bạo quyền, cội nguồn của bạo lực nơi mà kẻ thống trị có quyền sinh sát trên số phận kẻ bị trị, cho phép công an giết dân trong các đồn công an mà pháp luật hoàn toàn vắng mặt. Bạo quyền sinh ra bạo hành hằng ngày, xem chuyện "cá lớn nuốt cá bé" là bình thường, xem chuyện "trộm, cắp, cướp, giựt" nhà, đất, chùa, nhà thờ, của cải… của dân là chuyện "cơm bữa" của bọn cầm quyền để chà đạp nhân quyền.

Muốn làm lãnh đạo mà không tự trang bị cho mình hành trang chính trị của các cái lý chống hệ tư tưởng độc tôný thức hệ độc tài thì đừng lãnh đạo ! Nếu muốn làm lãnh đạo mà hùa với bạo quyền-bạo lực-bạo hành thì có ngày tay sẽ dính máu dân ! (rửa suốt kiếp cũng không sạch). 

Lý chống mộng

Nếu của lãnh đạo dựa trên đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, có nền móng từ luân lý của trách nhiệm bảo vệ nhân dân, của bổn phận bảo toàn tổ quốc, thì cũng chưa đủ để thắng địch. Để lật ngược đối phương nhất là đối phương đó lớn và đông cả nước lẫn dân, như Tàu tặc hiện nay, chúng thật sự là tặc vì chúng đã cướp nước và áp đặt nền thống trị để đô hộ ta qua nhiều lần trong lịch sử, hiện nay chúng cũng đang cướp biển, cướp đảo của ta. Kẻ lãnh đạo giỏi là kẻ chuẩn đoán chính xác ý định của giặc (đi guốc trong bụng giặc), kẻ lãnh đạo tài là kẻ dự đoán đúng ý muốn của giặc (đi bộ trong não giặc), kẻ lãnh đạo lớn là kẻ nhập nội được vào ý đồ của giặc (đi dạo trong mơ của giặc). Trong đó kẻ lãnh đạo phải hiểu : ý định tới từ ảo tưởng của giặc, ý muốn tới từ mong muốn của giặc, ý đồ tới từ mưu đồ của giặc.

Phương trình ý định-ý muốn-ý đồ luôn mang theo các hằng số tâm lý của đối phương trong đó có ảo tưởng đưa tới mơ tưởng, dẫn tới mộng tưởng, chính vì là tưởng nên không thực (cho dù giặc muốn biến thành thật), cho nên suy bụng ta ra bụng người thì chưa đủ, phải biết : suy cho ra, cho đúng, cho trúng bụng dạ của giặc !

Tổ tiên ta đã làm được chuyện này ! Tàu tặc áp đặt hơn 1000 năm đô hộ và chắc mẩm đất nước Việt là của chúng, đang ngủ yên trên đất Việt, vậy mà Ngô Quyền một sớm, một chiều đã quật ngược chúng, bắt chúng phải cuốn chiếu quay về nước của chúng trong hoang mang. Chính Lý Thường Kiệt cũng làm chúng tan hoang trong ảo tưởng là dễ chiếm nước Việt, dễ nuốt Việt tộc, để khi xem lại manh giáp của chúng, để phải tỉnh khi biết là chúng còn toàn thây là may. Cũng chính ảo tưởng chủ quan về binh hùng tướng mạnh mà quân Nguyên Mông đã gặp ác mộng với ba lần quỵ gục trên đất nước Việt. Mơ tưởng chủ quan đến ngủ mê trong mộng tưởng của kẻ đi xâm chiếm như Tôn Sĩ Nghị khi thấy vào nước Việt dễ, vào Thăng Long như đi dạo, để đến lúc Quang Trung đánh thức chúng trong chiến thắng chớp nhoáng, tỉnh giấc trong kinh hoàng, vừa chạy, vừa hoảng mới biết tưởng không phải là thực !

Tình hình hiện nay là luân lý hóa quan hệ quốc tế, với công pháp quốc tế được bảo vệ bởi các nước văn minh vì có nhân quyền, các quốc gia tiến bộ vì có dân chủ, nên chuyện "Châu chấu đá xe" không còn là chuyện "đánh tay đôi" nữa ; mà nó đã trở thành chuyện liên minh quốc tế của liêm chính bảo đảm cho các lãnh đạo các nước nhỏ, nếu lãnh đạo các nước đó có liêm sỉ cứu nước-cứu dân.

Lê Hữu Khóa

(25/01/2020)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa

 

Tâm sự với tri thức Việt tộc

liberté0

Phần 1

Tự do là rể của hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh.

Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bót, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể.

Tự do là cội của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, nhận thức, tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng, không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.

Tự do là nguồn của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là dàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhúng cho tự do cộng đồng, để đưa xã hội vào qủy đạo trong cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước.

Tự do là nền của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cung nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại.

Tự do là trụ của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân bản, nhân tính, trong đó nhân quyền hổ trợ cho nhân nghĩa có chổ đứng xứng đáng trong nhân cách của mọi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sĩ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.

Tự do là cột của hệ cá (cá nhân, cá thể, cá tính), tại đây tự do nâng hệ tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội, và chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.

Tự do là móng của hệ tư (tư duy, tư tưởng) trong đó các hệ thống tư tưởng văn minh luôn lấy tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của nhân loại làm mấu chốt cho hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diển luận) để làm cao, sâu, xa, rộng hệ nhân (nhân tri, nhân trí, nhân văn), nếu không có tự do nghiên cứu, điều tra, điền dả, trong học thuật thì sẽ không có hệ phát (phát minh, phát huy, phát triển) trong tất cả các chuyên nghành khoa học.

Tự do là mái nhà của hệ triết (từ triết học tới minh triết) đây chính là quá trình tiến hóa tư duy của nhân loại qua nhân tri luôn cũng cố cho nhân trí trong quy luật tiến hóa của nhân loại, qua đó ta biết thêm nhiều để hiểu sâu hơn hệ nội (nội chất, nội hàm, nội công) của nhân tính, cụ thể là để thấu suốt hơn số kiếp của con người, thân phận của cá nhân trong nhân thế.

Tự do là thuật để chống hệ tham (tham quan, tham quyền, tham chức) mà thực chất là để duy trì tham nhũng, mà dân tộc đã bị tướt đi quyền tự do bầu cử để chọn người tài phục vụ đất nước, tự do biểu tình trước vô số các bất công trong xã hội hiện nay. Chính tự do dẫn dắt dân chủ, chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát trển của Việt tộc, đó là tự do diệt bọn "sâu dân, mọt nước".

Tự do là vốn để chống hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mảnh lực của toàn dân trên con đường phát triển kinh tế, khoa học, kỷ thuật... Một hệ độc đang giết lần, giết mòn mội sinh lực xã hội, biến thanh niên là nguyên khí của quốc gia thành các kẻ làm thuê, làm công với điều kiện lương bổng tồi, với bảo hiểm lao động tục. Chỉ có tự do của toàn dân, của toàn xã hội, của mọi cá nhân mới loại bỏ được hệ độc này đang thiêu hủy tiền đồ của tổ tiên, biến nam giới Việt tộc thành lao nô, biến nữ giới Việt tộc thành nô tỳ cho các nước láng giềng. Tự do phải được sát minh, sát nhận, sát chứng để vỉnh viển gạt hệ độc đang trù ếm tương lai của gióng nòi này.

Tự do là lực để chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn lãnh đạo Bắc kinh, mang phong cách không nhân cách mà ta có thể gọi chúng là : tầu tặc, với ý đồ muôn thửa xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Chỉ có tự do bảo trì chủ quyền, tự do bảo đảm độc lập, tự do bảo quản đất nước của toàn dân, ta mới đi trên lưng bọn bán nước cho tầu tặc đang lẫn lách trong giới lãnh đạo hiện nay. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên vai bọn lãnh đạo "hèn với giặc, ác với dân", vì chúng đã vong thân đang chờ vong quốc Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên đầu bọn tầu tặc chỉ biết dùng tự do của kẻ mạnh để trộm, cắp, cướp, giật, đất đai biển đảo của láng giềng, mà không biết dùng tự do của chúng để làm đẹp tự do của nhân phẩm.

Tự do là nhân tính

Tự do có trong nhân tính, tự khi con người phải tự gầy dựng cho mình một chương trình, một dự phóng, một tương lai nếu con người không dựa vào được thượng đế, thần linh hay tôn giáo hoặc di đoan đẻ gánh số kiếp của mình.

Tự do hiện diện trong chất sống của một cá thể, luôn được cũng cố bởi các phương án của cá thể đó trong suốt quá trình sinh tồn của mình : tự thân trong tự chọn để tự chủ trong tự tin là chỉ có mình mới nuôi, mới sống cho mình, nghĩa là chỉ có mình mới tự cứu mình được mà thôi.

Tự do khi được định vị, định hình, định dạng qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp : tự do là tự do, thì tự do không còn cần tới cách giải quyết siêu hình (học) là con người sinh ra và số phận của nó thuộc về hoặc nằm trong tay môt đấng tối cao là thượng đế sáng tạo ra cuộc sống và con người. Bản chất của tự do là vô thần, vì nội chất của tự do là vô thánh, nhưng tự do không vô đạo, nếu định nghĩa đạo là con đường, thì chính tự do là con đường để nhân sinh đi đúng vào hướng của nhân tính. Nếu luận điểm này là cơ sở cho phạm trù tự do, thì chuyện có thượng đế hay không, không còn hệ trọng nữa, vì chính con người phải quyết định và quyết đoán số phận của mình như giải quyết một vấn đề sinh tử : con người là phương án, nhân sinh là dự phóng luôn đi về phía hay, đẹp, tốt, lành của nhân tính !

Tự do trong hay, đẹp, tốt, lành của nhân tínhtự do của trách nhiệm, của bổn phận ngay trên phương án cho tương lai, ngay trên dự phóng của mai sau, thì tự do chính là đạo lý làm nên luân lý trong đó con người biết nhận trọng trách cho chính một viển ảnh nhân đạo có hậu cho mình và cho đồng loại.

Tự do là câu hỏi trên thượng nguồn của con người trước cuộc sống, mà chính con người đó phải tìm ra câu trả lời ngay trong hạ nguồn của cuộc đời mình ; khi thi sĩ người, cỏ cây, nhân loại". Và, nhân Vũ Hoàng Chương trong bi quan đã rơi vào : "Chúng tôi tuổi trẻ đầu thai lầm thế kỷ", rồi lại đặt câu hỏi : "Ta làm chi đời ta ?", thì cậu thanh niên thửa nào là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có câu trả lời ngay trong chiến tranh tang tóc của Việt tộc thế kỷ XX vừa qua : "Tôi yêu mọi loại này của Trịnh Công Sơn có (đầy và dầy) nhân tính trong một định nghĩa tự do có trách nhiệm trước nhân sinh và mọi sinh vật chúng quanh nhân sinh đó !

Tự do là nhân bản

Tự do là quyền chọn lựa, chọn lựa lúc đầu là giải thích cuộc sống qua một đấng thượng để tối cao sáng tạo ra mọi sự sống, trong đó có cuộc sống, thân thể, hình hài, tư duy của con người, cho đến nay chúng có tự do là không tin (hoặc không còn tin nữa) là thượng đế có thể cứu rổi con người trước các thử thách của đói nghèo, các thăng trầm của bịnh tật, của chết chóc, tới từ chiến tranh, từ bạo lực...

Tự do là quyền quyết định, quyết định đi theo một ý thức hệ chính trị (thí dụ như ý thức hệ cộng sản) để làm cách mạng, để đổi đời rồi đổi kiếp, và khi cách mạng thành công, con người khám phá ra bọn lãnh đạo cách mạng chỉ là bọn trộm, cắp, cướp, giật, như tổ tiên đã giáo dưỡng cho con cháu : "cướp ngày là quan". Vì, chúng đã biến chất từ các nhóm lợi ích để hình thành ra các mafia ngay trong chính quyền độc đảng của chúng, để làm chuyện "sâu dân mọt nước", trong đó có kẻ sẵn sàng bán nước, chúng ta được quyền quyết định không tuân thủ quyền lịnh của chúng, vì chúng đã vong quốc trong ma đạo vong thân của chúng !

Tự do là quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí, đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta.

Tự do là quyền hành động, hành động để nhân cách của chúng ta được tôn trọng trong nhân phẩm của một nhân tính trọng nhân quyền, quý nhân tri, yêu nhân trí để nhân thế được tự do chọn lựa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, tức là nhân bản.

Tự do trong nhân hành

Tự do không trừu tượng, tự do có hai thế thăng bằng : thân thể và tư tưởng, trong thân thể có thể xác của cá nhânbản thể là sự trao truyền sự sống tới từ cha mẹ và tổ tiên, trong tư tưởng có tư duytự lợi, tư duy theo phương hướng của tri thức tạo nên ý thức, tư lợi theo định hướng phòng thân, thủ thân, lập thân.

Tự do không mơ hồ, không tự sát, không ai chống một cá nhân được quyền tự sát, nhưng tự do của nhân sinh là để bảo vệ thân thể và tư tưởng, như bảo vệ hai thế thăng bằng khác : sự sốngsự tồn tại, chính cái quyền được sống là định nghĩa đầu tiên của tự do, chính cái quyền được tồn tại là định nghĩa thứ nhì của tự do. Cả hai định nghĩa này làm nên tính duy lý, hợp lý và chỉnh lý trong động cơ của tự do : hành động của tự do.

Tự do được cụ thể hóa hóa qua hành động của tự do theo quá trình : hiểu biết-chọn lựa-quyết định để hành động vì tự do, tự do được sống, tự do được tồn tại trong cuộc sống, và vận dụng cuộc đời, xã hội, cộng đồng, tập thể, gia đình... để ngày ngày thực hiện tự do cao hơn, rông hơn, sâu hơn, xa hơn.

Tự do luôn thực hiện nhân quyền của nó cao hơn, rông hơn, sâu hơn, xa hơn, nó đòi hỏi được lập gia đình qua hôn nhân, cùng lúc nó cũng muốn sống độc thân để giữ gìn tự do cá nhân của nó, chưa hết nó đòi hỏi được ly thân rồi ly hôn, giờ nó còn muốn hôn nhân cho các cá nhân đồng tính.

Tất cả đòi hỏi này không hề mâu thuẩn nhau, vì tự do không có khung, chẳng có khuôn, nó là lãnh thổ của nhân tính, luôn muốn nới rộng biên giới, cùng lúc nó muốn phá luôn các ngục tù ý thức hệ, các mô hình bảo thủ, các mô thức lỗi thời, để nhân tri nên cao nhân loại, để nhân trí đào sâu nhân tình. Không vô chính phủ cũng không loạn luân, không cực đoạn cũng không ích kỷ, tự do trọng đạo lý, quý đạo đức, nhưng tự do biết sắp, xếp, đổi, sửa luân lý để cuộc sống đáng sống hơn, đáng sống rồi thì phải sống vui để vui sống, từ đó nhân sinh không còn tù hãm nhân trí nửa !

-------------------

liberté01

Phần 2

Tự do giữa nhân tình

Tự do quyết định thân thể và tư tưởng, tự do quyết đoán luôn cho cá nhânbản thể, tự do quyết nghiệm luôn cho tư duytự lợi, như vậy tự do khôn những đẩy xa mê tín và dị đoan, nó còn đẩy lùi luôn thượng đế và tôn giáo nếu thượng đế và tôn giáo không thuyết phục được nó trên đường đi tìm sự thật, để hiểu chân lý, từ đó tạo ra lẻ phải.

Tự do có thể đi tìm sự thật từ chính trị qua kinh tế, từ tâm linh qua tôn giáo, từ dấn thân qua cách mạng, nhưng kẻ đòi tự do cho sự thật phải trả giá cho sự chọn lựa của mình, mỗi chuyện trên đời này qua chọn lựa của mỗi cá nhân đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn đòi hỏi chuyện : đúng giá ! So với các giá trị mà mình muốn vương tới, đi tới. Tự do luôn có tri thức sống động để chống lại chuyện : quá giá phá giá ! Vì tự do luôn mang lý trí sinh động chống lại tham ô, tham nhũng của bọn tham quan, tham quyền sống nhờ quá giá phá giá, mà nội chất của bọn này là : cờ gian, bạc lận.

Tự do có thể đi tìm chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dã qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nhưng kẻ đòi tự do tìm chân lý phải trả giá cho sự lao tác của mình, mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn yêu cầu : "có thực mới vực được đạo", mà thực trong hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) không phải là thực phẩm mà là sự thực (sự thật). Chính sự thựcgốc, rể, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thựcnền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.

Tự do có thể đi tìm lẻ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẻ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình, mỗi hành vi liêm sĩ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẻ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hổ trợ cho định nghĩa về tự do để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !

Tự do kề nhân phẩm

Tự do cận kề nhân phẩm, khi nó nhận ra chính nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành sẽ cứu nhân thế còn nhiều điều xấu, tồi, tục, dở, khi chính tự do dùng nhân phẩm để xem, xét, khảo, tra nhân loại còn lắm chuyện thâm, độc, ác hiểm, trong đó nhân sinh vẫn còn là nạn nhận của nhân tình, khi nó đã mất nhân tính.

Tự do song hành cùng nhân đạo, khi nó chọn đạo lý để giữ khoan dung, đạo đức để nắm rộng lượng, luân lý để nâng vị tha, khi cái bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) còn đang tung hoành bởi cái độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) qua độc đảng, đang ngày ngày làm kiệt quỵ sinh lực của hệ hiệu (hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả) vì cái độc này đã giết ngay trên thượng nguồn hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo)chính là định nghĩa năng động nhất của tự do : tự do sáng tạo !

Tự do luôn là tự do có điều kiện, điều kiện nhân phẩm dùng nhân lý, nhân tri, nhân trí để cũng cố, để thăng hoa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, để đưa nhân tình, nhân thế, nhân loại vào đúng quỷ đạo của nhân quyền : sống chung vì đáng sống. Nếu tự do không có điều kiện sẽ là tự do trong tự sát, vì nó biến cuộc sống thành địa ngục, cuộc đời thành âm phủ, chính thi hào Nguyễn Du đã nhận thức rõ điều này trong Văn tế chúng sinh : "Cõi dương còn thế chi là cõi âm".

Tự do luôn là tự do có điều kiện vì nó muốn lánh địa ngục, xa âm phủ, vì nội chất của nó là sống hay, sống đẹp, sống tốt, sống lành, chớ không phải sống tồi, sống tục, sống dở, sống nhục, chính Trịnh Công Sơn chối bỏ và lên án loại cuộc sống này, mà nhạc sĩ gọi là : "Kiếp cỏ hèn mọc đầy núi sông !"

Tự do đón nhân tri

Tự do đón nhân tri như tự do đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng.

Tự do đón nhân tri như tự do đón tiếp thử thách tới từ các khó khăn mà ta gặp ngay trong cuộc sống, giải quyết các khó khăn, bằng tự do của chính mình, tự chọn lựa cách giải quyết tới quyết định các phương tiện để vượt thoát (và vượt thắng) các khó khăn. Tự do xử lý các khó khăn tương đối qua cải cách (giữ sân chơi, nắm trò chơi, và chỉ cần đổi luật chơi) để vượt khó khăn, đó là tự do cải cách. Tự do cũng xử lý các khó khăn tuyệt đối (xóa sân chơi, dẹp trò chơi, bỏ luôn luật chơi) để làm lại mới hoàn toàn, đó là tự do cách mạng.

Tự do đón nhân tri như tự do chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đáu để vương lên, cam chịu tiết kiệm để lập vốn, cán đán cần lao để phát triển, pháp minh để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên ; trong đó có tự do "cắn răng" chịu cực để hy sinh cho con cái, cho các thế hệ mai sau thành đạt trong học hành, thành tựu trong nghề nghiệp, thành công trong kinh tế.

Tự do bồng thử thách, cõng thăng trầm luôn là tự do của dự phóng muốn biến ngày mai phải đẹp hơn, hay hơn, tốt hơn, lành hơn hôm nay. , tự do của dự phóng luôn là tự do của chương trình được tính toán, được xếp đặt, được tổ chức, được quản lý, được thực hiện qua thời gian và qua không gian do chính tự do có ý thức chọn lựa.

Tự do có ý thức, không hề là loại tự do thụ động, "ba phải", "nửa vời", "lúc thế này, khi thế khác", mà chính ý thức của tự do sản sinh ra ý định thực hiện dự phóng, ý muốn tổ chức chương trình, để hành thành ý đồ phải thành công qua chiến lược lâu dài, chiến thuật ngắn hạn, kể cả sách lược được dựng nên qua mưu lược, tất cả tạo nên ý lực cho hệ quyết (quyết định, quyết đoán, quyết tâm).

Tự do có ý thức, có dự phóng, có chương trình qua phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực là điều kiện, là tiền đề, là thượng lưu của tự do muốn thay đời đổi kiếp của Việt tộc. Vì có ý thức nên chúng ta thấy cái bất công của xã hội do lãnh đạo bất tài dựa độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với sự xuất hiện của dân đen, dân oan. Chính phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực này sẽ giúp Việt tộc đón nhận nhân tri để có nhân trí mà chống đối, mà đấu tranh, mà phấn đấu cho tương lai của đất nước !

Tự do giữa nhân tính

Tự do giữa nhân tính được thể hiện từ nhân loại tới nhân sinh, nó không thể được định nghĩa ngoài nhân tính, tự do là tự do của nhân tính, có nhân đạo, hiểu nhân nghĩa, thấu nhân từ, vững nhân tâm. Có những kẻ lợi dụng tự do cá nhân để biển lận, có tham quan lạm dụng tự do của quyền lực để tham nhũng, đó là lạm quyền, đây chỉ là loại tự do trục lợi để bòn rút, nó đe dọa tới tiềm năng tự do của tha nhân, nó sói mòn tự do của đồng loại, nó thiêu rụi tự do phát triển của đất nước, nó làm quỵ gục tự do được sống yên, sống lành, sống đẹp của đồng bào ta. Loại tự do này rất đe hèn, vì nó quá thấp với định nghĩa về tự do mà chúng ta muốn tìm tới, chẳng hạn như tự do tổng kết về cuộc đời của mình, khi thấy đồng bào và chính thân phận mình đang trong ngỏ cụt, rồi bi quan trước số phận của dân tộc, của đất nước, đó là lời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn : "Trong nổi tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời cùng ngồi xuống và tha thứ cho nhau...".

Tự do giữa nhân tính xa lạ với tất cả loại ngữ văn "tự do phải tuyệt đối", tất cả loại ngữ pháp "tự do là muốn làm gì thì làm", tất cả kiểu phát biểu này đều đáng ngờ, vì loại ngôn từ này lạm dụng tự do để dễ dàng ích kỷ, lợi dụng tự do để dễ bề trục lợi. Loại ngôn ngữ này chỉ muốn hiểu tự do một cách thô thiến nhất để đánh tráo, đánh lận con đen, mà quên đi các điều kiện của nhân tính luôn làm gốc, rể, cội, nguồn cho mọi định nghĩa về tự do, cùng lúc các điều kiện của nhân tính này nâng, che, cỏng, bồng tự do, chỉ để bảo vệ tự do được sống và phải sống bền trong nhân tính.

Tự do giữa nhân tính, khẳng định quyền sống giữa nhân sinh, quyền được tồn tại trong nhân loại, và nhất là quyền có kiến thức đúng về nhân thế, trong đó nhân tính luôn cần nhân trí để có nhân tri, mà tri thức không tự nhiên có trong nảo bộ của cá nhân mà tri thức tới tự tha nhân. Đây là cơ sở để hình thành xã hội học : một cá nhân sống riêng rẻ, biệt lập trong rừng không có đời sống xã hội, không có sinh hoạt xã hội, không có quan hệ xã hội, thì không biết là mình : phải chết ! Tức là không có tri thức về cái chết. Và, khi cá nhân đó sống trong xã hội, thấy tha nhân chết trước mắt của mình, khi sự sống không còn thì thân thể chỉ là thi thể, lúc đó cá nhân đó mới có tri thức về cái chết, và tri thức đó tới tự tha nhân. Như vậy xã hội là môi trường giữa sự sống và cái chết, trong đó tự do không thể đơn phương độc mả, một cách vô điều kiện, mà quên đi nhân sinh trong đó có tha nhân có cùng một điều kiện nhân loại với mình, có cùng một môi sinh trong cùng một nhân tính với mình.

Tự do của nhân chủ

Tự do của nhân chủ, là tự do có thế đứng và thế đi, có hành động và hành tác trong thế thăng bằng của nhân quyềndân chủ (nhân quyền trong dân chủ, và dân chủ bằng nhân quyền). Ngữ pháp nhân chủ phải dựa trên định nghĩa về chủ thể, không chỉ là cá nhân hay cá thể, mà chủ thể khi hiểu đạo lý (hay, dẹp, tốt, lành) rồi, khi thấu luân lý (bổn phận và trách nhiệm) rồi, thì có tự do trong sáng kiến để cải thiện điều kiện làm người của mình. tự do trong sáng lập để gây dựng các phương án cho tương lai, vì muốn được thăng hoa trong cuộc sống, có tự do trong sáng tạo. Và, tự do trong sáng tạo không những để thành công trong học đường, thành quả trong nghề nghiệp, thành tựu trong xã hội, mà còn sáng tạo từ văn hóa qua nghệ thuật, từ lao động qua sáng tác ra nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan cho riêng mình, để có tư duy riêng, để có tư tưởng riêng, mà không quên đồng loại, luôn song hành với mình trong cuộc sống.

Tự do của nhân chủ qua nội hàm của chủ thể luôn là tự do có ý thức, một ý thức tới từ tha nhân, tới từ xã hội, một ý thức về kinh nghiệm trong thực tế (thí dụ như không được giết người, vì sẽ bị người giết qua báo thù, qua luật pháp, qua tù ngục, qua tử hình...) như vậy ý thức tới từ ngoại cảnh, mà ngoại cảnh thì thuộc về phạm trù của hiện tượng luận. Nhưng, tự do có ý thức cũng chứa các điều kiện của nội tâm, thuộc về bản thể học, trong đó ý thức xếp đặt lại quá khứ, tổ chức lại kỷ niệm, quản lý luôn hồi ký, trong đó các ký sự giúp chủ thể nhận rõ ra các quy luật của biện chứng : hạnh phúc đối nghịch lại với khổ đau ; những cái hay, đẹp, tốt, lành đối ngược lại với những cái xấu, tồi, tục, dở ; trong đó đạo lý, đạo đức, luân lý đối đầu để chống lại những cái thâm, độc, ác, hiểm đang đe dọa tự do của chúng ta. Thí dụ như chuyện bọn tầu tặc đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm, ô nhiểm môi trường ta qua công nghiệp bẩn thỉu của chúng, nhất là thao túng Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng lại còn cấu kết với vài bọn bán nước trong lãnh đạo, để âm mưu xâm lăng, thôn tính, đồng hóa Việt tộc ta, thì chúng ta phải sử dụng mọi mức độ, mọi trình độ của tự do nhân chủ của chủ thể có ý thức để đề kháng, để chống đối âm mưu tồi tệ này của tầu tặc !

-------------------

liberté02

Phần 3

Tự do qua nhân trí

Tự do qua nhân trí là hành trình của chủ thể qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức) trong "tổng thức" (ý thức, nhận thức, tâm thức), tại đây thức được sống và được tồn tại qua tỉnh thức trước điều kiện làm người của mình, this dụ qua chữ nhân của khổng học, qua chữ đạo của lảo học, qua quy luật sinh, lảo, bịnh, tử của phật học.

Tự do qua nhân trí luôn là hành trình khám phá (đi một ngày đàng, học một sàng khôn), luôn là hành trình khai phá (thương người như thể thương thân), luôn là hành trình khai sáng vừa cho trí tuệ, vừa cho đạo đức (nắng ba năm ta không bỏ bạn, mưa một ngày bạn đã bỏ ta).

Tự do qua nhân trí có phương trình riêng của nó khám phá-khai phá-khai sáng vì được khai thị, mở mắt nhìn đời bằng ý thức được dựng nên từ tri thức, chính ý thức quyết định ba nền móng cho các định luận về tự do :

- ý thức của tư duy về tự do

- ý thức của hành động về tự do

- ý thức của đấu tranh vì tự do

Tự do qua nhân trí phân biệt được các sinh hoạt xã hội rất khác biệt của chủ thể, trong đó nghề nghiệp khác chuyên môn, chức năng khác vai trò, thân phận khác số kiếp, vì cam phận chấp nhận trong thụ động của cá nhân là chịu nhắm mắt-khoan tay-quỳ gối với vị thế của nạn nhân, nó hoàn toàn xa lạ với định vị của tự do là đòi hỏi, là đấu tranh, là chủ động để chống lại kiếp khuất phục trước các bất công.

Tự do qua nhân trí chống lại tất cả phản xạ vô điều kiện trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội ; không những phản xạ nhắm mắt-khoan tay-quỳ gối đều đáng chê, khinh, ghét, bỏ, mà kể cả chuyện máy móc hóa ngữ vựng thưa, bẩm, dạ, vâng trước các tầng lớp lãnh đạo đang bóc lột, đang bòn rút, đang tha hóa đạo đức xã hội. Chính tự do sẽ là nền, móng, cột, trụ cho bất tuân dân sự, nếu cuộc đời bị đe dọa, nếu cuộc sống bị tha hóa.

Tự do qua nhân trí của chủ thể có ý thức là sự thông minh đề nghị chúng ta phải cân, đo, đong, đếm trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội, bằng thực nghiệm (một duyên, hai nợ, ba tình), bằng khoa học (duy lý, chỉnh lý, hợp lý). Và, tự do bó buộc chúng ta phải tra, truy, xét, kiểm lại chính ý thức của chúng ta trước các bất công vẩn còn tồn tại trong xã hội, để làm cho bằng được chuyện mà thi hào Nguyễn Du đã dặn con cháu : "Phải lần cho tới tận nguồn, lạch sông"về các điều kiện làm người để thấy, hiểu, thấu, nhận phẩm chất của tự do.

Tự do ngay trong nhân dạng

Tự do ngay trong nhân dạng là tự do từ hành vi tới ngôn ngữ, từ hành động tới xử thế, vì trong đối nhân xử thế ta thấy được những cá nhân nào đã có hoặc chưa có tự do. Chính nhân dạng là kết quả của nhân cách, dựng nên tư cách được để tạo ra phong cách cá nhân, tự lao động qua sáng tạo, từ hợp tác qua đấu tranh.

Tự do ngay trong nhân dạng còn là hậu quả (hoặc hiệu quả) ngay trong truyền thông khi chế tác ngôn ngữ, trong kiểu không, thiếu, vắng, biệt tự do : "thiên mệnh"", ý trời", "trời đã định"... hay kiểu biết, hiểu, thông, thấu tự do : "nhân quyền", "nhân phẩm", "nhân lý", "nhân trí"... Đây không phải chỉ là cách nói, là khuôn ngôn ngữ mà là mức độ và trình độ làm người, muốn hay không tiếp nhận nhân trí, để dùng tự do mà đòi hỏi nhân sinh phải có nhân tính. Đó là quá trình nhận thức về tự do của Thúy Kiều qua ý thức của Nguyễn Du, đi từ vô thức "Ngẩm hay muôn sự tại trời. Trời kia đã bắt làm người có thân", tới thụ động nhưng thách thức "Cũng đành nhắm mắt xuôi chân. Để xem con vận xoay vần tới đâu", và cuối cùng là tới nhận thức "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều !".

Tự do ngay trong nhân dạng là biểu hiện ra ngoại cảnh, ra đời sống xã hội, ra sinh hoạt xã hội, ra quan hệ xã hội một nội dung : chấp nhận hay không số kiếp của mình trước bất bình đẳng, chấp nhận hay không số phận của mình trước bất công. Và, nếu muốn, có, nhận, thâu tự do, thì tự do sẽ thay đổi số kiếp mình, thì tự do sẽ lật ngược số phận oan khiêng của mình, để tạo ra một kiếp mới, để sinh ra một phận mới lành hơn, tố hơn, hay hơn, đẹp hơn.

Tự do ngay trong nhân dạng luôn mang cùng lúc ba nội hàm, gầy dựng nên nội chất, đúc kết ra nội dung của tự do :

- Ý thức hiện hữu : có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan.

- Ý thức chủ thể : có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan.

- Ý thức lý tưởng : có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cho mình, cho mọi người, cho chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chớ không phải là chuyện cam chịu.

Tự do ngay trong nhân dạng với ý lực của tự do, được thực hiện cụ thể bởi hai tư duy :

- Tự do biến ước nguyền thành hiện hữu, hiện diện, hiện tại ngay trong phương án xây dựng cuộc sống.

- Tự do biến dự phóng trở thành : dự đoán, dự tính, dự phòng ngay trong sinh hoạt thay đời, đổi kiếp vì mình, cho mình.

Tự do giáo dưỡng dân chủ

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong chuyện chuyển đổi tư duy, từ chuyện "mỗi người giữ một vị trí" trong định chế, trong cơ chế, để cá nhân không được "cựa quậy" gì trong một chế độ ; cho tới nhận thức ra là "mỗi người được đổi vị trí" của mình trong cuộc sống, trong xã hội, cùng lúc đổi luôn số kiếp của tập thể, số phận của cộng đồng của mình trước môt hệ thống ý thức hệ quái tâm dị nảo áp chế nhân quyền.

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại chuyện "con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" sinh ra như những quái thai vô tài bất tướng nhưng được lãnh đạo theo kiểu cha truyền con nối của thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan" qua gia đình, hậu duệ, thân tộc, họ hàng... với một cơ chế quái vật ma hình quỷ tướng làm trò hề cho các quốc gia dân chủ văn minh.

Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh ngay trong lịch sử của Việt tộc là chuyện "con vua thì được làm vua, con sải thì quét lá đa" là vừa sai trái vừa vô minh, vì vừa bất công vừa vô nhân. Hãy nhớ lại trường hợp của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con "sải chùa" mà cũng là minh sư Vạn Hạnh, đã lập ra triều Lý, sáng ngời trong Việt sử, một triều với các khai quốc công thần dụng nội lực văn hóa Việt để chế tác ra sung lực cho văn minh Việt, để gầy dựng nên hùng lực cho văn hiến Việt.

Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh qua quá trình của các cá nhân, các tập thể, các cộng động, từ vị thế nạn nhân của bất công và trong thăng trầm đã chủ động chấp nhận thử thách để tiếp nhân từ do để đề kháng, để đòi hỏi, để đấu tranh, trường hợp các phong trào dân oan là minh chứng thông minh cho tri thức của tự do :

- Phong trào dân oan Dương Nội, với gia đình của chị Cấn Thị Thêu từ phong trào bảo vệ đất tới đấu tranh vì dân chủ, vi nhân quyền có tàm vóc quốc tế.

- Phong trào dân oan Đồng Tâm, với dân làng sáng suốt "bắt giữ công an" đã đàn áp họ để cướp đất họ, tới vận động truyền thông dân chủ trong cả nước để cùng đồng tâm với nhau đấu tranh vì dân chủ.

- Phong trào dân oan Thủ Thiêm, với dân cư quyết tâm bám đất, chống bọn ma só lãnh đạo thành phố buôn đất bán dân, chặn lại bọn ma bùn chủ thầu buôn đất bán nhà, giờ đã thành phong trào dân chủ được sống và được chết ngay trên mảnh đất của mình, những mảnh đất có được nhờ lao động của tổ tiên và của chính mình.

Tự do chế tác cá tính

Tự do chế tác cá tính, không những qua phẩm chất của cá nhân, đòi hỏi sống bằng chính nhân phẩm của mình, mà tự do còn chủ động để hành động một cách rất cụ thể qua sáng kiến trong cải cách, sáng lập ra các hội đoàn, sáng tạo ra các phương án phù hợp với mong muốn, với chờ đợi, với tâm nguyện : thay đời đổi kiếp, cho mình, cho thân quyến, cho đồng bào, cho đồng loại. Chính vì tự do luôn bức thiết nên cá tính là kết quả, hậu quả, hiệu quả của tư duy, của hành vi trong hành tác cá nhân, giờ đã có nội lực của kiến thức, sung lực của ý thức, hùng lực của nhận thức để đòi hỏi, để đấu tranh. Có cá tính để đề kháng, có cá tính để đối kháng chống bất công, chống bạo quyền, đây là định nghĩa của cá tính, vừa là thượng nguồn, vừa là hạ nguồn của các định luận về tự do.

Tự do chế tác cá tính, tức là giúp cá nhân cho xuất-hiện-để-thể-hiện cá tính của mình, để khẳng định chuyện thay đời đổi kiếp là chuyện khả thi : làm được và phải làm ! Như vậy tự do biến số phận thành dự phóng, biến cá tính thành sung lực của tương lai. Tự do dẫn dắt tự chủ, chính cá tính qua tự do biến ảo thành thực (thực chất, thực tại, thực tế) qua thực tài của cá tính, biết hành động theo kim chỉ nam của tự do. Và, cả hai tự do cùng cá tính, đã biến cá nhân thành chủ thể, vừa có trách nhiệm với cộng đồng, vừa có bổn phận với tập thể, vừa có đạo đức với dân tộc ; cùng lúc có sáng kiến theo dự phóng, có sáng lập cho tương lai, và có chương trình cụ thể qua sáng tạo, để chế tác ra các đạo lý hay, đẹp, tốt, lành.Từ đấu tranh Dương Nội tới đấu tranh Đồng Tâm, từ đấu tranh Thủ thiêm giờ với hàng trăm phong trào dân oan trên ba miền của đất nước, trong cả nước, các cá nhân mà lúc đầu còn riêng rẻ, giờ qua đòi hỏi, qua phong trào, qua truyền thông... đã trở thành chủ thể có cá tính mang nội chất tự do vì dân chủ,

Tự do chế tác cá tính, biến nạn nhân thành chủ thể, có tự do hiểu sự thật để nhận diện thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẻ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẻ phải là rể của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !

Tự do luôn song hành với nhân phẩm. Tự do luôn song đôi với nhân tính. Tự do song cặp với nhân cách. Và, ta phải phân tích cao, sâu, xa, rộng hơn nữa : Tự do mang hùng lực của"mâu thuẩn bổ sung" (ngược nhau nhưng không kình chống nhau) đó là tự do vừa đề kháng, vừa sáng tạo để chiến thắng, đó là tự do vừa trường kỳ, vừa đoản kỳ để thành công trước mọi thử thách !

Tự do tự xây

Tự do tự xây, khi đã tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, thâu nhận luân lý, để xây lên liêm chính, để dựng lên liêm sỉ, bảo vệ nhân phẩm chống lại cường quyền, độc tài, tham nhũng. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh.

Tự do tự xây, dựa trên ngữ pháp "xây để dựng tự do", vì không ai ban bố tự do cho ta, mà tự do có được qua ý thức không chấp nhận bất công, qua nhận thức không dung túng độc tài, qua tâm thức không nhượng bộ bạo quyền. Quá trình"xây để dựng tự do" đã được các hệ thống tư tưởng của các quốc gia văn minh nhờ dân chủ, nhất là các kết quả trong nghiên cứu, điều tra, điền dã về hành động tự do trong khoa học xã hội và nhân văn làm rõ nét, rõ dạng, rõ hình, quá trình đó là :

- Tự do phải biết xây để dựng, qua không gian và thời gian của hệ cảnh (bối cảnh, thực cảnh, tâm cảnh).

- Tự do phải biết tự xây, qua thực tế và hiệu quả của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).

- Tự do phải biết giữ cái đã xây, từ hiện tại tới tới tương lai theo hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) vừa để bảo vệ vừa để duy trì, vừa để phát huy vừa để phát triển tự do.

Tự do tự xây, đi trên lưng bất bình đẳng để dẹp nó, đi trên vai bất công để hủy nó, đi trên đầu bất tài dựa độc tài qua độc đảng phải ra đi để nhường chỗ cho nhân quyền trong nhân phẩm. Hãy nhìn sâu hơn các phong trào dân oan (Dương Nội, Đồng Tâm, Thủ Thiêm, Hải Phòng, Nha Trang, Đà Nẳng, Vũng Tàu...) là đằng sau tiếng khóc, tiếng gào, tiếng thét chống bạo quyền sinh ra bất công là định nghĩa cụ thể của tự do : "chống bạo quyền để được sống công bằng", bất công là không thể chấp nhận được ! Bạo quyền không có chổ hợp lý, hợp pháp để đứng cạnh, đứng kề với nhân phẩm, nhân đạo, nhân nghĩa. Cho nên, phong trào dân oan là một thể hiện đấu tranh tự do vì nhân quyền, nó rất văn minh nhờ hùng lực dân chủ tự sinh, tự pháp, tức là tự xây của nó. Nó sẽ được tôn trọng xứng đáng trong các hội đoàn nhân đạo vì nhân quyền, trong Liên Hiệp Quốc, trong lịch-sử-luôn-muốn-văn-minh-của-nhân-loại, một nhân loại có liêm sỉ !

-------------------

liberté03

Phần 4

Tự do tự sinh

Tự do tự sinh, có mặt ngay trong hiện tại để trong hiện sinh trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó. Cùng lúc tự do là dàn nhúng, dàn phóng gởi phương án của sự sống đúng đến trúng tương lai tốt đẹp cho nhân sinh. Hơn thế nữa, tự do biết gởi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là : tự do có mặt để giúp con người thăng hoa theo hướng chân-thiện-mỹ.

Tự do tự sinh để gởi, gởi thông điệp, gởi luôn tín hiệu là tự do biết nổi giận vì đã chịu quá nhiều bức xúc tới từ bất tín, bất tài, bất trung, đã tạo ra bất công, sinh ra bất nhân, đang lũng đoạn luân lý Việt qua tham nhũng của tham quan. Chính tự do nổi giận chỉ là giòng lủ của thượng nguồn, sẽ tạo nên giòng thác của nổi loạn tại hạ lưu để chống độc tài, độc quyền, độc trị được chống lưng bởi độc đảng, để hình thành hợp lưu của bao giòng lủ, giòng thác tạo nên : nổi dậy !

Tự do tự sinh để nổi, nổi vì không chấp nhận bị chìm, biết đứng dậy vì không chấp nhận suốt đời quỳ gối rồi cúi đầu, chính tự do quyết định ngôn ngữ hình thể (quỳ gối để quỵ gục hay đứng dậy để đi tới) của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội. Chính nó vừa làm nội dung, vừa làm hình thức cho nhân cách. Các phản xạ sợ chính quyền, tránh công an, lùi bước trước bạo quyền, hạ mình trước độc tài... đều là những phản xạ phi lý, những hành vi vô lý qua tư duy độc lập của tự do !

Tự do tự sinh để phê, trước hết là phê bình các cái xấu, tồi, tục, dở đang tha hóa chúng ta ; kế tiếp là để phê phán các cái thâm, độc, ác, hiểm đang đe dọa chúng ta. Chúng ta phải "lột mặt nạ" cả hai qua phê chuẩn, để giữ thật sạch nhân phẩm của chúng ta.

Tự do tự sinh để giữ, vừa giữ sự hiện diện, vừa giữ các ước mơ của chúng ta, vì tự do có mặt trong vừa hiện tại, vừa có bước trong tương lai. Tự do có năng động tính riêng của nó, vì tự do vừa biết phòng ngự trước các cái xấu, tồi, tục, dở, vừa biết phản công chống lại các cái thâm, độc, ác, hiểm. Một thông minh khác của tự do là vừa biết khẳng định nhân phẩm của mình, vừa biết vượt thoát các lo âu, sợ hải tới từ đe dọa, tới từ bạo quyền ; cho nên tự do sống vì quá trình tự thoát để tự thắng (autodépassement). Tự do để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do : tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó, sự sáng tạo của nó.

Tự do tự giải luận

Tự do tự giải luận, mang khả năng của tự do tự giải thích bằng kiến thức và tri thức các chuyện không thể chấp nhận được đang đe dọa nhân phẩm là : độc tài, tham nhũng, bất công, bạo động, tha hóa, đồi trụy…

Tự do tự giải luận, có năng lực của tự do tự giải trình, có chương trình hành động vì có giáo trình đạo đức của chuyện vì ta và vì người ; tại đây tính hợp lý, tính chỉnh lý của tự do được xây dựng qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) để trao luận, trong các trao đổi giữa các đối tác, từ tin tức tới truyền thông, từ dữ kiện tới chứng từ.

Tự do tự giải luận, có năng lượng của tự do tự giải thể qua đấu tranh để chuyển đổi các định chế, để biến đổi các cơ chế, để chuyển hóa các chế độ bất tín, bất tài. Từ đó, tự do nhân lên sung lực của mình qua đa tài để đa năng, đa nguyên để đa đảng, nhờ đa năng nên đa hiệu.

Tự do tự giải luận, mang tiềm lực của tự do tự giải trừ qua quyết đoán để quyết tâm dẹp các tệ nạn xã hội, các tệ đoan của chế độ, chống lại chuyện lùi bước trước tha hóa, chống lại chuyện tự tha hóa, bởi một ý thức hệ, bởi một bạo quyền.

Tự do tự giải luận, mang cường lực của tự do tự giải quyết các khó khăn, các trở lực, các ngõ cụt, các suy thoái phẩm chất trong xã hội, trong giáo dục, trong văn hóa, để cùng nhau đi về các chân trời đáng sống, sống mà không chán sống !

Tự do tự giải luận, có mảnh lực của tự do tự giải phóng, bỏ kiếp quy phục cúi đầu, gạt phận khoan tay quỳ gối, để khẳng định cuộc đời mới thẳng lưng để thẳng đầu, thẳng chân để thẳng thân, sống không những cho lành, cho tốt, mà còn muốn sống sao cho hay, sao cho đẹp.

Tự do tự giải luận là tự do vượt lên thiên nhiên, vì tự do đã rời bản năng "đói ăn, khát uống", vì tự do từ chối kiếp "ăn tươi nuốt sống" để chọn cuộc sống : có hậu. Tự do vượt luôn qua thượng đế, vì tự do chịu nhận kiếp người để tự đổi kiếp người, để tự thăng hoa trong công bằng và bác ái qua đường đi nẻo về của tự do.

Tự do tự biện cho tự do vì hạnh phúc, đó là thông điệp của Rousseau.

Tự do tự giải cho tự do, vì công bằng đó là thông điệp của Kant.

Tự do tự luận cho tự do, vì công lý đó là thông điệp của Marx.

Tự do tự thân cho tự do, vì nhân phẩm đó là thông điệp của Nietzsche.

Tự do để tự cứu

Tự do để tự cứu trong quyết định tự chủ về số phận của mình, trong ý thức hành động vì tự do, từ cứu cánh tốt đẹp tới phương tiện minh bạch. Trong một đất nước mà tự lợi của Đảng cộng sản Việt Nam đứng trên hiến pháp, luật pháp, tư pháp, thì chuyện tự do để tự cứu là chuyện phải có, phải được hiện hữu với văn minh của con người trong thế kỷ này.

Tự do để tự cứu chống tha hóa, vì biết tự trọng đối với chính nhân phẩm của mình, trước một xã hội suy đồi từ đạo đức tới giáo dục, có thể dẫn tới sự suy vong của một dân tộc, thì chuyện tự do để tự cứu vừa vì tồn sinh của đất nước, vừa vì tiền đồ của dân tộc  là chuyện vô cùng bình thường trong phản xạ của đồng bào ta.

Tự do để tự cứu để chống diệt vong, trước mưu đồ xâm lăng của tầu tặc, vì dân tộc vì đất nước, vì các thế hệ mai sau là chuyện phải có, phải làm -phải dấn thân vì tự do để có tự do- trước một Đảng cộng sản Việt Nam được xếp loại là "hèn với giặc, ác với dân" là chuyện thật d hiểu, dễ thông, dễ thấu.

Tự do để tự cứu chống lại tham quan gây ra thảm họa qua tham nhũng, bòn rút cạn kiệt mọi tiềm lực của dân tộc, mọi tiềm năng của phát triển, mà động cơ vào đảng là để giành giật quyền lực, để tham ô, để hối lộ, để vơ vét. Tham quyền vì tham lam và trước lòng tham không đáy của các nhóm lợi ích mà thật ra là các mafia trong lãnh đạo, thì tự do để tự cứu là chuyện hiển nhiên, là chuyện đương nhiên.

Tự do để tự cứu để chống tận diệt môi trường, để bảo toàn môi sinh, như chính bảo vệ tính mạng của mình và của đồng bào, trước các cá nhân lãnh đạo giành giật quyền lực để dễ buôn dân, bán nước. Chúng đã bán biển, bán đất, bán tài nguyên, bán nhân lực lao động của đồng bào với giá thấp, giá rẻ, cùng lúc đã chuyển tiền ra ngoại quốc, để tính toán chuyện cao chạy, xa bay khi mất nước, mất đảng, thì chuyện tự do để tự cứu thật quá dễ giải thích, quá dễ giải trình.

Tự do để tự cứu trực diện để kình chống loại tự do vô nhân, vô đạo của bọn sâu dân mọc nước, khi chúng tự cho phép là chúng có quyền tự do vô biên, vô định, vô hạn để vơ vét từ tài nguyên của đất nước tới tiền tài của nhân dân. Loại tự do vô minh, vô tri này của chúng được dung dưỡng trong một chế độ độc đảng để độc quyền thâm thủng nguyên khí của quốc gia. Tệ hơn nữa, chúng không có một chút tự trọng gì vì quốc thể : tổ chức bắt cóc người (Trịnh Xuân Thanh) trên nước Đức, một quốc gia văn minh, biết tôn trọng công pháp quốc tế. Mà hiện nay tháng năm, 2018 với phiên tòa tại thủ đô Đức có tất cả chứng từ của một chính quyền rừng rú, với các tướng tá công an giở trò bắt cóc người, ngay giữa một Châu Âu văn hiến, thì chuyện tự do để tự cứu để không nhận quốc nhục là chuyện ta phải thực hiện càng sớm càng hay !

Tự do để tự cứu luôn khẳng định tự do không bao giờ rời ý thức (một ý thức của tự do biết tự giới hạn tự do loạn động) của mình trước văn minh, văn hiến của thế giới, mà còn phải luôn biết học người vì người giỏi hơn ta.

Tự do dấn thân

Tự do dấn thân là tự do mang tính hiếu động, luôn thúc đẩy hành động tới từ một động cơ kích thích sự hình thành của tự do trong thực tiển, động cơ này có thể tới tự ngoại cảnh, chúng ta thấy láng giềng cùng văn hóa tâm giáo đồng nguyên với ta : Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan... có đời sống văn minh, phát triển... đó là ngoại cảnh giúp ta dấn thân, thúc đẩy ta có hành động cụ thể vì đời sống văn minh, văn hiến như các láng giềng của ta. Chính ngoại cảnh giúp ta lấy quyết định để hành động, nhưng có kẻ dùng tự do cá nhân để nhậu nhẹt, rượu chè, nghiện ngập... thì khi họ mong muốn có văn hóa, văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan, Châu Mỹ, Châu Âu... mà bản thân họ không biết "thức khuya dậy sớm", và hằng ngày không chịu được cảnh "một nắng hai sương", mà ngược lại còn thiêu hủy kinh tế gia đình qua trác tán, làm khổ vợ con, thì các phát biểu của họ về tự do đi tìm văn minh, văn hiến như Hàn Quốc, Nhất Bản, Đài Loan, Châu Mỹ, Châu Âu... chỉ là chuyện tráo lận truyền thông, dựa trên láo, xạo, dối, lừa của thói "lời nói chẳng mất tiền mua", nói mà không suy nghĩ, vì vô tri nên vô lý, nó hoàn toàn xa lạ với định nghĩa về tự do.

Tự do dấn thân mang tính năng động để được nhập cuộc trên con đường đạo lý được chon lựa bởi cá nhân, bởi tập thể, bởi cộng đồng, bởi dân tộc, bởi nhân loại. Nhưng đạo lý phải chỉnh lý và hợp lý để nhân đạo có sức mạnh của nhân lý. sáng suốt để có luận tỉnh táo, để mà đi về các chân trời hay, đẹp, tốt, lành. Chính lý luận thông minh vì lập luận thông thái của tự do, nên tự do luôn mang tính tất yếu được chọn lựa bởi nhu cầu cần thiết, bởi mong muốn bức thiết, để cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc, nhân loại được sống tốt hơn trong nhân sinh, sống đẹp hơn trong nhân thế.

Tự do dấn thân là tự do khẳng định phải được sự tham gia trong công cuộc chung đi tìm hạnh phúc, bằng thể lực, trí lực, tâm lực của chính mình, đây là định nghĩa cụ thể và minh bạch của thế nào là dấn thân vì tự do.

Tự do dấn thân là tự do được xác thực vừa bằng ý chí, vừa bằng quyết tâm, biến chí nguyện thành nội lực, biến ý nguyền thành sung lực, để nội chất tự do biết thành hành động bằng hùng lực của nhận thức, tự do đứng về phía xác định để minh định bằng can đảm của dấn thân.

Tự do cần trọng tài

Tự do cần trọng tài làm rõ ý thức của tự do, và tự do không được tự làm trọng tài cho tự do của chính mình ; chính ý thức này về tự do, được minh bạch từ lý luận tới hành động, sẽ giới hạn hay phát triển những phạm trù và những lãnh thổ của tự do. Ngay trong tự do ngôn ngữ khi phát biểu chính kiến của mình, thì chính ý thức về truyền thông quyết định tự do của mỗi cá nhân trong bối cảnh thực tế để làm nền cho mọi tuyên ngôn về tự do.

Tự do cần trọng tài khi tự do đi tìm đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, kế tiếp đó là được đi tự đạo lý này tới đạo lý khác, đi từ các chuyện hay, đẹp, tốt, lành này tới các chuyện các chuyện hay, đẹp, tốt, lành khác. Từ đó tự do sáng lập ra một mạng lưới, một hành trình để được tới nhiều phương trời khác nhau, trong đó tự do lưu thông, tự do di chuyển, tự do truyền thông là kết quả cụ thể của quá trình khám phá của tự do.

Tự do cần trọng tài khi tự do là đi tìm cái hay, đẹp, tốt, lành hơn cái hay, đẹp, tốt, lành đã có, chính trọng tài của đạo lý tập thể, của đạo đức cộng đồng sẽ ngăn chặn các hành vi trộm, cắp, cướp, giật tự do của người khác, đây là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với đám tham quan lộng quyền, ngày đêm tha hồ tham ô, tham nhũng để trục lợi. Và cũng chính trọng tài của lương tri cho phép ta học các tự do hay của người khác, các tự do đẹp của người lạ, kế đó cho phép ta được sở hữu hóa các kiến thức tốt, các tri thức lành của nhân loại, để làm cuộc sống mình khá hơn, để nâng trình độ con cháu của mình giỏi hơn, để đẩy thân thuộc của mình được thông minh hơn, đây chính là hiệu quả của hành động tự do.

Tự do cần trọng tài luôn là tự do cần kiểm định trong sự phối hợp tế nhị vì tinh tế giữa hai hệ : hệ cảm (cảm tính, cảm xúc, cảm động) và hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận), và chóng chày gì thì cảm nhân từ do sẽ dẫn tới hành động tự do. Đó là hoàn cảnh của thi sĩ Hoàng Cầm trong một chế độ không có tự do :

Ta con phù du ao trời chật chội

đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao

Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ

vừa rụng chiều nay dềnh mặt nước hương sen

Ta soi… chỉ còn ta đạp lùi tinh tú.

Trong đó "Ta con phù du ao trời chật chội" thuộc hệ cảm giữa lao tù của chế độ không có tự do trong đất trời rộng rãi, và "chỉ còn ta đạp lùi tinh tú" chính là hành động tự do đạp lùi tinh tú, đạp tan một ngôi sao trên mặt ao, tượng trưng cho một chế độ độc tài đang tận diệt tự do.

Tự do từ chối bị khuất phục. Tự do kình chống mọi ý đồ thuần hóa nhân phẩm. Tự do chống đối luôn sự hèn, cái nhục. Tự do luôn là chuyện phá rào, đập khuôn, bỏ khung, đạp tường, chặt xiềng, hủy nhà tù để thấy ánh sáng, để chọn chân trời, để khám phá rồi phát minh ra các số kiếp mới được sinh ra, được tổ chức, được quản lý bởi động cơ và hành động của tự do.

Tự do cần nhân lý

Nhân lý mở cửa cho nhân tri để chứa nhân trí, để nhân lý được đi trong nhân đạo tìm tới nhân từ, từ đó nhân lý hướng về chân trời nhân phẩm để làm sáng nhân bảnnhân văn, khi tới được các chặn đường của nhân tính, thì nhân lý nhận được tiếp nhận ít nhất ba không gian của tự do :

Không gian hành động của tự do :

- Tự do cần nhân lý tức là tự do công nhận có công lý để hợp lý hóa công bằng

- Tự do cần nhân lý tức là tự do thừa nhận có pháp lý, để hợp lý hóa pháp luật

- Tự do cần nhân lý tức là tự do đảm nhận có đạo lý, để hợp lý hóa luân lý.

Không gian hành tác của tự do :

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống mê tín để chống di đoan

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống bất công, để chống bất tài

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống bất công, để chống bất tài.

Không gian hành đạo của tự do :

- Tự do cần nhân lý tức là tự do cần lý tưởng để cũng cố niềm tin

- Tự do cần nhân lý tức là tự do cần chân lý để hưởng dẫn dấn thân

- Tự do cần nhân lý tức là tự do chống bất công, để chống bất tài.

-------------------

liberté04

Phần 5

Tự do để tự trọng

Tự do để tự trọng vừa chống lại cái sai, vừa tiếp nhận cái đúng ; vừa từ chối cái xấu, vừa gạt bỏ cái ác, vừa đón nhận cái lành ; vừa xóa tan cái độc vừa chào đón cái đẹp, cùng lúc cam nhận cái thử thách.

Tự do chống lại kiếp "cơm thừa, canh cặn", để chống lại :

- Thí gì nhận lấy

- Cho gì ăn nấy

- Ném gì sài nấy.

Tự do từ chối kiếp "thiên mệnh đã an bài", để từ chối :

- Chấp nhận số phận an bài trong hiện tại

- Cam chịu số kiếp an phận trong tương lai

- Hứng chịu suốt đời làm nạn nhân.

Tự do gạt bỏ kiếp "con sãi chùa thì quét lá đa" để gạt bỏ :

- Bạo quyền, cường quyền, lạm quyền

- Tham quyền, tham nhũng, tham ô

- Bất công, bất lương, bất tài.

Tự do chấp nhận :

- Dấn thân để chống lạm quyền trong lãnh đạo, tham nhũng qua quyền lực

- Bất tuân bạo quyền để xây dựng công bằng mới để chống bất công

- Nổi dậy để lật đổ độc tài, để làm cách mạng để lập ra công bằng mới.

Tự do cam nhận :

- Bị bắt bớ để bảo vệ phẩm chất của mình

- Bị tù đày để bảo toàn lý tưởng của mình

- Bị tra tấn để bảo đảm chân lý của mình.

Tự do thừa nhận :

- Phải có nhân tính trong nhân tình

- Phải có nhân đạo trong nhân sinh

- Phải có nhân nghĩa trong nhân thế.

Tự do khẳng định :

- Nhân bản trong nhân văn

- Nhân từ trong nhân tri

- Nhân trí trong nhân lý.

Tự do căng tự chủ vì tình người

Tự do căng tự chủ vì tình người biết tiếp nhận ngoại cảnh, vì yêu quý ngoại giới, kể cả trong tình yêu, nơi mà Spinoza định nghĩa như một cảm xúc, một đam mê tới từ ngoại nhân : một kẻ lạ gặp trong ngẩu nhiên giờ đã thành người yêu, mà ta sẵn sàng chia đời, sẻ kiếp. Nhưng tự do không ngừng ở tình yêu lứa đôi, mà nó mang ước vọng của nhân loại, mang hoài vọng của nhân tính, mang nguyện vọng của nhân phẩm để tìm, để gặp, để dựng tình thương.

Tự do căng tự chủ vì tình người từ bỏ buồn rầu trong ao tù của cuộc sống khổ cực để tới các chân trời rộng hơn, đẹp hơn bằng tình thương yêu đồng bào, đồng loại đang là nạn nhân của khổ đau, vì đang là nạn nhận của bạo quyền sinh ra bất công, đẻ ra tham nhũng. Ta hãy nhìn dân đen trong đói khổ, ta thấy dân oan mất đất, mất nhà lang thang như bụi đời, oan ức ngất trời như các oan hồn đang có mặt ngay trong cuộc sống của chúng ta. Họ sống và đang chán sống, chính tự do trong tư duy, chính tự chủ trong hành động vì người, mà chủ thể tự do có thể chuyển hóa chán sống qua đáng sống : không được quên đồng bào, đồng loại trong lầm than, để cùng nhau gánh đở, cõng bồng nhau, để nâng kiếp người như chính nâng kiếp của mình.

Tự do căng tự chủ vì tình người đi từ tự do chọn lựa để đi tìm cuộc sống hạnh phúc cho riêng mình đến tự do đi tìm một cuộc sống tốt cho đồng bào, đồng loại, mà theo Socrate đã dẫn luận đây chính là tự do tới từ khả năng của nhân tính muốn : "một cuộc sống tốt phải luôn cao hơn một cuộc sống hạnh phúc", vì cuộc sống tốt vừa có cuộc sống hạnh phúc, lại vừa có có thêm công lý vì công bằng. Đây chính là nhận thức của các chủ thể trong các phong trào thiện nguyện dụng tự do chia sẻ vật chất và tình thương để chế tác ra tự chủ chia phần cho nhau lấy từ thiện mà bồi đắp cho công lý, để đấu tranh cho công bằng, trong một xã hội có nhiều triệu phú, tỷ phú bằng ngoại tề phương tây, nhưng đa số chỉ là trọc phú, trong vô tri vì vô giác trước cảnh cực, nghèo, đói, khổ của đa số đồng bào của họ.

Tự do căng tự chủ vì tình người xác nhân từ do là là tôn vinh cái đúng, mong cầu cái đẹp, là trân quý cái cao, trong đó ham muốn cũng như đam mê không còn lẫn trốn trong ích kỷ, mà là động lực của đạo lý có nhân lý, động cơ của đạo đức có nhân phẩm. Một tự do muốn xác nhân từ do trong xã hội việt nam hiện nay để xác chứng rồi xác minh nguồn gốc của bất bình đẳng mang nội chất của bất công, tới từ một bạo quyền đang cai trị đồng bào, đất nước, xã hội, bằng độc tài qua độc đảng mà không hề quản trị giáo dục, văn hóa để bảo đảm đạo lý dân tộc, đạo đức cộng đồng, luân lý tập thể.

Tự do căng tự chủ vì tình người là phương trình thông minh-thông đạt-thông thái để chống lại cai trị của bạo quyền, để bảo vệ được quản trị vì nhân quyền !

Tự do song hành cùng tự chủ vì đúng !

Tự do vì tự chủ giúp hành động tự chủ từ quyết tâm qua quyết đoán để lấy quyết định đúng lúc, đó là trường hợp của đồng bào xã Đồng Tâm, đã chặn đứng và bắt giữ (tạm thời) bọn công an được chính quyền gởi tới để đàn áp họ ; trong khi họ đấu tranh rất chính đáng để bảo vệ đất của họ đã bị bọn lãnh đạo của bộ quốc phòng đã đi đêm với bọn thầu buôn Vittel, để cướp đất họ. Phương trình quyết tâm đúng-quyết đoán trúng-quyết định chắc đã được cả nước ủng hộ, và đồng bào xã Đồng Tâm đã lấy thêm một quyết định rất hay và rất đẹp trong năm nay tháng 5 năm 2018 này để kỷ niệm một năm sau sự cố này. Một biến cố tích cực để xác nhân từ do đấu tranh của phong trào dân oan.

Tự do vì tự chủ hướng tự chủ từ cả quyết qua dấn thân để đấu tranh bền bỉ, đó là trường hợp của đồng bào Dương Nội, với biểu tượng Cấn Thị Thiêu, dũng cảm nhân từ đầy, bất khuất trong lao lý của bạo quyền, với nhân phẩm chắc và vững của một hành động tự do mà thế giới đã thấy được, đã nhận ra hùng tính của Việt tộc, qua hùng khí của các bà con Dương Nội. Trên lý lịch họ đa số là nông dân, lao động bình thường, nhưng chính qua tự do đấu tranh mà họ đã là ngọn cờ đầu trong phong trào dân oan ngày càng được thế giới ủng hộ. Chính họ đại diện cho liêm sỉ Việt, chớ không phải bọn lãnh đạo ma só cướp đất họ, thông đồng với bọn ma bùn chủ thầu đất, cướp đất để xây nhà rồi bán lại với giá cắt cổ. Cả hai loại ma này, chúng không có lương tri vì không có lương tâm, khi ôm tiền bỏ chạy ra nước ngoài, chúng chỉ biết cúi đầu, lủi nhủi như âm binh thôi, vì chúng là ma mà !

Tự do vì tự chủ để dắt tự chủ từ nổi giận qua nổi dậy đưa đến nổi loạn của các đồng bào trên tây nguyên, dưới đồng bằng, vì quá phẩn nộ đã dùng vũ khí mà giết những kẻ đến cướp đất, đoạt nhà của họ, vì không tôn trọng chúng không những nơi chôn nhao cắt rốn của họ, mà quên luôn là tổ tiên của dân oan đã đổ môi hôi, nước mắt để được các mảnh đất này. Nhưng nổi giận đưa đến nổi loạn có thể giết chính nghĩa của tự do. Biết bảo vệ chính nghĩa của tự do là biết đấu tranh bền vững vì tự do, đây là sự trưởng thành sáng suốt và tỉnh táo của các phong trào dân chủ và nhân quyền của Việt Nam trong những năm qua. Chọn bất bạo động song hành cùng đấu tranh ôn hòa, chọn đối thoại để tranh luận, chọn đàm thoại để đàm phán, là nội chất thông minh của hành động tự do, vừa có chính nghĩa vừa có lý trí, vừa có trí tuệ trao luận vừa cho tuệ giác truyền luận.

Chính tự do đủ nội lực để bảo vệ dân chủ, trong hòa bình và trong hòa khí, mà độc tài và bạo quyền không sao làm được, nên triết gia Habermas đã chế tác ra chủ thuyết : đạo lý truyền thông không những để đối thoại mà còn nâng bản lỉnh của dân chủ, làm được các chuyện phi thường là tiếp nhận tất cả đạo lý vì cái tốt, tất cả lý luận vì cái đúng để cùng nhau hẹn tại một giao điểm của tất cả các chân trời, các tương lai, tên của nó là : fusion des horizons.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết khẳng định sự thông minh của nhân loại tới từ sức mạnh của lý trí tự do, được chế tác ra từ các trải nghiệm, các kinh nghiệm, các thử thách, các thăng trầm mà lý trí đã tiếp thu được sự thực để nắm chân lý, lấy biết lẻ phải. Chính lý trí đã dắt tư duy, đã đưa suy quyết vào sung lực của tự chủ.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết khám phá sự thật để lột mặt nạ các chiêu bài xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàng, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết trong phân tích, trong giải thích chứng minh được độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, thì không sao diệt được tham nhũng. Và, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có thể diệt tham nhũng của phe đối phương, của các đối thủ, của các nhóm thù địch chống hắn, và hắn không sao diệt được tham nhũng trong chính nhóm của hắn, đang "ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu" với hắn. Bao trường hợp Lê Thanh Hải nguyên thành ủy thành Hồ, thì Thân Đức Nam, phó chủ tịch văn phòng quốc hội, vừa tham nhũng đất đai, vừa lấy tiền của của đất nước, với nhiều dã thú khác nữa, bao giờ thì chúng bị truy tố ra pháp luật ?

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết để lột mặt nạ các thỏa thuận ngầm, các thỏa hiệp lén, các thông đồng đi đêm bất-chính-vì-bất-lương của các mafia đang chia chát quyền lực để chia phần quyền lợi, để trục lợi, để nạo ruột các công trình của chính phủ. Với chính sách cướp đất giữa ban ngày qua đạo luật quái thai : "đất là sở hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý" và tất nhiên là "do đảng lãnh đạo", trong đó người dân chỉ có quyền "sử dụng đất", "theo thời hạn", và đất giờ thành các miếng mồi để các dã thú với thú tính của mafia cấu kết với nhau để cướp đất của dân.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết để vạch mặt bọn dã thú thứ nhất là các lãnh đạo dùng chiêu điểu "đổi đất lấy hạ tầng" để trao các miếng mồi đất qua tham nhũng, cho loại dã thú thứ hai là các chủ thầu trách nhiệm làm hạ tầng trong dối trá và xây dựng cao ốc trong man trá với giá nhiều hàng trăm lần so với giá đến bù cho dân.

Tự do tư duy, tự chủ suy quyết để có độc lập trong suy nghĩ là các lãnh đạo bộ công an, bộ quốc phòng, bộ tài nguyên và môi trường chính là các dã thú chúa : có quyền lực trong chính sách ln trong quy hoạch, có quyền lợi trong xóa nhà dân đen ln trong xóa sổ dân oan, để được giành phần rồi chia lời.

Lý trí của tự do luôn biết lột trần sự thật.

Tự do giúp tự tin cõng dân chủ

Tự do cõng tự chủ mang sự sáng suốt là nếu muốn thay đổi thế giới, trước hết phải biết thay đổi mình, rời bỏ ích kỷ để tiếp nhận nhân từ, rời bỏ cái tôi tự cung tự cấp để đón nhận cái chung trong chuyện lợi ích chung, biết chia sẻ công bằng để sống chung trong công lý.

Tự do cõng tự chủ đưa sự tỉnh táo phải rời cái tôi của ao nhà, nếu cần rời luôn cái ta của ao làng, để thấy được đại dương, cùng lúc hiểu được các quan hệ giứa các châu lục, để thấu sự vận hành của trái đất, của thế giới. Xa hơn nữa, là sự vận hành của vũ trụ, đó là tự do biết : đẩy cổng để ra đi, rời nhà để đi xa, xa làng để gặp các làng, các quốc gia, các châu lục khác, xa, lạ, để khai thị rồi khai minh cho chính mình bằng cách học tự do của thiên hạ để phát huy tự do cho chính mình.

Tự do cõng tự chủ chứng thực khi nhân loại sáng tạo ra phạm trù tự do là để bó buộc các sinh hoạt chính trị phải được đúng hơn, tức là được đạo đức hóa hơn, để lãnh đạo chính trị phải làm việc trong luân lý của trách nhiệm và bổn phận và sống trong đạo lý đạo đức hay, đẹp, tốt, lành cùng với đồng bào mình. Từ đó quyền lực phải nhận trọng trách là phát huy tự do cho mọi công dân, nếu quyền lực không làm được chuyện này thì nó chỉ là tà quyền.

Tự do cõng tự chủ nhận rõ lịch sử của nhân loại, và sắc nhọn nhất là triết học cho ra đời phạm trù của tự do chính là thông minh của lý trí, tạo nên trí tuệ, thí dụ điển hình là ngay trên cổ sử và cổ triết của Hy Lạp là một xã hội có nô lệ và đã bóc lột nô lệ, nhưng thông minh của lý trí đã biết chế tác ra tư duy tự chủ để làm nên các lý luận về tự do, mà còn sáng tạo ra cả một tư tưởng về dân chủ.

Tự do cõng tự chủ thấy để rõ trong hiện sử trong bây giờ và ở đây trong sinh hoạt chính trị với chuyện lạ là tự do trở nên sắc nhọn ngay trong các thể chế độc tài, ngay trong các chế độ toàn trị, mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm.

Tự do cõng tự chủ hiểu rõ trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức, các truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống, vì nó không bưng bích, không tuyên truyền, không tráo luận, không giả dối. Trên mạng xã hội qua internet, lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, mà nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn nó, cấm đoán nó, truy hảm internet vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đúng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : nó biết đứng về phía nước mắt !

-------------------

liberté05

 Phần 6

Tự do khung tự chủ bằng tất yếu

Tự do khung tự chủ vì tự do vô cùng thận trọng để song hành dài lâu với sự sống, với nhân phẩm, với môi sinh ; chính tự do của lý trí là khung đã thành khuôn cho mọi quyền hạn và giới hạn, để tự chủ được chấp đôi, chấp lứa với tự do, không những vì nhân sinh và còn vì nhân tính nữa, nên ta phải làm rõ các hệ luận sau đây :

Tự do không tất yếu, như giết người không phải là tự do, khi nó hủy tự do được sống của người khác ; nên tự do có khung là công lý, mang nội lực của pháp lý, giúp pháp luật được quyền ngăn chặn các tự do không tất yếu đe dọa sự sống.

Tự do không bó buộc, như dùng bạo quyền để áp dụng bạo lực với đồng loại, bạo hành với đồng bào, để đàn áp cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội, khi họ sử dụng quyền phát biểu, quyền tuyên bố, quyền biểu tình, quyền phản kháng, quyền bất tuân… để chống lại tà quyền đang đe dọa sự sống và đang chà đạp tự do.

Tự do không ràng buộc, như độc đảng dùng độc quyền qua độc trị trong độc tài để đàn áp, để bắt bớ, để bỏ tù, để tuyên án, để tra tấn, để hủy diệt các nhà hoạt động vì dân chủ, vì nhân quyền, để tiêu diệt quyền sử dụng tự do của họ.

Tự do không bắt buộc, như chính quyền đã áp đặt chế độ công an trị trên toàn xã hội dân sự, để mặc công an tra tấn, giết người ngay trong đồn công an. Mà chính lực lượng công an này có kẻ, có nhóm, có đàng, có bầy, có đám, có đảng… đã liên kết với các tầng lớp tội phạm của xã hội đen để đàn áp dân oan, thao túng dân đen, trấn áp dân chúng. Chúng cùng lúc thông đồng với các lực lượng côn đồ, du đảng, cướp bóc để buôn lậu, trực tiếp hay gián tiếp tha hóa, đồi trụy toàn bộ xã hội. Có cả các tướng công an tổ chức đánh bạc lận qua mạng truyền thông, với các ván bạc lên hàng ngàn tỷ, mà bộ phận kỹ thuật đầu não nằm ngay trong bộ công an.

Chính tự do khi muốn bảo vệ tự chủ thì phải đứng lên, để nhìn rõ, để nổi dậy chống các loại tự do bừa bãi đầy độc tố của bọn âm binh ẩn nấp trong quyền lực đang ung thư hóa xã hội, đang đưa vi trùng độc để gây trọng bịnh trong ngay đạo đức của Việt tộc, đang tìm cách xiết cổ các hành vi chân chính, các hành động liêm chính của tự do.

Tự do thuộc tự chủ trong chính lý

Tự do thuộc tự chủ của hệ đạo, nơi mà đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý qua trách nhiệm và bổn phận với đồng loại, với tha nhân ; luôn để cá nhân được quyền chọn lựa. Từ đây, nền luân lýquyền chọn lựa được hội tụ, không hề rời nhau, vì nếu không có quyền chọn lựa thì sẽ không có luân lý.

Tự do thuộc tự chủ của hệ lý, có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận để diễn luận từ gốc tới nhọn, từ nguyên nhân tới hậu quả. Có lý của tự do, thì phải xác nhận luôn cứu cánh của tự do là giải quyết để giải phóng kiếp nạn nhân, phải xác minh luôn phương tiện của tự do qua các công cụ có chính nghĩa vì có nhân đạo. Cách nói "cứu cánh biện minh cho phương tiện" chỉ là cách nói của kẻ nếu không muốn tự sát thì chóng chầy cũng trở thành sát nhân.

Tự do thuộc tự chủ của hệ chí (ý chí, quyết chí) để làm đời sống khá hơn, làm cuộc sống đáng sống hơn, nếu đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lýkhuôn, mà có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận là khung, thì chính ý chí, biến quyết tâm thành quyết chí trong hành động dài lâu và bền vững trong đấu tranh vì tự do.

Tự do thuộc tự chủ luận phải dựa trên luân lý, có hành động cụ thể qua ý chí, đây chính là cơ sở lý luận của triết phân tích (philosophie analytique) khi mà đạo lý được chỉnh lý trong lý trí thì định nghĩa về tự do sẽ làm trí tuệ cho hành động của tự do. Chính phương trình luận-luân lý-ý chígốc, rễ, cội, nguồn cho mọi hành động của tự do, được thể hiện không những trong thực tế còn là lý tưởng của tự do trong đấu tranh.

Tự do đúng lúc, tự chủ kịp thời

Tự do đúng lúc, tự chủ kịp thời biết dựa trên ngẫu nhiên tạo ra đột nhiên có sự hiện diện một ẩn số lạ, một hàm số ngầm, sinh ra một hằng số mới. Chính sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật quá nhanh, quá chớp nhoáng, làm đảo lộn quá trình bình thường và chậm chạm từ nguyên nhân tới hậu quả của mọi thói quen và phản xạ. Để vào hẳn hiện đại hóa, đó là trường hợp của Nam Hàn, đã lấy kinh nghiệm của Nhật Bản, để thành công trong các công nghiệp hiện đại sắc xảo nhất. Một chính quyền sáng suốt có tự do, được quyền ngừng khai thác công nghiệp thép diệt môi trường, mà càng ngày giá lại càng thấp, không chịu đựng được chuyện cạnh tranh quốc tế về chất lượng thép, thì chính quyền này phải biết nhập cuộc vào quy trình mới, cùng lúc bỏ hẳn quá trình đi từng bước (quá) chậm, có ảo tưởng là từng bước vững chắc nhưng thật ra là đã quá lỗi thời. Đây là sai lầm kiểu thui chột của tổng bí thư Lê Duẩn, từ Đại hội 4, năm 1976, mà hệ lụy còn kéo dài tới nay với các lãnh đạo không biết khai thác tích cực ngẫu nhiên, không biết khai sáng đột nhiên để đột phá, để thay đời đổi kiếp số phận dân tộc bằng tri thức của hiện đại hóa mà các lãnh đạo Trung Quốc đã hiểu rất rõ từ Đặng Tiểu Bình tới nay.

Khai thị phương trình đột nhiên để đột phá là sự thông minh của tự do ! Vì tự do như mọi chuyện khác trên đời này, đều là chuyện : mức độtrình độ, mà khi hiểu tự do một cách thấp và cạn thì chỉ có tự do đi làm công, làm lao nô cho láng giềng. Khi hiểu tự do một cách xấu và tục thì chỉ biết tham quyền để tham nhũng, đưa đẩy đất nước xuống vực, xô đẩy dân tộc vào cõi diệt vong. Ngược lại, khi hiểu tự do một cách cao và đẹp là sử dụng văn minh của nhân loại để cũng cố quyền tự do giải phóng số kiếp tồi và dở của mình, thì sẽ chiến thắng trong tự do !

Chuyện thích ứng hóa với các tiến hóa của nhân loại để sở hữu hóa các tiến bộ của khoa học và kỹ thuật -đúng thời, đúng lúc- là một thông minh rất nhạy bén của tự do : tự do học hỏi để có tự do hiểu biết, dùng tự do kiến thức để dựng tự do ý thức, từ đó đi tới tự do đầu tư, tự do sản xuất, tự do thương mại, tự do kinh doanh

Nội công của tự do luôn là giải phóng để đổi đời, luôn là tiến bộ để pháp triển, lấy văn minh để phục vụ nhân văn, lấy nhân trí để phụng sự cho nhân lý !

Tự do xa ân huệ, tự chủ tránh ân xá

Tự do xa ân huệ, tự chủ tránh ân xá, vì tự do tránh nhận sự ban bố bởi một đấng tối thượng, bởi một chính quyền, trong đó cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc chỉ biết chịu đựng để rồi chờ được tha thứ, đó không phải là hành động của tự do !

Khi đấu tranh vì tự do, kẻ yêu tự do không cần được tha thứ hay tha tội, vì kẻ đó có làm tội gì đâu mà tha ! Chính độc tài, bạo quyền, tham nhũng… mới cần được dân chủ, nhân quyền, pháp lý tha thứ. Chuyện ân huệ hay ân xá hoàn toàn xa lạ với ý muốn tự do, với ý định tự trọng, với ý lực tự chủ, với ý chí tư tin, vì thế nên tự do luôn đi trên lưng loại pháp luật đã bị thao túng bởi độc tài ; hơn thế nữa tự do còn đi trên vai của bạo quyền đã dùng tòa án để lao lý hóa tự do một cách bất chính ; thậm chí tự do còn đi trên đầu các bầy lãnh đạo âm binh dùng tuyên truyền để ngu dân hóa để chụp mũ, để vu khống các lý tưởng vì tự do.

Đừng đánh lận con đen bằng ân huệ hay ân xá ! Vì kẻ đấu tranh vì tự do biết cái giá phải trả qua can đảm của dấn thân, chấp nhận cả chuyện thiệt thân, thậm chí còn biết xả thân trước tà quyền buôn thần bán thánh, trước bạo quyền buôn dân bán nước, trước độc quyền sâu dân mọt nước.

Ân huệ hay ân xá ! Khoan hồng giảm tội ! Đây là các loại ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp rất "buồn cười" trước các lý tưởng của tự do, và rất "nực cười" trước các trách nhiệm vì tự do. Không hề có hệ quả hay hệ lụy gì giữa chuyện đấu tranh vì tự do và chuyện tha thứ vì đã phạm lỗi hay phạm tội khi kẻ đấu tranh cho tự do, khi đã sử dụng quyền tự do của chính mình để giải phóng mình ! Các lời lẽ ân huệ hay ân xá, khoan hồng giảm tội... tà ngữ của một pháp luật trá hình, giả mạo để gian trá ngay trong thuật ngữ : ântội, tại sao ? Vì chỉ có chính nghĩa của tự do mới được quyền giảm tội hay tha tội cho bạo quyền !

Tự do xa ân huệ, tự chủ tránh ân xá chỉ vì trong thực tế xã hội chỉ có : du đãng, côn đồ, trộm cướp… và nhất là đám tham quan đã tham nhũng, đã biển thủ của công, đang làm hao mòn sinh lực dân tộc, chúng mới cần xin xỏ được ân huệ hay ân xá, bởi vì tất cả đám người này thuộc diện hình sự. Họ chỉ muốn hưởng lạc tức khắc, và sẵn sàng đe dọa người để lấy tiền của, để được sa đọa trong trụy lạc, thậm chí họ có thể làm chuyện giết người, diệt cuộc sống. Khi bạo quyền bắt bớ, bỏ tù, giam hảm các nhà hoạt động dân chủ, các nhà đấu tranh vì nhân quyền cùng với nhóm người thuộc diện hình sự, thì chính bạo quyền này đang gây ra một tội ác ! Và, tội ác này thì công pháp quốc tế sẽ không bỏ qua, vì quyền đấu tranh cho tự do là một giá trị thiêng liêng, nó thiêng liêng ngang với tất cả các giá trị (tinh thần hoặc tâm linh) được coi là thiêng liêng nhất !

Phản diện của tự do : vô cảm

Tự do sinh tự chủ để giữ nhân bản, chính nhân bản quyết định chất lượng cuộc sống mỗi cá nhân khi nhận sống chung với gia đình, với thân tộc, với tập thể, với cộng đồng, với dân tộc, với đồng loại là sống để xây, để dựng, chớ không phải để phá để hủy. Đây là chuyện hằng ngày của Việt tộc, có kẻ dùng tự do của mình một cách vô tri để vào con đường nghiện ngập, dắt tới trộm cướp, có khi đưa tới chuyện giết người.

Loại tự do vô tri này giết người hai hại người đưa tới vô nhân, nó hoàn toàn ngược lại với tự do có ý thức, lại còn biết dấn thân, chấp nhận hiến thân, nếu cần trong hiểm nghèo phải xả thân, đó là trường hợp của các chủ thể tự do, mà đồng bào ta gọi là các : hiệp sĩ, cứu các nạn nhân ngay trên đường phố trước các tệ nạn xã hội hiện nay bắt kẻ trộm, chặn bọn cướp. Trong khi công an, cảnh sát chỉ biết hối lộ trên đường phố, tham nhũng trong xóm làng, cùng lúc mù quáng làm công cụ cho bạo quyền để đàn áp dân oan, để trấn áp dân đen, để đe dọa dân chúng, mà cả dân tộc đang lãnh chịu đầy dẫy bất công trong xã hội. Nhưng công an, cảnh sát lại vắng bóng ngay trong xã hội để bắt kẻ trộm, chặn bọn cướp, có khi còn thông đồng, ăn chia với bọn xã hội đen để kiếm chác, chia lời trong các hành vi bất chính.

Trong một xã hội đầy bất công, có đầy bạo lực, mà đa số cá nhân đã chọn vô cảm, mà chưa chọn hành động tự do để tự giải cứu mình ra khỏi các tệ nạn, cùng lúc giải phóng mình ra khỏi bạo quyền. Vô cảm tới từ vô tri, trở thành vô trí trong vô minh trước con đường tiến hóa của nhân loạinhân bản, của nhân trinhân đạo, của nhân trínhân phẩm. Chính nó là phản diện của tự do, vì nó cúi đầu để làm ngơ trước thảm họa của đồng loại, vì nó khoan tay để câm nín trước các bất công, vì nó đã quỳ gối trong nghẹn họng trước bạo quyền.

Tự do trong tự chủ vì chánh tuệ

Tự do sinh tự chủ để giữ nhân lý trước sự thật, chính tự do tư duy trong tự chủ để suy nghĩ giúp chúng ta nhận thức được sự suy thoái đạo lý trong phật lý của phật giáo hiện nay trên toàn lãnh thổ Việt nam. Không còn dũng khí đấu tranh vì tự do của phật pháp, mà chỉ xây chùa để buôn thần bán thánh, lại còn cổ súy luôn cho các phong trào mê tín dị đoan để làm tiền, trong phong trào làm chùa để làm giầu.

Từ thượng tọa tới hòa thượng mà không nói nổi được điều cứu nhân độ thế, bằng tâm từ bi, để xóa đi nỗi khổ niềm đau của chúng sinh, mà chúng sinh trước mắt họ là : dân oan, dân đen. Họ sừng sững đó, gào than trong khổ ải khi bị cướp đất, phá nhà, mà các sư "giả vờ" như không thấy, không có. Nhìn mà không thấy, thì làm sao có chính kiến để có chính ngữ, thì làm sao có chánh định để có chánh tuệ, thì làm sao có chính tâm để có chánh niệm.

Chúng ta không đòi hỏi các sư phải "tự thiêu"sự thật, vì chân lý, vì lẽ phải, vì phật pháp như ta đã thấy qua các phong trào phật giáo, từ Thích Quảng Đức tới Nhất Chi Mai. Nhưng chúng ta có tự do để yêu cầu họ phải giữ phật cách để bảo vệ chính nhân cách của chính họ : đừng tìm tiền bất chính để làm giầu qua cửa phật, để truy hoan lén lúc qua dục vọng, từ nghiện ngập rượu bia dẫn tới tham ô trong dục loạn.

Sư hổ mang hay sư công an, sư kinh doanh hay sư thương mại nếu họ muốn có chánh tuệ thì bất cứ lúc nào họ cũng có năng lượng của tự do để liêm chính hóa hành vi tồi tục của họ, nếu họ muốn muốn có chánh kiến thì bất cứ lúc nào cũng có tự do liêm sỉ hóa hành động tư lợi của họ, để tiếp nhận phật cách trong nhân cách làm sư, trong giá trị tinh thần trước giá trị tâm linh chính thống của phật đạo. Nếu mất chánh tuệ họ chỉ là : âm binh ẩn nấp bóng chùa ! Và trong xã hội Việt hiện nay, họ thua xa (vì quá thấp kém) trước cách hành đạo của các phong trào công giáo (thiên chúa giáo), từ cha tới con chiên, dùng tự do để chống lại ô nhiễm môi trường do Formosa và nhiều công nghiệp khác của tàu tặc đang hủy diệt môi sinh của Việt tộc.

Chính phong trào công giáo hiện nay mới đứng về phía phật pháp, mang tuệ giác của phương trình phật tính-phật tâm-phật pháp, để làm vơi đi nỗi khổ niềm đau của các đồng bào sau thảm họa Formosa. Xa hơn nữa phong trào công giáo biết đấu tranh cho nhân quyềndân chủ, chớ không phải phật giáo ! Các lãnh đạo của phật giáo hiện nay đang giả đò làm ngơ trong vô cảm trước địa ngục hiện tiền của dân đen, của dân oan, của Việt tộc.

-------------------

liberté06

Phần 7

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức để gầy dựng tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự do của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống có chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nệ về các lãnh đạo giáo dục bất tài có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : phản biện của ngu dân chính là tự do.

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức luôn được tự do qua của lý tưởng được lý trí quản lý, vì kiến thức khi trở thành ý thức mang giá trị của lý tưởng dùng kiến thức phục vụ nhân sinh, chính giá trị lý tưởng lấy kiến thức phục vụ động loại, thăng hoa nhân loại đang bị thối nát hó đến cùng cực trong một nên giáo dực đã rơi xuống vực sâu của bóng tối tráo, lừa, lận, gian với hệ giả : học giả, thi giả, bằng giả.

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức đưa đạo lý kiến thức tầm sư học đạo tới đạo đức tôn sư trọng đạo mà Việt tộc đã đúc kết thành luân lý bền vững : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cũng đang xa vào bùn lầy. Với bao tệ nạn giáo dục : trò uy hiếp, bạo hành thầy cô, và thầy cô cũng tra tấn học sinh (chửi, dọa, đánh…), bắt uống nước giẻ lau bảng, bắt phạt tiền, còn bắt học thêm để tạo thu nhập riêng cho mình mới có điểm cao trong lớp. Tất cả chỉ vì giáo dục bị lãnh đạo bởi một đảng rất sợ, rất ngại một nền giáo dục với tự do chân chính của nó dựa trên thế kiền ba chân : sự thực của nhân tính, chân lý của nhân phẩm, lẻ phải của nhân đạo mà không ngu dân được qua tuyền truyền sống sượng. Tất cả cái giả tạo sẽ tạo ra một nền cảnh giáo dục quái thai : vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà lỗi lẫn tội tới từ các lãnh đạo giáo dục từ bất tài nên bất tín và sẵn sàng bất chính ngay trong trách nhiệm trao truyền kiến thức từ sứ mạng giáo dục của chính mình.

Tự do giáo dục tự chủ nhận kiến thức chính là tự do được sống và lao động bằng kiến thứctri thức của mình, được làm trí thức qua ý thức của chủ thể có trách nhiệm với giáo dục, có bổn phận với các thế hệ của mai sau, trong nhận thức mỗi cá nhân giáo dục là cá thể có kiến thức chân chính. Đây lại là một cạm bẫy khác trong địa ngục giáo dục không giáo dưỡng nhân tính, cũng chẳng giáo hóa nhân sinh. Tại sao lại có các tiến sĩ tự xưng là chuyên gia trong một chuyên nghành với một chuyên môn qua một chuyên khoa mà không có công trình nghiên cứu, lại còn lẫn tránh các hội thảo, hội luận, hội nghị về chính chuyên đề của mình ; vì bọn quen thói tiền gian bạc lận không bao giờ có chỗ đứng đàng hoàn, tử tế trong giáo dục, trong khoa học. Sự thật là nền giáo dục việt nam hiện nay đã để cho bọn gian lận mua bằng bán cấp lọt vào để làm chuyện mua chức bán quyền qua bằng cấp, có học vị lẫn học hàm mà thật là quái thai là : không có học lực !

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông vừa giữ nhân lý của kẻ đưa tin, vừa giữ nhân cách cho kẻ nhận tin, đây là chính là nghĩa vụ học của nghành báo chí có lương tri làm báo, vì có lương tâm bảo vệ tự do được thông tin đúng sự thật. Và báo chí việt nam hiện nay không có tự do trao truyền sự thật qua truyền thông ! Mà mỗi ngày mỗi ký giả phải nhận lệnh tới từ chủ nhiệm, và chính chủ nhiệm cũng nhận lệnh ngay thượng nguồn qua một "tổng biên tập chung"Ban tuyên giáo với quyền độc đoán : vừa truyền lịnh vừa đe dọa, vừa định hướng vừa kiểm duyệt, vừa thao túng tin tức vừa đổi trắng thay đen ngay trên sự thật của dữ kiện, của chứng từ trong thông tin. Quá trình kiểm định để kiểm duyệt này tác động trực tiếp lên tới nghiệp phận làm báo của các ký giả, phóng sự viên... Vai trò quái thai "tổng biên tập chung" là Ban tuyên giáo của trên dưới một ngàn cơ quan thông tin, báo chí, truyền hình... được bảo kê bởi Đảng cộng sản Việt Nam, dùng độc đảng để độc quyền thao túng truyền thông, sẵn sàng đóng vai trò cường quyền trong truyền thông và bạo quyền trong tin tức. Nó dùng bắt bớ, bỏ tù, khảo tra, lao lý hóa với tất cả đối tượng tự do chỉ muốn thông tin vì sự thật, trong một xã hội việt nam hiện nay mà từ kẻ viết báo tới kẻ đọc báo hoàn toàn không có tự do.

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông chống lại không những hành vi kiểm duyệt của bạo quyền, bằng lòng quả cảm của mình chống lại hành vi tự kiểm duyệt do nổi lo sợ bị trừng phạt bởi tà quyền. Chống đối để bảo vệ sự thật, đề kháng để bảo trì chân lý, đấu tranh để bảo quản lẻ phải, chính là nghĩa vụ học của tự do, tự do thông tin trong tự do truyền thông không sợ kiểm duyệt, kiểm tra, trong cái trò "kiểm thảo" của cường quyền không dám trực diện để áp dụng đạo lý truyền thông là 3Đ : đối thoại cho sự thật, đối lý vì chân lý, đối luận vì lẽ phải. Tự do đòi hỏi minh bạch trong đối thoại về dữ kiện, minh chứng trong điều tra, minh luận trong chứng từ.

Tự do dâng tự chủ trong truyền thông chống lại quy trình truyền lệnh-tuân lệnh-hành lệnh của bồi bút, của văn nô, vì chúng vừa cười nhộn vừa cúi đầu để nhận bổng lộc ; vừa vui vẻ vừa khoan tay tuân thủ bạo quyền để nhai nuốt đặc lợi ; vừa làm ngơ vừa quỳ gối để sấp mặt thâu tóm tư lợi. Từ vong thân tới vong nghiệp, tự tha hóa qua gian lận tin tức, vì có kẻ còn dùng nghề làm báo của mình để đâm thuê chém mướn qua bôi nhọ, chụp mũ, vu khống những ai lương thiện khi chúng nhận được nhiều tiền của các kẻ bất lương. Tự do làm tay sai vì tự lợi, đi ngược lại lương tâm nhà báo ; đây là loại phản phúc chống lại tự do truyền thông vì nhân phẩm, vì bọn này đã đánh mất đi một tự do cao quý nhất trong các tự do là : tự do trao tin vì sự thật, truyền tin vì chân lý và đưa tin vì lẽ phải !

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức, trong đó nhân lý phát huy kiến thức, trong đó nhân tri biết dựa vào nhân trí để có sung lực bảo vệ tính tự chủ của cá nhân, của cộng đồng, của tập thể, của dân tộc… Tất cả quá trình này đều được nhận diện trong các phong trào đấu tranh của dân oan tới các phong trào đòi hỏi dân chủ và nhân quyền trước bạo quyền độc đảng.

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức khi lý trí hiểu tình thương, hiểu từ nguồn gốc của tình thương đồng loại tới hiệu quả cùng hậu quả trong tình thương này, chính là năng lượng của lý và thức trước các điều kiện của nhân sinh (có khổ đau và có hạnh phúc), từ đó hiểu nội chất của hai thái cực này trong nhân thế để tạo hạnh phúc và xa rời khổ đau. Ta thấy rất rõ quá trình này trong các phong trào thiện nguyện cho tới các phong trào bảo vệ các nạn nhân của trộm cướp trên đường phố do các hiệp sĩ thật sự liêm chính, những phong trào tự phát từ lương tri của các chủ thể tự do trước sự bất tín và bất tài của chính quyền độc đảng.

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức đưa lý trí lên hàng đầu, hạng ưu tiên để chọn lựa, để quyết định, để hành động, tự do này chống vô cảm để dẵm lên sự hèn nhát, vì trước hết nó chống vô nhân để đạp lên sự thối nát, không chấp nhận một lực lượng công an, cảnh sát, lên hàng triệu người, mà xã hội đen giữa ngày thao túng dân lành, mà chính chính quyền qua hệ thống công an lại thông đồng, giao kết, và giựt dây xã hội đen để khủng bố dân oan, dân đen, dân lành

Tự do đặt tự chủ vào giữa lý và thức để cụ thể bảo vệ cá nhân, gia đình, dân tộc, nhân loại qua công bằng, công lý, công pháp, chính đây sự thông minh qua lý và trí để thăng hoa các phong trào xã hội đi tìm và sẵn sàng đấu tranh vì tự do. Các phong trào dân oan ngày càng được dân tộc hóa và cả nước đều biết, chia sẻ, đồng cảm, song song với đấu tranh vì dân chủ của nhiều phong trào vì nhân quyền ngày càng được thế giới hóa được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế, ngay cả Liên Hợp Quốc, các châu lục đã có tự do. Điều phải nhận định về chính trị học và xã hội học là hành động tự do đấu tranh vì nhân quyền không bao giờ bị cỏi rẻ, xem thường, bỏ rơi, bỏ quên mà nó luôn được tôn vinh, và nó ngày càng được tôn vinh hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong cũng để chống diệt chũng, trước họa xâm (xâm lấn, xâm lăng, xâm lược) mà trong bối cảnh lịch sử lâu đời của Việt tộc và đang tiếp tục diễn ra trong hoàn cảnh hiện nay của Việt tộc thì đó là tầu họa, với ý đồ của tầu tặc, bằng thâm ý của tầu man. Mà man tính trong man rợ có từ tính toán tới hành động, cướp trắng trợn đảo biển việt cùng lúc gây ô nhiễm qua công nghiệp đầy độc chất của chúng đang đầu tư và khai thác ồ ạt ngay trên lãnh thổ việt, với sự thông đồng của các lãnh đạo đã bán nước để trục lợi.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong trước mắt là chống lại chuyện man tính trong man hoạt của tầu tặc có ngay trong mọi sinh hoạt đang gây ung thư hóa xã hội việt : đầu độc dân ta qua thực phẩm, thao túng hàng ngày từ sản xuất tới tiêu thụ, từ kinh tế tới thương mại, tiêu diệt nông phẩm việt để diệt nông dân việt đang có trách nhiệm nuôi cả dân tộc.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong cụ thể là chống lại chuyện tiêu hủy công nhân việt bằng bóc lột trực tiếp từ đồng lương tới điều kiện lao động nghiệt ngã ngay trong các xí nghiệp mà người tầu được đóng vai chủ để bòn rút tài nguyên việt qua sức lao động việt. Tự do qua tự chủ chống diệt vong, với các bước đầu tiên là chống kiếp nô lệ qua hệ thống biến con người Việt thành lao nô, nô tỳ trong quá trình ô nhục của chính sách xuất khẩu lao động.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong là sáng suốt bảo vệ toàn vẹn thân thể của đồng bào ta, trong đó ta ngăn chặn ngay các tổ chức tầu hoạn mang tất cả hệ quả của tầu tặc, tầu man để gây ra tầu họa, tầu nạn. Đó là chuyện tổ chức bắt các trẻ em việt để cướp nội tạng, buôn bán phụ nữ việt qua con đường mãi dâm ngay trên lãnh thổ tàu để thỏa mãn man tín của một xã hội tật nguyền ngay trong tư duy bất công trọng nam khinh nữ.

Tự do cùng tự chủ chống diệt vong tới từ tầu nạn tức là càng sớm càng hay vạch mặt chỉ tên để lột mặt nạ các kẻ lãnh đạo đang buôn dân bán nước cho tầu tặc : chúng ta có tự do được biết mặt mũi của chúng, chúng ta có tự chủ để dùng đạo đức tổ tiên, đạo lý dân tộc, kể cả công lý của toàn dân để loại chúng, khử chúng đang ung thư hóa tâm lực, trí lực, thể lực của Việt tộc.

Tự do gốc tự chủ tìm minh

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được tri thức luận nhận diện trong các quá trình sau đây :

- Ý thức đi tìm lý trí khi đã từng là nạn nhân của vô minh.

- Tâm thức đi tìm nhân tri khi đã từng gánh chịu vô tri.

- Nhận thức đi tìm công bằng khi đã từng cam chịu bất công.

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được triết học chính trị nhận diện trong các quá trình sau đây :

- Vượt thoát hệ bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành).

- Vượt khỏi hệ độc (độc tài, độc quyền, độc đảng).

- Vượt thắng hệ tham (tham quyền, tham nhũng, tham ô).

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được xã hội học đàm phán nhận diện trong các quá trình sau đây :

- Khả năng thay đổi trực quan khi chuyển hóa trực giác trước bạo quyền.

- Tiềm năng thay đổi hiện tại khi chuyển hóa tương lai.

- Kỷ năng biết thắng cả 3 hệ bạo, độc, thamnhân phẩm.

Tự do gốc tự chủ tìm minh, được nhân học nhận thức nhận xét rất sâu sắc trong các quá trình sau đây :

- Thông minh nắm bắt được cái duyên của các chuyện hay, đẹp, tốt, lành, biến sơ ngộ thành hạnh ngộ, để tao ngộ với năng lực tái tạo lại điều kiện thuận lợi cho việc tái ngộ, bằng tiềm năng của hệ thức (kiến thức, trí thức, ý thức, nhận thức) đưa nhân tính về hướng nhân trí của hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo)

- Thông minh để minh chứng được là hành động tự do tạo được khoái cảm trong hạnh phúc, khoái lạc vì có công bằng, và nếu xóa đi các khoái cảm, các khoái lạc này tức là đang xóa đi một phần lớn các động lực tự do làm cho động cơ tự chủ thành hành động cụ thể.

- Thông minh vì ý nguyện bên trong của nhân tính luôn mong muốn thay đổi kiếp người xấu của chính mình bằng ý muốn bên ngoài ngay trong quan hệ xã hội để có một xã hội đúng hơn, một cộng đồng tốt hơn, một tập thể hay hơn, một dân tộc giỏi hơn.

Tựu chung là tri thức luận, triết học chính trị, xã hội học đàm phán, nhân học nhân thức, cùng nhau phân tích để làm rõ một mện đề : ý thức ham muốn được hưởng những chuyện đáng hưởng để có được một cuộc sống đáng sống vì được hưởng.

Tự do nuôi tự chủ bằng lực

Tự do nuôi tự chủ bằng lực trong quá trình khai thác hệ tưởng để minh bạch hóa :

- Ý tưởng biến tự do bên trong thành hành động bên ngoài.

- Ý thức đi tìm hạnh phúc khi đã từng chịu đựng khổ đau.

- Ý muốn sống trong công bằng vì đã là nận nhân của bất công.

- Ý định biến hiện tại xấu thành tương lai tốt.

- Ý lực đưa hành động tự do của mình vào ngay đời sống xã hội.

Tự do nuôi tự chủ bằng lực trong quá trình tự sáng tạo để tự hành động :

- Chống lại bạo quyền đang đe dọa, khống chế, đàn áp tự do qua bạo lực có mặt trong cuộc sống, bằng chính tri thức của tự do không nhất thiết phải dùng bạo động để giành tự do, mà có thể xua đuổi, xóa bỏ các bạo lực chống lại tự do qua phương trình thông minh của đối thoại-đối chất-đối luận.

- Chống lại bạo quyền phi nhân tính vừa tha hóa, vừa đồi trụy, lại vừa vô luân, vô nhân bằng bằng hành động tự do qua hành tác tự chủ bằng tiếng nói, bằng trần tình, bằng biểu tình, bằng đề đạt, bằng đàm phán… để xác nhận nhân quyền, quyền làm người với nhân tính, với nhân đạo.

- Chống lại bạo quyền bằng lý thuần chất của nhân phẩm vừa dựa trên nhân lý, vừa dựa trên nhân trí, làm nên phương trình hợp lý-chỉnh lý-thuần lý để tự do sánh đôi với công bằng, như tự do song hành đạo đức bảo đảm nhân tính.Một nhân tính không chấp nhận tà quyền, độc quyền, tham quyền

- Chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý chí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, từ đó đấu tranh để xã hội công nhận đạo lý tự do-công bằng-bác ái vừa như nguyên tắc, vừa như khuôn mẫu cho mọi hành động xã hội, từ chính quyền tới cá nhân, từ tập thể tới cộng đồng… luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tôc..

- Chống lại bạo quyền bằng tự do đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả của hoàn cảnh, vì tự do đến từ tư duy của con người dựa trên nhân luận được hổ trợ bởi đạo lý, đạo đức, của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.

Chính tự do nuôi tự chủ bằng lực của nhân nghĩa, biết rời bản năng ăn tươi nuốt sống tức là giết để ăn, để nuôi thân, để được tới bản thể ăn ở có hậu, có ngày mai được chung sống qua công bằng với đồng loại, như cá thể có thông minh tôn trọng nhân loại, trong hùng lực của chủ thể có trách nhiệm với cộng đồng, có bổn phận với đồng bào, đồng loại.

-------------------

liberté07

Phần 8

Tự do cùng tự chủ nuôi đức

Tự do cùng tự chủ nuôi đức trong một không gian đức của chung sống trong công bằngbác ái trong đó tự do biết :

- Nội lực của luân lý : ý thức về trách nhiệm và bổn phận.

- Sung lực của đạo lý : ý thức về chuyện hay, đep, tốt, lành.

- Hùng lực của đạo đức : ý thức về nhân phẩm đê giữ nhân tính.

Tự do cùng tự chủ nuôi đức trong một không gian đức của phương trình thấy-hiểu-thấu-nhận :

- Tự do cùng tự chủ của phải hiểu cái tốt để phải làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, động loại.

- Tự do cùng tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận cái luận (lý luận, lập luận, diển luận, giải luận).

- Tự do cùng tự chủ phải tiếp thâu cái để đón tiếp cái thức (kiến thức, tri thức, ý thức).

Tự do cùng tự chủ nuôi đức trong một không gian đức của chủ quyết (từ quyết tâm qua quyết đoán) vì công lý của công bằng :

- Tự do cùng tự chủ đề nghị cái lý phải đúng, đúng tự định nghĩa tới diển đạt, cái đức phải tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, cái luật phải minh, trong nghĩa công minh cho toàn xã hội.

- Tự do cùng tự chủ có thể được cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được lâu dài bằng công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhân từ do để xóa bất công, để trừ bạo động, để loại độc tài.

- Tự do cùng tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những công lý mới đúng hơn, trúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm, trong đó trách nhiệm lãnh đạo phải liêm chính vì nó rộng hơn, nặng hơn trách nhiệm của công dân.

Tự do không tự có để tự tồn, tự do có được trong tính tất yếu phải có câu trả lời, qua hành động thích hợp với luân lý của công bằng, với đạo lý của sự tôn trọng lẫn nhau.

Tự do biết tự trình vì phẩm

Tự do biết tự trình vì phẩm, để tôn vinh ý thức về phẩm chất con người : nhân phẩm, nên tự do chính là tự do đấu tranh vì phẩm chất đó.

Tự do biết tự trình vì phẩm, dựa vào giáo dục vừa để giáo dưỡng cá nhân, vừa để trao tuyền các nhân thứcnhân tri qua các thế hệ.

Tự do biết tự trình vì phẩm để tự do thể hiện nguyện vọng sống trong hạnh phúc, với ý nguyền được sống chung với đồng bào, đồng loại trong liêm sỉ.

Tự do biết tự trình vì phẩm để chuyển hóa hoài bão tới phương án cụ thể để hoàn hảo hóa nhân lý cho thật chỉnh lý, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hành động vì tự do.

Tự do biết tự trình vì phẩm vì tự do tôn trọng tự chọn, vì định nghĩa của tự do trước hết là tự do chọn lựa, tự do từ chối áp đặt, tự do phản đối áp chế, vì đó là bản chất của bạo quyền.

Tự do biết tự trình vì phẩm chính vì tự do tôn trọng độc lập suy nghĩ, chống lại bạo quyền đã tướt quyền tự do nhân luận, để độc quyền tư duy trong độc đoán của độc đảng.

Tự do biết tự trình vì phẩm để thấu hiểu sự vận hành của nhân trí, trong đó hậu quả (hay hiệu quả) của sự cố (hay biến cố) tạo ra tư duy của nhân lý dùng tự do để vượt thoát thử thách, vượt thắng thăng trầm qua đấu tranh vì tự do ; có ý thức về tính khả thi, đi từ năng lượng của cá nhân tới năng lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc khi quyết đoán để quyết định thực tế hóa quyền tự do.

Tự do biết tự trình vì phẩm thấu hiểu hệ dự (dự tính, dự báo, dự đoán), để lý trí phan tích được tinh hình cụ thể, để trí tuệ lập ra các cứu cánh mới và đúng, cùng lúc triển khai các phương tiện hợp nhân lý để giành tự do công khai đấu tranh vì hệ công (công bằng, công lý, công pháp) cho một công quyền có bản lĩnh nhân lý, có tầm vóc nhân tri, có nội công nhân trí, để cuộc sống được tốt hơn, lành hơn, đẹp hơn, cao hơn.

Tự do biết tự trình vì phẩm trong hệ công (công bằng, công lý, công pháp) vì tự do biết và có :

- công bố một cách minh bạch nhất, vì thế nên tự do luôn ngược chiều với tà quyền ;

- công phu kỷ lưởng trong chuẩn bị, kỷ càng trong thực hiện, không ăn sổi ở thìăn ở có hậu, vì thế nên tự do luôn là phản biện của bạo quyền ;

- công trình trong phát triển bền vững vì nhân phẩm dựa trên nhân nghĩa, xây dựng một tự do dầy nhân thức.

Phương trình công bố-công phu-công trình làm nên sự nghiệp của thông minh vì tự do.

Tự do trong tự chủ của trí

Aristote không lầm khi phân tích là tự do luôn là quá trình từ lý luận của tư duy tới lập luận cho hành động vì công lý :

- Tự do trong tự chủ của trí, dùng lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý.

- Tự do trong tự chủ của trí có trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm.

- Tự do trong tự chủ của trí của tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được hổ trở bởi công tâm.

- Tự do trong tự chủ của trí của tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác.

- Tự do trong tự chủ của trí của quyền tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, làm nguồn gốc của khổ đau, là nguyên nhân của nghào đói.

- Tự do trong tự chủ của trí với quyền bảo vệ đồng bàođồng loại trước độc tài, độc quyền, độc đảng, là gốc, rể, cội nguồn của bất tín, bất tài, bất lương.

- Tự do trong tự chủ của trí với quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa năng của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng của nhân quyền và dân chủ.

- Tự do trong tự chủ của trí biết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như chính bảo quản để cuộc sống, chống ô nhiểm môi trường và chống ngay trên thượng nguồn các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ, với hậu quả khủng khiếp của tập đoàn âm binh Formosa, với sự cấu kết với bọn lãnh đạo âm tướng từ trung ương đến địa phương của Đảng cộng sản Việt Nam.

Tự do vốn của tự chủ

Tự do vốn tự chủ chọn cả quyết để vượt thử thách.

Tự do vốn tự chủ chọn can đảm để thoát ao tù.

Tự do vốn tự chủ chọn trách nhiệm thắng tha hóa.

Tự do vốn tự chủ chọn ý thức thắng để độc tài.

Tự do vốn tự chủ chọn tâm thức thắng bạo quyền.

Tự do vốn tự chủ chọn lý trí thắng tham nhũng.

Tự do vốn tự chủ chọn công bằng vượt bất công,

Tự do vốn tự chủ chọn lý tưởng vượt vô nhân,

Tự do vốn tự chủ chọn lý luận vượt cuồng tín.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận

Văn sĩ Mai Thảo, trong truyện ngắn đầu tay Đêm giã từ Hà Nội đã bắt đầu : "Hàng phượng đỏ ở trên, Hà Nội ở dưới..." đánh dấu phong trào di cư vào Nam năm 1954, đây cũng chính là mật ngữ của tín hiệu phải lấy tri thức để bảo vệ tự do, trong đó "phượng vĩ đỏ" chính là bạo quyền nấp dưới chiêu bài giải phóng đất nước, nhưng nội chất của nó là độc tài vì bản chất của nó là chuyên chính, ẩn nấp trong thâm chất của nó là độc quyền cai trị mọi số phận của đồng bào. Và, "Hà Nội ở dưới" là thủ đô chính trị mà cũng là nơi cai quản hành chính mọi số kiếp do bạo quyền, độc tài, chuyên chính chỉ đạo để cai trị. Đây là thượng nguồn của mọi tư duy vì tự do : tự do bắt đầu bằng sự cẩn trọng trước bạo quyền dùng bạo lực cướp tự do, cho nên tự tin cũng phải cẩn thận trước mọi mưu đồ của chuyên chính, tự cho mình có độc quyền sinh sát.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận, yêu cầu mọi kẻ đấu tranh vì tự do phải rõ ràng :

- Tự do bắt đầu bằng sự cẩn trọng dựa trên phương tiện tốt và tránh được các hậu quả xấu, cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân tính.

- Tự do được chọn lựa cứu cánh tốt với phương tiện tốt cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân phẩm.

- Tự do cẩn trọng với các giá trị tới đạo đức, tránh giết chóc, thảm sát, chiến tranh cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân đạo.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận, yêu cầu mọi kẻ đấu tranh vì tự do phải minh bạch :

- Tự do cẩn trọng vì tha nhân, vì cộng đồng, vì xã hội, vì đồng bào, vì đồng loại, chớ không phải cẩn trọng chỉ vì cá nhân mình.

- Tự do chống vô cảm, nếu vô cảm là thờ ơ, lãnh đạm, tức là câm, mù, điếc trước các khổ đau, đánh mất đi mọi cảm xúc, thì chính vô cảm đã phản lại các giá trị đạo đức và phản lại cả sự thông minh của ý thức là nơi tiếp nhận kiến thức.

- Tự do trong cẩn trọng để tự tin chính là tự do trước khi chọn lựa, phải biết phân sử trước khi hành động, phải biết đánh giá các phuong tiện và các hậu quả của nó.

Tự do cẩn trọng, tự tin cẩn thận là phải lường trước được các hậu quả, vì :

- Tự do là đặt chủ thể trước tính khả thi, để cân, đo, đong, đếm các hậu quả.

- Tự do là đặt chủ thể trước trách nhiệm với tha nhân, trước khi hành động.

- Tự do đặt chủ thể trước đạo lý để luôn luôn phải bảo vệ lẽ phải.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán

Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ thuở nào đã thấy từng ngày chiến tranh đang tàn phá quê hương, với bạo quyền chuyên chính đang ẩn nấp trong chiêu bài giành độc lập dân tộc, nhưng thực chất là dùng độc đảng để tiêu diệt tự do. Thi sĩ căm giận khi mất tự do "lửa đỏ con ngươi", nhưng không bao giờ rời ý thức bảo vệ tự do : "Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão". Hãy tìm lại lịch sử cận đại và hiện đại của Việt tộc :

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, để thấy các trí thức theo Việt Minh, 1945-1954 trong kháng chiến, và chính các trí thức này sau lại quyết định "về thành" khi thấy độc tài trong lãnh đạo đã thành bạo quyền ngay trong kháng chiến.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, trong đợt di cư năm 1954 của hàng triệu đồng bào bỏ miền Bắc vào Nam, sau khi các đồng bào này thấy bản chất thật của bạo quyền sẽ độc quyền trong lãnh đạo, độc đoán trong chính trị, sẽ thủ tiêu tự do.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, trong những năm dài sau ngày thống nhất, đất nước được đặt tên là "giải phóng" mà ta chứng kiến ngay sau đó là sự ra đi của hàng triệu người, bất chấp mọi hiểm nguy để vượt biển, mà thế giới đặt tên là "thuyền nhân" sau 1975, đi tìm tự do, với bất cứ giá nào, khi họ biết mọi bạo quyền đều là tà quyền.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, trong cao trào "chảy máu chất xám" ngay cuối thế kỷ qua cho tới thế kỷ mới này, tiếp tục diẽn ra hằng ngày với bao trí thức phải rời đất nước để có tự do nghề nghiệp, vị họ hiểu một chế độ độc đảng bảo kê cho tham nhũng, chỉ biết quy luật tiền tệ và hậu duệ, thì mọi chân tài sẽ bị bóp chết.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, ngay trong chọn lựa nhiều tủi nhục hơn vinh quang qua các chiêu bài "xuất khẩu lao động", với đồng lương tồi, với điều kiện lao động xấu, nhưng ở nước ngoài, nhưng các công nhân việt dù là nạn nhân của một chính sách xuất khẩu vô tri, nhưng họ vẫn bảo vệ được tự do cá nhân của riêng họ ở nước ngoài.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, ngay trong tủi hờn của các phụ nữ Việt phải lập gia đinh với các đàn ông ngoại quốc, dù biết là sẽ chịu chịu cảnh "làm ma quê chồng", nhưng họ vẫn đi tìm tự do bằng cách mạo hiểm nhất, vì họ chắc bẩm là ở lại với một chế độ bạo quyền vì tham quyền thì chính họ sẽ không có tương lai.

Tự do quyết định, tự tin quyết đoán, khẳng định có tự do dự đoán, chính thi sĩ Thanh Tâm Tuyền là người Việt Nam sau cùng vào những ngày cuối của phong trào di cư 1954, đã trở lại Hà Nội để khuyên những bạn bè, thân quyến còn ở lại miền Bắc phải ra đi, phải tự cứu mình trước bạo quyền. Thượng nguồn của tự do là khả năng tỉnh táo trong sáng suốt để tiên đoán, ông thường đọc cho bạn bè nghe một bài thơ của một thi sĩ theo kháng chiến, đã thấy ngay trong kháng chiến với Việt Minh một màu đen của vô tri trùm phủ lên nhân tri, vì nó đang trùm phủ lên tự do của Việt tộc : "đã thấy bên sông màu thuyền thợ…".

Tự do đúng, tự tin trúng

Thích Nhất Hạnh, thiền sư với tầm vóc toàn cầu hóa, trong những năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, 1954-1975, dưới gọng kềm của các cường quốc thí nghiệm thú tính của chúng ngay trên số phận của Việt tộc, đã tự chất vấn về tự do của chính mình : "Tôi vn sống, tôi vn thở, nhưng biết bao giờ tôi mới nói được những điều tôi ước mơ ?… ". Đây là câu hỏi mà cũng là bước đi đầu tiên gởi hoài bảo vào con đường đi tìm tự do cho mình và cho dân tộc, không bó tay than thân trách phận, mà phải đi tìm tự do nếu tự do đó đúng, phải tự tin nếu tự tin đó trúng, cả không gian lẫn thời gian :

Tự do đúng, tự tin trúng, được tức khắc thực hiện với các phong trào thiện nguyện đưa đạo vào đời của thiền sư, và vào đời để xóa đi các nỗi khổ niềm đau của chúng sinh, một phong trào dấn thân vì đời. Một phong trào cao thượng, khác hẳn với phong trào mượn cửa phật, làm chùa để làm tiền hiện nay của các sư giả-chùa giả-đạo giả, cứ ngồi ở chùa mà vơ vét tiền cúng đường, mội kiểu ngồi mát ăn bát vàng, thật thô bỉ.

Tự do đúng, tự tin trúng, bắt đầu cuộc hành trình đi vận động hòa bình cho đất nước qua nhiều quốc gia, qua nhiều châu lục, giúp thế giới biết và hiểu chiến tranh đang thiêu hủy dân tộc Việt, thủ phạm là bạo quyền gây nên bạo lực, chính nó là nội chất của vô minh.

Tự do đúng, tự tin trúng, tiếp theo là đồng hành cùng mục sư King, chống lại chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, làm rõ thông điệp ngắn gọn của nhạc sĩ Phạm Duy : "tôi tự chối giết người, nếu giết hết người rồi tôi sống với ai ?", để mang tuệ giác bất bạo động chống lại cái vô minh của bạo động.

Tự do đúng, tự tin trúng, kế đó là ra biển khơi cứu các thuyền nhân, vượt biển trong xả thân để tìm tự do ; đạo phật là đây : cứu ngay chúng sinh trong địa ngục trần thế, trong thập tử nhất sinh trên đường đi tìm tự do, như đi tìm chánh kiến của tự do.

Tự do đúng, tự tin trúng, của đồng bào mà không quên đồng loại, thiền sư đã gầy dựng một phong trào thiền có tầm vóc thế giới hóa, đưa chánh niệm vào thiền học, dùng thiền học làm sáng chánh tuệ trong thế giới hiện nay biết hưởng thụ nhưng chưa chắc là biết sống, tức là biết sống trọn vẹn ngay trong bây giờở đây, theo phật lý "hiện pháp lạc trú".

Con đường đi tìm tự do càng xa, càng rộng, càng sâu, càng cao thì bản lỉnh của tự do càng lớn, tầm vóc của tự do càng đẹp, nội công của tự do càng bền.

-------------------

liberté08

Phần 9

Tự do tức khắc, tự tin tức thời

Tô Thùy Yên, thi sĩ của bao nguồn nước ngầm nghẹn ngào của Việt tộc, đã kể rất rõ những chặn đường đi tìm tự do với tất cả nhân phẩm bị thử thách qua nhân tình đang trầm luân trong nhân thế, thi ca cua rông mang nhân tri trước các thăng trầm của lịch sữ mà Việt tộc cứ phải gánh chịu. Thể loại thi ca này không phải là một anh hùng ca, mà cũng chẳng phải là bi oán khúc, nó chỉ soi sáng con đường đi tìm nhân lý luôn bị lừa đảo bởi bạo lý của kẻ mạnh, bởi tà ý của kẻ gian, nó bắt mọi người Việt phải xác nhận :

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Cuộc sống báo động từng giờ" vì chiến tranh thửa nọ đang giết đồng bào hằng giờ, vì tha hóa xã hội hiện nay đang thú tính hóa nhân cách việt tộc cũng hằng giờ.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Trên dốc thời gian hòn đá tuột, lăn dài kinh động cả hư vô", hư vô sẽ xuất hiện để xóa đi nhân tính, để vùi sâu nhân nghĩa, hư vô chính là sự thất bại của nhân đạo, cũng là thảm bại của tự do bảo vệ nhân tính đó.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Con chim bói cá trong tàn tối, soi vỉnh hằng xanh rợ mặt hồ", cái tàn tối chính là cái bóng tối áp đặt bởi bạo quyền, hoàng hôn của nhân lý trong tà dương của nhân cách, không đủ sáng để soi nhân phẩm, chuyện vỉnh hằng thật đáng lo và đáng sợ trong một vũ trụ vô nhân.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Con đường duổi sáng như dao bén, chém đứt hồn đêm chẳng kịp la", con đường chính là lộ trình đi tìm tự do, phải mài con đường như mài dao : thật bén ! thật sắc, để chém đứt hồn đêm tựơng trưng cho bóng đêm của tà quyền, bóng đen của bạo quyền, bóng tối của chuyên quyền.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Ta về khai phá bùa thiêng yểm, thức dậy đi nào gỗ đá ơi !", chính sức mạnh của tự do sẽ xóa tan các tà lực đang trù yếm nhân quyền, xua đuổi đi các bạo lực đang vùi dập nhân lý, xé toan các ma quyền đang xiết cổ nhân sinh.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Ta uống giếng thiêng ăn trái lạ, lòng ta rồi sẽ mới tinh khôi", chính tự do lấy quyền sống và quyền làm người để được ăn trái ngon vật lạ, kể cả chuyện hằng ngày được uống, được hưởng các giá trị tâm linh, rất linh thiêng do đạo đức tổ tiên để lại, để tiếp tục đi trên con đường tinh khôi của tự do, nó làm nhân tri khôn ra, nhân trí thông minh hơn.

Tự do tức khắc, tự tin tức thời. Vì sao ? Vì "Trở trời ngồi lại cời than. Nhen bùng ngọn lửa chưa tàn ba sinh", để khi tổng kết kiếp nhân sinh, ta không hổ thẹn vì nhân cách của chúng ta qua ba sinh (quá khứ-hiện tại-tương lai) ; vì nhân phẩm của ta không bị tan biến mất, chỉ vì ta biết đấu tranh vì tự do cho nhân thế.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh

Tự do kết hợp tất cả nội lực của nhân phẩm để chế tác ra tự tin kết tinh vì mọi tiềm lực của nhân lý. Tự do kết hợp tất cả sung lực của nhân tri để chế tác ra tự tin kết tinh mọi hùng lực lực của nhân trí, đó là chặn đường tiến hóa của nhân tính :

Hoche phân tích nếu ta muốn dùng tự do để ngăn chặn bạo quyền, tà quyền, cướp tự do của chúng ta, thì chúng ta phải bắt đầu bằng cách giới hạn cách sống, cách nói, cách làm của bạo quyền, tà quyền. Nếu không thì chính bạo quyền, tà quyền sẽ giới hạn tự do của chính chúng ta bằng cách : gây sợ hải qua khủng bố, gây lo âu áp chế, gây tự kiểm duyệt, tự kiểm tra qua ý thức hệ của bạo quyền, tà quyền.

Spinoza đi sâu thêm khi tìm nội chất của hành động tự do qua sự hợp tác vừa công bằng, vừa liêm chính qua tất cả thỏa thuận trong xã hội, trong đó khi quyền lợi được tôn trọng ngay trong hợp tác giữa các bên : cá nhân, chính quyền, pháp luật, xã hội, và mọi công dân đều biết tuân thủ sự hợp tác này, thì đây chính là căn bản của tự do.

Rousseau làm rõ hơn bằng định nghĩa tự do qua hợp đồng xã hội để bảo vệ dân chủ trực tiếp, trong đó mọi người được tự chọn, để tự quyết định cho chính mình, nơi mà bạo quyền, tà quyền không có mặt vì không có chổ đứng, lẫn chỗ để ngồi.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh qua hợp tác và hợp đồng dụa trên công lý của công bằng chính là tự do trong tự tin để tự chọn trong đa phương, đa hướng trong đa nguyên dựa trên dân chủ, nó ngược lại độc tài, bạo quyền chỉ biết đi một chiều.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh là có cách nhìn, cách thấy, cách hiểu, cách nhận, cách xử lý tới từ tự tin dựa lên lòng tin về khả năng của tự do biết chống lại sự ngăn cấm, đàn áp, khống chế, khủng bố của bạo quyền, tà quyền.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh luôn đi xa hơn tư lợi, đi ngoài tư lợi, được thử thách trong đấu tranh vì tha nhân, vì đồng bào, đồng loại đang đau khổ trong bất công và bạo lực.

Tự do kết hợp, tự tin kết tinh trong quyết đoán là tự do đại diện cho đấu tranh vì công bằng nên nó tốt, nó lành và chính tự tin trong tự do xác chứng rằng công bằng là chuyện vừa đẹp, vừa hay.

Tự do của hoài bảo, tự tin của trách nhiệm

Weber phân tích tự do :

- đi t ý muốn vì tự do để tới tự do thực hiện hoài bảo,

- đi từ đạo lý vì hoài bảo tới đạo lý vì trách nhiệm.

Chính tự do với nhận thức đôi (hoài bảo-trách nhiệm) này là quá trình hoàn thiện hóa xã hội, đạo đức hóa cộng đồng, luân lý hóa cá nhân, vì tự do có quyền hành động để hoàn thiện hóa thế giới, để chỉnh chu hóa thế gian.

Ông đề nghị trong đồ hình nghiên cứu về cứu cánh của nhân sinh phải thấy bốn loại cứu cánh :

- cứu cánh vì quyền lợi, trong đó có tư lợi và có công lợi,

- cứu cánh vì giá trị, trong đó giá trị tâm linh mang nội chất thiêng liêng,

- cứu cánh vì truyền thống của tổ tiên, vừa là trí tuệ, vừa là lý trí,

- cứu cánh vì tình cảm, trong đó cảm xúc có cái lý của tâm giao, đắc khí.

Tự do chính là tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bảo đẹp, mang trách nhiệm cao.

Trong ý chí được được biến thành tự hành động, thì sự thông minh của tự do là tự do cẩn trọng, tự do làm ra cuộc sống phải được xem là đáng sống, chớ tự do không phải chạy theo các hoài bảo mộng tưởng cho một cuộc sống hảo huyền.

Tự do trong cẩn trọng là nghệ thuật biết tự giải phóng trong thông minh của hành động, tức là không liều lỉnh chết người, vì tự do trong tàn phá, trong bạo ác chỉ là tự do của tự sát, vì nó không biết xây mà nó chỉ biết diệt.

Tự do mang nội lực của sự cẩn trọng : từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định sáng suốt tới hành động tỉnh táo ; nên tự do giữa luôn có hai thực chất : can đảm và cẩn trọng.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim

Kant là triết gia đưa được ra hai phạm trù vừa sâu rộng, vừa chính sát để hiểu, để định nghĩa tự do :

- Tự do là trách nhiệm của ý thức.

- Tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng này qua bạo lực và qua tham nhũng.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài làm sáng vừa làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.

Tự do của cơn gió, tự tin của cánh chim luôn mang 3 hành tác :

- tự do bên trong qua lý luận của tư duy,

- tự do thể hiện hành động ra bên ngoài,

- tự do bảo vệ tha nhân, như chính bảo vệ nhân tính của mình.

Và khi tự do bị hiểu sai, rồi lạc hướng, khi tự do biến thành thảm họa cho mình và cho người khác, thì tự do phải luôn trở về với ba định hướng, dưới dạng ba câu hỏi :

- Tự do muốn gì ?

- Tự do làm gì ?

- Tự do về chuyện gì, trong xã hội nào, trong bổi cảnh nào ?

Từ đây, tự do luôn có ba thực chất để thể hiện mình :

- chủ thể,

- mong muốn,

- hành động.

Khi cả ba vế này được minh bạch thì tự do phải :

- vượt thực tế, thực tại, thực cảnh,

- vượt trở lực, khó khăn, thử thách,

- vượt độc tài, bạo quyền, tham nhũng.

Cùng lúc, tự do đủ ý thức để xa tà đạo, theo lời khuyên của cụ Tiên Điền (Nguyễn Du) phải tránh chuyện :

"Ma đưa lối quỷ dẫn đường

Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi".

Tự do đứng lên, tự tin đứng cạnh

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các nạn nhân của bất công, của độc tài, của tham nhũng... đứng về phía đồng bào và đồng loại đang khổ đau trong một chế độ lấy bạo quyền, dùng bạo lực để hằng ngày bạo hành đồng bào mình.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phụ lão, các trẻ thơ, các người tàn tật, các phụ nữ… hằng ngày là nạn nhân của một chế độ bỏ quên không những an sinh xã hội mà cả an toàn xã hội để bảo vệ kẻ yếu thế, kẻ mang tàn tật…

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả các phong trào đấu tranh liêm chính vì dân chủ, vì nhân quyền để bảo vệ cá nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng, dân tộc, ít nhất là bắt buộc bạo quyền phải tôn trọng các quyền được ghi trong hiến pháp.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh các tù nhân lương tâm hoàn toàn vô tội đang trong vòng lao lý vừa vô nhân đạo, vừa vô nhân tính của bạo quyền vừa đang vùi dập nhân cách bất khuất của dân tộc, đang tha hóa phẩm chất của Việt tộc.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh tất cả dân đendân oan trong cảnh màn trời chiếu đất, mất đất, mất nhà nạn nhân của các lãnh đạo ma đất đã cấu kết với bạn các nhà thầu ma xây cất, đang khổ nhục hóa các nạn nhân này ngay trên mảnh đất của họ.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh các phong trào yêu nước đang đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thỗ, từ biển đảo tới đất liền, từ môi trường tới môi sinh, đang bị tiêu hủy hằng ngày bởi tầu họa, thông đồng với các lãnh đạo đang bán nước.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh cho đa nguyên mở cửa cho đa tài, đa năng, đa hiệu, để chống độc tài, độc trị, độc quyền qua độc đảng, từ đó tạo dựng lên khối đại đòa kết trong đa dạng tư duy, đa thể lý luận, có đa lực tiếp nhận văn minh của nhân loại.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh quyết tâm giải phóng chính mình qua hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) cùng lúc giải phóng gia đình, thân tộc, tập thể, cộng đồng, dân tộc mình ra khỏi nhà tù ngu dân của độc đảng.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh quyết chí đẩy cửa, đạp tường, phá rào, đạp nhà tan nhà tù của một chế độ sống nhờ công an trị, đã cai trị vô cùng tàn nhẩn lương tri của Việt tộc chỉ muốn sống với lương tâm của một dân tộc tốt.

Tự do đứng lên để tự tin đứng cạnh với quyết đoán trong hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) từ tư duy tới hành động, từ lao động qua nghề nghiệp tới mọi sinh hoạt trong xã hội, để khẳng định thông minh Việt đủ lực, đủ tầm, đủ sáng lòng, sáng dạ, sáng trí để được sống tự do trong văn minh như bất cứ dân tộc văn minh nào trên hành tinh này !

Tự do ý thức, tự tin nhận thức

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chúng ta đứng cùng dân oan, và chứng kiến các lực lượng bạo quyền là công an, cảnh sát, hợp cùng các lực lượng tà quyền là côn đồ, du đảng của xã hội đen đánh đập, trấn án, bạo hành với dân oan là mỗi lần chúng ta thấy Nhân phẩm của chính chúng ta bị xúc phạm.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chúng ta đứng cùng với các nạn nhân của cưỡng hiếp, của bạo dâm, có cả ấu dâm và chứng kiến thủ phạm được che đậy từ hành pháp tới tư pháp là mỗi lần chúng ta thấy Nhân tính của chính chúng ta bị chà đạp.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chúng ta chứng kiến trong hệ thống giáo dục : học trò bạo động với thầy cô, thầy cô bạo hành với học sinh, trong bối cảnh vô giáo dục ngay trong giáo dục là mỗi lần chúng ta thấy Nhân đạo của chính chúng ta bị dẫm nát.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến cảnh xã hội bị mù lòa vì tiền bạc, vật chất trong thực cảnh : con cái ruồng rẩy cha mẹ, anh chị em giết hại nhau là chúng ta thấy Nhân nghĩa của chính chúng ta bị thủ tiêu.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến các lãnh đạo tổ chức buôn thần bán thánh, các nhà sư giả tín để giả mạo qua cửa phật để làm tiền, để trục lợi là chúng ta thấy nhân từ của chính chúng ta bị bóp chết.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến độc đảng khai thác độc tài để có độc quyền trong độc tribất tín sánh đôi cùng bất tài là chúng ta thấy Nhân lý của chính chúng ta bị vùi dập.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực tế của mua bằng, bán cấp qua học giả-thi giả-bằng giả để sau đó là mua chức bán quyền là chúng ta thấy Nhân tri của chính chúng ta bị trừ diệt.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực cảnh của các kẻ có thực tài của dân tộc phải bỏ nước ra đi, nguyên khí của quốc gia bị tráo lận qua quốc nạn tiền tệ-hậu duệ là chúng ta thấy Nhân trí của chính chúng ta bị thắt cổ.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến thực trạng của độc đảng sinh ra độc quyền, để tham quyền đẻ ra tham nhũng trong toàn bộ lãnh đạo chối từ đối thoại để đối luận với trí thức là chúng ta thấy Nhân luận của chính chúng ta bị thiêu hủy.

Tự do ý thức, tự tin nhận thức tức là mỗi lần chứng kiến bi kịch của cả dân tộc đang bị bần cùng hóa, cả một xã hội đang bị đồi trụy hóa, cả một đất nước đang bị đe dọa xâm lược bởi tàu tặc là chúng ta thấy Nhân sinh của chính chúng ta bị bức tử.

-------------------

liberté11

Phần 10

Tự do hiện tại, tự tin hiện hữu

Sartre trong quá trình xây dựng chủ thuyết hiện sinh, đã vượt qua hai trở lực có mặt trong hệ thống tự tưởng của phương tây : cuộc sống có từ nội chất của nhân sinh (essence), và có từ sự tồn tại (existence) của nhân sinh, mà cả hai thường được giải thích bằng sự có mặt của một đấng tối cao là thượng đế, đã sáng tạo ra nội chất và sự tồn tại của nhân thế.

Chủ thuyết hiện sinh thì khẳng định ngược lại : nội chất của sự sống có thể tới từ ngẩu nhiên và sự tồn tại của nhân sinh là do con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo. Chủ thuyết này thoát khỏi mọi định đề được định vị bởi một đấng tối cao, qua hiện hữu của niềm tin trong tôn giáo, tác động lên các hệ thống siêu hình học (linh hồn, tâm linh, thiên đường, địa ngục…) và ít nhiều đã làm nền cho tư tưởng và cho cả gốc của triết học châu âu.

Trong tam giáo đồng nguyên (Khổng, Lão, Phật) gần gũi với văn hóa và văn minh của Việt tộc, thì không có một đấng tối cao sinh ra muôn loài, cũng không có tôn giáo cổ súy cho đấng thiêng liêng này đã tạo ra vạn vật. Cho nên, cũng chính con người phải vì nhân phẩm trước bạo quyền, độc tài, tham nhũng phải bảo vệ tự do của mình như bảo vệ con ngươi của mình để nhìn cho ra nhân tính :

- Tự do là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa.

- Tự do trong tư tin là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới tự thái độ biếng lời của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra.

- Tự do vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện.

- Tự do đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục...

- Tự do trong không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng.

Tự do chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất, xuất hiện trong phân tích của Descartes : "Tôi biết thế giới chưa hoàn thiện, bản thân tôi cũng chưa hoàn thiện, nhưng tôi có tự do trong cuộc sống này để hoàn thiện thế giới, để hoàn thiện bản thân tôi ". Phạm trù tự do không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhâm phẩm hóa nhân loại.

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất, có trong khẳng định Balzac"Tôi có tự đo đứng về phía đối kháng chống bất công, tôi tự đặt tên cho nó là cuộc đời",đứng về phía đối kháng là đứng về phía của kẻ yếu thế trước bạo quyền ; là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng.

Tự do hoàn thiện, tự tin hoàn tất, có trong luận điểm của Arendt :" Tự do đặt quyền lực vào đúng chđể nó dùng công lý mà xử bất công". Chính tự do giúp công dân phải nghĩ xa hơn các tự lợi ngắn hạn của chính trị. Cũng chính tự do giúp công dân tự do trong tư duy để có tự do vận nảo các với hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa.

Từ 3 phân tích, 3 giải thích, 3 lập luận trên, ta sẽ thấy được sức tổng kết, lực tổng hợp để làm nên tổng thể của tự do :

- Tự do có mặt trong trường kỳ trong một xã hội có nhân quyền và dân chủ, để đi ngược lại các sinh hoạt chính trị luôn là đoản kỳ trong nhiệm kỳ.

- Tự do có mặt trong trường kỳ trong một xã hội không có nhân quyền và không có dân chủ, để đi ngược lại các ý định của bạo quyền, ý muốn của độc tài, ý đồ của tham nhũng.

- Tự do sống trong di động để chủ động, chống lại bị động vì thụ động của cúi đầu, khoan tay, quỳ gối trong khuất phục, trong tủi nhục, trong cam chịu ; vì tự do trước hết là tự do đi lại ; đi lại để được sống trong dòng chảy của nhân tính, trong trào lưu của nhân phẩm, trong phong trào của nhân đạo.

Tự do vượt khó khăn trong cuộc sống như vượt thắng chính mình, từ đó tự tin của tư duy làm sáng ra 3 quá trình của tự do là phải trực diện để đấu tranh vì tự do :

- Tự do cần tự tin để đấu tranh, nhưng tự do cũng giúp tự tin phải tự giải phóng mình trước khi hành động vì tha nhân, vì đồng loại.

- Tự do đưa hiểu biết lịch sử vào tận điều kiện làm người hiện nay để trả lời câu hỏi là : ta đang có hay ta không có tự do ?

- Tự do lột mặt nạ độc tài để thấy rõ bản chất toàn trị của bạo quyền luôn muốn có độc quyền sinh sát trên tự do, bằng độc trị rất vô nhân vì rất vô lý.

Tự do cùng tự tin từ không đến có

Camus trong tác phẩm Kẻ nổi loạn (L’homme révolté) đưa lên tiếng hét lên : Không ! Tức là nói không trước mọi bạo quyền, bất công, mà ông muốn người đọc phải hiểu thêm sau chữ không là chữ có ! một tự do tức khắc ngay sau đó là đi tìm nhân quyền để chống bạo quyền, đi tìm công bằng qua công lý để chống bất công bằng tự do của chính mình. Đi từ "không chấp nhận bạo quyền, bất công" đến "muốn có đấu tranh vì công bằng và công lý", đây chính là lộ trình liêm chính của tự do !

Tự do cùng tự tin từ không đến có, trên con đường chọn lựa nhân phẩm cho chính mình, đây là cuộc đấu tranh hiện nay của các bộ đội đã về hưu tại Đồng Đăng, mà thuở nào sau đợt xâm lược của tàu tặc năm 1979, họ đã tình nguyện ở lại cận kề gần biên giới, có mặt tại chỗ để bảo vệ tổ quốc. Họ đã được chính phủ cấp đất, giờ thì đất và nhà của họ bị cưỡng chế trong mưu đồ của chính quyền địa phương cấu kết với bọn thầu đất tính chuyện cướp đất của họ. Họ đấu tranh vì nhân phẩm để lột mặt nạ bọn vong ân là chính quyền địa phương, họ lột luôn mặt nạ của bọn bội tín là chính quyền trung ương, đã nhắm mắt và thông đồng với các ma lực ngay trên các mảnh đất của họ. Họ đấu tranh bằng nhân phẩm yêu nước của họ.

Tự do cùng tự tin từ không đến có, chính là chấp nhận một chân lý của nạn nhân cùng đồng hội, đồng thuyền trong đấu tranh. Chính các bộ đội đã về hưu tại Đồng Đăng đang là nạn nhân trong mưu đồ của chính quyền địa phương cấu kết với bọn thầu đất để cướp đất của họ. Và, họ tiếp nhận chân lý của nạn nhân vì bây giờ họ đã trở thành dân oan, như bao dân oan trên cả nước, bao triệu người trên cả ba miền. Chính chân lý của nạn nhân là nền cho khối đoàn kết dân oan trong đấu tranh hiện nay.

Tự do cùng tự tin từ không đến có, chính là tiếp nhận một chân lý của đấu tranh của tất cả nạn nhân cùng đồng cam, cộng khổ trước bạo quyền, vì chính bạo quyền là tác giả của mọi bất công qua tham nhũng, vừa đe dọa tài sản, vừa đe dọa nhân phẩm Việt của các nạn nhân không có quyền lực của tiền bạc, không có quyền lực của chính trị để tự bảo vệ mình, mà chỉ có quyền lực của tự do là phải đấu tranh vì công bằng và công lý.

Tự do cùng tự tin từ không đến có, chính là tiếp nhận một chân lý bình đẳng qua quan niệm về bình đẳng với mọi người, để có công bằng trong xã hội, để yêu cầu công lý dùng pháp lý để bảo vệ quyền bình đẳng bằng pháp luật vừa công minh, vừa liêm chính. Tự do trực diện đấu tranh với mọi bạo quyền, mọi tà quyền, mọi cường quyền bằng chính liêm sỉ của mình, đây là đinh nghĩa nguồn của nhân cách.

Tự do đạo lý, tự tin đạo đức

Ricœur trong hệ thống triết học luân lý của mình đã đề nghị không nên hiểu tự do qua các định nghĩa khô cứng, mà phải thấy các đoạn đường của nó từ ý thức tự do tới hành động tự do, từ ý nghĩa của tự do tới kết quả đấu tranh vì tự do :

- Tự do có ý thức chống lại cuộc sống bị vô nghĩa hóa bởi bạo quyền.

- Tự do đi tìm ý nghĩa cuộc sống bị khủng hoảng hóa bởi bất công.

- Tự do bảo vệ niềm tin của nhân phẩm bị suy đồi hóa bởi tham nhũng.

Tự do có đạo lý, tự tin có đạo đức, tôn trọng chọn lựa của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, nếu chọn lựa đó có đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, có luân lý của trách nhiệm, và bổn phận trong hiện tại và trước tương lai, như vậy tự do luôn mang ba quá trình :

- Tự do yêu cầu công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế.

- Tự do biết nói đầy đủ sự thật để tìm cách giải quyết các bất công .

- Tự do là tự chọn lựa lịch sử cho chính mình trước áp lục của bạo quyền.

Tự do có đạo lý, tự tin có đạo đức, nếu tới từ phương trình công bằng-sự thật-lịch sử tạo dựng ra phương trình của tự do là ý thức-ý nghĩa-ý muốn, thì tự do không hề vô trật tự, không hề bừa bãi trong ngôn ngữ, không hề hỗn loạn trong hành động, nó có nhận thức rất minh bạch, vì nó có tâm thức của trách nhiệm trong hai chiều :

- Tự do có hàng dọc có đạo lý, luân lý làm nền đạo đức cho xã hội.

- Tự do có hàng ngang vừa có ta, vừa có tha nhân sống chung cùng cơ chế.

Tự do có đạo lý, tự tin có đạo đức, có đạo đức cho xã hội, biết sống chung cùng cơ chế, mà cơ chế dựa trên định chế có công lý biết trừ bạo quyền, biết diệt bất công, biết loại tham nhũng, từ đó chủ thể của tự do sẽ rất chuẩn mực để trả lời ba câu hỏi :

- Tự do tự hỏi : Tôi là ai ? Trước trách nhiệm gì ? Trước hành động gì ?

- Tự do biết đánh giá : cái này tốt hơn cái kia ! cái này cao hơn cái kia !

- Tự do hiểu phương trình tuyên bố-trách nhiệm-hành động bằng nhân cách biết tự tôn trọng mình bằng nhân phẩm biết tự bảo vệ mình.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến

Jonas, đi từ triết học tới xã hội học, đã đưa ra chủ thuyết tính sáng tạo của hành động để hiểu thực chất và thực hành của tự do trong đời sống, quan hệ, sinh hoạt của xã hội, vì con người không chỉ có sáng tạo trong loại hình nghệ thuật, mà ta còn có tính sáng tạo ngay trong hành động của mình :

- Sáng tạo ra hành động mới để vượt khó khăn.

- Sáng tạo ra hành động mới để tìm ra cách giải quyết mới.

- Sáng tạo ra hành động mới để tìm ra các kết quả mới.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến qua sáng tạo ra các hành động mới chính là tính chủ động của chủ thể tự do đi ra ngoài và đi trên cao các trở lực chống lại tự do :

- Sáng tạo ra hành động mới để thoát và thắng bạo quyền.

- Sáng tạo ra hành động mới để thoát và thắng độc tài.

- Sáng tạo ra hành động mới để thoát và thắng tham nhũng.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến tôn trọng 3 nguyên tắc để bảo vệ mình, mà cũng để bảo vệ tha nhân, bảo vệ cộng đồng, bảo vệ xã hội, trong đó tự do không rời 3 trách nhiệm :

- trách nhiệm về hành động của chính mình trong xã hội,

- trách nhiệm vai trò của mình trước tập thể, trước cộng đồng,

- trách nhiệm về các chuyện bảo vệ kẻ yếu, dưới quyền chăm sóc của mình.

Tự do sáng tạo, tự tin sáng kiến làm sáng rõ nguyên lý -cao và rộng- của trách nhiệm về các chuyện bảo vệ kẻ yếu, dưới quyền chăm sóc của mình, qua hành động của chủ thể đấu tranh vì tự do, từ đây tự do được hiểu qua công lợi và qua công sự :

- Tự do ước mơ được sống trong các cơ chế tốt của một xã hội tốt.

- Tự do chống bất công để bảo vệ hoài bảo vì công bằng.

- Tự do lập phương trình công bằng-công lý-công pháp để thi hành quyền tự do.

Tự do là chuyển hóa phương trình công bằng-công lý-công pháp thành phương án của thi hành-thực hành để đồng hành với ý nghĩa của tự do, giờ đã thành ý lực, sẵn sàng trở thành các sáng tạo ra hành động mới vì nhân phẩm.

-------------------

liberté00

Phần 11

Tự do diển trình, tự tin diển đạt

Lich sử đấu tranh của tự do chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng được kiểm chứng qua các quá trình sau đây, nơi mà mỗi chuyên nghành của khoa học xã hội và nhân văn phân tích và giải thích được :

- Tự do biết hét lên : Không đúng ! Không chấp nhận được ! để chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng… để đi tới tìm cái đúng, tìm cái chấp nhận được qua công bằng của công lý ; triết học luân lý và chính trị học gọi là lẻ phải của tự do.

- Tự do nổi lên trong nổi dậy giữa xã hội, cộng đồng, dân tộc khi nhân phẩm bị xúc phạm, tự do này đi từ nhân lý tới nhân trí ; tri thức luận và xã hội học chính trị đặt tên nó là : nhân tính của tự do.

- Tự do vượt khoảng cách, đã gây ra ngăn cách giữa người với người, dùng tự do để lập lại cầu nối, tạo ra phong trào, tái lập lại quan hệ xã hội để tìm sự chia sẻ, sự đồng cảm, từ đó chế tác ra đòan kết và tương trợ giữa các nạn nhân của bạo quyền ; tâm lý học tri thức và sử học chính trị nêu tên nó là : lực bảo vệ quan hệ của nhân loại.

- Tự do gạn đục khơi trong, loại bỏ bạo động có thể hủy diệt quan hệ xã hội, từ đó tạo nên một trật tự mới có đạo lý cạnh lý trí, có công lý cùng công bằng để bạo vệ sự trường tồn của tự do, mà triết học phân tích và xã hội học giáo dục tặng nó tên : trí tuệ của nhân lý.

- Tự do đúng đưa công lý đúng với công bằng đúng tới đúng nơi để bảo vệ công dân trước bạo quyền, đưa pháp lý đúng tới pháp luật đúng, biết bảo vệ lẻ phải để bảo vệ nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng, mà luật học cùng giáo dục học gọi nó là : kiến thức của tự do.

- Tự do đúng đưa vào thảo luận để tìm ra cách giải quyết có đạo lý trước các khổ nạn của nhân sinh, chính đây là phẩm chất của đối thoại, chống phân biết đối xử, chống chuyện loại trừ tha nhân bằng chủ quan của định kiến, và xã hội học đạo lý cùng chính trị đàm phán trao nó tên : dân chủ của truyền thông.

Tổng kết của các quá trình này, giúp các chủ thể đấu tranh vì tự do nhận thức được là : tự do đúng giúp chọn lựa đúng, giải thích đúng để phán xét đúng, qua phán xử đúng trong đạo lý hay, đẹp, tốt ,lành của nhân tính.

Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù

Cả Platon lẫn Aristote đều công nhân từ do mang lý lẽ của nhân lý, nhưng nó rất tự nhiên vì nó có ngay trong nhân tính, với thói quen của nhân sinh biết đấu tranh vì nhân quyền, theo nghĩa nhân có quyền (định đoạt-chọn lựa-quyết định-hành động) vì các định hướng mà nhân sinh thấy đúng cho công lý của nhân lý.

Tự do dám đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Và tự do có ngay trong nảo bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vở bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnh của lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, mà không cần phải là nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, có mặt trong quyền công dân của một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị ; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù trong xã hội bên ngoài. Tự do hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do trong đấu tranh có thành công và có thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoan tay mà thẳng lưng, không quỳ gồi mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mảnh lực để nhảy vọt thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân tính !

Tự do đã đi, tự tin đã tới

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân phẩm mỗi lần Nhân phẩm bị bạo quyền vùi dập, đày đọa.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân tính mỗi lần Nhân tính bị bất công biến thủ, gian lận.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân đạo mỗi lần Nhân đạo bị độc tài cướp đường đi, nẻo về.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân nghĩa mỗi lần Nhân nghĩa bị tham nhũng lủng đoạn, tha hóa.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ nhân từ mỗi lần nhân từ bị bạo lực đàn áp, bóp nghẹt.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân lý mỗi lần Nhân lý bị ý thức hệ thao túng, vu khống.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân tri mỗi lần Nhân tri bị bất tài ruồng rẩy, đào thải.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân trí mỗi lần Nhân trí bị ngu dân trùm phủ, nhiễm ô.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân luận mỗi lần Nhân luận bị toàn trị che lấp, xóa trắng.

Tự do đã đi, tự tin đã tới để bảo vệ Nhân loại mỗi lần Nhân loại bị lãnh đạo bị ám bởi ma quyền, quỷ lực !

Tự do sử luận, tự tin sử tính

Mọi chủ thể đấu tranh vì tự do của Việt tộc xin nghiêm kính cúi đầu trước :

Ngô Quyền của dũng lực việt đuổi bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, chấm dứt một ngàn năm Bắc thuộc.

Lê Đại Hành của hùng lực việt khẳng định non sông, chặn cho bằng được xâm lược phương Bắc.

Lý Thường Kiệt của minh lực việt, minh định đất nước Việt, tống ra khỏi biên cương bọn vô nhân đi cướp nước người.

Trần Hưng Đạo của trí lực việt, với thông minh việt giữ trọn tiền đồ của tổ tiên Việt tộc.

Trần Nhân Tông của nhân từ việt, dẹp bạo tàn để Việt tộc để được sống yên trong đạo pháp của nhân phẩm.

Nguyễn Trãi của thông thái việt, đuổi quân xâm lược bằng nhân nghĩa với trí nhân đi trên đầu giặc.

Quang Trung của sung lực việt, thần tốc tống giặc ra khỏi quê hương Việt, với khí thế vô song của bản lĩnh việt.

Ngày ngày tự do

Tác giả của tiểu luận này vẫn ngày ngày đi tìm tự do trong mọi sinh hoạt xã hội, học thuật, tri thức, trong tình người, tình đồng bào… xin cúi đầu trước :

Tất cả con dân Việt đã đấu tranh và đã hy sinh vì tự do của đồng bào, sinh tồn của dân tộc, bảo vệ quê hương như bảo vệ liêm sỉ của tự do.

Tất cả oan hồn, nạn nhân của bất công, đã chết tức tưởi vì vừa bị cướp đi nhân phẩm, vừa bị cướp mất tự do, luôn vẫn là máu nóng cho đấu tranh tự do trong cuộc sống hiện nay.

Tất cả dân oan, nạn nhân của tham nhũng, bị cướp đất, cướp nhà vẫn hằng ngày gào thét cho tự do có được một mái ấm, nhất là không để bị cướp đi nhân phẩm.

Tất cả dân đen, nạn nhân của bạo quyền, tủi nhục trong nghèo khổ, trong một chế độ với tham ô ngất trời, với các lãnh đạo túi tham không đáy, đã quên đi chính đồng bào của họ.

Tất cả các tù nhân lương tâm, nạn nhân của bạo quyền, đang trong vòng lao lý của tà quyền, nhân từ đày để bảo vệ tương lai Việt, không còn độc tài, vì phẩm chất Việt.

Tất cả các chủ thể đấu tranh vì nhân quyền, vì dân chủ, đang ngày ngày bị đe dọa, vu khống, xuyên tạc, khủng bố, bạo hành… nhưng luôn lấy nhân lý để giữ nhân đạo, nhân trí để nâng nhân tri.

Tất cả các chủ thể yêu nước, thầm lặng hay trực diện với tà quyền để chống lại tầu tặc trong hậu nạn của tầu họa bằng xâm lược, thôn tính với bao hậu quả của tầu hoạn, đang đe dọa nhân phẩm việt trong tàu họa.

Tự do

Tự do không được vất bừa bãi, vì nó không nhận nhiễm ô

Tự do bảo vệ sự yên lặng, lời nói, tình yêu

Tự do khi bị sám rồi nó lại tự tươi sáng lên

Tự do không buộc tội tôi, nó đẩy tôi nổi dậy để làm sáng mỗi bình minh

Tự do phải biết nói sự thật với sự cẩn trọng kinh khủng

Tự do đã có mặt trên con đường mà mọi chuyện đời sẽ tự được tìm thấy.

René CHAR

Lê Hữu Khóa

(19/12/2019)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa

Chủ thể của chủ lý

phunu0001

Chủ thể cẩn trọng với các giá trị tới đạo đức, tránh giết chóc, thảm sát, chiến tranh cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân đạo.

Chủ thể chống ngoại xâm để chống diệt vong

Chủ thể chống diệt vong, chống diệt chủng, trước họa xâm (xâm lấn, xâm lăng, xâm lược) trước hiểm họa hiện nay của Việt tộc với ý đồ của Tàu tặc, bằng thâm ý của Tàu tà. Mà man tính trong man rợ có từ tính toán tới hành động, cướp trắng trợn đảo biển Việt cùng lúc gây ô nhiễm qua công nghiệp đầy độc chất của chúng đang đầu tư và khai thác ồ ạt ngay trên lãnh thổ Việt, với sự thông đồng của các lãnh đạo đã bán nước để trục lợi.

Chủ thể chống lại chuyện man tính trong man hoạt của Tàu tặc có ngay trong mọi sinh hoạt đang gây ung thư hóa xã hội Việt : đầu độc dân ta qua thực phẩm, thao túng hàng ngày từ sản suất tới tiêu thụ, từ kinh tế tới thương mại, tiêu diệt nông phẩm Việt để diệt nông dân Việt đang có trách nhiệm nuôi cả dân tộc.

Việt tộc nhận bằng kính phục và yêu thương chân dung chủ thể của Hai Bà Trưng. Hai Bà đánh quân Đông Hán, mà người đời đã đúc kết qua câu nợ nước-thù nhà, khi giặc ngoại xâm đã giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Nhưng khí thế của Hai Bà tạo được trong kháng chiến thủa đó còn có mang nội lực của mẫu quyền còn ảnh hưởng trong văn hóa Việt chăng ? Trong bối cảnh sơn hà nguy biến, có khi nội lực này vượt lên áp lực của phụ quyền. Bằng chứng là chung quanh Hai Bà có các nữ tướng : Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Đàng... ngay từ trong tổ chức quân lực cho tới khí thế khi đối diện với địch trên chiến trường, hai Bà đã đóng trọn vẹn vai : Vua ! Hai Bà để lại một bài học vô cùng quý báu mà con cháu thời nay luôn phải nhớ là : quyết tâm tự chủ của Việt tộc.

phunu01

Hai Bà để lại một bài học vô cùng quý báu mà con cháu thời nay luôn phải nhớ là : quyết tâm tự chủ của Việt tộc.

Các nhà lãnh đạo độc đảng hiện nay, dù còn độc tài để độc quyền : đừng quên bài học này ! Đừng để giặc vào đất nước này lần nữa, chúng không những đã cướp biển, cướp đảo, chúng sẽ cướp luôn nhân phẩm Việt, nhân vị Việt, tâm hồn Việt.

Thời Hai Bà ra quân kháng chiến, nhân dân ủng hộ, nhân sĩ tụ nghĩa chung quanh Hai Bà, đó là vì Hai Bà vừa có trí tuệ, vừa có dũng khí giữ nước-cứu dân, để lại những trang sử -trong sáng và trong sạch- về tâm hồn Việt : quyết tâm độc lập của Việt tộc. Hậu thế này sẽ là hậu duệ đạo lý của Hai Bà : không để mất quê hương !

Chủ thể đấu tranh vì độc lập để bảo vệ tự do

Chủ thể đề nghị không nên hiểu tự do qua các định nghĩa khô cứng, mà phải thấy các đoạn đường của nó từ ý thức tự do tới hành động tự do, từ ý nghĩa của tự do tới kết quả đấu tranh vì tự do. Đó là tự do có ý thức chống lại cuộc sống bị vô nghĩa hóa bởi bạo quyền ; tự do đi tìm ý nghĩa cuộc sống bị khủng hoảng hóa bởi bất công ; tự do bảo vệ niềm tin của nhân phẩm bị suy đồi hóa bởi tham nhũng.

Chủ thể tôn trọng chọn lựa của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc, nếu chọn lựa đó có đạo lý của hay, đẹp, tốt, lành, có luân lý của trách nhiệm, có bổn phận trong hiện tại và trước tương lai. Như vậy tự do luôn mang ba quá trình : tự do yêu cầu công bằng phải vừa là đạo đức, vừa là định chế ; tự do biết nói đầy đủ sự thật để tìm cách giải quyết các bất công ; tự do là tự chọn lựa lịch sử cho chính mình trước áp lực của bạo quyền.

Chân dung chủ thể có trong bản lĩnh của Bà Triệu, khi Bà khởi nghĩa ra quân cứu nguy đất nước trong bối cảnh của một thời kỳ bi thảm của dân tộc. Bọn giặc nhà Ngô vô cùng tàn bạo với dân Việt, chúng mang sự tàn độc của hỗn chiến thời Tam Quốc tới đất nước Việt ta. Chúng trùm phủ không khí tàn ác nhà Hậu Hán để đô hộ nước Việt, với bọn tham quan bòn rút tận xương tủy dân ta, trong đó phải kể tội tên Thứ sử Lữ Đại, tham ô đi cùng với độc ác.

phunu02

"Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân" (Triệu Thị Trinh).

Người thời đó truyền tục : Triệu Thị Trinh can đảm và mưu trí đã khai minh cho những ai thắc mắc, tại sao bà không yên thân với nữ phận, Bà trả lời : "Tôi muốn cỡi gió mạnh, đạp sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân". Đây là tầm vóc nhân sinh quan của Bà, đây cũng là một sung lực của phụ nữ Việt mà các bọn giặc đến cướp ta thường rất vô minh về ẩn số nữ Việt này. Dáng mạo oanh liệt trên chiến trận, Bà cỡi voi, ra trận với mãnh lực khiến cho mỗi lần binh lính giặc Ngô phải đi đối đầu với Bà, chúng đều rất sợ. Từ rừng Bồ Điền, nơi Bà tổ chức kháng chiến tới núi Tùng, Thanh Hóa, Bà đã có hơn 30 trận ác chiến với giặc Ngô. Chính giặc Ngô đặt tên cho Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân, công nhận cái thanh của Bà. Ai cũng biết nhân cách cao đẹp của Bà, chính tướng giặc là Lục Dận đã chọn cái tục khi bắt lính quân Ngô trần truồng ra trận để Bà phải ngượng mà lui quân. Tàu tục, Triệu thanh là kinh nghiệm mà ta phải nhớ mỗi lần ta đối đầu với Tàu tặc, tổ tiên ta dặn con cháu phải luôn giữ cái thanh, vì nó tinh khiết, vì nó trong trắng, cho dù trước các câu hỏi tục, chúng ta phải luôn chọn : "đố tục, giảng thanh".

Thẳng thắn, không dung kẻ xấu, bà đã xử chính đáng bà chị dâu đã phản bội và tố cáo chồng : Triệu Quốc Đạt. Bao lần tướng Ngô tìm mọi cách để chiêu dụ Bà, nhưng chúng luôn thất bại vì khí phách của Bà. Ngược lại, trong tổ chức đội ngũ của Bà, có những kẻ đã để địch mua chuộc, làm tan rã hàng ngũ trước âm mưu của địch. Bài học tổ chức chặt chẽ nội bộ luôn là bài học quý mỗi lần chúng ta phải đối diện với Tàu tặc xâm lăng.

Bài học quý hơn cả mà Bà để lại cho các thế hệ Việt hiện nay chính là hùng lực của uy tín tự thân, lấy chính sự tự chủ để làm sức mạnh, và tướng Trần Quang Khải đã tiếp nhận được bài học này của Bà. Vì vậy, trong các trận chiến sắp tới với Tàu tặc, từ ngoại giao tới quân sự, nếu chúng tục, thì ta đừng lùi mà mắc mưu chúng. Ta cứ tiến lên để dẹp cho sạch cái tục, vì cái tục dẫn đường đưa lối cho cái xấu, thô, tồi, dở, để sau đó là mở cửa cho cái thâm, độc, ác, hiểm nhập vào nhân tính Việt. Chúng ta quý trọng văn minh Trung Quốc, chúng ta còn xếp Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử vào bậc thầy, nhưng chúng ta đừng để cái Tàu tục có mặt trên đất nước Việt !

Chủ thể của nhân đạo làm nên nhân phẩm

Chủ thể cẩn thận trong đấu tranh vì tự do, công bằng, bác ái : bắt đầu bằng sự cẩn trọng dựa trên phương tiện tốt và tránh được các hậu quả xấu, cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân tính. Chủ thể biết chọn lựa cứu cánh tốt với phương tiện tốt cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân phẩm. Chủ thể cẩn trọng với các giá trị tới đạo đức, tránh giết chóc, thảm sát, chiến tranh cùng lúc biết bảo vệ mọi giá trị của nhân đạo.

Chủ thể phải lường trước được các hậu quả trước tính khả thi, để cân, đo, đong, đếm các hậu quả, vì chủ thể có trách nhiệm với tha nhân, trước khi hành động, ngay trên thượng nguồn chủ thể có đạo lý để luôn luôn phải bảo vệ lẽ phải. Chủ thể yêu cầu mọi kẻ đấu tranh vì tự do phải cẩn trọng vì tha nhân, vì cộng đồng, vì xã hội, vì đồng bào, vì đồng loại, chớ không phải cẩn trọng chỉ vì cá nhân mình. Chủ thể chống vô cảm, nếu vô cảm là thờ ơ, lãnh đạm, tức là câm, mù, điếc trước các khổ đau, đánh mất đi mọi cảm xúc, thì chính vô cảm đã phản lại các giá trị đạo đức và phản lại cả sự thông minh của ý thức là nơi tiếp nhận kiến thức. Chủ thể trong cẩn trọng để tự tin chính là tự do trước khi chọn lựa, phải biết phân xử trước khi hành động, phải biết đánh giá các phương tiện và các hậu quả của nó.

Hãy nhận ra chân dung chủ thể của Dương Vân Nga, mà tên thật của Bà là Dương Thị, người ngày nay luôn gọi Bà là Hoàng hậu Dương Vân Nga. Họ kể với nhau là tên này có là nhờ qua tuồng, các vở tuồng ca ngợi bản lĩnh hoàng hậu hai đời của Bà, đời Đinh và đời Lê. Giai đoạn này nước ta luôn bị giặc Tống đe dọa, rình rập, rồi xâm lược. Vậy mà Hoàng hậu đứng như một cột trụ trung tâm để đối đầu với bọn giặc Tống, lúc thì chúng như cú vọ, lúc thì chúng chồn cáo bụng dạ sói lang của chúng. Hai triều Đinh và Lê, đều không dài trong Việt sử, phận nước Việt trong dầu sôi lửa bỏng, Hoàng hậu cận kề Đinh Tiên Hoàng, Hoàng hậu sát cánh với Lê Đại Hành, trước những điểm hẹn gay gắt của thời cuộc, trước những dấu ấn gay go của chính sự, Bà luôn có mặt !

Có mặt vì yêu nước thương dân, có mặt để cứu dân cứu nước. Bà bị tai tiếng trong nghi án giết vua Đinh Tiên Hoàng, lại thêm tin đồn tư tình với Lê Đại Hành ; xóa triều Đinh, dựng triều Lê. Những nghi án này đi qua đi lại giữa chính sử và hư sử, nên hậu tế này xin đưa ra một đề nghị-làm-giả thuyết để tiếp tục nghiên cứu thêm về Hoàng hậu, lấy chiều cao của công tâm, lấy chiều rộng của lương tâm, lấy chiều sâu công lý, cụ thể là lấy tầm nhìn xa để phân tích tâm lý, tâm trạng, tâm sự của Hoàng hậu trước tình hình rối bời thời đó.

phunu03

Hoa hậu Phạm Thiên Trang đã chọn bộ quốc phục với ý tưởng lấy cảm hứng từ nhân vật Thái Hậu Dương Vân Nga để nêu bật tin thần dân tộc chống xâm lăng, khẳng định chủ quyền của quê hương. Courtesy of Tập chí Sao Việt (02/12/2016)

Tại đây, hậu thế xin phối hợp hai luận thuyết : một là của triết phân tích chính trị, hai là xã hội học bối cảnh chính trị, mà hậu thế đã dùng trong các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, nay xin đưa vào trường hợp của Hoàng hậu Dương Vân Nga : đó là phân tích so sánh tình huống giữa số phậnkiếp nạn. số phậnkiếp nạn là hai ngữ pháp rất khác biệt nhau, từ nội dung đến vận hành để kẻ có trách nhiệm lãnh đạo đất nước biến quyết định thành quyết đoán, biến hành vi thành hành động cụ thể để thay đổi chính sự, chiến cuộc, tình thế...

Khi Hoàng hậu đã mang lên cân, đo, đóng, đếm : một bên là số phận riêng của mình, của một triều đại ; một bên là kiếp nạn của cả một dân tộc. Kiếp nạn là kiếp dài nhục nhã, đốn mạt cho muôn dân : suốt kiếp phải chịu kiếp nô lệ, cả một giống nòi sẽ mang kiếp bị đồng hóa, cả một đất nước sẽ mất mọi gốc, rễ, cội, nguồn về văn hóa, văn minh, văn hiến của mình, kể cả nhân phẩm Việt đã có sẵn trong bản sắc Việt. Hoàng hậu đã gạt số phận của mình, của triều Đinh qua một bên, để trực diện chống kiếp (hoạn) nạn cho cả một dân tộc, và chính nhờ có Hoàng hậu, mà minh tướng Lê Đại Hành mới vững tâm dẹp giặc.

Bài học gạt số phận của tư lợi để trực diện chống kiếp nạn vì dân cứu nước rất hiện đại, nó phải hiển hiện ngay trong não bộ các lãnh đạo hiện nay trước họa Tàu tặc, mà các vị này nên theo Hoàng hậu Dương Vân Nga là : dẹp thù trong trước, để sau đó lo cho đại cuộc là : giặc ngoài !

Hậu thế không hề thấy được chân dung của Dương Vân Nga qua các phụ nữ tham quyền cố vị, mà Việt tộc đã gắn bản-hiệu-để-mạt-danh là : cố đấm ăn xôi, trong không gian quyền lực hiện nay chung quanh tập đoàn lãnh đạo trong tội phạm của Đảng cộng sản Việt Nam. Mà hình ảnh tởm lợm nhất là chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, bắt tay trong nhả nhớt, cười vui trong hèn phận trước tên Tàu tặc Tập Cận Bình trong tháng Chín năm 2019, khi bọn Tàu tặc đang vây bủa để trộm, cắp, cướp, giật bãi Tư Chính, thuộc chủ quyền của Việt tộc ! Nhưng hậu thế thấy được chân dung của Dương Vân Nga qua nhân dạng của thông minh trong nhân cách tỉnh táo và sáng suốt của các phụ nữ hiện nay đang đấu tranh vì công bằng xã hội, vì dân chủ và nhân quyền. Hiện nay họ đang bị giam cầm bởi bạo quyền độc đảng toàn trị, bởi tà quyền tham quan để tham nhũng, bởi ma quyền tham đất vì tham tiền ; mà họ được nêu-tên-để-vinh-danh là tù nhân lương tâm. Những nữ tù nhân lương tâm mới chính là những đứa con tin yêu của Việt tộc.

Chủ thể của nhân lý có nhân tâm

Chủ thể có cách nhìn, cách thấy, cách hiểu, cách nhận, cách xử lý tới từ tự tin dựa lên lòng tin về khả năng của tự do biết chống lại sự ngăn cấm, đàn áp, khống chế, khủng bố của bạo quyền, tà quyền. Chủ thể luôn đi xa hơn tư lợi, đi ngoài tư lợi, được thử thách trong đấu tranh vì tha nhân, vì đồng bào, đồng loại đang đau khổ trong bất công và bạo lực.

Chủ thể có quyết đoán trong đấu tranh vì công bằng nên nó tốt, nó lành và chính sự tự tin của chủ thể xác chứng rằng công bằng là chuyện vừa đẹp, vừa hay. Chủ thể phân tích ý muốn vì tự do để tới thực hiện hoài bão, đi từ đạo lý vì hoài bão tới đạo lý vì trách nhiệm. Chủ thể có nhận thức đôi (hoài bão-trách nhiệm), đây là quá trình hoàn thiện hóa xã hội, đạo đức hóa cộng đồng, luân lý hóa cá nhân, vì tự do có quyền hành động để hoàn thiện hóa thế giới, để chỉnh chu hóa thế gian. Chủ thể có đồ hình nghiên cứu về cứu cánh của nhân sinh phải thấy bốn loại cứu cánh : cứu cánh vì quyền lợi, trong đó có tư lợi và có công lợi ; cứu cánh vì giá trị, trong đó giá trị tâm linh mang nội chất thiêng liêng ; cứu cánh vì truyền thống của tổ tiên, vừa là trí tuệ, vừa là lý trí, cứu cánh vì tình cảm, trong đó cảm xúc có cái lý của tâm giao, đắc khí.

Nguyên phi Ỷ Lan đại diện đầy đủ chân dung chủ thể này ! Cô gái hái dâu, nuôi tầm, không ngừng tay làm việc trong khi bên ngoài là hội chùa Dâu, đã được vua Lý Thánh Tông chú ý và cảm phục vì con người thật của Bà là "thức khuya dậy sớm", "một nắng hai sương" chăm chỉ, có lương tâm với gia đình. Kinh bang tế thế là chân tài của Bà với niềm tin, cùng lòng quý yêu của vua Lý Thánh Tông.

phunu04

Tượng Hoàng thái hậu Ỷ Lan ở chùa "Linh Nhân Từ Phúc Tự" tại Gia Lâm, Hà Nội. Ảnh : Panoramio

Dân truyền rằng khi vua đi đánh giặc Chiêm cùng Lý Thường Kiệt, năm 1069, giao chuyện quản lý đất nước cho Bà. Nguyên phi Ỷ Lan đã chăm lo rất chu đáo cho dân, vì thương dân, vì hiểu dân nghèo hơn ai hết. Có đại quyền điều hành đất nước, Bà nhận lãnh trọn vẹn, nhân gian tôn bà là Quan Âm, nhân dân hết lời cảm phục Bà. Khi vua qua đời, con của Bà là Lý Nhân Tông lên ngôi năm 6 tuổi và tước phong Bà thành Thái phi. Trước nạn Tống tặc lăm le cướp nước, Bà không được chấp chính, không được trực tiếp lo chính sự mà chỉ có Thái hậu Thượng Dương mới có quyền đó. Bà lại mang tiếng là người đã giết Thái hậu Thượng Dương cùng với 72 cung nữ, đâu là sự thật ?

Nhưng vai trò lịch sử của Bà là tiên quyết chống lại quân Tống khi muốn chiếm nước ta. Với bản lĩnh của minh tướng, Lý Thường Kiệt đi phạt Tống ngay trên đất Tống : tại đây chắc có tầm vóc chủ đạo hay tư vấn chiến lược gia quân sự là Thái phi Ỷ Lan, cũng như trong cả giai đoạn phá Tống-bình Chiêm của nhà Lý. Cũng chính trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, Thái phi Ỷ Lan đã để lộ ra một bản lĩnh khác, một bản lĩnh vì nước mà quên tị hiềm : Bà đã triệu Lý Đạo Thành về cung, lo nội chính, để giúp nước, mà Lý Đạo Thành là kẻ đã đứng về phía Thái hậu Thượng Dương, để chống lại Thái phi Ỷ Lan thửa nào.

Bà kỹ tính trong tổ chức, Bà kỹ lưỡng trong quản lý, Bà lấy một phần ngân khố để sử dụng vào việc cứu các cô gái bơ vơ, giúp họ lấy chồng ; Bà chống chuyện trộm trâu, giết trâu, gây ra thiếu trâu để cày cấy thời đó, Bà ban những luật chống trộm cắp rất nghiêm minh để ngăn chặn các kẻ trộm trâu. Chuyện hay khác là Bà có trình độ Phật học cao, tinh thông Phật pháp, sùng đạo Phật, mở mang dân trí, thích làm việc thiện, luôn nghĩ tới người nghèo, sử dụng hiền tài, đây là thời đã lập ra Quốc Tử Giám.

Thực tài lãnh đạo chính trị kiệt xuất của Bà là thật sử của Việt sử. Bà là gương sáng cho mọi lãnh đạo hiện nay đang thích độc quyền để chuyên quyền mà quên bổn phận vì "dân giầu, nước mạnh", đang chuộng tham quyền để tham nhũng mà gạt đi trách nhiệm "vì nước, vì dân". Bản lĩnh lãnh đạo, tầm vóc quản lý, nội công tổ chức của Thái phi Ỷ Lan đi trên vai, trên lưng các đám tham quan bất tài đời nay !

Chân dung chủ thể của minh chủ Nguyên phi Ỷ Lan có minh tâm là bản lĩnh, có minh trí là nội công, chân dung này được thể hiện rất rõ trong các phụ nữ Việt hiện nay đang :

- Đấu tranh cho công bằng xã hội trong bác ái của minh tâm được trợ lực bởi minh trí, kiên cường trước bạo quyền độc đảng công an trị, của bao bạo lực trong xã hội, của bao bạo hành chống Việt tộc.

- Đấu tranh cho dân chủ trong đa nguyên của minh tâm, đa trí được trợ duyên bởi minh trí đa tài, quyết đoán trước tà quyền tham quan lúc nhúc trong tham ô và tham nhũng.

- Đấu tranh cho nhân quyền vì nhân phẩm của minh tâm, có nhân bản được trợ sức bởi minh trí có nhân văn, quyết tâm trực diện với ma quyền tham đất vì tham tiền lẩn lút như âm binh để bòn rút sinh lực của Việt tộc.

Tấm gương chủ thể minh chúa rất hiện đại, chỉ lo là hậu thế cả nữ lẫn nam không học được nội công, bản lĩnh, tầm vóc các bài học mà Nguyên phi để lại cho hậu thế.

Chủ thể của nhân lý như sự mệnh của nhân tâm

Chủ thể có phương trình công bằng-sự thật-lịch sử tạo dựng ra phương trìnhcủa tự do là ý thức-ý nghĩa-ý muốn, thì tự do không hề vô trật tự, không hề bừa bãi trong ngôn ngữ, không hề hỗn loạn trong hành động. Chủ thể có nhận thức rất minh bạch, vì nó có tâm thức của trách nhiệm trong hai chiều : chủ thể của hàng dọc có đạo lý, luân lý làm nền đạo đức cho xã hội ; có hàng ngang vừa có ta, vừa có tha nhân sống chung cùng cơ chế.

Chủ thể có đạo đức cho xã hội, biết sống chung cùng cơ chế, mà cơ chế dựa trên định chế có công lý biết trừ bạo quyền, biết diệt bất công, biết loại tham nhũng, từ đó chủ thể có chuẩn mực để trả lời ba câu hỏi : tôi là ai ? Trước trách nhiệm gì ? Trước hành động gì ? Vì chủ thể biết đánh giá : cái này tốt hơn cái kia ! cái này cao hơn cái kia ! Vì chủ thể hiểu phương trình tuyên bố-trách nhiệm-hành động bằng nhân cách biết tự tôn trọng mình bằng nhân phẩm biết tự bảo vệ mình.

Tại đây, chân dung chủ thể của Huyền Trân công chúa thật đẹp. Công chúa nhận cuộc hôn với Chế Mân để hòa bình giữa Chàm tộc và Việt tộc, biến chuyện sống chung giữa hai dân tộc thành chuyện có thực, vì vậy nhân cách của công chúa là rất đẹp, vì nghĩa vụ này rất lớn. Cả Việt tộc phải biết mà tự hào đã nhờ có cha của công chúa là Phật hoàng Trần Nhân Tông biết "nhìn xa trông rộng", mà công chúa đã cụ thể hóa được lòng hiếu hòa của Việt tộc qua chuyện "đi làm dâu xa" với nỗi niềm dường như độc nhất trong Việt sử, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã hát lên được : "Nước non ngàn dặm ra đi".

phunu05

Công chúa Huyền Trân không hề bị chuyện xấu quỵ, gục, ngã mà biết tìm cõi tu để trong tâm, sạch hồn trước những mất mát lớn : mất chồng, mất con, kể cả mất người yêu. Ảnh minh họa

Những câu chữ dèm pha về số phận của công chúa : "Tiếc thay cây quế khỏi rừng, để cho lũ mán, lũ mường nó leo" chỉ là loại ngữ văn kỳ thị chủng tộc, thấp vì vô minh, tồi vì vô tri, tục vì vô giác. Những kẻ thích trích dẫn câu này, thường là những kẻ không có đạo lý của sứ mệnh, không có luân lý của bổn phận, không có luôn đạo đức của nghĩa vụ công dân, vì "sơn hà xã tắc". Những kẻ dèm pha càng thấp hơn khi họ nêu tấy lên chuyện tư tình của Công chúa với công tướng Trần Khắc Chung, trên đường từ Chiêm về Việt, sau khi Chế Mân qua đời. Nhân cách cha của Công chúa, Phật hoàng Trần Nhân Tông rất cao, nhân cách của vua Chế Mân rất vững, nhân cách của Trần Khắc Chung rất rõ, vậy xin kết luận ngay nhân cách của Công chúa phải : rất đẹp !

Nhân cách của Huyền Trân phải rất đẹp nên những người đáng quý, đáng trọng này mới thương, mới yêu công chúa. Những kẻ nghi ngờ rồi phóng đại về nhân cách này họ rất bơ vơ, làm sao họ hiểu được "nỗi khổ, niềm đau" của công chúa. Công chúa không hề bị chuyện xấu quỵ, gục, ngã mà biết tìm cõi tu để trong tâm, sạch hồn trước những mất mát lớn : mất chồng, mất con, kể cả mất người yêu. Ngay trong cõi tu, Công chúa vẫn giúp được dân lành qua bao chuyện công điền, cấy cầy... mà ngày nay dân địa phương (chung quanh ngôi chùa mà công chúa là chủ trì) vẫn khiêm cẩn thờ Công chúa.

Soi xưa để thấy tỏ nay : bao nhiêu phụ nữ hiện nay đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, công bằng... tức là vì một Việt tộc sống có nhân cách. Họ chịu cảnh ngục tù như những tù nhân lương tâm, cùng lúc bị bọn văn nô, bồi bút bôi nhọ, vu khống, chụp mũ, vấy bùn trên cái đẹp của nhân cách các phụ nữ Việt khi họ biết nhận nghĩa-phận với Việt tộc. Bọn văn nô, bồi bút này chỉ là ký sinh trùng trong dưới sự chỉ đạo của bạo quyền tuyên huấn, bạo hành công an... Chúng chỉ có thể lấy lại nhân cách của chúng khi nào chúng hiểu thế nào là đạo lý của sứ mệnh, luân lý của bổn phận, đạo đức của nghĩa vụ : "phải cứu nước, cứu dân". Nhất là loại lãnh đạo nam giới bất tài hiện nay ngày ngày hiếp đáp phụ nữ Việt, thì nên (ít nhất trong ngày này 08 tháng 3, ngày quốc tế phụ nữ) biết cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước nhân cách lịch sử của Công chúa Huyền Trân.

Chủ thể nhân nghĩa biết chế tác ra nghĩa khí

Chủ thể xuất hiện để bảo vệ nhân phẩm mỗi lần nhân phẩm bị bạo quyền vùi dập, đày đọa. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ nhân tính mỗi lần nhân tính bị bất công biển thủ, gian lận. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ nhân đạo mỗi lần nhân đạo bị độc tài cướp đường đi, nẻo về. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ nhân nghĩa mỗi lần nhân nghĩa bị tham nhũng lũng đoạn, tha hóa. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ Nhân từ mỗi lần Nhân từ bị bạo lực đàn áp, bóp nghẹt. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ Nhân lý mỗi lần Nhân lý bị ý thức hệ thao túng, vu khống. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ Nhân tri mỗi lần Nhân tri bị bất tài ruồng rẫy, đào thải. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ Nhân trí mỗi lần Nhân trí bị ngu dân trùm phủ, nhiễm ô. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ Nhân luận mỗi lần Nhân luận bị toàn trị che lấp, xóa trắng. Chủ thể xuất hiện để bảo vệ Nhân loại mỗi lần Nhân loại bị bị ám bởi ma quyền, quỷ lực !

phunu06

Cuộc đời của võ tướng Bùi Thị Xuân làm sáng lên ba chân lý là phụ nữ Việt đã : thành công trong võ nghiệp, thành tài trong quân nghiệp, thành tựu trong chính nghiệp - Ảnh tượng nữ tướng Bùi Thị Xuân

Chúng ta nhận diện rõ chân dung chủ thể của Bùi Thị Xuân, một nữ tướng lớn lên trên quê hương của Tây Sơn, chọn đường võ nghiệp ngay từ đầu, bạn đời của Thiếu phó Trần Quang Diệu, một trong tứ trụ đại thần của Quang Trung. Cuộc đời của võ tướng làm sáng lên ba chân lý là phụ nữ Việt đã : thành công trong võ nghiệp, thành tài trong quân nghiệp, thành tựu trong chính nghiệp, giữa thời chiến mà Nữ tướng đã được phong làm Đô đốc. Nữ tướng áo đỏ có biệt tài về tượng binh, với chiến thuật xáp trận đặc sắc, với cách dàn binh, bố trận đoạt hồn, cướp vía giặc mà sử liệu quân Thanh còn ghi lại, mà các quan sát viên phương Tây thời đó cũng công nhận. Khi Nguyễn Ánh lấy thế kẻ thắng mà hỏi "Có muốn ta tha cho không ?". Bà trả lời "Ta đâu vì ham sống mà chịu nhục !" và Bà đã bị áp dụng án tử hình voi dày. Người đời cúi đầu khâm phục khí tiết của Nữ tướng. Theo truyền thuyết thì chính con voi thi hành án đó đã từ chối hành sát Bà. Nguyễn Ánh phải quấn Bà vào vải rồi tẩm dầu mà đốt, Bà đã đứng thẳng lưng trong lửa đang thiêu thân đó.

Dường như Nguyễn Ánh luôn thua Bà trong cả ba lần gặp trên chiến trận, Bà đã thắng trong thế thẳng lưng : lần thứ nhất trên chiến trường đấu trí thua tài, lần thứ hai cũng trên chiến trường đấu lực thua dũng, và lần cuối khi Bà là tù binh thì đấu khẩu thua lý. Nữ tướng áo đỏ còn có khí khái nhân từ, Bà đã tha mạng cho Võ Văn Dũng, sau khi nhân vật này đã hãm hại Bùi Đắc Tuyên, chính là cậu ruột của Bà ; chính lòng nhân từ vì nước quên tư thù này mà sau đó Võ Văn Dũng nhớ ơn, đã trung thành cận kề cùng chồng của Bà là Trần Quang Diệu trong thăng trầm của binh đao. Dân Bình Định đã thờ, đã phụng, luôn tôn kính Bà, bất chấp các cấm đoán của Nguyễn Ánh, trong cả thời nhà Nguyễn.

Các vị lãnh đạo hiện nay nếu muốn đi tìm nữ tướng trước Tàu họa xâm lăng, thì không cần tìm trong đám tướng của Bộ Quốc phòng, mà hãy đi tìm trong các nhà tù hiện nay : các nữ tướng chính là các tù nhân lương tâm đang trong vòng lao lý, họ dám đấu tranh vì nhân quyền cho nhân dân, vì nhân phẩm cho Việt tộc. Hãy thả họ ra ngay để họ được đối diện dẹp các bất công trong xã hội, để họ chống ngoại xâm, để họ rộng đường cứu nước !

Lê Hữu Khóa

(16/12/2019)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa

Published in Diễn đàn

 

Phần 1

Minh vương : những bài học về chủ trị

Chủ thể của chủ trị

chuthe001

Chủ thể tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới

Chủ thể của quyết đoán để quyết chí

Chủ thể có ý chí để quyết chí làm đời sống khá hơn, làm cuộc sống đáng sống hơn, nếu lấy đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý, lấy khuôn quyết tâm thành quyết chí trong hành động dài lâu và bền vững trong đấu tranh vì tự do, công bằng, bác ái. Chủ thể có luận biết dựa trên luân lý, có hành động cụ thể bằng ý chí, khi có định nghĩa về tự do thì trí tuệ sẽ đưa chủ thể vào hành động.

Chính phương trình luận-luân lý-ý chí là gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi hành động của chủ thể, được thể hiện không những trong thực tế hằng ngày mà còn là lý tưởng của chủ thể trong đấu tranh. Chủ thể có lý trí ý thức, trong đó nhân lý phát huy kiến thức, trong đó nhân tri biết dựa vào nhân trí để có sung lực bảo vệ tính tự chủ của cá nhân, của cộng đồng, của tập thể, của dân tộc…

Tất cả quá trình này đều được nhận diện trong các phong trào đấu tranh của dân oan tới các phong trào đòi hỏi dân chủ và nhân quyền trước bạo quyền độc đảng. Chủ thể có lý trí để hiểu tình thương, hiểu từ nguồn gốc của tình thương đồng loại tới hiệu quả cùng hậu quả trong tình thương này. Chính là năng lượng của lý và thức trước các điều kiện của nhân sinh (có khổ đau và có hạnh phúc), từ đó hiểu nội chất của hai thái cực này trong nhân thế để tạo hạnh phúc và xa rời khổ đau.

Hãy cùng nhau nhận ra chân dung chủ thể của Đinh Tiên Hoàng, với tầm vóc quân sự của ngài lớn vì tầm nhìn tổ quốc của Ngài xa, có được là nhờ tầm cỡ chính trị của Ngài cao, dẹp được thập nhị sứ quân, để thống nhất đất nước - đó chính là bản lĩnh vời vợi của Ngài. Chuyện loạn lạc bởi đám sứ quân này nằm trong quy luật khủng hoảng của các triều đại phong kiến, mỗi lần có một ông vua suy đồi là cả xã hội bị suy thoái, có nội chiến vì vô chính phủ, có bạo động vì đầy bất công, cá lớn nuốt cá bé. Ngài dẹp lũ sứ quân này cho đất nước được trở lại thanh bình, ngừng hẳn mọi giết chóc của một thời cuộc mà người với người xem nhau như lang sói. Sự bất tài của một vương triều, vương triều đó phải nhận trách nhiệm như bọn sứ quân, cả hai phải chịu lỗi trước dân tộc, nếu không nói là tội !

Tội thì chắc chắn nặng hơn lỗi, không những về hậu quả nhân sinh mà về cả hậu quả nhân đức, với sự suy sụp của giáo lý. Với bối cảnh loạn lạc của các sứ quân là có mầm mống trong xã hội Việt hiện nay, với người dân luôn "ngắn cổ, bé họng" trước bạo quyền, từ xã, thôn, làng, xóm lên tới vùng, miền, thành phố, chịu cảnh "ngậm bồ hòn làm ngọt" trong một hệ thống công an trị, nơi mà tham quyền song hành cùng tham nhũng. Với các câu ngạn ngữ mới của cường quyền ác bá thời nay : "ở đâu ăn đấy", làm tướng tá thì ở biệt thự, biệt phủ giữa cái nheo nhóc của dân đen. Với các câu châm ngôn mới của quan lớn, quan bé, lạm quyền nhờ bạo quyền "ở trên ăn nhiều, ở dưới ăn ít".

Bọn "sâu dân, mọt nước" này còn nghĩ là chúng có lối thoát mà thời của Tiên Hoàng không có là : "vơ tới cùng, vét tới tận" cho đầy túi, đến khi sơn hà nguy biến thì chúng sẽ "cao chạy, xa bay" ra ngoại quốc ! Chúng lầm, những quốc gia phương Tây dân chủ mà chúng chắc bẩm là sẽ yên thân để dung thân tà kiếp của chúng là những quốc gia luôn đấu tranh cho nhân quyền. Cho nên, ông bà ta nói gọn trong ẩn số kiếp người là : "lưới trời lồng lộng", tức là "chạy đằng trời chẳng thoát" ! Vì "trời có mắt", tức là "nhân quyền có thần nhãn", sẽ mang chúng ra xử tội (tội hình sự) với công pháp quốc tế, lúc đó chúng mới hiểu rõ câu của ông bà ta : "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa".

Chủ thể lấy tài chống hoạn vì thịnh trị

Chủ thể tự tư duy để có hành động, để tác động thẳng trong xã hội, ngay trong cộng đồng, thẳng lên thế giới, mang ý chí đúng, mang hoài bão đẹp, mang trách nhiệm cao. Trong ý chí được biến thành tự hành động, thì sự thông minh của tự do là tự do cẩn trọng, tự do làm ra cuộc sống phải được xem là đáng sống, không chạy theo các hoài bão mộng tưởng hão huyền. Chủ thể biết tự giải phóng trong thông minh của hành động, tức là không liều lĩnh chết người, vì tự do trong tàn phá, trong bạo ác chỉ là tự do của tự sát, vì nó không biết xây mà nó chỉ biết diệt. Chủ thể mang nội lực của sự cẩn trọng : từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định sáng suốt tới hành động tỉnh táo ; nên giữa tự do luôn có hai thực chất : can đảm và cẩn trọng.

Chân dung chủ thể theo có tiêu chí này có trong cuộc đời và sự nghiệp của Lý Thái Tổ. Năm 1009, Ngài lên ngôi hoàng đế, lập kỷ nguyên mới, một triều đại trị vì trên dưới 200 năm. Từ lập triều tới lập quốc, Ngài có minh sư Vạn Hạnh đưa đường dẫn lối, sử Việt luôn nhớ Ngài phát triển không những nông nghiệp mà cả kinh tế đồng bằng, dân trí mở mang, trường học xây lên cùng đền chùa, đất nước có giáo dục ổn định, dân tộc có đời sống tâm linh cao. Năm 1076, Lý Thái Tổ cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu, được xem như là trường đại học đầu tiên của nước Việt. Ngài sáng suốt, nhìn xa trông rộng, đưa binh lính về làm ruộng trong thời bình, Ngài cho lập các bản đồ biển đảo, định hình đất nước qua địa lý chính thống. Cả nước ghi nhớ công của Ngài dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vì Hoa Lư là địa thế của phòng ngự quân sự, không thể là thủ đô để phát triển kinh tế. Hoa Lư chật hẹp luôn bị lũ lụt, khó là nơi định vị của một thủ đô muốn phát triển toàn bộ. Ngài là minh quân vì Ngài có chủ trương với các ưu tiên chiến lược từ đó mới có thịnh trị. Triều Lý của Ngài lấy việc chỉnh đốn triều chính, lấy tài để chống hoạn, chống lãng phí, trừ bọn tham quan, tạo hùng lực mới cho đất nước.

Không như lãnh đạo hiện nay, không những nhân dân không thấy phương hướng đối ngoại của họ trước họa Tàu tặc, mà còn dở khóc, dở cười trước trò thanh trừng lẫn nhau giữa bọn họ qua các khẩu lệnh chống tham nhũng, trong khi thống kê thế giới vẫn tiếp tục xếp Việt Nam hiện nay là quốc gia tham nhũng loại thậm tệ nhất. Đây là cái độc tôn vô cùng trầm trọng của lực lượng độc quyền vì tham quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, độc đảng trong độc tài nhưng bất tài, độc trị nhưng không hề biết quản trị, lại không có bản lĩnh kinh tế, không có nội công lập ưu tiên phát triển đất nước, nên không thể nào có thịnh trị, là nguồn cơn của dân Việt nay bỏ xứ ra đi, có kẻ phải làm lao nô, phụ nữ thì gia nô, dân tộc ngày càng nheo nhóc !

Chủ thể biết biến khổ đau thành hùng lực

Chủ thể đưa lý trí lên hàng đầu, vào hạng ưu tiên để chọn lựa, để quyết định, để hành động, chủ thể chống lại sự vô cảm, chủ thể dẫm lên sự hèn nhát, vì chủ thể biết chống vô nhân. Chủ thể đạp lên sự thối nát, không chấp nhận một lực lượng công an, cảnh sát, xã hội đen giữa ngày thao túng dân lành. Chính quyền qua hệ thống công an lại thông đồng, giao kết và giựt dây xã hội đen để khủng bố dân oan, dân đen, dân lành. Chủ thể biết bảo vệ cá nhân, gia đình, dân tộc, nhân loại qua công bằng, công lý, công pháp, chính đây sự thông minh của chủ thể biết thăng hoa trong các phong trào xã hội đi tìm và sẵn sàng đấu tranh vì tự do.

Chủ thể hiện diện trong các phong trào đấu tranh vì công bằng và công lý của dân oan ngày càng được dân tộc hóa và cả nước đều biết. Chia sẻ, đồng cảm, song song với đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền của các phong trào ngày càng được thế giới hóa được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức nhân đạo quốc tế, Liên Hợp Quốc, và các châu lục đã có tự do. Chủ thể hành động bằng tự do trong đấu tranh vì nhân phẩm của dân tộc, nên dân tộc không bao giờ bị coi rẻ, xem thường, bỏ rơi, bỏ quên họ. Các chủ thể luôn được dân tộc tôn vinh, và càng được tôn vinh hóa trong bối cảnh trước thảm phận của Việt tộc với họa ngoại xâm của Tàu tặc, trong họa nội xâm của bạo quyền tham quyền, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền.

Hãy tìm về với Trần Thái Tông để nhận ra chân dung của chủ thể biết biến khổ đau thành hùng lực. Ngài là vị Minh Vương mang nhiều bi kịch : Thái sư Trần Thủ Độ (là chú ruột) với âm mưu để cho nhà Trần có người nối ngôi đã ép Ngài phế bỏ Lý Chiêu Hoàng là người vợ thân yêu đồng thời cũng là người đã trao cho Ngài ngôi vua (từ nhà Lý sang nhà Trần) để lập Thuận Thiên (chị ruột của Lý Chiêu Hoàng) làm Hoàng hậu khi bà này đã có thai 3 tháng với anh của mình là Trần Liễu. Ngài đã từ bỏ ngai vàng để đi tu vì không chịu nổi cảnh loạn luân của nội hôn này. Trước cảnh sơn hà nguy biến khi bọn Nguyên Mông đến xâm lăng, Ngài trở về ngai vua chỉ để nhận trách nhiệm bảo vệ nước nhà. Ngài làm vua trọn vẹn khi bước vào cuộc chiến chống quân Nguyên Mông hung hãn, kẻ đã xâm lược qua tới Châu Âu, làm cả thế giới khiếp sợ. Với những lời quyết thắng quân Nguyên Mông năm 1228, nhân dân công nhận Ngài là đấng Minh quân của nhà Trần. Ngài còn là một tác giả lớn với tác phẩm Khóa Hư Lục được nhân dân truyền tụng mến yêu. Ngài vừa làm vua, vừa tu tại gia, mỗi sáng Ngài dậy sớm tu trong thiền tập, niệm Phật bằng tâm. Ngài để những án văn, án kệ xuất sắc cho hậu thế. Thảm cảnh nội hôn không làm tâm cảnh của Ngài hỗn loạn. Qua bài kệ Tâm hương, thấy rõ Tâm Ngài sáng, trí Ngài thông, tuệ giác Ngài tinh khiết, sự trong sạch của tâm hồn làm nên sự trong sáng cho trí tuệ, tạo nên sự sáng suốt tăng tầm vóc thông minh, thật hiếm có trong Việt sử.

Bạo quyền tham quyền, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền đang lúc nhúc như ký sinh trùng quanh tập đoàn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng nghĩ sao khi :

- Đất nước đang lâm nạn xâm lược của Tàu tặc, mà mình ăn sung mặc sướng vì tham quan bằng tham ô để tham nhũng. Sống trong biệt phủ, biệt thự trước thảm cảnh của hằng triệu dân oan màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ ?

- Đồng bào đang nhận đại nạn của ô nhiễm từ công nghiệp bẩn, hóa chất độc, thực phẩm bẩn, với các làng ung thư mọc lên nhan nhản đã và đang đe dọa giống nòi Việt ?

- Việt tộc đang ngày đêm nhận, chịu bao thảm họa tới từ Tàu tặc ngoài biển khơi, Tàu nạn từ các nhà máy nhiệt điện, Tàu họa từ bọn côn đồ, du đãng tới từ đất nước Tàu hoạn của chúng, Tàu tà không những buôn con dân Việt để làm lao nô, nô tỳ cho chúng mà chúng còn sẵn sàng giết người để trộm, cắp, cướp, giật nội tạng ?

Chủ thể của trọn vẹn nhân tâm

Chủ thể của hệ đạo, nơi mà đạo lý và đạo đức làm nền cho luân lý qua trách nhiệm và bổn phận với đồng loại, với tha nhân ; luôn để cá nhân được quyền chọn lựa. Từ đây, nền luân lýquyền chọn lựa được hội tụ, không hề rời nhau, vì nếu không có quyền chọn lựa thì sẽ không có luân lý. Chủ thể luôn mang hệ lý, có lý luận để chỉnh lý, có lập luận để hợp lý, có giải luận để diễn luận từ gốc tới ngọn, từ nguyên nhân tới hậu quả. Chủ thể giải quyết để giải phóng kiếp nạn nhân, phải xác minh luôn phương tiện của chủ thể qua các công cụ có chính nghĩa vì có nhân đạo. Cách nói "cứu cánh biện minh cho phương tiện" chỉ là cách nói của kẻ nếu không muốn tự sát thì chóng chầy cũng trở thành sát nhân. Chủ thể nuôi tự chủ bằng chủ lực của nhân nghĩa, biết rời bản năng ăn tươi nuốt sống tức là giết để ăn, để nuôi thân, để được tới bản thể ăn ở có hậu, có ngày mai được chung sống qua công bằng với đồng loại, như cá thể có thông minh tôn trọng nhân loại, trong hùng lực của chủ thể có trách nhiệm với cộng đồng, có bổn phận với đồng bào, đồng loại.

Chủ thể nhận rõ lịch sử của nhân loại, và sắc nhọn nhất là triết học cho ra đời phạm trù của tự do chính là thông minh của lý trí, tạo nên trí tuệ. Thí dụ điển hình là ngay trên cổ sử và cổ triết của Hy Lạp là một xã hội có nô lệ và đã bóc lột nô lệ, nhưng thông minh của chủ thể đã biết chế tác ra tư duy tự chủ để làm nên các lý luận về tự do, mà còn sáng tạo ra cả một tư tưởng về Dân chủ. Chủ thể làm tự do trở nên sắc nhọn ngay trong sinh hoạt chính trị, trong các thể chế độc tài, trong các chế độ toàn trị mà không một ý đồ chính trị nào có thể giới hạn tự do của cá nhân, của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc trên con đường đi tìm nhân phẩm.

Trần Nhân Tông bằng trọn vẹn nhân tâm, đầy đủ tuệ giác, bản lĩnh tỉnh táo của nhân từ đã xây dựng được khối đoàn kết cho dân tộc trước họa xâm lược của Nguyên Mông. Chính nội công sáng suốt của nhân từ đã làm được kỳ công điều binh, khiển tướng của Ngài trong bối cảnh chỉ mành treo chuông của Việt tộc trước bọn ngoại xâm đầy tàn bạo, nhưng vẫn thua trận vì chúng không có nhân từ. Câu chuyện nhân từ trong cuộc đời minh quân của Ngài không phải là câu chuyện lòng trắc ẩn của Mạnh Tử, cũng không phải là lòng thương hại trong các đạo giáo ; mà nó là câu chuyện lấy nhân để cứu nhân. Đây là sự thông minh ở trên cao, trùm phủ xuống mọi định nghĩa về sự thông minh, đây là trí khôn của nhân lý và lý trí của nhân tri biết tìm về nhân nghĩa mỗi lần nhân thế xa nhân đạo. Và chỉ có Ngài mới có tầm vóc này để lập nên phái Trúc Lâm Yên Tử lấy Phật tại tâm để chế tác ra tâm tại thế !

Thiếu nhân từ, vắng nhân nghĩa, trống nhân bản, rỗng nhân văn vừa là hằng số cũng vừa là ẩn số của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đảng cho tới ngày hôm nay. Họ đã và đang đưa Việt tộc tới cõi suy đồi từ đạo lý tới linh hồn. Đây là thật bại lớn của các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, giữa các thất bại lớn khác về kinh tế, xã hội, dân chủ, nhân quyền... vì họ thành lập đảng, xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng, bảo vệ đảng trên hành vi bạo ngược, với hành động bạo quyền, lấy bạo động để diệt nhân từ, lấy bạo hành đẩy nhân dân ngày càng xa, càng biệt nhân từ. Không có nhân từ, nên các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trở nên nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo...

Thí dụ điển hình là tuần này với lòng nhân từ, các Phật tử vào mùa phóng sinh với lòng thành từ bi, yêu muôn loài như yêu chính mình. Phóng sinh để trả lại cuộc sống cho cuộc sống, trả lại tự do cho tự do ! Vậy mà các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cũng xen vào để "thả chim, thả cá", họ nhố nhăng, kệch cỡm, trơ tráo... vì là giả, dối, láo, xạo, không có lòng thành nhân từ thì phóng sinh chỉ là một màn kịch xấu, tồi, tục, dở.

Muốn có lòng thành nhân từ rất dễ, các vị này hãy thả ngay ! Hãy "phóng thích" ngay ! Hãy trả tự do ngay cho các tù nhân lương tâm, đấu tranh vì nhân quyền, dân chủ, công bằng, tức là vì nhân từ cho toàn xã hội. Thật dễ không hề khó, nhất là đối với các lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có quyền "sinh sát" với dân đen, dân oan, dân chúng... Thật quá dễ khi các vị chỉ để ra vài phút trong ngày, vài giờ trong tuần, vài buổi trong tháng, để đọc, để hiểu, để thấu những gì mà Phật hoàng Trân Nhân Tông đã nói, đã viết, đã tâm sự tự tâm !

Chủ thể có lý trí của công minh

Chủ thể không bao giờ rời quá trình hoàn thiện hóa cuộc sống, không hề xa quá trình cải thiện hóa nhân sinh, không hề bỏ quá trình nhâm phẩm hóa nhân loại. Chủ thể đứng về phía đối kháng chống bất công, là đứng về phía của kẻ yếm thế trước bạo quyền, là đứng về phía của nạn nhân của độc tài, là đứng về phía nước mắt nạn nhân của tham nhũng. Chủ thể đặt quyền lực vào đúng chỗ nó để nó dùng công lý mà xử bất công, giúp công dân có tự do trong tư duy để có tự do vận não với các hiểu biết về điều kiện sinh tử của nhân sinh, có thể bị hủy bất cứ lúc nào bởi bạo quyền, bạo lực, bạo chúa…

Chủ thể chống lại bạo quyền bằng tự chủ của lý chí, bằng quyết tâm với các lý luận nhân lý : tự do trong công bằng và bác ái, từ đó đấu tranh để xã hội công nhận đạo lý tự do-công bằng-bác ái vừa như nguyên tắc, vừa như khuôn mẫu cho mọi hành động xã hội, từ chính quyền tới cá nhân, từ tập thể tới cộng đồng… luôn biết lấy tự do làm động lực cho văn minh của dân tộc. Chủ thể chống lại bạo quyền bằng tự do đến từ nhân lý, có ngay trong nhân tính, xuất hiện từ nhận thức về nhân phẩm, ở ngoài các quy luật nhân quả của hoàn cảnh, vì tự do đến từ tư duy của con người dựa trên nhân luận được hỗ trợ bởi đạo lý, đạo đức, của nhân đạo, tức là không phải chờ mình phải là nạn nhân của bạo quyền rồi mới đấu tranh cho tự do của mình.

Lê Thánh Tôn có mang sự sáng suốt của chân dung chủ thể với các tiêu chí được nêu trên, với triều Lê mang nhiều tai tiếng, nhất là qua chuyện hãm hại các công thần : Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn. Ngài là vị vua được xem như anh minh, tài giỏi, có văn hóa, thiết tha canh tân đất nước, chăm lo cho dân tộc.

Từ triều đại của Ngài mới có câu : nhân tài là nguyên khí của quốc gia, quyết tâm sử dụng nhân tài qua thi cử, không để lan tràn chuyện "con ông cháu cha" như trong chế độ độc đảng hiện nay, Ngài ngăn chặn chuyện "con quan thì được làm quan", như hiện nay với hiện tượng "thái tử đảng", đảng đây là Đảng cộng sản Việt Nam. Dưới triều của Ngài, thì nước mạnh nhờ nhân tài, thời đó xã hội có vẻ còn công bằng hơn xã hội của "tiền tệ-hậu duệ-quan hệ" ngày nay, nơi mà Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang đưa Việt tộc lùi vào vực thẳm tối mù trước toàn cầu hóa của tri thức truyền thông. Ngài dùng quyền lực của mình để đề cao chủ quyền của đất Việt, để thẳng lưng bảo vệ quê hương, đây là một bài học khác -rất quý- mà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam phải cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối để học Ngài.

Chưa hết, Ngài luôn củng cố quốc phòng, điêu luyện hóa quân sự, ban hành các chính sách cải tiến vũ khí cho quân đội, Ngài phát triển kinh tế không những qua nông nghiệp, mà còn qua thủ công, thương mại... Hay nhất là các cải tổ về văn hóa, xuất sắc hơn nữa là bộ luật Hồng Đức dưới sự chỉ đạo của Ngài, được xem là một bộ luật hoàn chỉnh trong lịch sử Việt, với tính pháp quyền cao. Nhân bất thập toàn, Ngài cũng mang những tai tiếng của một cá thể không vượt qua được các gọng kềm phong kiến trong các quy luật tranh giành quyền lực.

***

Phần 2

Minh tướng : những bài học về chủ đạo

Chủ thể của chủ đạo

chuthe022

Chủ thể tự tin để đấu tranh, tự tin để tự giải phóng mình, vì mình và tha nhân, vì đồng loại.

 

Chủ thể của ý thức hiện hữu

Chủ thể của nhân cách luôn mang cùng lúc ba nội hàm, gầy dựng nên nội chất, đúc kết ra nội dung của chủ thể :

- Ý thức hiện hữu : có mặt trong cuộc sống, lấy tự do để định hướng nhân sinh quan.

- Ý thức chủ thể : có mặt giữa cuộc đời, lấy tự do để định vị thế giới quan ;

- Ý thức lý tưởng : có mặt trong thế sự với lý tưởng của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành cho mình, cho mọi người, cho chuyện sống chung trong xã hội là chuyện mong muốn, chứ không phải là chuyện cam chịu.

Chủ thể mang ý lực của tự do, được thực hiện cụ thể bởi hai tư duy :

- Tự do biến ước nguyền thành hiện hữu, hiện diện, hiện tại ngay trong phương án xây dựng cuộc sống ;

- Tự do biến dự phóng trở thành : dự đoán, dự tính, dự phòng ngay trong sinh hoạt thay đời, đổi kiếp vì mình, cho mình.

Chủ thể có cá tính, không những qua phẩm chất của cá nhân, đòi hỏi sống bằng chính nhân phẩm của mình, mà tự do còn chủ động cụ thể qua sáng kiến trong cải cách, sáng lập ra các hội đoàn, sáng tạo ra các phương án phù hợp với mong muốn, với chờ đợi, với tâm nguyện : thay đời đổi kiếp, cho mình, cho thân quyến, cho đồng bào, cho đồng loại. Cá tính là kết quả, hậu quả, hiệu quả của tư duy, của hành vi trong hành tác cá nhân, giờ đã có nội lực của kiến thức, sung lực của ý thức, hùng lực của nhận thức để đòi hỏi, để đấu tranh. Có cá tính để đề kháng, có cá tính để đối kháng chống bất công, chống bạo quyền, đây là định nghĩa của cá tính, vừa là thượng nguồn, vừa là hạ nguồn của các định luận về chủ thể.

Hãy nhìn chân dung chủ thể sáng rực của Ngô Quyền. Muôn dân khâm phục và quý trọng Ngài qua ba biểu tượng tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt : Ngài chấm dứt chớp nhoáng một sớm một chiều hàng ngàn năm đô hộ của Tầu tặc phương Bắc. Ngài xử lý gọn gàng hai mặt trận "thù trong, giặc ngoài", loại tên bán nước Kiều Công Tiễn, tống giặc Nam Hán ra khỏi bờ cõi Việt. Ngài cùng Kiều Công Hãn, Dương Thục Phi, Phạm Đức Dũng, Nguyễn Tất Tố... là những chiến lược gia xuất sắc đầu tiên đã phạm trù hóa chiến thuật thủy triều mà chiến tích trên sông Bạch Đằng thành mô hình quân sự cho thông minh Việt, được sử dụng nhiều lần bởi các minh tướng sau này.

Chấm dứt ngàn năm đô hộ Bắc thuộc phải biết thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc, có bản lĩnh của chủ thể làm chuyện đại cuộc và Ngài đã làm được. Xử lý trọn bọn buôn dân, bán nước loại Kiều Công Tiễn, xóa mối hận phản chúa cho chủ tướng Dương Đình Nghệ, giải tỏa luôn nỗi căm tức của nhân dân thời đó là trừ bọn nội phản để gây lại niềm tin cho Việt tộc là một làm việc rất lớn. Trong điều binh, khiển tướng, Ngài biết nghe, biết tiếp thu các sáng kiến tài, các sáng tạo hay của Kiều Công Hãn, Dương Thục Phi, Phạm Đức Dũng, Nguyễn Tất Tố... Ngài là gương của tất cả những ai muốn lãnh đạo đất nước Việt hiện nay, trước họa Tàu tặc, trước họa bán nước của bọn "sâu dân, mọt nước".

Tình hình hiện nay, Tàu tặc cướp biển, cướp đảo... của một đất nước có cả ngàn vị có chức tướng, mà không vị tướng nào có một tuyên bố liêm sỉ về toàn vẹn lãnh thổ của Việt tộc, không vị tướng nào có sáng kiến về các phương cách ngăn chặn giặc trên Biển Đông, không vị tướng nào có sáng tạo về chiến thuật quân sự trong tình hình mới. Sơn hà đang nguy biến, tại sao Bộ Quốc phòng cùng các tướng lĩnh suốt ngày đi buôn bất động sản, lòn lách trong các hệ thống ngân hàng... với bao mạng lưới tham nhũng qua hối lộ do chính các tướng chủ trì, lại thêm các tướng công an tổ chức đánh bạc trên mạng liên quốc gia để thâu tiền kiểu đầu nậu ! Họ là tướng hay họ đang vô tình "nối giáo" cho giặc ?

Trong chính sử, Việt tộc chỉ thấy và thờ tướng tài, tướng giỏi, tướng hay, nhân dân thấy "lợm giọng" trước các tướng hèn, vì các tướng hèn chỉ có chỗ trong tà sử, ma sử, tục sử, họ không có đứng trong Việt sử. Chủ thể của mãnh lực Ngô Quyền có nhận ra chân tướng của các tướng mà Đảng cộng sản Việt Nam trao chức không ? Tại sao trong hơn 600 tướng trong Bộ Quốc phòng và Bộ Công an mà lại bị nhân dân qua mạng xã hội đặt tên là hèn tướng, tướng Nguyễn Công Thưởng lại được thêm chức "tướng bưng bô", thuộc loài "té nước theo mưa". Không phong cách tướng, không tư cách lãnh đạo, thì làm sao có nhân cách trước ngoại xâm ! Hỡi phường sâu mọt !

Chủ thể biết thẳng lưng, ngẩng đầu trước địch

Chủ thể mang tính năng động để được nhập cuộc trên con đường đạo lý được chọn lựa bởi cá nhân, bởi tập thể, bởi cộng đồng, bởi dân tộc, bởi nhân loại. Nhưng đạo lý phải chỉnh lý và hợp lý để nhân đạo có sức mạnh của nhân lý. sáng suốt để có luận tỉnh táo, để mà đi về các chân trời hay, đẹp, tốt, lành. Chính lý luận thông minh vì lập luận thông thái của chủ thể mang tính tất yếu được chọn lựa bởi nhu cầu cần thiết, bởi mong muốn bức thiết, để cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc, nhân loại được sống tốt hơn trong nhân sinh, sống đẹp hơn trong nhân thế.

Chủ thể dụng tự do để khẳng định quyền tham gia vào công cuộc chung đi tìm hạnh phúc, bằng thể lực, trí lực, tâm lực của chủ thể, đây là định nghĩa cụ thể và minh bạch của thế nào là chủ thể. Và, chủ thể luôn được xác thực vừa bằng ý chí, vừa bằng quyết tâm, biến chí nguyện đã thành nội lực, thành ý nguyền, thành sung lực, để hành động bằng hùng lực của nhận thức, chủ thể xác định để minh định bằng can đảm của dấn thân.

Các tiêu chí nêu trên để định vị chân dung có đầy đủ trong nhân trí và nhân tâm của Lê Đại Hành, thập đạo tướng quân, và Việt tộc biết Ngài qua ít nhất là ba phẩm cách, thứ nhất là võ tướng bẩm sinh, thứ hai là sáng danh phận trai thời loạn, thứ ba là công tướng trí dũng. Nhưng phải thống hợp cả ba để lấy ra hằng loạt bài học cho hậu thế, cho hiện tại, có trong phương pháp luận sử học so sánh cổ-kim của phương Tây. Vì Ngài là nhân vật tiêu biểu mà các nước văn minh có sử luận uyên thâm được mang tên chủ thể cổ sử dẫn dắt hiện sử ; cụ thể là các bài học cổ Ngài để lại cho mai sau thì rất hiện đại giữa thời buổi hiện nay.

Ngài để lại vài bài học cho hậu sinh mà hậu thế không những phải ngẫm mà phải làm : Mưu lược quân sự của Ngài để chống nhà Tống có một không hai. Khi chúng thấy oai dũng của Ngài thì tìm cách viết thư chiêu dụ, chúng đã lầm từ đó, vì Ngài không phải loại người sống để "đầu hàng", mà mưu lược của ngài đi trên vai, trên lưng chúng ! Trận Bạch Đằng của Ngài được xếp là thứ hai trong sử liệu, sau trận của mãnh tướng Ngô Quyền, trước trận của dũng tướng Trần Hưng Đạo, ở đây xin gọi Ngài là minh tướng. Vì giữa trận mạc, Ngài "giả hàng" để tiếp cận sát với địch, mà chủ đích giết được tướng của địch là Hồ Nhân Bảo, ngay trên chiến thuyền của hắn. Giả cầm cựu trong thế yếu, giả hàng để sát kề thân địch, để diệt địch, và cứ thế mỗi trận một cách, trận Tây Kết thì bọn xâm lăng kinh hồn bạt vía !

Hơn 600 tướng lĩnh từ Bộ Quốc phòng tới Bộ Công an hiện nay phải học kỹ các bài học quân sự của Ngài. Tài lược ngoại giao của Ngài đã cướp hồn sứ giả nhà Tống, cho nên các lãnh đạo của Bộ Ngoại giao hiện nay phải học thật kỹ để luôn thẳng lưng, ngẩng đầu trước địch. Khi gặp sứ giả nhà Tống, Ngài không làm theo ý chúng là xuống ngựa và quỳ lạy, mà Ngài vẫn ngồi trên yên ngựa để đối thoại với chúng. Ngài luôn làm tăng vị thế ngoại giao của đất nước Việt, khai thị cho bọn sứ giả nhà Tống để chúng phải nể trọng Việt tộc.

Ngài thăng hoa dân tộc trong nước về nông nghiệp, kinh tế, rồi biến thành sách lược ngoại giao làm cho địch phải mở mắt là ta cũng thông minh, cũng giỏi, hay, tài, dũng như chúng. Để khi sứ giả nhà Tống trở về quê chúng phải viết lời công nhận : "Ngoài mặt trời xứ Tống, cũng có một mặt trời khác" (Đại Cồ Việt). Hành động lãnh đạo, của Ngài vừa thực, vừa sáng : Ngài cày với dân, làm ruộng vì biết đất Việt phải mạnh về nghề nông để Việt tộc mới vững về kinh tế. Ngài kinh bang tế thế, với xây công trình thủy lợi, từ Ninh Bình tới Nghệ An. Hậu sinh biết cúi đầu khâm tạ Ngài, trước nhiều bài học về phục hưng văn hóa, gầy dựng lại lễ hội, nhất là lễ hội đua thuyền...

Tóm lại muốn học Ngài, thì nên bắt đầu bằng ngôn ngữ của Ngài : "Biết chọn chân chính mà đem tài phò giúp, Biết tìm đường chính mà đi trong các nẻo rối ren của thế sự".

Chủ thể của quốc đạo

Chủ thể thấu hiểu sự vận hành của nhân trí, trong đó hậu quả (hay hiệu quả) của sự cố (hay biến cố) tạo ra tư duy của nhân lý dùng tự do để vượt thoát thử thách, vượt thắng thăng trầm qua đấu tranh vì tự do ; có ý thức về tính khả thi, đi từ năng lượng của cá nhân tới năng lực của tập thể, của cộng đồng, của dân tộc khi quyết đoán để quyết định thực tế hóa quyền tự do.

Chủ thể hiểu hệ dự (dự tính, dự báo, dự đoán), để lý trí phân tích được tình hình cụ thể, để trí tuệ lập ra các cứu cánh mới và đúng, cùng lúc triển khai các phương tiện hợp nhân lý để giành tự do, công khai đấu tranh vì hệ công (công bằng, công lý, công pháp) cho một công quyền có bản lĩnh của nhân lý, có tầm vóc nhân tri, có nội công nhân trí, để cuộc sống được tốt hơn, lành hơn, đẹp hơn, cao hơn.

Chủ thể có hệ công (công bằng, công lý, công pháp) vì biết và có : công bố một cách minh bạch nhất, vì thế nên tự do luôn ngược chiều với tà quyền ; công phu kỹ lưỡng trong chuẩn bị, kỹ càng trong thực hiện, không ăn sổi ở thìăn ở có hậu, vì thế nên tự do luôn là phản biện của bạo quyền ; công trình trong phát triển bền vững vì nhân phẩm dựa trên nhân nghĩa, xây dựng một tự do dầy nhân thức. Phương trình công bố-công phu-công trình làm nên sự nghiệp của chủ thể.

Trần Hưng Đạo, có đầy đủ, trọn vẹn chân dung chủ thể của quyết đoán với tất cả định đề đã được nêu trên. Việt tộc kính trọng, thờ phụng tôn vinh Ngài là Đức Thành Trần giữa các khai quốc công thần dựng nước và giữ nước. Câu chuyện này có lý do của nó, mà của nó thì rất hay, đẹp, tốt, lành, vì phẩm chất của Ngài thật cao, sâu, xa, rộng để hậu thế học, tu, dưỡng, hành cả đời. Ngài cao đẹp vì là người lãnh đạo vì nước quên thù nhà, trước bi kịch của cha là Trần Cảnh, trong thảm kịch nội hôn, mà chính gia đình Ngài chịu cảnh tan nát. Khi cha hấp hối, Ngài lại còn phải nghe lời cha dặn là : phải trả thù nhà ! Trả hận cho cha ! Ngài đã không làm chuyện đó, Ngài chọn hướng cứu nước, Ngài đứng về phía cứu dân, đạo lý này Ngài đã giữ làm lẽ sống cho mình suốt kiếp, và chuyện này thì tất cả các vua, các tướng, các quan, cả nước ai cũng biết, cũng trọng, cũng khâm phục ngài. Ngài có thông minh quân sự trọn vẹn của một lý trí luôn sáng suốt, có dũng cảm lãnh đạo tràn đầy của một nhân cách tỉnh táo, phương pháp phân tích của Ngài rất thuyết phục vua mỗi lần cả nước thề một phen sống mái với Nguyên Mông. Sức thuyết phục của ngài trao truyền lan rộng tới tướng sĩ, binh sĩ, muốn biết mãnh lực của nó, thì hãy đọc Hịch Tướng Sĩ của Ngài. Trong Hịch Tướng Sĩ, Việt tộc được tiếp nhận trước lòng yêu nước của Ngài : "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…".

Quân tử được tạo từ chính nhân, riêng Ngài đã đi xa hơn bao chính nhân, Ngài còn dìu dắt bao chính nhân trong thời đại của Ngài đi theo chính đạo mà chính đạo thời đó, trước đe dọa của Nguyên Mông, chính là quốc đạo (vì nước quên thân), quên luôn cả thù nhà, chỉ vì không được quên nước. Lòng kính phục của hậu thế trước đạo lý của Ngài có cớ sở vững : lấy sung lực lương tâm yêu nước để tạo nên lương tri lãnh đạo trong việc cứu nước-cứu dân, dụng lương tri lãnh đạo để làm sáng lên liêm sỉ vì dân trong nhân cách lãnh đạo.

Hậu thế ngày nay đang mong chờ lãnh đạo hiện nay của Đảng cộng sản Việt Nam biết : "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…" để đừng sa đọa trong lạm quyềnlộng quyền, và đừng suy đồi trong tham quyềntham nhũng. Vì tình hình đất nước hiện nay đã lâm nguy, đừng để tiền đồ của Hưng Đạo Vương phải chịu cảnh : lâm chung !

Đức Thành Trần nghĩ sao trong thảm nạn quốc phòng hiện nay của Việt tộc :

- Các tướng hiện nay không hề có kinh nghiệm tác chiến.

- Các tướng hiện nay chỉ biết quy hoạch đất đai để cướp đất của dân.

- Các tướng hiện nay chỉ tham tiền và thích tham nhũng, làm giầu bất chính.

- Các tướng hiện nay chỉ khôn nhà dại chợ, hiếp đáp dân lành biến họ thành dân oan.

Thái sư Trần Thủ Độ nghĩ sao trong thảm họa tướng không có tướng cách hiện nay của Việt tộc :

- Hèn thì có làm tướng được không ?

- Nhát thì có làm tướng được không ?

- Tham thì có làm tướng được không ?

- Tục thì có làm tướng được không ?

Và chắc chắn là hèn, nhát, tham, tục thì chắc chắn không bao giờ thành chủ thể !

Chủ thể từ dũng trí tới dũng khí

Chủ thể tự tin để đấu tranh, tự tin để tự giải phóng mình, vì mình và tha nhân, vì đồng loại. Chủ thể đưa hiểu biết lịch sử vào tận điều kiện làm người hiện nay để trả lời câu hỏi : ta đang có hay ta không có tự do ? Chủ thể lột mặt nạ độc tài để thấy rõ bản chất toàn trị của bạo quyền luôn muốn có độc quyền sinh sát trên tự do, bằng độc trị rất vô nhân vì rất vô lý. Chủ thể đi từ không chấp nhận bạo quyền ngoại xâm, không chấp nhận tà quyền nội xâm, đây chính là loại bất công của mọi bất công, phải giải phóng dân tộc và chấp nhận đấu tranh vì công bằng và công lý, đây chính là lộ trình liêm chính của chủ thể vì tự do của giống nòi. Chủ thể chấp nhận cùng đồng hội, đồng thuyền trong đấu tranh, tiếp nhận chân lý của nạn nhân. Mà nạn nhân lại là đồng bào của mình, chân lý của nạn nhân luôn là nền cho công cuộc đấu tranh của chủ thể.

Hãy cùng nhau nhìn lại chân dung chủ thể của Nguyễn Huệ, trước khi Ngài trở thành Quang Trung Hoàng Đế. Ngài đã là dũng tướng với bao dũng lực vì thời điểm Ngài làm chuyện bình Nam, dẹp Bắc là vô cùng phức tạp, là thời đại không có lối ra. Nguyễn Huệ một thân, một chính nghĩa đã phải đối phó với sáu mặt trận khẩn trương :

- Mặt trận thứ nhất là Trịnh-Nguyễn phân tranh, một cuộc huynh đệ tương tàn bị xem như là không thể dứt, nếu không có Ngài.

- Mặt trận thứ hai dai dẳng với Nguyễn Ánh mà hận thù đã lên ngất trời được xếp loại là không đội trời chung.

- Mặt trận thứ ba là sự ngấp nghé của thực dân qua con đường truyền đạo, mà ít nhiều Nguyễn Ánh đã rơi vào bẫy, khi khai thác triệt để Bá Đa Lộc.

- Mặt trận thứ tư là Thái Lan, thời đó là láng giềng cơ hội, thừa nước đục thả câu, cũng được Nguyễn Ánh không ngừng sử dụng.

- Mặt trận thứ năm chính là ông anh cả của Ngài : Nguyễn Nhạc, tâm địa lắc léo vì ham quyền cố vị.

- Mặt trận thứ sáu kinh khủng nhất chính là quân Thanh đang xâm chiếm đất nước Việt, chúng vào Thăng Long với tư cách vô cùng thô bỉ của bọn cướp nước Việt và khinh người Việt.

Khinh thường người khác trong chiến tranh thì dễ sinh ra khinh địch, cho nên quân Thanh đã bị quét ra, quét hẳn, quét hết, quét trọn, quét sạch qua chiến dịch thần tốc năm mươi ngày của Ngài. Chúng phải chui, phải chạy và cuối cùng là phải xin được giữ thân để về lại được quê cha đất tổ của chúng. Mặt trận quân sự phải giữ yên bờ cõi để giữ trọn tiền đồ tổ tiên, tức là hằng ngày phải quyết tâm-quyết chí-quyết chiến chống lại ý muốn-ý định-ý đồ của Tầu tặc là xâm lấn-xâm lược-xâm lăng đất nước Việt. Quang Trung Hoàng Đế nghĩ sao về hành vi của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ? đã được dân chúng hiện nay gắn bảng hiệu hèn với giặc, ác với dân :

- Hèn với giặc, khi chỉ biết cúi đầu khi Tàu tặc đang cướp biển, cướp đảo của Việt tộc ; ngược lại thì ác với dân khi bắt bớ, tra tấn, áp đặt những bản án độc ác lên các nhà hoạt động vì dân chủ và nhân quyền.

- Hèn với giặc, khi chỉ biết khoanh tay để tham nhũng khi Tàu họa đưa ào ạt các công nghiệp bẩn thỉu và độc hại trên cả đất nước ; ngược lại thì ác với dân để mặc nhân dân sống với bao hoạn bịnh ung thư từ ô nhiễm môi trường tới đến quỵ gục môi sinh.

- Hèn với giặc, khi chỉ biết quỳ gối khi Tàu hoạn cho thâm nhập tự thực phẩm bẩn tới hóa chất độc để hủy diệt dần mòn giống nòi Việt tộc ; ngược lại thì ác với dân khi vây bủa đời sống của nhân dân bằng bao thứ thuế má, ngày ngày nheo nhóc hóa dân tộc trong nghịch cảnh giầu sang bất chính của bọn tà quyền tham quan để vơ vét được "chống lưng" bọn ma quyền tham tiền "sân sau".

Quang Trung Hoàng Đế nghĩ sao về một phường ký sinh trùng lúc nhúc trong bóng tối như âm binh sống để bòn rút sinh lực của đồng bào, tài nguyên của quốc gia, cơ nghiệp của tiên tổ ?

Lê Hữu Khóa

(14/12/2019)

-------------

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie,Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam ÁCố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc,Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sưLê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa
dimanche, 15 décembre 2019 23:50

Chủ thể 1 : Sự thật và Tự do

Chủ thể Việt

(từ lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận tới nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã)

Chủ giác ?

Có khi phải khoanh tay tủi hờn trước sự thật

Vì bao lần nhân tâm để xẩy thai chân lý !

Có khi phải cúi đầu nhìn lại nhân dạng

Vì bao lần nhân tri để đánh mất tự do !

Có khi phải quỳ gối thấp hơn nhân dạng

Vì bao lần nhân tai đã giam cầm chủ thể !

suthat1

Chủ thể Việt tộc có chân dung của nhân quyền trước bạo quyền, nhân phẩm trước tà quyền, nhân bản trước ma quyền

Triết học

Trong truyền thống triết học, từ cổ triết Hy Lạp Socrate, Platon, Aristote tới triết cận đại với Hursselle, Heidegger, Sartres cho tới tận triết hiện đại Deleuze, Derrida, Badiou... các tác giả lẳng lặng tôn trọng một quá trình lý luận có mặt vừa trong sáng tác, tác phẩm, công trình, sự nghiệp của mình ba hàm số, có lúc là hằng số, có lúc là ẩn số, đó là quy trình học thuật : sự thật, tự do, chủ thể.

Bài này, cũng xin tuân thủ theo truyền thống tốt đẹp này và đưa hiện cảnh Việt trong thảm trạng Việt trước họa thù trong giặc ngoài, có nội xâm tham nhũng đang bòn rút tận xương tủy Việt tộc, từ tài nguyên tới tiền của, có ngoại xâm cướp biển, cướp đảo trước sự ươn hèn phản chủ thể của tập đoàn độc đảng-toàn trị.

Chủ thể Việt tộc có chân dung của nhân quyền trước bạo quyền, nhân phẩm trước tà quyền, nhân bản trước ma quyền, nhân lý và nhân tính để đi tìm nhân tri và nhân trí, có nhân vị và nhân văn để tiếp nhân tâm, nhân đạo, để hiểu nhân từ, thấu nhân nghĩa…

Sử học

Bài này đi từ cổ sử tới hiện sử, các chủ thể Việt tộc xem như các vị khai quốc công thần, anh hùng dân tộc, vì dân vì nước, vì quốc vong thân… có nhiều trong sử Việt.

Sử liệu cùng sử học làm rõ sử tính, nơi mà Việt tộc đã là một minh tộc, sáng suốt trong công cuộc chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước, đã là một dũng tộc, anh dũng trong kiên cường, dũng mãnh trong chiến đấu. Chính Việt sử sẽ tổng hợp lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận để tạo sức phản chiếu, mà thuật ngữ của thuật học phương Tây đặt tên là jeu de miroir, thuật chơi trước gương, thấy người để soi mình. Để hiểu và thấu tại sao tiền nhân Việt lại có nhiều những chủ thể lấy minh tính, dũng tính của họ để sẵn sàng hy sinh cứu quốc, rồi soi và xét tại sao lực lượng lãnh đạo độc đảng toàn trị hiện nay lại hèn với giặc, ác với dân, đặt vận mệnh dân tộc trước vực thẳm của Tàu tặc, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…

Chính trị học

Chính trị học chủ thể hoàn toàn trái ngược với chính trị học xảo thuật, vì chủ thể được định nghĩa như cá thể nhận vai trò công dân như cá nhân có cá tính, có trách nhiệm với đất nước, có nghĩa vụ với đồng bào, có bổn phận với đồng loại. Chủ thể hoàn toàn ngược lại với các loại mua chức bán quyền. Chủ thể tuyệt đối trái chiều với các loài sâu dân mọt nước, chủ thể trực tiếp đối kháng để đối đầu với phường buôn dân bán nước.Chủ thể trong tiểu luận này có nền của hệ chủ :

  • Chủ động từ đề nghị tới thảo luận, từ quyết định tới hành động.
  • Chủ đích từ mục đích tới mục tiêu, từ ý định tới ý lực.
  • Chủ quản từ quản lý tới quản trị, từ sáng kiến tới sáng tạo.
  • Chủ trị từ chính kiến tới chính trị, từ chính ngôn tới chính luận.
  • Chủ phận từ số phận hiện tại tới số kiếp trong tương lai.

Xã hội học

Xã hội học chủ thể là xã hội học hành động với sáng kiến của chủ thể trong quyết tâm thay đời đổi kiếp trước họa cảnh địa ngục của một quê hương, nơi mà cá nhân, tập thể, cộng động, dân tộc đang là nạn nhân của bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, nhưng chúng lại nhắm mắt-cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước Tàu tặc, Tàu tà, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu nạn…

Xã hội học chủ thể của hành động dụng sáng kiến và luôn đi thêm một bước tiên quyết nữa là : sáng tạo các phương án, các đề nghị, các áp dụng… có gốc, rễ, cội, nguồn của tự do để lập lại công bằng, để tổ chức lại bác ái trong quy luật của Cộng hòa. Chính quy định của Cộng hòa đưa sáng tạo của chủ thể tới sáng lập các định hướng vì nhân quyền qua dân chủ luôn biết dựa vào đa nguyên để có đa lực, đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu. Sung lực của chủ thể là sự thật, tự do vì công bằng và bác ái, hùng lực của chủ thể là nhân quyền trong dân chủ luôn có đa nguyên.

Chủ luận & chủ thể

Bài này mở ra không gian triết học, sử học, chính trị học, xã hội học để tới các ngành khoa học xã hội và nhân văn đã có những đóng góp cụ thể về nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã về ba hàm số học thuật này : sự thật, tự do, chủ thể.

Các ngành khoa học nhân văn : ngôn ngữ học, văn học… có nền tảng là văn bản, cũng như các ngành khoa học xã hội : nhân học, dân tộc học có cội rễ trong điều tra thực địa, cả hai đã cống hiến những công trình chủ đạo về ba hằng số, có lúc cũng là ba ẩn số trong sự khai phá học thuật về : sự thật, tự do, chủ thể. Như vậy, chủ thể trong tiểu luận này dựa vào lý thuyết luận, phương pháp luận, khoa học luận không riêng của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Tại đây, lý thuyết luận, mang nội hàm lấy lý thuyết để hỗ trợ cho lý thuyết ; nhận phương pháp luận, mang nội hàm nhận phương pháp để trợ lực cho phương pháp ; tiếp khoa học luận, mang nội hàm tiếp khoa học để trợ luận cho khoa học.

Tiểu luận này vừa giới thiệu hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận), vừa giới thiệu hệ cảnh (bối cảnh, hiện cảnh, thực cảnh, hoàn cảnh) mang thảm cảnh của xã hội Việt, dân tộc Việt, đất nước Việt hiện nay.

***

Sự thật : chân lý của chủ thể

(Định nghĩa, định đề, định luận)

suthat2

Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế

 

Sự thật là chân trời của chân lý, từ nghiên cứu qua điều tra, từ điền dã qua kiểm tra, từ so sánh qua tổng kết, nơi mà mỗi khám phá, mỗi phát minh, mỗi kết quả đều có giá của nó, và sự thật chỉnh chu trong chân lý : "có thực mới vực được đạo", là sự thực (sự thật) của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức). Chính sự thựcgốc, rễ, cội, nguồn của khoa học, luôn chứng thực để chứng minh, và sự thựcnền, cột, trụ, móng cho chân lý được ra đời và được công nhận.

Sự thật vô điều kiện trước ánh sáng của chân lý, sự thật học để hiểu, khi ta có thiện chí để học, có công cụ của tri thức đúng để tìm ra kiến thức mới và đúng về sự thật, thì sẽ hiểu mọi điều kiện cần thiết để nhìn, để thấy, để nhận và để hiểu ra sự thật. Cụ thể là ta phải biết tách chủ thể đi tìm sự thật và đối tượng đang ẩn chứa sự thật, từ đó chủ thể có thể tái tạo từ đầu tới cuối sự hình thành của đối tượng để thấy được sự thật. Nơi sự thật của con người chỉ biết vụ lợi để bảo vệ tư lợi của mình trong xung đột về quyền lợi, nơi mà mỗi tư lợi bám vào chỗ đứng cùng lúc muốn lớn lên và đe dọa các tư lợi khác thì chính tại đây xuất hiện sự thật để chỉ rõ sự xung đột đã có và thúc đẩy các lực lượng tốt trong xã hội liên kết chống lại các lực lượng xấu chỉ biết bám vào tư lợi của mình mà "thí mạng" các lực lượng khác.

Sự thật có hành trình ngay trên lộ trình chân lý, chúng ta phải biết là lẽ phải không nằm trong ý thức hệ luôn lấy ý đồ để vo tròn bóp méo sự thật. Con người phải có đầy đủ ý thức để biết là lẽ phải tới cùng với chân lý qua sự thật của sự kiện, khi sự kiện đã trở thành sự cố với tất cả tin tức, dữ kiện, chứng từ để từ đó dựng lên chân lý. Chính sự cố làm lộ ra sự thật và không hề tùy thuộc vào nhận xét chủ quan là chuyện này không thểcó, chuyện kia không khả thi, chuyện nọ mang tính không thực tế, để làm thay đổi tình hình : tất cả đều là một loại ngụy biện trá hình trước sự bất lực. Tính ngụy biện tạo ra tính bao biện để kẻ có ý đồ tồi muốn chặn phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải, thì luôn luôn sử dụng gian lý để ngoa luận :không thể có vì không khả thi và không thực tế. Lịch sử con người thì dạy cho chúng ta rất rõ là : sự cố xuất hiện để nói rõ là sự thậtsự có ; biến cố hiện lên để nói lớn là chân lý rất khả thi, và biến động sẽ tới để nói mạnh lên lẽ phải rất thực tế !

Sự thật mở cửa mời lẽ phải, từ đạo lý qua đạo đức, từ luân lý qua giáo dục, từ kinh nghiệm qua trải nghiệm, nhưng kẻ đòi tự do cho lẽ phải phải trả giá cho sự liêm chính của mình. Mỗi hành vi liêm sỉ, mỗi hành động liêm minh, mỗi hành tác đều có cái giá của nó, và tự do chân chính luôn chu đáo trong chuyện : được mắt ta ra mắt người, trong đó tư lợi cá nhân không được thủ tiêu công lợi của tập thể. Chính lẽ phải đưa công bằng vào công lý, giao pháp lý cho pháp luật. Chính phương trình công bằng-công lý-pháp lý-pháp luật là phương pháp luận hỗ trợ cho định nghĩa về tự do, để tự do này không được đập, phá, thiêu, hủy các tự do khác !

Sự thật biết đứng về phía nước mắt ! Sự thật trong mạng xã hội qua internet, trong đó các tin tức truyền thông, các sự cố ngoài vòng kiểm soát của chế độ độc đảng, của thể chế độc quyền, trước bị xem là ngoài lề, nhưng giờ đã trở thành chính thống,sự thật này ngược lại với bưng bít, với tuyên truyền, với tráo luận, với giả dối. Mạng xã hội qua internet lại còn đi xa hơn tin tức và truyền thông về sự thật của sự cố, nó còn là nơi hội tụ các đòi hỏi, các phong trào, các đấu tranh vì tự do, muốn tự do. Chính quyền độc đảng ngăn chặn internet, cấm đoán nó, truy hãm vì nó đứng chung không những phía sự thật, mà còn biết đứng về phía lẽ phải để bảo vệ các nạn nhân của bạo quyền : sự thật biết đứng về phía nước mắt !

Sự thật xuất hiện ngay trong hiện tượng, nơi mà cái thật được nhận ra qua trực quan, chính trực quan khi tổ chức lại lý trí, trao truyền cho ta một trí tuệ mới để ta tiếp cận ngày càng sát với sự thật. Sự thậtlà sự liên đới của các chủ quan để cùng công nhận là cái biết đã mở cửa cho cái thật xuất hiện, để sự thật tới như một chân lý có rễ sâu, gốc chắc mà không ai bứng được. Sự thật đã có từ lâu, đã có sẵn, đã có trước câu hỏi sự thật là gì ? Chính cái biết là chìa khóa để mở ra không gian của sự thật để cái thật được nhập nội vào cái biết. Khi chủ thể muốn tìm ra sự thật, thì chủ thể phải là chủ thể mở : mở để sống, mở để nhận, mở để biết, mở để đón sự thật, để được sống thật, sống đúng. Sự thật mang bản thể không ở trong cái giới thiệu, cái tuyên truyền, sự thật của bản thể chính là sự vận hành mà ta thấy-nhận-hiểu qua hiện tượng.

Sự thật có trong lý luận khách quan qua tổng hợp các chứng từ để xây dựng lên tri thức khách quan, đặt sự thật vào kiến thức khách quan để chân lý được khai sáng. Trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… kiến thức khách quan không như trong khoa học chính xác (toán), không như trong khoa học thực nghiệm (lý, hóa, sinh). Kiến thức khách quan trong sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế… được giải thích qua ngôn ngữ bình thường hàng ngày, mà không qua công thức toán, không qua thí nghiệm làm nên kinh nghiệm cho kiến thức ; mà sự thật trong đời sống con người chỉ được giải thích bằng ngôn ngữ chính xác nhất : nói thật để nói đúng. Khi ta đi tìm sự thật thì đừng quên tính hỗ tương, như là lực bổ sung của hai loại rất khác nhau, đối diện nhau để bổ túc cho nhau trên lộ trình nhận ra sự thật.

Sự thật xuất hiện trong sự ngẫu nhiên, nhưng khi sự thật ra đời thì chính sự thật sẽ loại đi sự ngẫu nhiên, để trở thành sự thật của phổ quát, của vĩnh hằng, được chấp nhận mọi nơi, mọi hướng. Sự thật thường tới sau một sự cố, chính sự cố tạo cho sự thật xuất hiện. Sự thật cần kiến thức khách quan để xây dựng lại quá trình làm nó xuất hiện. Sự thật hiện hình như sự tái tạo lại cái thật để chúng ta kiểm chứng được tính trung thực của nó. Sự thật khi thì cần các kiến thức qua thực nghiệm của khoa học, có khi thì nó cần đạo diễn, cần kịch bản để tổ chức lớp lang thứ tự các dữ kiện, các chứng từ làm nên nó, để xã hội và truyền thông, để tòa án và pháp luận kiểm tra mọi phần tử, mọi chi tiết đã làm nên sự thật. Sự thật thường xuất hiện như là một sự cố ngoại lệ, phổ quát ngay trong tư duy của con người. Sự thật tới từ sự ngẫu nhiên nhưng là sự có thể, nó tới để xóa đi sự chủ quan tạm thời của con người, nó xuất hiện dẹp hẳn sự chủ quan để dựng lên sự khách quan. Sự thật mang thực chất đặc thù, ngược với thói quen, trái với phản xạ. Sự thật khi được công nhận sẽ trở thành phổ biến với kết quả tất nhiên của nó.

Sự thật của sự vận hành vừa ngầm vừa nhanh, nửa hữu hình nửa vô dạng của thân phận Việt hiện nay. Với Tàu tặc đã chiếm đất, đảo, biển của ta ; với Tàu họa đang ô nhiễm môi trường, đang hủy diệt môi sinh của ta ; với Tàu hoạn đang ngày ngày đầu độc dân tộc ta qua thực phẩm bẩn, hóa chất độc, đang tổ chức trên quê hương ta một mạng lưới buôn ma túy dầy đặc để truy diệt các thế hệ trẻ của Việt tộc ; với Tàu nạn đang giật dây chính trị qua lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thao túng qua kinh tế, biển lận qua thương mại, tha hóa qua giáo dục… Tất cả song hành cùng với các làn sóng di dân Tàu ào ạt vào đất Việt để định cư lâu dài, trong quỷ thuật trai Tàu lấy vợ Việt, sinh con lai Tàu theo cha, tạo ra một lực lượng lai đang lan tỏa sâu rộng ngay trong giống nòi Việt. Sự thật này đã cho ta nhìn thấy là số phận Việt đã là đang lâm vào tử lộ của diệt vong !

Sự thật khi nhận diện được thủ phạm trong bạo quyền qua độc tài, tham nhũng qua tham quan, nhận diện chân lý để chứng minh các phong trào dân oan là hậu quả của chuyện trộm, cắp, cướp, giật của bọn bạo quyền thông đồng với bọn thầu đất. Chính nạn nhân giờ đã trở thành chủ thể tự do dầy cá tính bảo vệ sự thật để bảo toàn chân lý, bảo hành lẽ phải. Phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải là rễ của đạo lý, gốc của luân lý, cội của đạo đức, giờ đã đứng về phía nạn nhân, đã đứng về phía nước mắt, đã đứng về phía nhân quyền !

Sự thật lột mặt nạ sự xảo trá, chẳng hạn như chuyện chống tham nhũng, được mệnh danh là chiến dịch đốt lò của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhưng thực chất chỉ là chuyện tranh giành quyền lực để thu tóm quyền lợi giữa các nhóm lợi ích, mà thực chất chỉ là những mafia, sống theo phản xạ đám, đàn, bầy như âm binh, chọn lãnh địa đảng để thao túng toàn xã hội, bòn rút tới cạn kiệt tài lực của quốc gia, nguyên khí của Việt tộc. Chúng cướp quyền lực trước để cướp của dân sau, thanh trừng nhau trước trong nội bộ để dễ dàng thanh toán chuyện trộm, cắp, cướp, giật tài nguyên đất nước, tiền tài dân tộc, vốn liếng xã hội sau đó. Sự thật có mặt trong phân tích, trong giải thích, trong chứng minh là độc tài dựa độc đảng để có độc quyền, để tiếp tục được lạm quyền, tức là còn độc trị thì không sao diệt được tham nhũng.

Sự thật vạch mặt nạ các thỏa thuận ngầm, các thỏa hiệp lén, các thông đồng đi đêm bất-chính-vì-bất-lương của các mafia đang chia chác quyền lực để chia phần quyền lợi, để trục lợi, để nạo ruột các công trình của chính phủ. Với chính sách cướp đất giữa ban ngày qua đạo luật quái thai : "đất là sở hữu của toàn dân", "do chính phủ quản lý" và tất nhiên là "do đảng lãnh đạo", trong đó người dân chỉ có quyền "sử dụng đất", "theo thời hạn", và đất giờ thành các miếng mồi để các dã thú với thú tính của mafia cấu kết với nhau để cướp của dân. Sự thật vạch mặt bọn dã thú thứ nhất là các lãnh đạo dùng chiêu đểu "đổi đất lấy hạ tầng", sau đó trao các miếng mồi đất qua tham nhũng cho loại dã thú thứ hai là các chủ thầu làm hạ tầng trong dối trá, xây dựng cao ốc trong man trá với giá gấp hàng trăm lần so với giá đền bù cho dân. Sự thật vạch mặt chỉ tên các lãnh đạo Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và môi trường chính là các dã thú chúa : có quyền lực trong chính sách lẫn trong quy hoạch, có quyền lợi trong xóa nhà dân đen lẫn trong xóa sổ dân oan, để được giành phần rồi chia lời. Sự thật biết lột trần sự man trá.

Sự thật là nền của tri thức, chế tác ý thức trong nhân tính vì nhân phẩm, đó là tự do của kiến thức liêm chính đi tìm nhận thức đúng về cuộc sống có chọn lựa trong sạch. Nhưng quá trình minh bạch này đang bị tha hóa nặng nề về các lãnh đạo giáo dục bất tài nhưng có quyền lực qua độc tài dựa trên độc đảng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nếu họ sáng suốt thì họ sẽ phải hiểu : đối lập của ngu dân chính là tự do. Sự thật là gốc để xây dựng lý tưởng được lý trí quản lý, vì kiến thức khi trở thành ý thức mang giá trị của lý tưởng dùng kiến thức phục vụ nhân sinh, chính giá trị lý tưởng lấy kiến thức phục vụ đồng loại, thăng hoa nhân loại đang bị thối nát hóa đến cùng cực trong một nền giáo dục đã rơi xuống vực sâu của bóng tối tráo, lừa, lận, gian với hệ giả : học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả.

Sự thật giáo dục tính tự chủ để nhận kiến thức, đưa đạo lý kiến thức tầm sư học đạo tới đạo đức tôn sư trọng đạo mà Việt tộc đã đúc kết thành luân lý bền vững : công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy cũng đang sa vào bùn lầy. Các tệ nạn giáo dục : trò uy hiếp, bạo hành thầy cô, thầy cô cũng tra tấn học sinh, tất cả chỉ vì giáo dục bị lãnh đạo bởi một đảng rất sợ, rất ngại một nền giáo dục chân chính có gốc, rễ, cội, nguồn từ : sự thực của nhân tính, chân lý của nhân phẩm, lẽ phải của nhân đạo, không ngu dân được qua tuyên truyền sống sượng của tuyên giáo man trá. Tất cả cái giả tạo, phản sự thật sẽ tạo ra một nền cảnh giáo dục quái thai : vừa tha hóa kiến thức, vừa đồi trụy hóa tri thức, mà tội lỗi tới từ các lãnh đạo giáo dục độc tài nhưng bất tài nên bất tín, sẵn sàng bất chính ngay trong trách nhiệm trao truyền kiến thức trong sứ mạng giáo dục vì sự thật.

Sự thật được sống và lao động bằng kiến thứctri thức của mình, được làm trí thức qua ý thức của chủ thể có trách nhiệm với giáo dục, có bổn phận với các thế hệ của mai sau, trong nhận thức của giáo dục là chỉ có sự thật mới là kiến thức chân chính. Bọn quen thói tiền gian bạc lận qua học giả, thi giả, điểm giả, bằng giả không bao giờ có chỗ đứng để đối diện rồi trực diện với sự thật, vì sự thật là khoa học của học lực, tức là phải học thật để có học vị thật, học hàm thật. Sự thật đến để vạch mặt chỉ tên bọn gian lận mua bằng bán cấp, để làm chuyện mua chức bán quyền qua bằng cấp giả, có học vị lẫn học hàm mà không có học lực !

Sự thật chống kiểm duyệt của bạo quyền, bằng lòng quả cảm của mình chống lại hành vi tự kiểm duyệt do nỗi lo sợ bị trừng phạt bởi tà quyền. Chống đối để bảo vệ sự thật, đề kháng để bảo trì chân lý, đấu tranh để bảo quản lẽ phải, tự do thông tin trong tự do truyền thông không sợ kiểm duyệt, kiểm tra. Sự thật có cùng một giòng sinh mệnh với đạo lý truyền thông : đối thoại cho sự thật, đối lý vì chân lý, đối luận vì lẽ phải. Sự thật đòi hỏi minh bạch trong đối thoại về dữ kiện, minh chứng trong điều tra, minh luận trong chứng từ. Sự thật trong truyền thông chống lại quy trình truyền lệnh-tuân lệnh-hành lệnh của bồi bút, của văn nô, vì chúng xum xoe chống sự thật để cúi đầu nhận bổng lộc của bạo quyền, nhai nuốt đặc lợi để ngấu nghiến đặc ân vung vãi của tà quyền.

Từ vong thân tới vong nghiệp, bọn ký nô, văn nô viết để tha hóa thông tin, để gian lận tin tức, để đánh tráo chứng từ ; trong bọn chúng có kẻ còn dùng nghề làm báo, nghề viết lách của mình để đâm thuê chém mướn qua bôi nhọ, chụp mũ, vu khống những ai lương thiện khi chúng nhận được nhiều tiền của các kẻ bất lương. Làm tay sai vì tư lợi, đi ngược lại lương tâm nhà báo khi chúng lội ngược giòng của sự thật thì chúng chỉ là loại phản phúc chống lại chân lý. Bọn này đã đánh mất đi một nghiệp vụ học quý nhất là : tự do trao tin vì sự thật, truyền tin vì chân lý, đưa tin vì lẽ phải ! Vì chúng đã rơi vào tà lộ của điếm nghiệp.

Sự thật sẽ làm nền sự sống, giúp sử học viết đúng, viết trúng, tức là viết thật. Viết thật hay nói thật có khi bị trù dập, bị vu cáo, bị hãm hại, bị ám sát, bị tử hình… nhưng sự thật là sự thật phải được nói tới nơi, tới chốn. Nếu con người sống thật bằng sự thật thì cũng biết chấp nhận cái chết vì sự thật, sự thật là gốc của lòng tin biết dựa vào sự thật để nhận ra chân lý, vận dụng sự thật để làm nền cho lẽ phải. Lương tâm của trí thức là đây, lương tri của khoa học là đây, cả hai là hùng lực lương thiện của kẻ đi tìm sự thật.

Sự thật dạy ta sự khiêm tốn, Socrate khuyên con người khi đi tìm sự thật, phải đi tìm với chính nhân phẩm của mình, đi tìm là đi học, khiếm tốn để khiêm nhường với tâm thức : "Tôi biết là tôi không biết gì cả !". Khiêm tốn rồi khiêm nhường để có thái độ khiêm cẩn trước con đường tìm đến sự thật, sẽ có chướng ngại vật vì sẽ có rào cản, sẽ có thử thách rồi sẽ có thăng trầm ; có quá trình của "lửa thử vàng, gian nan thử sức".

Sự thật là sự định hình của chân lý, rồi nó trở thành bất di bất dịch, nó sẽ không thay đổi, sẽ không chuyển hóa, để được mọi người nhận như một giá trị vừa hiển nhiên, vừa vĩnh hằng. Có hai chỉ báo để "đánh dấu" trên sự thật : sự thật là tri thức, tới từ kiến thức của con người về một chuyện thật, mà chuyện thật này đã tách rời khỏi sự tưởng tượng, tức là đã ra khỏi ý tưởng tới từ cảm xúc chủ quan của cá nhân ; sự thật hiện hữu bằng logos : sự thông đạt của lý.

Sự thật có quan hệ với lòng tin, cái thứ nhất thì mang lại chân lý, cái thứ hai có khi dẫn con người tới cuồng đạo, vào mê lộ của mê tín lại lấy sự mù quáng để nhấn chìm sự thật. Ta có nội chất sau đây để ta nhận ra sự thật : sự thật xuất hiện như sự vén màn bóng tối của sự giả dối đang che lấp sự thật. Khi sự thật tới như ánh sáng vừa lan tỏa, vừa xóa đi bóng tối, thì sự thật vén màn tới đâu là nhân gian khám phá cái thật tới đó, tại đây có quá trình của vén-lật-nhìn-thấy-hiểu, các động từ này chính là các chỉ báo khách quan để định nghĩa thế nào là khám phá sự thật.

Sự thật không những đứng giữa ánh sáng lại còn lan tỏa để nhập nội vào nhân thế, để đổi nhân sinh quan của nhân tình, mà còn đổi luôn thế giới quan của nhân loại, dẫn con người tới nguyên nhân của sự thật. Nguyên nhân có khi nằm trong động cơ của kẻ nuôi dưỡng chuyện phản sự thật. Sự thật tới có thể làm chúng ta sững sờ khi nó xuất hiện, nhưng khi sự thật đã tới như chân lý hiển nhiên, thì sự thật trao cho chúng ta những chìa khóa để mở cửa mọi nhà tù đang giam hãm ta, để giúp ta khám phá ra sự thật này.

Sự thật xuất hiện để tách người ra khỏi sự mê tín không có cơ sở vì không được kiểm chứng qua một quy trình khách quan của tri thức ; như vậy sự kiểm chứng là cặp mắt của sự thật, làm nên quy luật vô trương bất tín (không thấy thì không tin). Và xa hơn nữa là khi ta thấy rồi, tin rồi, thì phải để kẻ khác kiểm chứng để chuyện thấy và tin, để sự thật trở thành chuyện không chối cãi được. Sự thật không đến thản nhiên rồi ra đi trong hồn nhiên, sự thật không chỉ bay lướt trên mặt đất mà nó yêu cầu ta phải đào thật sâu, bới thật rộng, cào thật xa để biết tại sao gốc, rễ, cội, nguồn của sự thật lại bị che lấp, và nó thường bị che lấp với các ý đồ của lòng tham không đáy. Sự thật đưa ra phân tích sâu và rộng để giải thích cao và xa, nên sự thật không bị giới hạn bằng biên giới của không gian, không bị định hạn bởi thời gian, cụ thể là nó không sợ hãi và không tuân thủ bất cứ vùng cấm nào cả. Sự thật khách quan yêu cầu ta tiếp tục điều tra, khảo sát, nghiên cứu chỉ như vậy sự thật mới là sự thật trọn vẹn, nhất định không phải là loại sự thật chột, què, ngọng, điếc đã bị tà quyền vo tròn bóp méo.

Sự thật đến như một sự kiện của sự cố để giải thích các biến cố đã, đang, sẽ xẩy ra khi sự thật xuất hiện với nguyên vẹn hình hài của nó. Và khi chủ thể khám phá ra sự thật nguyên vẹn này, thì chính chủ thể thường có nhận định là mình đã đi sau tới trễ đối với sự thật. Chính cảm nhận này sẽ hướng dẫn chủ thể thực hiện thêm hai việc : kiểm nghiệm lại mọi quá trình thực nghiệm (thật sự của sự thật) và đi thêm một bước hay nhiều bước nữa để được tiếp nhận sự thật đầy đủ mà không bị thiếu sót, để tiếp nhận sự thật được toàn diện, không bị phiến diện như là một sự thật tật nguyền.

Sự thật được khai sáng nhờ kiến thức, nhưng trước đó sự thật có thể bị vô thức của người trần mắt thịt vì đã quá cả tin vào chế độ đang quản lý sự thật, vào chính quyền đang quản trị sự thật ; tệ hơn nữa sự thật còn có thể bị vùi lấp bởi mê thức, tới từ hậu quả của tuyên truyền, từ hậu nạn của kiểu lưỡi gỗ chỉ biết nghĩ, biết nói một chiều làm ra đêm giữa ngày, để ma quyền dễ gạt đi mọi phản biện. Khi vô thức song hành cùng mê thức thì sự thật bị coi như một hiểm họa vì sự thật có thể đặt lại toàn bộ vấn đề về tổ chức xã hội, trong đó có tư lợi của chính kẻ đang là nạn nhân của vô thức hoặc mê thức. Cụ thể là quan hệ xung đột giữa kiến thức với vô thứcmê thức là quan hệ trong đó quyền lợi đặt chủ thể của nhận thức vào sự tỉnh thức trước sự thật ; hoặc ngược lại loại bỏ ý thức tới từ kiến thức để bảo vệ tư lợi trong vô ý thức.

Sự thật đưa kiến thức ra ánh sáng, mà ngay trong kiến thức cũng có loại kiến thức bị giấu giếm, để chỉ được chia sẻ kín đáo trong cùng bè đảng như trường hợp của ba lực lượng độc hại cho số phận Việt tộc hiện nay : bạo quyền lãnh đạo trong độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, tất cả đều tham tiền. Chính chúng là giặc nội xâm, trực tiếp hay gián tiếp mở cửa cho ngoại xâm Tàu tặc, chúng sống bất lương để làm giàu bất chính, loại này luôn "mất ăn, mất ngủ" vì sự thật sẽ tới để lột mặt nạ của chúng. Vì vậy sự thật không bao giờ được chính thức hóa qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn). Sự thật xuất hiện trong xã hội không đơn thuần như sự chứng minh một định đề toán, không thuần chất như giải nghiệm qua thí nghiệm của các ngành khoa học thực nghiệm hóa, lý, sinh… Sự thật xã hội là một mạng lưới có dây mơ rễ má trong sinh hoạt xã hội, có gốc, rễ, cội, nguồn trong đời sống xã hội, nơi mà quan hệ xã hội bị thao túng bởi những tư lợi ; người ta giấu một sự thật vì người ta có quyền lợi trong sự che giấu đó, là nền cho sự dối trá của kẻ muốn bảo vệ tư lợi của mình.

Sự thật đối nghịch với sự mù lòa, khi người ta thấy một con voi to lớn giữa nhà,nhưng người ta giả vờ như không thấy nó, thì đó là kết quả của vô thức đã cộng nghiệp cùng mê thức để sinh ra hậu quả của vô ý thức, tức là không tỉnh thức trước kiến thức. Tại đây, tri thức của khoa học xã hội và nhân văn sẽ làm nên được ý thức để giúp quần chúng có được nhận thức về chính số phận của mình : chỉ có sự thật Việt mới nói rõ được số phận Việt, không có một mê tín, mê lộ, mê cung, mê chấp nào thay thế được sự thật. Sự thật được tìm ra bởi thiện ý như là một ý chí muốn nhập nội vào sự thật để hiểu tới nơi tới chốn sự thật. Tại đây, khi ý chí dựa vào thiện ý đã trở thành ý lực thì ý lực này chính là thể lực của niềm tin, cái tin này cũng là bước đầu của trí tuệ, giúp ta khởi hành trên lộ trình đi tìm ra cái lý để hiểu cái thật. Cả cái tin, cái lý sẽ tìm ra cái thật, nơi mà cái tin chọn cái lý để tạo nền tảngđón cái thật được tới.

Sự thật có thượng nguồn là chỉnh lý, để đi tìm cái đang ẩn sâu trong cái lý, khi xem sự thật khi được tung ra như một loại ánh sáng có sức mạnh vô song tới để khai phá ý chí của con người muốn biết tận gốc rễ của cái thật. Chính độ sáng mãnh liệt này làm ngời cái thật được hiện hữu tròn đầy rồi hiện hình trọn vẹn giữa nhân sinh. Nó có lực tập hợp rất lớn đưa cá nhân tới tập thể, đưa các cộng đồng riêng rẽ tới chung một số phận của một dân tộc sống để bảo vệ sự thật sáng rực này. Ánh sáng sự thật càng lớn thì nó tạo ra được sự thỏa thuận, làm nên sự đồng lòng của mọi người thì sức vận hành của nó trong xã hội con người rất mạnh. Sự thật xuất hiện để xóa đi sự ngờ vực, sự thật đứng vững với chân lý của nó, vừa bằng lý thuyết luận, vừa bằng phương pháp luận của nó, làm nên khoa học luận về sự thật, sẽ mang một giá trị tuyệt đối.

Sự thật được phân tích như một nghệ thuật sống mà con người biết tự thuyết phục mình trước cái hiển nhiên vì nó rõ ràng trong tuyệt đối, đó chính là sự thật. Mà muốn tới sự thật này thì phải biết yêu cái thật để thấu cái thật. Plaon chắc chắn một điều là cái yêu đi tìm cái thật làm nên cái biết, cái hiểu về cái thật. Nhưng sự thật đi giữa tri thức quyền lực, sự thật luôn bị chi phối bởi hai cực này, ông tin là sự thật không vô tư và không vô điều kiện, vì cả hai tri thức và quyền lực đều không vô điều kiện. Platon chống lại quá trình của niềm tin khi nó đi tìm sự thật, ông giải thích là khi sự thật nằm giữa kiến thức và lòng tin, thì kẻ có lòng cả tin luôn có ảo tưởng đã là người nắm trọn được sự thật, nhưng thật ra là người đó đang nhốt sự thật vào lồng của niềm tin.

Sự thật tuân thủ các nguyên tắc khách quan thì niềm tin phải theo sự thật, chứ không phải ngược lại là sự thật phải theo niềm tin. Có ít nhất ba yếu tố cấu tạo ra sự thật : cơ cấu lý lẽ của sự kiện tại sao nó xuất hiện trong cuộc sống ; sau đó là tính biến đổi của nó qua thời gian - đây chính là sử tính của nó ; và cuối cùng là sự sống còn của nó qua các không gian khác nhau của xã hội con người. Trong sinh hoạt xã hội, quyền lực luôn tìm cách chi phối các tổ chức xã hội. Trong khi đi tìm sự thật Việt để hiểu số phận Việt, thì ai cũng biết là gần ngàn cơ quan truyền thông, dưới độc quyền của tuyên giáo qua độc tài trong độc trị của Đảng cộng sản Việt Nam, thì có chục ngàn bút nô, ký nô, văn nô được trả lương tháng để phục vụ cho một hệ thống truyền thông được tồn tại chỉ để viết những chuyện phản sự thật. Cái phản sự thật độc hại do độc đảng gây ra, từ nghèo nàn trong lạc hậu của xã hội Việt, tới các cuộc đấu tranh vì nhân quyền trong nhân phẩm qua dân chủ, thì đều bị vu cáo, vu khống, vu họa. Bọn bút nô, ký nô, văn nô hùa sủa với sự hỗ trợ vô điều kiện của bộ máy đồ sộ của tuyên giáo vang danh nhờ man trá.

Sự thật có cội là vốn liếng của gia đình đó trong quan hệ xã hội. Vốn kinh tế tạo nên vốn quen biết, rồi lấy vốn quan hệ xã hội để lợi dụng trên vốn chung của xã hội, lợi dụng rồi lạm dụng là động cơ chính để bảo vệ tư lợi ; cụ thể là tìm quyền để có quyền, và khi có quyền thì lạm quyền. Nên nguồn cội là quyền lợi qua tiền tệ-hậu duệ-quan hệ của một nhóm có thể làm giàu cá nhân đó, là con ông cháu cha dễ thành đại gia ; và ngược lại thì chuyện dân chúng lại nghèo đi, chật vật trong nheo nhóc, dễ thành dân đen, và chỉ một sớm một chiều bị cướp đất, cướp nhà làthành dân oan.

Sự thật của xã hội Việt Nam hiện nay có thể nhìn qua các nạn nhân của quyền lực qua đàn áp do công an trị được trợ lực bằng bạo động qua các hệ thống truyền thông, báo chí phục vụ ý đồ của tuyên giáo. Ta lại càng không quên : bạo động truyền thông với giọng điệu của chính quyền bắt buộc dân tộc phải nghe sự dối trá như là chân lý ; để từ đó chôn vùi thực chất của sự thật, tạo nền tảng để chính quyền này dễ vu khống để vu cáo, dễ điêu ngoa để chụp mũ sự xuất hiện của mọi lẽ phải. Sự dối trá bằng phản xạ điêu ngoa luôn vùng vẫy trong bùn nhơ phản sự thật.

Sự thật mở cửa cho lương tri, vì chủ thể có lương tâm trong hành động, làm nên tính lương thiện trong lý luận đưa chủ thể đó về hướng : phải nói thật để phải thật khi nói, mặc dù có thể bị xử tử bởi bạo quyền lãnh đạo, bị ám hại bởi tà quyền tham quan, bị trừng phạt bởi ma quyền tham tiền. Khi nói thật để bảo vệ sự thật như chân lý để đi tìm lẽ phải, thì sự thật chính là tiền đề của đạo lý biết sống bằng hay, đẹp, tốt, lành trong mọi sinh hoạt xã hội, của luân lý làm nên điều hay lẽ phải trong trách nhiệm và bổn phận của một công dân đối với xã hội mà mình đang sống. Sự thật của xã hội được sự xếp hạng thứ tự trong những giá trị mà xã hội đó tôn vinh, chính sự xếp hạng này cho phép hoặc không cho phép một sự thật xuất hiện, tại đây có khen thưởng hoặc có trừng phạt. Sự thật chỉ được thuyết phục bởi cái lý, nhưng chính Platon cũng khuyên ta hãy cẩn trọng khi sự thật bị chính cái lý thông thường, phổ quát mà thực chất là phản sự thật, đang có sẵn trong tín ngưỡng vây bủa, bóp chết sự thật ngay trong trứng nước bằng cái lý độc tôn có trong độc quyền để chống lại sự thật đó.

Sự thật tác động vào lòng tin, nơi mà lòng tin có kiến thức riêng của nó, có cái lý riêng để định vị, cụ thể là con người không muốn tin những sự thật mới tới để rồi lật đổ các niềm tin đã có trong con người. Sự thật có thể nằm im lìm trong quên lãng, trong những gì mà người ta không muốn hiểu, những gì mà người ta không muốn biết. Khi sự thật đụng chạm tới tư lợi, đây là chuyện thường tình của nhân gian, nên trong khoa học cũng có chuyện tranh giành quyền lực như trong chính trị, trong tôn giáo cũng có chuyện tranh giành quyền lợi như trong kinh tế… Nếu ta muốn bảo vệ sự thật khách quan, tới với chân lý của sự việc, chúng ta không bảo vệ sự thật một cách chung chung, mà trước hết là bảo vệ lý trí của sự thật làm nên chân lý cho lẽ phải.

Sự thật trước quyền lực và quyền lợi, nơi mà sinh hoạt xã hội được tạo ra từ hai loại người kẻ thống trịkẻ bị trị. Kẻ thống trị nắm không những quyền lực, mà còn thao túng luôn cả tri thức. Bằng thủ đoạn của mình, qua chính quyền thuộc về mình, với mục đích kéo dài chế độ thống trị, nơi mà sân chơi, trò chơi, luật chơi được tổ chức rồi giật dây để khống chế rồi áp bức kẻ bị trị. Tại đây, kẻ ăn trên ngồi trốc làm giàu qua sự bóc lột những người cày sâu cuốc bẫm ; kẻ thống trị thì ngồi mát ăn bát vàng sống trên lưng những người lưng đội trời, mặt áp đất ; kẻ thống trị này đi trên vai những người một nắng hai sương bằng thói ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau ; kẻ thống trị này lại tự cho phép mình nằm chờ sung rụng lại còn dẫm lên đầu những người thức khuya dậy sớm qua sưu cao thuế nặng - đây chính là họa nạn của Việt tộc hiện nay. Sự thật của xã hội Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa lạm dụng mọi sinh khí xã hội, vừa bóc lột tới tận cùng xương tủy kẻ bị trị.

Sự thật vạch mặt chỉ tên bạo quyền, nơi mà đời sống Việt hiện nay là kẻ thống trị vừa bòn rút, vừa trấn lột kẻ bị trị. Kẻ thống trị quây quần với nhau để lập ra những tập đoàn quyền lực, tạo ra bất công tuyệt đối kẻ ăn ốc, người đổ vỏ như ta thấy qua thảm kịch của dân đen hiện nay bị lợi tức tàn mạt, ngày ngày sống với lạm pháp phi mã. Lực lượng thống trị chung quanh Đảng cộng sản Việt Nam sống bằng bạo quyền độc tài trung ương, bằng tà quyền tham quan địa phương, ma quyền chung quanh các nhóm lợi ích, có sân sau, có ô dù, được chống lưng, hít vào bằng biển thủ, thở ra bằng gian lận… tồn tại như các ký sinh trùng bòn rút tài nguyên của đất nước, tiền tài của dân tộc. Các ký sinh trùng này được "tẩm bổ" để trở thành một tập đoàn tội phạm trong hệ độc : độc đảng để độc tài, độc trị để độc quyền, độc tôn để độc quyết, bất chấp mọi độc hại tới với đồng bào, đất nước.

Sự thật có ngay trong sự bất bình đẳng của xã hội ; có ngay trong sự bất công xã hội đó ; có ngay trong sự bất nhân xã hội đó, có ngay trong sự vô luân của kẻ thống trị bấp chấp đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của tổ tiên đã làm nên luân lý của cộng đồng Việt biết sống có trách nhiệm với đất nước, làm nên đạo đức của dân tộc Việt biết sống có bổn phận với đồng bào. Sự thật là vũ khí để chống độc tài luôn tìm cách che lấp sự thật. Sự thật cũng là vũ khí chống mỵ dân của độc tài, chống đạo đức giả của độc đảng. Sự thật tới để lật mặt nạ của bạo quyền trong bất bình đẳng, của tà quyền trong bất công, sự thật giải thích dựa trên các công cụ phân tích về số kiếp của kẻ bị trị, để kẻ này thấy rõ số phận mình qua các bẫy của kẻ thống trị, khi kẻ thống trị xem kẻ bị trị như công cụ để lợi dụng rồi bóc lột.

Sự thật có mặt trong sự bất công, chính cái bất tín làm nên sự bất công, là cái phản sự thật đang xiết cổ sự thật, bất công được tồn tại để bất nhân được che giấu. Con người sẽ tìm ra sự thật của số phận mình ngay trong sự nổi dậy chống bất công, đây là một mệnh đề mới của học thuật đương đại, vì sự nổi dậy để lật đổ độc tài chính là gốc, rễ, cội, nguồn của bất công, và bất nhân đưa ta tới con đường của sự thật. Sự nổi dậy luôn dùng tự do của mình để tái tạo lại công bằngbác ái làm nên nội chất của Cộng hòa, tạo ra thực chất của dân chủ, đây chính là chân trời của sự thật. Không phải chỗ nào có bất công là chỗ đó có nổi dậy, nhưng chỗ nào nổi dậy rồi chỗ đó chắc chắn có bất công ! Đây cũng là thử thách để kiểm chứng Việt tộc có phải là một minh tộc hay không trước cuộc sống hiện tại của chính mình ? Đây chính là thử nghiệm để xác chứng Việt tộc có phải là một dũng tộc hay không trước tiền đồ của tổ tiên, trước vận mạng của đất nước, trước tương lai của giống nòi ?

Sự thật thường xuyên bị ngăn chặn bởi bạo quyền vừa là tà quyền thì nó đổi trắng thay đen sự thật bằng phản xạ điêu ngoa của nó. Chưa hết, qua bộ máy tuyên truyền nhập nội cùng hệ thống công an trị của nó, nó còn dựng lên mọi ý đồ để chặn ngăn sự thật không được phát triển thành sự cố. Khi chặn được sự cố rồi, chúng còn chặn luôn sự kiện hiển nhiên để sự kiện không vào được quỹ đạo của biến cố để thành sự thật. Từ đây, bạo quyền độc đảng luôn ngăn sự phát triển của chủ thể là dùng tự do của mình để khám phá sự thật, tà quyền ngăn luôn kiến thức đi tìm sự thật, để kiến thức được trở thành tri thức, là nơi bảo vệ và giữ gìn sự thật qua thời gian.

Sự thật có mặt trong nạn nhân oan để giải thích hiện tượng bạo động, đó là kiểu giết người của bạo quyền giữa thanh thiện bạch nhật, buộc tội oan một người, một tập thể nhỏ, một cộng đồng yếu để quy chụp những tội mà họ không gây ra. Hoặc biến một lỗi nhỏ của một cá nhân, một nhóm thành tội đồ với tội trạng được phình to ra để hành quyết các nạn nhân oan, như để làm vật tế thần trong một xã hội đang mất niềm tin, đang bị tha hóa. Nhưng chính các nạn nhân oan, không đáng tội chết nhưng bị xử oan để phải chết oan, sẽ giải tỏa sự tù hãm của một tập thể, của một cộng đồng, của một xã hội đang mất phương hướng. Một vài côn đồ, du đãng được công an sử dụng, được bọn ma quyền buôn đất trả tiền, có thể bắt cóc và tra tấn cho tới chết một dân oan đang bảo vệ mảnh đất của mình, một xã hội cho phép đòn thù để tra tấn cho tới chết, mà lại được một độc đảng bạo quyền che lấp tội ác, che giấu tội phạm là một xã hội đang bị nạn nhân hóa.

Sự thật có mặt trong thi thể của nạn nhân, trong sự thật Việt làm nên số phận Việt hiện nay đang diễn ra hằng ngày là một vài công an có thể đưa người vô tội vào đồn công an và đánh đòn thù cho tới chết, để hôm sau báo với gia đình của nạn nhân này là nạn nhân đã tự tử ! Nhưng không một tên công an sát nhân nào bị điều tra để sau đó được phân xử công minh trước tòa án. Gia đình của nạn nhân oan này không dựa được vào pháp luật, vì tư pháp hiện nay không hề liêm chính, vì bọn xã hội đen này lại được công an bảo kê, được bọn ma đất trả lương. Đây chính là độc lộ của dân chúng trong xã hội ngập bất công mà một công dân có thể bị ép vào tử lộ để đi thẳng từ dân oan tới nạn nhân oan, vô tội đã trở thành tử tội. Một nhóm lợi ích tham nhũng đang lũng đoạn xã hội, đang bị điều tra có thể thủ tiêu một đàn em có vài triệu chứng phản bội chúng, để vừa trả thù, vừa để trút giận vào kẻ sẽ là chứng nhân đang tính chuyện bỏ bè rời đảng trong một tập đoàn tội phạm. Bè đảng này có thể thủ tiêu chứng nhân này, để trút xả mọi cuồng bạo của nó mà bất chấp pháp luật hiện hành, một xã hội có mức độ bạo động cao, có cường độ bạo động thường trực như xã hội Việt hiện nay, thì chuyện "thí mạng" nạn nhân oan là một chỉ báo để nói lên sự thật : khi bạo quyền trở thành tà quyền mà sẵn sàng giết người, thì nó rất dễ dàng giết luôn đạo lý lẫn luân lý, diệt luôn giáo dục lẫn văn hóa.

Sự thật có trong bạo lực của bạo quyền, có trong định nghĩa sự bạo động, thì đường đi nẻo về của nó là sự giết hại từ tính mạng tới nhân phẩm của nạn nhân của nó. Khi ta nhìn về sự bạo động, ta thường nghĩ là ta không phải là thủ phạm, mà kẻ khác mới là thủ phạm, nhưng trên đạo lý làm ra đạo đức khi ta nhắm mắt để bỏ qua các tội phạm, thì ta đã đồng lõa với tội ác, và cứ để tội ác tiếp diễn và lan tràn, thì luân lý học gọi tên nó là : đồng phạm ! Hãy xem xét chuyện đi tìm sự thật bằng hành động của mỗi cá nhân thiết tha sống vì sự thật, kết tụ với những hiểu biết khác nhau lại để cùng chung sức dựng lại hay dựng lên một sự thật đang bị vùi lấp. Sự kết hợp các quan điểm qua các tri thức khác nhau, các kinh nghiệm khác nhau, nhưng khi nhập lại làm một tổng hợp đủ lực tạo ra một viễn ảnh ngày càng sáng, một chân trời ngày càng tỏ, giúp chúng ta cùng nhau đi tới mà nhận diện ra sự thật đó thì Platon gọi là hành động truyền thông liên kếtlực kết hợp

Sự thật trao quyền sống đúng, không ai là nạn nhân của bất công. Trong một xã hội mà bóc lột là vô nhân, mà tham nhũng là vô luân, trên nguyên tắc của nhân quyền, con người được quyền sống trong một xã hội đáng sống, không ai là dân đen, dân oan của ai cả ; và khi con người nhận ra sự thật này tức là con người đã biến nhận thức thành tỉnh thức.

Sự thật dặn dò ta phải cẩn trọng ngay trong tin tức, dữ kiện, chứng từ, vì sự thật luôn bị đánh tráo, đổi trắng thay đen, bị biến dạng trong khi ta đi tìm sự thật. Bạo quyền không thể chụp mũ, vu cáo một kiến thức toán trong một định đề toán, tà quyền không thể chính trị hóa toán học được nhưng bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng có thể vu khống một sự thật của khoa học xã hội nhân văn, bằng cách chính trị hóa để lũng đoạn hóa các tri thức của khoa học xã hội nhân văn. Và khi khoa học xã hội nhân văn không bị bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham nhũng khai thác, thì nó lại bị các ma quyền truyền thông này giật dây, vu cáo, chụp mũ... Nên từ đây, xã hội học hiện đại đã là một kiến thức biết tự phòng vệ để chống lại bạo ngôn của bạo quyền lãnh đạo, xảo ngôn của tà quyền tuyên giáo, lộng ngôn của ma quyền truyền thông. Một sự thật muốn vững trong không gian để bền với thời gian là một sự thật biết tự phòng vệ !

Sự thật về nhân phẩm nơi mà con người là một cá nhân với đời sống xã hội của nó, là thực hành xã hội của cá nhân này trước quyền lợi của nó trong tổ chức xã hội nơi mà cá nhân đó đang sống. Từ đây, ta thấy được những mâu thuẫn, rồi những xung đột hoặc hợp tác của cá nhân đó trong sự vận hành của các cơ cấu xã hội. Khi cá nhân có quyền lực vừa lãnh đạo cả xã hội, vừa chủ mưu tạo ra đặc quyền, đặc lợi làm nên đặc khu cho riêng quyền lực thì chính tư lợi đã ngăn chặn không cho các cá nhân khác và tập thể thấy hết được sự thật. Chính sự đấu tranh ngay trong xã hội đó sẽ làm sáng ra sự thật, để mọi người thấy rõ bạo quyền dính tới tham nhũng, tà quyền tham quan dính tới ma quyền trọc phú, tất cả bọn này đều là buôn gian bán lận trong không gian âm binh của chúng, và chúng biết lách luật để né luật, thậm chí tráo luật để xé luật, để thủ tiêu sự thật ngay trên thượng nguồn của nó.

***

Tự do : chủ lực của chủ thể

(Định nghĩa, định đề, định luận)

 

suthat3

Chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai

 

Tự do có trong nhân tính có từ khi con người phải tự gầy dựng cho mình một chương trình, một dự phóng, một tương lai nếu con người không dựa vào được thượng đế, thần linh hay tôn giáo hoặc dị đoan để trực tiếp gánh số kiếp của mình. Tự do hiện diện trong chất sống của một cá thể, luôn được cũng cố bởi các phương án của cá thể đó trong suốt quá trình sinh tồn của mình : tự thân trong tự chọn để tự chủ trong tự tin, là chỉ có mình mới nuôi, mới sống cho mình, nghĩa là chỉ có mình mới tự cứu mình được mà thôi.

Tự do của nhân vị, khi được định vị, định hình, định dạng qua ngữ vựng, ngữ văn, ngữ pháp : tự do là tự do, thì tự do không còn cần tới cách giải quyết siêu hình (học) là con người sinh ra và số phận của nó thuộc về hoặc nằm trong tay đấng tối cao là thượng đế. Bản chất của tự do là vô thần, vì nội chất của tự do là vô thánh, nhưng tự do không vô đạo, nếu định nghĩa đạo là con đường, thì chính tự do là con đường để nhân sinh đi đúng vào hướng của nhân tính

Tự do là quyền phán đoán, phán đoán lịch sử để hiểu sử tính, để thấu sử luận để không lặp lại sai lầm về sử quan trong tương lai, phán đoán các chính quyền độc đảng làm chỗ dựa cho độc tài, độc trị, độc tôn, để chọn lựa và quyết định cuộc sống theo hướng đa tài dựa trên đa trí,đa năng, đa hiệu, có cơ sở trong đa nguyên để bảo đảm dân chủ vì nhân quyền của chúng ta. Tự do là quyền hành động, hành động để nhân cách của chúng ta được tôn trọng trong nhân phẩm của một nhân tính trọng nhân quyền, quý nhân tri, yêu nhân trí để nhân thế được tự do chọn lựa nhân nghĩa, nhân tự, nhân đạo, tức là nhân bản.

Tự do đi tìm sự thật từ chính trị qua kinh tế, từ tâm linh qua tôn giáo, từ dấn thân qua cách mạng, nhưng kẻ đòi tự do cho sự thật phải trả giá cho sự chọn lựa của mình và tự do chân chính luôn đòi hỏi chuyện : đúng giá ! Tự do luôn có tri thức sống động để chống lại chuyện : quá giá phá giá ! Vì tự do luôn mang lý trí sinh động chống lại tham ô, tham nhũng của bọn tham quan, tham quyền sống nhờ quá giá phá giá, mà nội chất của bọn này là : cờ gian, bạc lận.

Tự do cận kề nhân phẩm, khi nó nhận ra chính nhân phẩm hay, đẹp, tốt, lành sẽ cứu nhân thế còn nhiều điều xấu, tồi, tục, dở, khi chính tự do dùng nhân phẩm để xem, xét, khảo, tra nhân loại còn lắm chuyện thâm, độc, ác hiểm, trong đó nhân sinh vẫn còn là nạn nhân của nhân tình, khi nó đã mất nhân tính.

Tự do song hành cùng nhân đạo, khi nó chọn đạo lý để giữ khoan dung, đạo đức để nắm rộng lượng, luân lý để nâng vị tha. Khi cái bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) còn đang tung hoành bởi cái độc (độc tài, độc quyền, độc tôn, độc trị) qua độc đảng, đang ngày ngày làm kiệt quỵ sinh lực của hệ hiệu (hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả) vì cái độc này đã giết ngay trên thượng nguồn hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) thì định nghĩa năng động nhất của tự do là : tự do sáng tạo !

Tự do luôn là tự do có điều kiện, điều kiện nhân phẩm dùng nhân lý, nhân tri, nhân trí để củng cố, để thăng hoa nhân nghĩa, nhân từ, nhân đạo, để đưa nhân tình, nhân thế, nhân loại vào đúng quỹ đạo của nhân quyền : sống chung vì đáng sống. Nếu tự do không có điều kiện sẽ là tự do trong tự sát, vì nó biến cuộc sống thành địa ngục, cuộc đời thành âm phủ. Tự do luôn là tự do có điều kiện vì nó muốn lánh địa ngục, xa âm phủ, vì nội chất của nó là sống hay, sống đẹp, sống tốt, sống lành, chớ không phải sống tồi, sống tục, sống dở, sống nhục.

Tự do là trụ cột của cá nhân, là cá thể có cá tính, tại đây tự do nâng hệ tới hệ chủ (chủ động, chủ đạo, chủ quyền) để cá thể thực sự thành chủ thể, sống có trách nhiệm với tập thể, lao động có bổn phận với cộng đồng, tiến thân có đạo đức với xã hội. Chủ thể đó không ngừng có sáng kiến với dân tộc, có sáng tạo vì đất nước, chính tự do là định chất của mọi định nghĩa về chủ thể sáng tạo trong mọi xã hội văn minh, dân chủ, nhân quyền hiện nay.

Tự do dẫn dắt dân chủ, chính tự do sẽ đưa đường dẫn lối nhân quyền, trong đó có tự do để tự chọn cho mình một tương lai, một chân trời không có tham quan bất tài, không có tham nhũng vô nhân, làm quỵ kiệt mọi tiềm năng phát triển của Việt tộc, đó là tự do diệt bọn "sâu dân, mọt nước".

Tự do là lực để chống ngoại xâm, tức là chống hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm chiếm) của bọn lãnh đạo Bắc Kinh, không có nhân cách mà ta có thể gọi chúng là : Tàu tặc, với ý đồ muôn thủa xâm lăng để đồng hóa Việt tộc. Chỉ có tự do bảo trì chủ quyền, tự do bảo đảm độc lập, tự do bảo quản đất nước của toàn dân, ta mới đi trên lưng bọn bán nước cho Tàu tặc đang lẩn lách trong giới lãnh đạo hiện nay. Chỉ có tự do của chính ta, ta mới đi trên vai bọn lãnh đạo "hèn với giặc, ác với dân", vì chúng đã vong thân và đang chờ vong quốc.

Tự do là rễ của tự trọng, hệ tự (tự tin, tự lập, tự chủ) không có tự do sẽ không có nhân quyền và dân chủ, cụ thể là sẽ không có công bằng và bác ái để có tam quyền phân lập : lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có tự do sẽ không có một xã hội dân sự văn minh. Tự do là gốc của hệ công (công bằng, công lý, công pháp) trong đó công tâm không hề rời đạo lý và luân lý để tự do cá nhân không bị bóp, xiết, ngăn, chặn bởi ích kỷ, tư lợi luôn là mối đe dọa trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt tập thể.

Tự do là cội của nhận thức, của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức), hợp lưu của ý thức, tâm thức, làm nội lực cho thăng hoa cá nhân, cho thăng tiến tập thể, cho thăng chất cộng đồng. Không có tự do thì tập thể chỉ là khuôn khép, cộng đồng chỉ là khung kín, và xã hội chỉ là nhà tù không quản giáo.

Tự do là nguồn của sáng tạo, của hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng lập) trong đó tự do sáng tạo của cá nhân là giàn phóng cho tự do tập thể, là dàn nhún cho tự do cộng đồng để đưa xã hội vào quỹ đạo trong đó cá nhân làm động cơ cho dân tộc, là động lực cho đất nước.

Tự do là nền của nhân văn, của hệ văn (văn hóa, văn minh, văn hiến) trong đó có tự do sáng kiến của tập thể, có tự do sáng lập của cộng đồng, có tự do sáng tạo của cá nhân kích thích văn hóa mở cửa để đón các văn hóa khác, thôi thúc văn minh của một dân tộc hội nhập vào văn minh của thế giới, đón chào các văn hiến của láng giềng, cùng nhau xây dựng một nhân văn đáng sống cho nhân loại.

Tự do là trụ của nhân bản, của hệ nhân (nhân loại, nhân sinh, nhân tình) được tự do của nhân tri, nhân trí, nhân văn đưa tới những chân trời của nhân đạo, nhân tính, trong đó nhân quyền hỗ trợ cho nhân nghĩa có chỗ đứng xứng đáng trong nhân cách của mỗi cá nhân qua tự do. Tức là tự do làm người một cách liêm sỉ nhất, tự do làm chủ cuộc đời mình một cách liêm minh nhất.

Tự do đón nhân tri như tự do đón nhận kinh nghiệm tới từ cuộc sống, biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa đạo lý vào tri thức để có ý thức về cuộc đời, có nhận thức giữa sự sống và cái chết, từ đó chọn sự sống trong cái sống đúng rồi biến nó thành cái sống cho đáng. Tự do đón nhân tri như tự do chấp nhận thăng trầm, chấp nhận nghèo khổ nhưng luôn phấn đấu để vươn lên, cam chịu tiết kiệm để lập vốn, cáng đáng cần lao để phát triển, phát minh để làm cho bằng được chuyện thay đời đổi kiếp theo hướng đi lên.

Tự do là vốn để chống độc quyền, của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc tôn, độc trị) đang truy diệt nội công Việt tộc, đang vùi lấp nội lực trí thức, đang thủ tiêu sung lực thanh niên, đang bóp nghẹt mãnh lực của toàn dân trên con đường phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật... Một hệ độc đang giết lần, giết mòn mọi sinh lực xã hội, biến thanh niên là nguyên khí của quốc gia thành kẻ làm thuê, làm công với điều kiện lương bổng tồi, với bảo hiểm lao động tục.

Tự do để giải phóng tư tưởng, tự do không trừu tượng, tự do có hai thế thăng bằng : thân thể và tư tưởng, trong thân thể có thể xác của cá nhânbản thể là sự trao truyền sự sống tới từ cha mẹ và tổ tiên, trong tư tưởng có tư duytư lợi, tư duy theo phương hướng của tri thức tạo nên ý thức, tư lợi theo định hướng phòng thân, thủ thân, lập thân. Tự do không mơ hồ, không tự sát, không ai chống một cá nhân được quyền tự sát, nhưng tự do của nhân sinh là để bảo vệ thân thể và tư tưởng, như bảo vệ hai thế thăng bằng khác : sự sốngsự tồn tại, chính cái quyền được sống là định nghĩa đầu tiên của tự do, chính cái quyền được tồn tại là định nghĩa thứ nhì của tự do. Cả hai định nghĩa này làm nên tính duy lý, hợp lý và chỉnh lý trong động cơ của tự do : hành động của tự do.

Tự do qua hành động theo quá trình : hiểu biết-chọn lựa-quyết định để hành động vì tự do, tự do được sống, tự do được tồn tại trong cuộc sống, và vận dụng cuộc đời, xã hội, cộng đồng, tập thể, gia đình... để ngày ngày thực hiện tự do cao hơn, rộng hơn, sâu hơn, xa hơn. Tự do là lãnh thổ của nhân tính, luôn muốn nới rộng biên giới, cùng lúc nó muốn phá luôn các ngục tù ý thức hệ, các mô hình bảo thủ, các mô thức lỗi thời, để nhân tri nêu cao nhân loại, để nhân trí đào sâu nhân tình.

Tự do có ý thức, không hề là loại tự do thụ động, "ba phải", "nửa vời", "lúc thế này, khi thế khác". Chính ý thức của tự do sản sinh ra ý định thực hiện dự phóng, ý muốn tổ chức chương trình, để hình thành ý đồ phải thành công qua chiến lược lâu dài, chiến thuật ngắn hạn, kể cả sách lược được dựng lên qua mưu lược, tất cả tạo nên ý lực cho hệ quyết (quyết định, quyết đoán, quyết tâm). Tự do có ý thức, có dự phóng, có chương trình qua phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực là điều kiện, là tiền đề, là thượng lưu của tự do muốn thay đời đổi kiếp của Việt tộc. Vì có ý thức nên chúng ta thấy cái bất công của xã hội do lãnh đạo bất tàidựa độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với sự xuất hiện của dân đen, dân oan. Chính phương trình ý thức-ý định-ý muốn-ý đồ-ý lực này sẽ giúp Việt tộc đón nhận nhân tri để có nhân trí mà chống đối, mà đấu tranh, mà phấn đấu cho tương lai của đất nước !

Tự do giáo dưỡng dân chủ ngay trong đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại chuyện "con vua thì được làm vua", với bi hài kịch "thái tử đảng" sinh ra như những quái thai vô tài bất tướng nhưng được lãnh đạo theo kiểu cha truyền con nối của thể loại "con quan thì được làm quan", gây một thảm kịch cho cả dân tộc : "cả họ làm quan" qua gia đình, hậu duệ, thân tộc, họ hàng... với một cơ chế quái vật ma hình quỷ tướng làm trò hề cho các quốc gia dân chủ văn minh. Tự do giáo dưỡng dân chủ được chứng minh ngay trong lịch sử của Việt tộc là chuyện "con vua thì được làm vua, con sãi chùa thì quét lá đa" là vừa sai trái vừa vô minh, vì vừa bất công vừa vô nhân. Hãy nhớ lại trường hợp của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là con "sãi chùa" mà cũng là minh sư Vạn Hạnh, đã lập ra triều Lý, sáng ngời trong Việt sử, một triều với các khai quốc công thần dụng nội lực văn hóa Việt để chế tác ra sung lực cho văn minh Việt, để gầy dựng nên hùng lực cho văn hiến Việt.

Tự do phải biết tự xây, khi đã tiếp nhận đạo lý, đón nhận đạo đức, thâu nhận luân lý, để xây lên liêm chính, để dựng lên liêm sỉ, bảo vệ nhân phẩm chống lại cường quyền, độc tài, tham nhũng. Từ đó, cụ thể hóa dự phóng đẹp, để hiện thực hóa tương lai hay, để thể hiện hóa chuyện thay đời đổi kiếp theo định hướng tốt, theo chân trời lành cho nhân sinh. Tự do tự xây, dựa trên ngữ pháp "xây để dựng tự do", vì không ai ban bố tự do cho ta, mà tự do có được qua ý thức không chấp nhận bất công, qua nhận thức không dung túng độc tài, qua tâm thức không nhượng bộ bạo quyền.

Tự do phải biết tự sinh, có mặt ngay trong hiện tại để trong hiện sinh trong đấu tranh của kiếp người chống lại bạo quyền qua hệ thống bạo lực của nó. Cùng lúc tự do là dàn nhún, dàn phóng gửi phương án của sự sống đúng đến trúng tương lai tốt đẹp cho nhân sinh. Hơn thế nữa, tự do biết gửi thông điệp tới tương lai, luôn nhắn tín hiệu tới mai hậu là : tự do có mặt để giúp con người thăng hoa theo hướng chân-thiện-mỹ. Tự do tự sinh để gửi thông điệp, tín hiệu là tự do biết nổi giận vì đã chịu quá nhiều bức xúc tới từ bất tín, bất tài, bất trung, đã tạo ra bất công, sinh ra bất nhân, đang lũng đoạn luân lý Việt qua tham nhũng của tham quan. Chính tự do nổi giận chỉ là giòng lũ của thượng nguồn, sẽ tạo nên giòng thác của nổi loạn tại hạ lưu để chống độc tài, độc quyền, độc trị được chống lưng bởi độc đảng, để hình thành hợp lưu của bao giòng lũ, giòng thác tạo nên : nổi dậy !

Tự do của năng động tính, đây là nội công riêng của tự do, vừa biết phòng ngự trước các cái xấu, tồi, tục, dở, vừa biết phản công chống lại các cái thâm, độc, ác, hiểm. Một thông minh khác của tự do là vừa biết khẳng định nhân phẩm của mình, vừa biết vượt thoát các lo âu, sợ hãi tới từ đe dọa, tới từ bạo quyền ; cho nên tự do sống vì quá trình tự thoát để tự thắng. Tự do để tự thắng, là thông điệp đầy hùng lực của tự do : tự do không để bạo quyền, bạo lực, bạo hành giết sự thông minh của nó, sự sáng tạo của nó.

Tự do để tự cứu để chống tận diệt môi trường, để bảo toàn môi sinh, như chính bảo vệ tính mạng của mình và của đồng bào, trước các cá nhân lãnh đạo giành giật quyền lực để dễ buôn dân, bán nước. Tự do để tự cứu trực diện để kình chống loại tự do vô nhân, vô đạo của bọn sâu dân mọt nước, khi chúng tự cho phép là chúng có quyền tự do vô biên, vô định, vô hạn để vơ vét từ tài nguyên của đất nước tới tiền tài của nhân dân. Loại tự do vô minh, vô tri này của chúng được dung dưỡng trong một chế độ độc đảng để độc quyền thâm thủng nguyên khí của quốc gia.

Tự do của tự chủ, biết nuôi nhân đứctrong một không gian đức của chung sống trong công bằngbác ái trong đó tự do biết : nội lực của luân lý có ý thức về trách nhiệm và bổn phận, sung lực của đạo lý có ý thức về chuyện hay, đẹp, tốt, lành ; hùnglực của đạo đức : ý thức về nhân phẩm để giữ nhân tính. Tự do trong một không gian đức của phương trình thấy-hiểu-thấu-nhận : tự do cùng tự chủ của phải hiểu cái tốt để phải làm ra cái tốt cho mình và cho đồng bào, động loại. Tự do cùng tự chủ phải thấu cái đức để tiếp nhận cái luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận) ; tự do cùng tự chủ phải tiếp thâu cái để đón tiếp cái thức (kiến thức, tri thức, ý thức).

Tự do vì công lý của công bằng, tự do cùng tự chủ đề nghị cái lý phải đúng, đúng từ định nghĩa tới diễn đạt, cái đức phải tốt, tốt từ định đề tới áp dụng trong giáo dục, cái luật phải minh, trong nghĩa công minh cho toàn xã hội. Tự do cảm nhận bằng cảm xúc, nhưng được tồn tại bằng lý luận, được lâu dài bằng công pháp, nơi mà pháp luật phải công nhận tự do để xóa bất công, để trừ bạo động, để loại độc tài. Tự do cùng tự chủ công nhận công lý phải được phổ quát qua phong trào, qua đấu tranh, qua hội đoàn... Tự do là năng lực định nghĩa lại trách nhiệm để trách nhiệm có những công lý mới đúng hơn, trúng hơn trong không gian quyền hạn của trách nhiệm, trong đó trách nhiệm lãnh đạo phải liêm chính vì nó rộng hơn, nặng hơn trách nhiệm của công dân. Tự do không tự có để tự tồn, tự do có được trong tính tất yếu phải có câu trả lời, qua hành động thích hợp với luân lý của công bằng, với đạo lý của sự tôn trọng lẫn nhau.

Tự do của quá trình từ lý luận, nơi mà tư duy từ lập luận tới hành động vì công lý, dùng lý trí tự kiểm soát hành vi, tự kiểm định hành động của mình qua trí tuệ và đạo lý, qua trí lực và luân lý.Tự docó trong khả năng tự điều chế đam mê, cảm xúc, xúc động dẫn tới vô tri, thượng nguồn của vô trách nhiệm, có lý trí của tự cân bằng các sinh hoạt xã hội, cộng đồng, tập thể theo quy luật công bằng, dựa trên công lý, được trợ lực bởi công tâm.Tự do biết tự giáo dục, qua kiến thức, qua tri thức để có ý thức biết tự giáo dưỡng đạo lý, đạo đức, luân lý cho mình và cho người khác.Tự do biết quyền tự bảo vệ mình trước bạo quyền, bạo động, bạo lực, làm nguồn gốc của khổ đau, là nguyên nhân của nghèo đói.

Tự do của quyền tự bảo vệ đồng bào và đồng loại trước độc tài, độc quyền, độc đảng, là gốc, rễ, cội nguồn của bất tín, bất tài, bất lương. Tự do có quyền tự đa năng hóa trong các sinh hoạt chính trị và xã hội, dựa trên đa tài, đa hiệu, đa năng của tha nhân, dựa trên đa nguyên, đa lý, đa đảng của nhân quyền và dân chủ. Tự dobiết bảo vệ môi sinh, trong đó có quyền bảo toàn môi trường sống, như chính bảo quản để cuộc sống, chống ô nhiễm môi trường và chống ngay trên thượng nguồn các tà quyền, các công nghiệp ngày ngày gây thảm họa môi sinh, đe dọa cả nguồn sống lẫn sự sống của bao thế hệ.

Tự do là trách nhiệm của ý thức, tự do vừa là cơn gió chắn đường chim bay, nhưng vừa là lực giúp chim bay, luôn mang ý thức không chấp nhận bất công, bằng chính ý thức của mình khi thấy trước mắt mình bạo quyền đẻ ra bất bình đẳng, và tà quyền làm tăng bất công hằng này qua bạo lực và qua tham nhũng. Tự do có được vì chính bất công, bạo quyền, độc tài làm sáng định nghĩa, vừa làm sáng ý chí của tự do, chính tà quyền vô tình tạo điều kiện cho tự do ra giữa ánh sáng của nhân sinh, để phản diện rồi phản đề và cuối cùng là phản kháng chống bất công.

Tự do của hành tác, tự do bên trong qua lý luận của tư duy, tự do thể hiện hành động ra bên ngoài, tự do bảo vệ tha nhân, như chính bảo vệ nhân tính của mình. Và khi tự do bị hiểu sai, rồi lạc hướng, khi tự do biến thành thảm họa cho mình và cho người khác, thì tự do phải luôn trở về với ba định hướng, dưới dạng ba câu hỏi : tự do muốn gì ? Tự do làm gì ? Tự do về chuyện gì, trong xã hội nào, trong bối cảnh nào ? Từ đây, tự do luôn có ba thực chất để thể hiện mình : chủ thể, mong cầu và hành động. Khi cả ba vế này được minh bạch thì tự do phải : vượt thực tế, thực tại, thực cảnh ; vượt trở lực, khó khăn, thử thách ; vượt độc tài, bạo quyền, tham nhũng.

Tự do nội chất của sự sống, nơi mà con người quyết định, và chính con người hoàn toàn tự do để tìm đường đi nẻo về của nhân đạo, cũng chính con người phải vì nhân phẩm trước bạo quyền, độc tài, tham nhũng phải bảo vệ tự do của mình như bảo vệ con ngươi của mình để nhìn cho ra nhân tính. Tự do là sự phối hợp giữa tự tin của tư duy và độc lập lý luận, không thờ ơ trước bất công, mà chọn lựa hành động để thay đổi thực tế không được chính nghĩa của tự do chấp nhận nữa. Tự do trong tự tin là thử thách chống lại sự thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, có thể tới tự thái độ biếng lời của tư duy, chưa được trang bị ý chí làm thay đổi tình hình do bạo quyền làm ra. Tự do vừa là quyền hạn, vừa là khả năng của ta, để ảnh hưởng thẳng tới cuộc sống, nên tự do chỉ tùy thuộc ta ngay trong tính khả thi muốn thay đổi cuộc sống theo hướng thiện.

Tự do đi theo cái đúng, để làm nên cái tốt, đó là khả năng của tự do chế tác ra các quy định mới thuận lợi cho công bằng và bác ái trong không gian chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục... Tự do trong không gian của đạo lý và luân lý, có khung đạo đức của xã hội, trong lòng tin trước pháp lý của pháp luật vì công lý của công bằng. Tự do chỉ của một người, một nhóm, một bè, một phái, một đảng là loại tự do sớm nở tối tàn trước nhân lý, chỉ là loại tự do sống nay chết mai trước nhân phẩm.

Tự do chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng được kiểm chứng qua các quá trình sau đây, nơi mà mỗi chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn phân tích và giải thích được : tự do biết hét lên : không đúng ! Không chấp nhận được ! để chống bạo quyền, độc tài, tham nhũng… để đi tới tìm cái đúng, tìm cái chấp nhận được qua công bằng của công lý ; triết học luân lý và chính trị học gọi là lẽ phải của tự do. Tự do nổi lên trong nổi dậy giữa xã hội, cộng đồng, dân tộc khi nhân phẩm bị xúc phạm, tự do này đi từ nhân lý tới nhân trí ; tri thức luận và xã hội học chính trị đặt tên nó là : nhân tính của tự do. Tự do vượt khoảng cách, đã gây ra ngăn cách giữa người với người, dùng tự do để lập lại cầu nối, tạo ra phong trào, tái lập lại quan hệ xã hội để tìm sự chia sẻ, sự đồng cảm, từ đó chế tác ra đòan kết và tương trợ giữa các nạn nhân của bạo quyền ; tâm lý học tri thức và sử học chính trị nêu tên nó là : lực bảo vệ quan hệ của nhân loại.

Tự do gạn đục khơi trong, loại bỏ bạo động có thể hủy diệt quan hệ xã hội, từ đó tạo nên một trật tự mới có đạo lý cạnh lý trí, có công lý cùng công bằng để bạo vệ sự trường tồn của tự do, mà triết học phân tích và xã hội học giáo dục tặng nó tên : trí tuệ của nhân lý. Tự do đúng đưa công lý đúng với công bằng đúng tới nơi để bảo vệ công dân trước bạo quyền, đưa pháp lý đúng tới pháp luật đúng, biết bảo vệ lẽ phải để bảo vệ nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng, mà luật học cùng giáo dục học gọi nó là : kiến thức của tự do. Tự do đúng đưa vào thảo luận để tìm ra cách giải quyết có đạo lý trước các khổ nạn của nhân sinh, chính đây là phẩm chất của đối thoại, chống phân biết đối xử, chống chuyện loại trừ tha nhân bằng chủ quan của định kiến, và xã hội học đạo lý cùng chính trị đàm phán trao nó tên : dân chủ của truyền thông.

Tự do của quả cảm đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù có ngay trong tư duy của mỗi cá nhân, nhưng chính ý thức của tự do gầy dựng nên từ ý nghĩa của tự do này, sẽ chế tác ra dàn phóng cho chính nghĩa của tự do. Tự do có ngay trong não bộ của cá nhân để dẫn tới hành động cụ thể vì công lý, ngay trong xã hội mà quần chúng đang bị lao lý hóa bằng bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do chặt xiềng, tự tin phá nhà tù, nhiều khi tới từ lý luận về nhân quả (nhân nào quả nấy, tức nước thì vỡ bờ), bạo quyền mà bạo ngược quá thì sẽ bị lật đổ, chính dân là kẻ đóng thuyền nhưng cũng chính họ là kẻ lật thuyền, để dìm tà quyền, ma quyền xuống đáy sông. Tại đây thì tự do cũng đủ nội lực, đủ nội công để khẳng định quyền sống như xác nhận chính bản lĩnhcủa lý trí biết tự tư duy để đấu tranh vì tự do, mà không cần phải là nạn nhân của bạo quyền, độc tài, tham nhũng.

Tự do của quyền công dân, muốn xây dựng một xã hội có công lý vì công bằng, lấy pháp lý để hỗ trợ pháp luật. Nhưng trong một chế độ mà bạo quyền, độc tài, tham nhũng không những đã áp đặt công an trị để đàn áp quần chúng, mà còn thao túng hiến pháp qua độc đảng, giật dây tư pháp qua độc trị ; thì tự do chủ quan bên trong của lý trí trong mỗi cá nhân phải được hình thành qua tự tin đẩy cửa, đạp tường, phá rào, chặt xiềng, phá tan nhà tù ra xã hội bên ngoài. Tự do hành động trong phương trình của lý trí-trí tuệ-ý chí để xử lý các trở lực đang che chắn cho bạo quyền, độc tài, tham nhũng. Tự do trong đấu tranh có thành công và có thất bại, nhưng ngay trong thảm bại, tự do không tuyệt vọng, vì chính nghĩa của tự do sẽ làm nội lực cho chính khí của tự do, cụ thể là không cúi đầu mà ngẩng đầu, không khoanh tay mà thẳng lưng, không quỳ gồi mà thẳng bước đi về phía chân, thiện, mỹ. Phải đứng dậy với sung lực của đi tới, có hùng lực để leo dốc, có mãnh lực để thẳng tới nhân phẩm, khi bạo quyền đang đe dọa nhân tính !

Chân dung chủ thể Việt :

Sự thật mãi mãi-tự do mãi mãi-chủ thể mãi mãi

Cúi sâu xuống bóng đêm quật lên sự thật

Vì mấy lần chân lý đã quỵ chân

Nằm sát đất nén hơi thở tự do vào ngực lửa

Vì bao bận công lý buông nhân dạng !

Xiết chặt tay ôm đầy nguồn nước mắt

Vì vạn lần chủ thể đã biệt tăm !

Lê Hữu Khóa

(13/12/2019)

***

suthat4  Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học Lille, Giám đốc Anthropol-Asie, Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á, Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc, Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.

Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa. 

Additional Info

  • Author Lê Hữu Khóa
Published in Văn hóa