Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Món quà quý của Lê Mạnh Hùng :

Việt Nam đã hình thành như thế nào ?

 

Sử gia Lê Mạnh Hùng vừa quyết định tặng đồng bào của ông một món quà quý. Ông cho phép chúng tôi phổ biến trên mạng quyển đầu tiên –cũng là quyển độc đáo nhất- của bộ sử Việt Nam mới mà ông hoàn tất cách đây ba năm sau gần 40 năm sưu tập và tổng hợp.

suviet1

Sử gia Lê Mạnh Hùng vừa quyết định tặng đồng bào món quà quý.

Bộ sử này mang tên là "Nhìn Lại Sử Việt" và quả nhiên nó đúng là một cái nhìn mới và một cách viết sử mới đối với người Việt Nam, thành quả của một công trình tìm kiếm tài liệu công phu và một khả năng tổng hợp và lý luận hiếm thấy của một sử gia chân chính và hoàn toàn độc lập.

Bộ sử này, tổng cộng khoảng 2.500 trang, gồm năm quyển :

1. Từ tiền sử đến tự chủ (khi Ngô Quyền mở ra kỷ nguyên độc lập) ;

2. Từ Ngô Quyền đến thuộc Minh (939 – 1407) ;

3. Từ thuộc Minh đến thống nhất (1407 – 1802) ;

4. Từ Gia Long đến Cách Mạng Tháng 8-1945 (1802 – 1945) ;

5. Thời cận hiện đại (1945 – 1975).

Có thể nói một cách không mấy quá đáng rằng Lê Mạnh Hùng đã dành phần chính của đời mình cho công trình này, một bộ sử Việt Nam hơn hẳn các bộ sử mà tôi đã đọc.

Nhưng cuộc đời Lê Mạnh Hùng đã như thế nào ?

Sinh năm 1942, ông mơ ước được vào trường sĩ quan hải quân sau khi tốt nghiệp trung học nhưng số phận đã quyết định khác. Lê Mạnh Hùng trúng tuyển kỳ thi học bổng và được đi du học Mỹ, tốt nghiệp Bachelor rồi Master tại MIT (Massachussetts Institute of Technology), một trong những trường đại học danh tiếng nhất tại Mỹ, không chỉ về kỹ thuật mà còn cả về kinh tế. Về nước, ông đã làm chuyên viên tại bộ kinh tế và tại nhiều ngân hàng, làm giám đốc trường kỹ sư công nghiệp Phú Thọ và sau cùng tại bộ kế hoạch với chức vụ tổng giám đốc vào ngày 30 tháng 4-1975.

Lê Mạnh Hùng là một trong những người trẻ có nhiều điều kiện lý tưởng nhất để thành công vào giai đoạn đó : tài giỏi, trung thực, nhiệt tình và được mọi người quý trọng. Hơn thế nữa còn có diễm phúc được một người vợ trẻ đẹp, tài ba và danh giá : Phan Lâm Hương, con gái bác sĩ Phan Huy Quát, một chính trị gia đầy uy tín, từng nhiều lần làm bộ trưởng trong các chính quyền quốc gia, từng là thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa. Ông Phan Huy Quát đáng lẽ đã là người lãnh đạo chính quyền quốc gia sau hiệp định Genève nếu ông Ngô Đình Nhu không bất ngờ vận động thành công với Pháp để đưa ông Ngô Dình Diệm lên cầm quyền. Và sự thực là Lê Mạnh Hùng đã rất thành công, thăng tiến rất nhanh trong khi bạn bè còn muốn ông tiến nhanh hơn nữa. Nhưng lần này số phận cũng đã quyết định khác, và một cách bi thảm. Ngày 30-4-1975 đã ập tới. Lê Mạnh Hùng thuộc thành phần tinh hoa đúng nghĩa của miền Nam vào thời điểm đó, lớn lên trong không khí vừa khá cởi mở vừa đầy biến động, có ý thức quốc gia mạnh, lương thiện và đầy thiện chí, lại được đào tạo trong những điếu kiện lý tưởng. Những con người này, ở lứa tuổi trung bình ba mươi lúc đó, đã có thể mở ra cho Việt Nam một kỷ nguyên rất sán lạn, nhưng họ đã trưởng thành quá trễ, chưa giành được vai trò chủ động thì lịch sử đã sang trang.

Lê Mạnh Hùng bị đi tù 7 năm sau chiến thắng cộng sản. Trong cái sui của đất nước và của thế hệ ông lần này Lê Mạnh Hùng là một trong những người sui nhất. Có lẽ trong những ngày hẩm hiu trong tù mà ông đã tự hỏi tại sao Việt Nam lại phải chịu đựng nhiều nghịch lý như thế và quyết định dành phần còn lại của đời mình để nghiên cứu lịch sử, để hiểu và giúp đồng bào cùng hiểu đất nước mình. Trong tù ông đã học chữ Hán để có thể tham khảo các tài liệu Trung Quốc, điều mà ông đã làm trong tám năm sống tại Việt Nam sau khi ra khỏi nhà tù với sự tiếp tay của ông chú vợ Phan Huy Lê, cũng là một sử gia. Ra nước ngoài năm 1990, với phản xạ "phải biết làm thì hãy làm" của một chuyên gia Lê Mạnh Hùng đi học về sử và đậu tiến sĩ sử học tại London trước khi tổng hợp các tài liệu và ghi chép của chính mình thành bộ sử. Nhìn Lại Sử Việt đã hoàn tất năm 2015.

Lê Mạnh Hùng cũng vừa viết xong một cuốn sử thế giới với tựa đề "Văn minh, con đường tới xã hội hiện đại" mà ông cũng có nhã ý cho phép phổ biến trên mạng và tôi hy vọng có thể viết bài giới thiệu trong một tương lai gần.

Trở lại với quyển 1 của bộ Nhìn Lại Sử Việt

Theo tôi đây là cuốn nhiều phát giác mới và quan trọng nhất trong bộ sử rất công phu này. Nó đảo lộn nhiều điều tưởng như đã chắc chắn và cho chúng ta biết nước ta đã hình thành như thế nào, từ lúc nào và trong bao lâu.

Chúng ta tự hào là có một lịch sử dài và một truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang nhưng nếu được hỏi một cách nghiêm chỉnh đất nước Việt Nam đã hình thành như thế nào thì đa số, kể cả trí thức, sẽ trả lời rằng tổ tiên ta từ phương Bắc cùng nhau theo vua Hùng xuống miền Nam dựng nước từ một thời rất xa xưa, ba hoặc bốn ngàn năm rồi. Hiến pháp hiện nay của chế độ cộng sản bắt đầu bằng câu : "Trải qua mấy ngàn năm lịch sử…". Nhưng "mấy ngàn năm" là mấy ngàn năm ? Hiến pháp 1992 của chế độ nói rõ hơn (và lố bịch hơn) : "Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử…". Một câu nói của ông Hồ Chí Minh được chế độ ca tụng như một danh ngôn là "các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước". Đảng Cộng Sản và ông Hồ Chí Minh đã chỉ lập lại những huyền thoại ở cửa miệng dân gian. Hầu hết mọi dân tộc đều có những huyền thoại tương tự, có điều họ không coi đó là lịch sử. Họ rất thận trọng ngay cả khi có những sử liệu chắc chắn. Thí dụ như nước Pháp còn những bằng chứng rất đồ sộ và thẩm mỹ về sinh hoạt có tổ chức của những cộng đồng người tiền sử từ hơn 30.000 năm trước nhưng họ không tự hào là có "hơn ba mươi nghìn năm lịch sử". Phải nhìn nhận rằng chúng ta đã chỉ huênh hoang chứ không cố gắng tìm hiểu một cách chính xác quá trình hình thành của đất nước mình như những dân tộc lớn. Có lẽ vì vậy mà chúng ta chưa là một dân tộc lớn.

Cố gắng đó một số sử gia đã làm nhưng Lê Mạnh Hùng, với quyển 1 của bộ Nhìn Lại Sử Việt này, đã làm một cách chu đáo và thành công nhất, có lẽ vì ông có những điều kiện phù hợp nhất. Ông giúp cho mọi người Việt Nam đọc kỹ cuốn sách này hiểu đất nước mình đã hình thành như thế nào và do đó chính mình là ai bởi vì dù muốn hay không mỗi con người đều ít nhiều là sản phẩm của một quá khứ nào đó.

Lê Mạnh Hùng đã kiểm điểm các bằng chứng khảo cổ, ngôn ngữ, sử liệu và truyện tích dân gian mà chúng ta có thể có để tìm hiểu thời kỳ lập quốc. Ông cũng cống hiến những lập luận xác đáng và chuyên nghiệp dựa trên những phương tiện đó. Ông giúp người đọc nhận ra một cách khá chắc chắn là từ thế kỷ 5 trước Công Nguyên (trước Công nguyên) trên nửa phần đất phía Bắc của nước ta đã có những nhóm người phần lớn thuộc giống Nam Á (Austroasiatic), một phần nhỏ thuộc giống Nam Đảo, chung sống với nhau từ một thời rất xa xưa, không biết từ bao giờ nhưng đã hòa nhập với nhau. Họ ở một mức độ tiến hóa tương đương với các nhóm người khác trong vùng Đông Nam Á, kể cả nửa phía Nam của nước ta, cũng thuộc hai chủng tộc Nam Á và Nam Đảo. Đó chính là tổ tiên chúng ta. Nền văn minh này thể hiện qua các trống đồng và nhiều dụng cụ bằng đồng khác được tìm thấy khắp nơi, đặc biệt là ở Đông Sơn (Thanh Hóa).

Vào đầu thế kỷ 2 trước Công nguyên các bộ lạc này thực sự được tiếp xúc với một nền văn minh vượt trội hơn hẳn, nền văn minh Trung Hoa, với cuộc chinh phục của Triệu Đà. Trước đó số người phiêu lưu từ Trung Quốc xuống phía Nam rất hiếm hoi. Các vua Hùng và Thục Phán (An Dương Vương) có mọi triển vọng thuộc số những con người ít ỏi này. Họ trở thành những thủ lãnh nhưng đồng thời cũng lập tức bị đồng hóa. Trong hai thế kỷ kế tiếp, dưới sự thần phục nhà Triệu rồi nhà Tây Hán các tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa tăng lên nhưng về bản chất vẫn là trao đổi chứ không áp đặt. Các bộ lạc Lạc (tên gọi của nước ta và dân ta thời tiền sử) quy thuận Bắc triều nhưng vẫn tự trị và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách tự nguyện theo nhịp độ của mình, những người Hán rất ít ỏi xuống miền Nam, kể cả những đại diện cho quyền lực Bắc triều, nhanh chóng trở thành người địa phương sau khi đã đóng góp khai hóa dân Lạc. Tình hình chỉ thay đổi vào đầu Công Nguyên khi nhà Đông Hán áp đặt sự thống trị trực tiếp và mô hình xã hội Trung Quốc. Chính sách Hán hóa dứt khoát này đã làm nổ ra một cuộc nổi dậy lớn của giai cấp quyền thế địa phương còn mang nặng truyền thống Lạc do hai Hai Bà Trưng lãnh đạo. Cuộc nổi dậy này đã đuổi được quân Hán và khiến Hai Bà Trưng cầm quyền trong ba năm trước khi bị quân Hán của Mã Viện đánh bại năm 43. Nó không chỉ giới hạn tại miền Bắc nước ta mà là một phần của một cuộc tổng nổi dậy của nhiều sắc tộc ở phía Nam Trung Quốc bao gồm cả hai tỉnh Quang Đông và Quảng Tây hiện nay. Sau cuộc đàn áp của Mã Viện xã hội Lạc kể như hoàn toàn bị khuất phục và tiến trình Hán hóa liên tục về mặt chính trị và văn hóa bắt đầu. Mãi hai thế kỷ sau mới có một cuộc nổi dậy nhỏ ít nhiều mang mầu sắc Lạc và nhanh chóng bị dập tắt của anh em Triệu Quốc Đạt, Triệu Thị Trinh. Từ đó việc khôi phục lại xã hội Lạc không đặt ra nữa và một nước Việt mới dần dần hình thành theo dòng thời gian cho đến khi đã đủ sức mạnh để trút bỏ sự lệ thuộc Trung Quốc. Đó là năm 939 khi Ngô Quyền đánh thắng quan Nam Hán và xưng vương.

Lê Mạnh Hùng kể lại giai đoạn lập quốc này đầy đủ và rõ hơn mọi cuốn sử từ trước đến nay, với phần về thời kỳ tiền sử đặc biệt xuất sắc. Ông cho chúng ta nhìn rõ hơn vai trò quan trọng của những quan cai trị đã dẫn dắt dân ta từ nếp sống thô sơ vào nền văn minh Trung Hoa, những Nhâm Diên, Tích Quang v.v., nhất là Sĩ Nhiếp, người được một số sử gia đầu tiên của Việt Nam gọi là vua. Ông cũng giúp chúng ta khám phá ra những nhân vật lịch sử từ trước tới nay ít được nói đến, thậm chí không được nhắc đến, như Đào Hoàng, Lương Thạc, Đỗ Tuệ Độ, Lý Trường Nhân, Lý Tự Tiên, Đinh Kiên, Vô Ngôn Thông, Tăng Cổn v.v. Những nhân vật lịch sử này, mỗi người với cương vị và chủ đích khác nhau đã góp phần quyết định vào tiến trình lập quốc của chúng ta không kém những Hùng Vương, Thục Phán, Lý Nam Đế, Lý Phật Tử, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng. Ông cũng đã cập nhật nhiều tài liệu quan trọng kèm theo những nhận định giúp chúng ta nhìn rõ hơn lịch sử. Một thí dụ : Nhà Ngô thời Tam Quốc chưa bao giờ là một triều đại của toàn thể Trung Quốc và cũng chỉ cai trị nước ta khoảng 70 năm vào thế kỷ thứ 3 nhưng tại sao người Việt Nam lại có thói quen gọi Trung Quốc là nước Ngô ("giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng") ? Vì sao Nguyễn Trãi đặt tựa cho bản tuyên ngôn độc lập sau khi đuổi được quân Minh là "Bình Ngô đại cáo" ? Đọc cuốn sách này người ta có thể hiểu tầm quan trọng của nhà Ngô. Những hành động thô bạo –tàn sát toàn bộ những người Hoa mới tới- của Lương Thạc (năm 332) và Lý Trường Nhân (468) cũng đóng góp giúp chúng ta ý thức rằng những người gốc Hoa luôn luôn chỉ là một thiểu số ngay trong giai cấp quyền lực trong một giai đoạn lập quốc kéo dài gần một ngàn năm và nhanh chóng trở thành người Việt dù đã đóng một vai trò quyết định.

*****************

Phải nhìn nhận đóng góp rất lớn của Lê Mạnh Hùng về sử liệu và lý luận trong việc soi sáng giai đoạn lập quốc, nhưng cũng phải hiểu rằng có những ý kiến ông chỉ đưa ra để thảo luận.

Thí dụ như, có lẽ do tinh thần dân tộc mạnh, Lê Mạnh Hùng tạo cảm giác là ông nắm lấy mọi sự kiện có thể vận dụng được để khẳng định tinh thần bất khuất và ý chí dựng nước của dân tộc Việt Nam trong khi chính những sự kiện ấy cũng có thể khiến người ta nghĩ rằng điều mà chúng ta thường gọi là lịch sử dựng nước thực ra chỉ là sự hình thành chậm chạp của một quyền lực thống trị địa phương trong tay một thiểu số rất nhỏ gồm những người từ phương Bắc tới và những người địa phương đã hấp thụ văn hóa Hán. Thành phần quyền thế này, mà Lê Mạnh Hùng và nhiều sử gia khác gọi là "môn phiệt" tuy đại đa số gốc Lạc nhưng không tỏ ra gắn bó với quần chúng Lạc. Họ đấu tranh chủ yếu để đòi hỏi cho chính họ một mức độ tự trị lớn hơn đối với một Bắc triều xa xôi không giúp gì cho họ mà chỉ đòi phục tùng và triều cống. Các cuộc nổi dậy của Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Diên Nghệ đều nằm trong logic này.

Chỉ có một ngoại lệ kỳ lạ mà có lẽ Lê Mạnh Hùng là sử gia đầu tiên nhìn thấy tầm quan trọng là cuộc nổi dậy của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến. Lý Tự Tiên bị giết nhưng Đinh Kiến tiếp tục chiến đấu, rồi chiếm được kinh thành và cầm quyền vài năm trước khi bị tiêu diệt. Không hề thấy Đinh Kiến xưng một tước hiệu hay chức vụ nào cả. Ông được sử Trung Quốc nói là thuộc thành phần dân gian. Có mọi triển vọng đây là cuộc nổi dậy xuất phát từ quần chúng. Đinh Kiến đã không nhận được một sự hưởng ứng nào từ lớp môn phiệt. Ý thức dân tộc -hiểu theo nghĩa một tình cảm liên đới giữa những con người cảm thấy cùng là thành viên của một cộng đồng- hầu như không có trong giai đoạn lập quốc này. Tình trạng này không thay đổi bao nhiêu cho đến khi Ngô Quyền thiết lập nền tự chủ lâu dài và cũng không thay đổi bao nhiêu trong năm thế kỷ kế tiếp.

Một đặc tính cũng cần được lưu ý là sự thiếu vắng của tư tưởng chính trị trong suốt quá trình hình thành của đất nước Việt Nam. Không hề có dấu vết tư tưởng nào cả. Như vậy đất nước Việt Nam đã hình thành với hai đặc tính, một là sự vắng mặt của tư tưởng chính trị ngay cả ở mức độ sơ sài, hai là sự tách biệt giữa thành phần môn phiệt –thành phần khá giả và quyền thế- với quần chúng. Chúng ta không có tư tưởng và chỉ có ít tình đồng bào. Đó là tật nguyền bẩm sinh -ngay trong gen- của đất nước ta và có thể đóng góp giải thích nhiều nghịch lý lịch sử sau này. Thí dụ như sau Thế Chiến II một kỷ nguyên độc lập và dân chủ mở ra nhưng lực lượng được nhân dân ủng hộ nhất lúc đó lại là Đảng Cộng Sản, một đảng theo đuổi một chủ nghĩa mà mục đích sau cùng là xóa bỏ quốc gia. Kết quả là Cách Mạng Tháng 8, nội chiến 30 năm và thảm kịch cộng sản vẫn còn đang tiếp tục. Đó là vì một dân tộc không có tư tưởng chính trị cũng không khác một con tầu không la bàn, không đụng phải đá ngầm này thì cũng đâm vào băng đảo khác, tai nạn là không tránh khỏi. Sự thực này cho đến nay vẫn chưa được ý thức rõ rệt.

Đất nước Việt Nam không phải chỉ là miền Bắc và quá trình lập quốc của chúng ta cũng không phải chỉ diễn ra tại miền Bắc. Điều mà bộ Nhìn Lại Sử Việt, và đặc biệt là quyển 1 này, nhắc nhở là tổ tiên chúng ta trong tuyệt đại đa số không đến từ phương Bắc mà là những người thuộc chủng tộc Nam Á có pha trộn một phần Nam Đảo đã sinh sống trên đất nước này, miền Nam cũng như miền Bắc, từ một thời tiền sử rất xa xưa. Gần như cùng một lúc họ đã tiếp nhận hai nền văn minh, văn hóa Hán tại miền Bắc và văn hóa Ấn Độ tại miền Nam. Cuối cùng thì nền văn hóa gần gũi hơn về địa lý và giao thông, nghĩa là văn hóa Trung Hoa, đã giành được ưu thế. Nhưng điều căn bản phải ghi nhớ là dân tộc Việt Nam trong tuyệt đại đa số chỉ là một, dù có lúc phân chia thành Giao Châu, Lâm Ấp và Phù Nam hay Đại Việt, Chiêm Thành và Chân Lạp. Sự thống nhất đã dễ dàng và tự nhiên bởi vì dân tộc ta trong tuyệt đại đa số có cùng một nguồn gốc.

Nhìn Lại Sử Việt là một bộ sử mà mọi người Việt Nam quan tâm tới đất nước rất nên dành thì giờ để đọc. Riêng Quyển 1, Từ tiền sử đến tự chủ, thì bắt buộc phải đọc, nhất là từ nay mọi người đều có thể đọc trên mạng và tải về. Đọc để hiểu cái lịch sử đã tạo ra chúng ta, để biết chúng ta là ai và phải khắc phục những gì nếu muốn vươn tới một tương lai khác.

Nguyễn Gia Kiểng

(08/08/2018)

*******************

Đặt và mua sách

1. Đặt mua sách :

Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ và Cành Nam Publishers

2607 Military Road

Arlington, VA 22207, USA

Điện thoại và Fax : (703) 525-4538

Email : Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.

2. Thể thức mua :

Ngân phiếu xin đề (libellé) : "TO HOP CANH NAM"

và gởi về địa chỉ như trên

Trong Hoa Kỳ, xin gởi cước phí hạng Book-Rate

Càng mua nhiều càng đỡ cước phí

Mua trên 100 USD khỏi trả cước phí

Để tiện việc liên lạc, xin dùng Email hay gọi điện thoại.

Đa tạ.

Published in Quan điểm

Chúng ta không biết hai ông Donald Trump và Vladimir Putin nói gì với nhau trong cuộc gặp gỡ riêng kéo dài hai tiếng đồng hồ của họ. Nhưng những lời mà ông Trump đưa ra để ca tụng vị cựu nhân viên tình báo KGB một cách công khai cũng đáng đủ để người ta ngạc nhiên. Và ông tổng thống Hoa Kỳ kết thúc cuộc họp báo chung – một thể hiện nịnh nọt nhất của một vị tổng thống Hoa Kỳ đối với một đối thủ nước khác – giống hệt như những lần trước bằng cách la lên với các nhà báo “total witch hunt” (hoàn toàn săn phù thủy) khi ông rời phòng họp báo.

ngoaigiao1

Chúng ta không biết hai ông Donald Trump và Vladimir Putin nói gì với nhau trong cuộc gặp gỡ riêng kéo dài hai tiếng đồng hồ của họ.

Đó là những lời cuối cùng của ông. Ông mở đầu và kết thúc cuộc họp báo với đầu óc chỉ lo đến chính trị nội bộ của ông. Khi đuợc hỏi phải chăng Nga phải chịu trách nhiệm cho sự suy thoái trong quan hệ giữa hai nuớc, ông Trump trả lời : “Tôi nghĩ cuộc điều tra của Robert Mueller là một tai họa cho đất nước”.

Ông không nói gì đến việc Nga sáp nhập vùng Crimea của Ukraine vào nước mình, việc đầu độc những công dân Anh trên chính đất Anh hay là sự kiện rằng chính người cầm đầu tình báo của ông Trump đã so sánh các cuộc tấn công trên mạng của Nga giống như những chuẩn bị của nhóm khủng bố quốc tế trước sự kiện 9/11.

Michael Hayden, một cựu giám đốc cơ quan CIA nói rằng những lời rên rỉ tại CIA, bộ ngọai giao hoặc cơ quan FBI có thể nghe thấy cách xa cả cây số. Ông Hayden nói : “Những tiếng la tại Langley (trụ sở CIA), Foggy Bottom (trụ sở bộ ngọai giao) và Hoover Building (trụ sở FBI) nghe giống như một quán rượu tại Luân Đôn khi Croatia làm bàn”.

Những người khác thì không nhẹ nhàng như vậy. John Brennan, một cựu giám đốc CIA khác, “tweet” lên mạng rằng hành động của ông Trump là :hòan tòan phản quốc”.

Ngay cả nếu khả năng bị đàn hạch của ông Trump không cao, hành động của ông Trump trong chuyến đi này đã ném phương tây vào một cuộc khủng hoảng có tính cách sinh tồn. Ông chỉ mới đến Brussel vào thứ tư tuần rồi cho hội nghị thương đỉnh của minh ước NATO. Kể từ đó, chỉ trong vòng năm ngày ông đã làm một cuộc tàn sát ngọai giao đối với những đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Ông tố cáo bà Angela Merkel, lãnh tụ của Đức là “tù nhân của Nga”. Ông diễn tả châu Âu là “kẻ thù” hàng đầu của Hoa Kỳ. Ông phá họai những cố gắng của bà Theresa May, thủ tuớng Anh, trong việc đạt được một thỏa hiệp với châu Âu sau Brexit ngay trong chuyến viếng thăm nước Anh. Thế nhưng ông không có một cái gì khác ngoài việc ca tụng lãnh tụ độc tài của Nga. Ông Vladimir Putin là người độc nhất không bị ông Trump chỉ trích cũng như không có bị một lời bình luận tiêu cực nào về chính sách nội bộ của ông.

Kết quả của chuyến đi năm ngày vừa qua của ông Trump là một Minh ước NATO trong tình trạng hỗn lọan và một quan hệ mới với Nga hoàn toàn có lợi cho ông Putin.

Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai ?

Quan ngại đầu tiên của người ta là về NATO. Cơ sở then chốt của liên minh này là “Một cuộc tấn công vào một thành viên là môt cuộc tấn công vào tất cả”. Điều khỏan số 5 của hiến ước NATO là nhằm răn đe các kẻ thù tiềm tàng. Không ai biết ông Trump nói gì trong cuộc gặp gỡ riêng với ông Putin, nhưng có nhiều khả năng rằng ông Putin đã cảm thấy khích lệ bởi những gì xảy ra trong tuần rồi.

Không ai biết khả năng ông Trump sẽ đến trợ giúp cho một quốc gia vùng Baltic nếu ông Putin tung ra một cuộc tấn công kiểu tại Ukraine là bao nhiêu ? Và ai biết là có bao nhiêu khả năng ông Putin sẽ gia tăng cường độ các cuộc tấn công trên mạng vào các quốc gia dân chủ như Đức và Anh cũng như là Hoa Kỳ ? Ông Trump đã để các quốc gia hội viên NATO tại châu Âu đặt câu hỏi là không biết họ còn có một đồng minh ở bên kia đại duơng hay không. Trên phương diện đá banh, ông Trump đã cho Nga cái tương đương với một cú phạt đền.

Quan ngại thứ hai là tương lai của cuộc điều tra của ông Mueller. Hầu hết các câu trả lời của ông Trump với những câu hỏi trực tiếp của các ký giả về việc Nga can thiệp vào nội bộ chính tgrị Hoa Kỳ là chỉ trích những người chống ông trong nước, từ đảng Dân Chủ cho đến tóan của ông Mueller và các môi trường truyền thông. Khi được hỏi liệu ông tin ông Putin hay là ông Dan Coats, giám đốc tình báo của ông và môt cựu dân biểu Cộng Hòa, ông Trump né không trả lời, nhưng ông nói thêm rằng ông đã nhận được những lời bảo đảm rất mạnh của ông Putin. Ông cũng nói thêm rằng ông Putin đã đề nghị “một ý tưởng rất hay” cho một cuộc điều tra chung Mỹ-Nga về những lời đồn đại rằng Nga can thiệp vào cuộc bầu cử trổng thống Mỹ. Thật khó mà có thể tuởng tuợng sự mỉa mai trong đề nghị của ông Putin.

Tương tự như vậy, thật khó có thể tưởng tuợng sự kiện – khó tin nhưng có thật – một vị tổng thống Mỹ tỏ ra nghi ngờ lời nói của chính giám đốc tình báo của mình trong lúc đứng cạnh lãnh tụ của đất nước đối thủ chính của mình trên phương diện địa lý chính trị. Tương lai của liên minh phương tây nay mong manh như ngọn đèn trước gió, đó chính là công lao của ông Trump.

Lê Mạnh Hùng

(24/07/2018)

Published in Diễn đàn
mercredi, 20 juin 2018 15:56

Ngày tàn của nhân quyền ?

Trong những ngày qua việc chính quyền Trump cách ly con cái của những người di dân với cha mẹ chúng đã làm ồn ào dư luận. Nhìn hình ảnh những đứa trẻ bị nhốt như trong những cái lồng thú tại nước Mỹ tự do dân chủ đã làm cho người ta phải tự hỏi phải chăng là nhân quyền nay đã đến ngày tàn ?

nhanquyen1

Chính quyền Trump cách ly con cái của những người di dân với cha mẹ chúng đã làm ồn ào dư luận.

Không ai có thể nghi ngờ rằng phong trào nhân quyền hiện đang phải đối đầu với thách thức lớn nhất mà nó gặp phải từ khi nổi lên trong thập niên 1970 như là một nhân tố tham dự quan trọng trong trật tự thế giới.

Một bằng chứng điển hình cho thấy cuộc khủng hoảng này nghiêm trọng như thế nào là bài tiểu luận mà Kenneth Roth, giám đốc điều hành của tổ chức Human Rights Watch viết như là phần mở đầu báo cáo thường niên của tổ chức. Ta phải quay trở lại đến năm 2014 mới có thể thấy Roth viết một cách tương đối lạc quan về tương lai của phong trào nhân quyền trên thế giới. Đến 2016 thì Roth đã đưa ra những suy tư về "làm sao chính trị dựa vào sợ hãi và việc hủy diệt xã hội công dân đã làm nguy cho nhân quyền trên thế giới". Và đến năm sau, 2017 Roth đã lên tiếng cảnh cáo những người ủng hộ cho Human Rights Watch rằng việc nổi dậy của phong trào dân túy "đe dọa lật lại tất cả những thành quả đạt được của phong trào tranh đấu cho nhân quyền hiện đại".

Báo cáo năm nay đuợc đưa ra với tựa đề tích cực "Stopping Mass Atrocities, Majority Bullying, and Abusive Counterterrorism". Và tuy rằng trong đó Roth khẳng định rằng tình hình có thể không đến nỗi tệ như là trong ba năm trước, ông đã để cho người ta không có một chút nghi ngờ gì rằng tình hình cũng còn rất tệ hại. Và Roth kết luận rằng "một lượng định công bằng về triển vọng của nhân quyền phải làm cho người ta quan ngại nhưng không phải là đầu hàng – một lời kêu gọi hành động chứ không phải là một tiếng thở dài tuyệt vọng".

Thế nhưng nhìn xuyên qua những lời lẽ có tính kích động, phần còn lại cho thấy một phong trào nhân quyền bị buộc phải lập lại những trận chiến trong quá khứ mà họ nghĩ là đã thắng. Human Rights Watch không phải là tổ chức độc nhất kêu gọi động viên tất cả những ủng hộ viên của mình cho cuộc đấu tranh cho nhân quyền. Trong báo cáo thường niên năm 2017-2018, tổ chức Ân Xá Quốc Tế cũng viết : "Trong vòng năm ngoái, các lãnh tụ chính trị đã kích thích sự hận thù, chiến đấu chống lại nhân quyền, bỏ qua những tội ác chống lại nhân lọai và thản nhiên để mặc tình trạng bất công và đau khổ vượt ra khỏi tầm kiểm soát".

Thế nhưng cũng giống như Roth, các tác giả của báo cáo này kết luận rằng : "Tuy rằng những thách thức đối với chúng ta có thể chưa bao giờ lớn hơn, nhưng ý chí chiến đấu chống lại chúng cũng mạnh không kém".

Nhưng vấn đề vẫn là tại sao các tổ chức quốc tế đấu tranh cho nhân quyền nổi bật nhất lại để sót không nhận ra cơn bão đang tụ tập ngoài chân trời cho đến khi, với sự nổi lên của phong trào dân túy tại Châu Âu và Mỹ đập vào họ.

Cố nhiên là đã có những người – thường thuờng là những người chỉ trích hoặc là học giả nghiên cứu về lịch sử phong trào nhân quyền – tỷ như Stephen Hopgood, Samuel Moyn và Eric Posner – trước đó đã tiên đoán rằng sự đặt quá nặng vào đấu tranh pháp lý của phong trào nhân quyền nay không còn đủ để đối phó với những thay đổi trong tình hình mới. Bao hàm trong chủ thuyết tranh đấu của phong trào nhân quyền là một khi đã đạt được những tiêu chuẩn pháp lý có tính cách ràng buộc, thực tế của cuộc sống dần dà sẽ phải thay đổi để thích ứng với chúng. Nó là một cách tiếp cận kiểu của các luật sư mà không hề để ý đến sự kiện như là học giả người Đức nhận xét, luật pháp không phải là ở trên chính trị mà trái lại không thể tách rời khỏi chính trị. Thành ra đối với những người lãnh đạo phong trào nhân quyền, họ coi là một khi cái mà nhà văn Michael Ignatief gọi là cuộc "cách mạng đạo đức hậu chiến" đã hoàn toàn được thực hiện thì chỉ còn vấn đề thời gian trước khi một trật tự thế giới dựa trên nhân quyền sẽ chiến thắng trên toàn thể thế giới.

Thế nhưng ít nhất là vào lúc này, với Brexit tại Anh, triều đại tổng thống của ông Donald Trump ở Hoa Kỳ và việc nổi lên càng ngày càng rõ của Trung Cộng độc tài đã phá tan cái ảo tuởng của phong trào nhân quyền rằng tiến bộ đến một trật tự thế giới dựa trên nhân quyền là tất yếu.

Trong lịch sử không có cái gì là tất yếu – chỉ trừ việc là không sớm thì muộn mọi nền văn minh và mọi hệ thống chính trị cũng đều phải suy tàn – và cả Human Rights Watch lẫn Amnesty International đều đã phạm phải cái lỗi lầm mà hầu hết các phong trào đều mắc phải khi họ tin rằng họ đi đúng chiều hướng của lịch sử. Chính cái tinh thần "tự mãn" (hubris) này là cái mà đã được Michael Ignatieff, một trong những nhà tranh đấu cho nhân quyền tích cực nhất cảnh cáo trong cuốn sách xuất bản năm 2001 Human Rights as Politics and Idolatry :

"Trong năm muơi năm tới, chúng ta có thể chờ đợi thấy sự đồng thuận về đạo dứcvốn dẫn đến bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền năm 1948 bị tan rã thêm nữa… Không có một lý do gì để có thể tin tưởng được là sự toàn cầu hóa về kinh tế sẽ dẫn đến toàn cầu hóa về đạo đức".

Cả Human Rights Watch và Amnesty đều đúng khi không chịu chấp nhận thất bại. Với tình trạng thế giới hiện nay khi mà cán cân quyền lực quốc tế đã chuyển từ các chính quyền chấp nhận các tiêu chuẩn về nhân quyền sang những chính quyền chống lại hay ít nhất là dửng dưng đối với nhân quyền, chúng ta càng cần có những tổ chức nhân quyền tích cực hoạt động. Hy vọng rằng phong trào nhân quyền sẽ trở thành hữu hiệu hơn khi bị đẩy vào buớc đường cùng giống như một giáo hội ngầm nhưng đầy tinh thần lúc ban đầu thay vì một giáo hội đầy quyền lực nhưng trống rỗng về sau. 

Lê Mạnh Hùng

Nguồn : Người Việt, 20/06/2018

Published in Diễn đàn

Trong thế giới của Tổng Thống Donald Trump, một nhà ngoại giao Mỹ phải như thế nào ? Tổng Thống Trump không tin tưởng vào các liên minh và thỏa hiệp và có một quan điểm "thắng bại" về quan hệ giữa các quốc gia có nghĩa là cái gì làm cho bất kỳ một quốc gia nào khác mạnh hơn thì sẽ làm cho nước Mỹ yếu đi.

trump1

Tổng thống Mỹ Donald Trump đã tạo dựng được thương hiệu riêng với những cái bắt tay “đặc biệt” khi gặp các nhà lãnh đạo thế giới trong năm 2017. (VOV)

Trong bối cảnh đó công việc của một ông đại sứ bị thu lại từ những thương thuyết tế nhị để bảo vệ cho quyền lợi quốc gia xuống chỉ còn là những đòi hỏi thô bạo. Nói một cách khác, một nhà ngoại giao kiểu Trump điển hình trông giống như là ông đại sứ Hoa Kỳ tại Ðức Richard Grenell.

Ông Grenell đã gọi Sebastian Kurz, thủ tướng trung hữu của nước Áo là một "ngôi sao nhạc rock" và tuyên bố ông là một "fan lớn" của ông Kurz, vi phạm một nguyên tắc căn bản của ngành ngoại giao rằng – ngoại trừ những trường hợp ngoại lệ đặc biệt – các ông bà đại sứ không được chọn phe chính trị nào để ủng hộ tại những khu vực mình được ủy nhiệm.

Cũng trong cùng một buổi họp báo ông Grenell đã cam kết "sẽ giúp tăng sức mạnh cho những người bảo thủ trên khắp Châu Âu", một chỉ trích công khai đối với đại liên minh Bảo Thủ-Xã Hội hiện đang cầm quyền tại Ðức. Sau đó qua Twitter, ông Grenell đã chối bỏ không có làm những gì ông rõ ràng là đã làm – "Ý tưởng rằng tôi ủng hộ các ứng cử viên/đảng phái cụ thể là điều nực cười".

Ðây không phải là lần đầu tiên mà ông Grenell đã vác một cái chầy đập vào các nghi thức ngoại giao. Khi chính phủ Mỹ tuyên bố rút ra khỏi thỏa hiệp hạch nhân với Iran, ông đã lập tức ra lệnh cho các công ty Ðức có quan hệ làm ăn với Iran "phải đóng cửa hoạt động ngay lập tức".

Có thể là ông Grenell không hành động theo chỉ thị của Bộ Ngoại Giao Mỹ. Cái bộ này nay thiếu nhân viên đến nỗi nhiều ông bà đại sứ nay chỉ trông cậy vào mình. Thế nhưng chúng ta không thể nào coi nhẹ ông Grenell. Ông không phải là một tay mơ, nhảy vào làm đại sứ nhờ tiền bạc và quan hệ chính trị. Phải nói là ông có một kiến thức sâu sắc về thế giới hiểu theo nghĩa của Trump. Ông đã có kinh nghiệm làm mấy năm với tư cách là phụ tá cho ông John Bolton khi ông này làm đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc. Những lời tuyên bố và hành động của ông phù hợp với quan niệm rằng trật tự thế giới dựa trên luật lệ là chống lại Hoa Kỳ và hiện đang giãy chết.

Ðiều ông Trump muốn thay thế cho quan hệ hỗ tương phát triển những quyền lợi chung xuyên Ðại Tây Dương là một quan hệ trong đó Hoa Kỳ lấy và Châu Âu nhường, biểu tượng qua việc xé thỏa hiệp Iran và áp dụng thuế quan trên thép và nhôm. Một Châu Âu bị xáo trộn bởi những kẻ dân túy chính là thích hợp với sở thích của ông Trump. Nhưng như Tổng Thống Phần Lan Sauli Ninisto đã chỉ ra, một Châu Âu suy yếu và phân mảnh và một liên minh Ðại Tây Duơng lòng lẻo chỉ làm cho Nga trông mạnh hơn chứ không phải là Mỹ.

Ông Trump và ông Grenell cũng đòi hỏi các quốc gia Âu Châu giảm việc tùy thuộc về quân sự đối với Mỹ bằng cách chi ra 2% GDP cho quốc phòng như đã cam kết trong liên minh NATO. Về điểm này họ quả là đúng, thế nhưng khó có thể thấy rằng việc xé bỏ thỏa hiệp với Iran, áp đặt thuế quan và ủng hộ các đối thủ chính trị của chính phủ Ðức là một đường lối đứng đắn dẫn tới một liên minh bình đẳng hơn. Như ông Donald Tusk, chủ tịch Ủy Hội Châu Âu đã từng nói : "Với những người bạn như vậy, ai mà cần kẻ thù".

Ðức không có bao nhiêu lựa chọn để trả lời trực tiếp các hành động phi ngoại giao của ông Grenell. Thủ Tướng Angela Merkel chỉ có cách là bảo đảm sao cho ông Grenell phải chịu đựng những lời giáo huấn dài dòng và công khai từ miệng một viên chức thấp Bộ Ngoại Giao. Nhưng những hành động như vậy cũng chẳng có tác động gì tới những người vốn tự hào là khinh thị hệ thống liên minh cổ truyền.

Cách tốt nhất để đối phó với những người như ông Grenell là phải làm sao cho thấy rằng, hợp tác thì mang lại kết quả tốt hơn là kình chống. Châu Âu với Ðức cầm đầu phải cương quyết bảo vệ thỏa thuận với Iran và có phản ứng cứng rắn với việc áp đặt thuế quan của ông Trump.

Trong khi đó, Ðức cũng như các thành viên NATO khác tại Châu Âu cũng phải thực hiện đúng cam kết của mình về an ninh. Làm như vậy mới có thể xây dựng được một cơ sở vững chắc cho quan hệ mới với Mỹ dựa trên sự kính trọng nhau cũng như là những quyền lợi chung. Một quan hệ như vậy có thể rằng không có khả năng thực hiện ngày nào mà các tòa Ðại Sứ Mỹ tại Châu Âu còn do những người trung thành với ông Trump nắm, nhưng Châu Âu và Ðức không có cách nào khác ngoài việc phải có một tầm nhìn dài hạn. 

Lê Mạnh Hùng

Nguồn : Người Việt, 06/06/2018

Published in Diễn đàn

Ngoại trừ một giai đoạn ngắn sau vụ thảm sát tại Thiên An Môn năm 1979, kể từ thập niên 1970, hầu hết các nước phương Tây đều giữ quan hệ mật thiết với Trung Quốc trong hy vọng rằng đất nước này sẽ hội nhập vào trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo và dần dà trở thành một nước dân chủ tự do giống như mình.

phuongtay1

Phương Tây bắt đầu tỉnh ngộ với Trung Quốc

Nhưng những hy vọng đó đang tàn lụi dần khi phương Tây càng ngày càng nhận thức được rằng Trung Quốc không hề có ý định cởi mở hệ thống chính trị của mình. Đồng thời họ cũng càng ngày càng e ngại về những cố gắng của Bắc Kinh nhằm ảnh hưởng đến việc phương Tây đánh giá hệ thống chuyên chế của mình.

"Aodaliya renmin zhan qi lai ! – Dân tộc Úc đã đứng dậy" đó là lời Thủ Tướng Úc Malcolm Turnbull nói với các phóng viên bằng một câu nói tiếng Phổ Thông bập bẹ – một cố ý nhại lại câu tuyên bố của Mao Trạch Đông vào năm 1949 rằng dân tộc Trung Quốc đã đứng dậy – để bảo vệ luật mới của Úc nhằm giới hạn ảnh hưởng của các chính phủ nước ngoài đối với chính trị Úc vốn được đưa ra với một mục tiêu cụ thể : đảng cộng sản Trung Quốc. Và luật này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc tranh luận lâu dài về phương Tây phải làm sao phản ứng trước sự nổi lên của Trung Cộng.

Trong vòng ba tuần qua, các cơ quan tình báo của Đức và New Zealand đã công khai lên tiếng báo động về nguy cơ các hoạt động gián điệp và gây ảnh hưởng của Trung Quốc tại nước họ. Thứ Tư tuần trước, Quốc Hội Mỹ đã tổ chức một buổi điều trần để thảo luận về "cánh tay dài của Trung Quốc".

"Những cố gắng của chính phủ Trung Quốc để hướng dẫn, mua chuộc, cưỡng bách gây ảnh hưởng chính trị và kiểm soát các cuộc thảo luận về ‘những vấn đề tế nhị’ đã rất phổ biến và tạo ra những thách thức nghiêm trọng tại Mỹ cũng như các nước đồng minh của chúng ta". Đó là báo cáo của Thượng Nghị Sĩ Marco Rubia, chủ tịch ủy ban Quốc Hội về Trung Quốc.

Trong lúc sự chú ý của thế giới tập trung vào những cố gắng của Nga ảnh hưởng đến cuộc bầu cử tại Mỹ và tại Châu Âu thì những hoạt động rộng lớn hơn của Trung Quốc đã gây ra ít chú ý hơn nhiều, cho đến lúc gần đây.

Trái với các hoạt động của Nga, các hoạt động của Trung Quốc có tính cách tế nhị khôn khéo hơn, ít nhắm vào những mục tiêu cụ thể và tập trung vào việc gây ảnh hưởng lâu dài. Khác với các hoạt động tình báo truyền thống – mà hầu hết các nước đều thực hiện – các hoạt động lung lạc này của Trung Quốc được một ban ít người biết đến của trung ương đảng cộng sản Trung Quốc chỉ đạo, được biết dưới tên Ban Mặt Trận Thống Nhất.

Các hoạt động này bao gồm những cố gắng nhằm thu hút vào cho mình hoặc phá hoại một loạt các tác nhân và định chế đi từ các chính trị gia cho đến các môi trường truyền thông và các trường đại học.

Ban đầu những hoạt động này nhắm chính vào cộng đồng người Hoa sống tại nước ngoài. Mục tiêu của chúng là cô lập hóa, biên duyên hóa và tấn công vào những gì bị cho là những đe dọa đối với đảng cộng sản Trung Quốc từ các người Hoa bất đồng chính kiến tại nước ngoài cũng như những người tranh đấu cho nhân quyền đồng minh với họ.

Nhưng những năm gần đây, mục tiêu đã được mở rộng và nay bao gồm cả những cố gắng thuyết phục tầng lớp "lãnh đạo" (elites) phương Tây cũng như là quần chúng các nước phương Tây về sự chính đáng của đảng cộng sản và quyền được cai trị Trung Quốc của họ.

Và ở ngay tuyến đầu của cuộc chiến này là Úc, một đồng minh lâu dài của Mỹ và một đồng bạn then chốt của Mỹ tại Châu Á Thái Bình Dương nhưng với một nền kinh tế dựa vào sản phẩm nhất đẳng tùy thuộc vào nhu cầu của Trung Quốc. Giám đốc tình báo Úc lúc gần đây đã báo động về "nguy cơ chưa từng thấy" nghiêm trọng hơn cả khi điệp viên Liên Xô xâm nhập vào chính phủ Úc trong Chiến Tranh Lạnh.

Trong Chiến Tranh Lạnh, Liên Xô tìm cách chi phối giới "lãnh đạo" phương Tây với sự hấp dẫn của một ý thức hệ lý tưởng. Nhưng đảng cộng sản Trung Quốc lại có một cái hấp dẫn hơn nhiều đối với các quốc gia tư bản : hứa hẹn một thị trường to lớn. Và Trung Quốc đã không tiếc tiền để thực hiện chuyện này.

Theo David Shambaugh, giám đốc chương trình Trung Quốc của Viện Đại Học George Washington, hằng năm Trung Quốc bỏ ra từ $10 tỷ đến $12 tỷ cho một loạt các hoạt động lén lút tạo ảnh hưởng. Cơ quan tình báo Úc, ASIO, đã thu được bằng chứng về ít nhất là 6.7 triệu đô la Úc tăng dữ chính trị cho cả hai đảng chính của Úc từ chỉ hai nhà tỷ phú Trung Quốc có những quan hệ mật thiết với Bắc Kinh.

Và vấn đề mua ảnh hưởng này đã nổ ra một cách cụp lạc vào tuần trước nữa với sự từ chức của Sam Dastyari, một ngôi sao đang lên của đảng Lao Động, vốn dùng những món tiền của hai nhà tỷ phú này để trả bớt nợ cá nhân. Để sau đó, ông Dastiari đã tham dự một cuộc họp báo với các môi trường truyền thông Trung Quốc công khai kêu gọi Úc tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc tại biển Đông, một điều trái ngay cả với lập trường của đảng ông.

ASIO cũng nhận dạng ra khoảng 10 ứng cử viên ở cấp tiểu bang và địa phương có những quan hệ chặt chẽ với các cơ quan tình báo của Trung Quốc. Các cơ quan tình báo phương Tây tin rằng đó là một phần của một chiến dịch rộng lớn điều hợp từ Bắc Kinh để gài người vào những tầng lớp cao nhất của các nước dân chủ trên khắp thế giới.

Tháng Chín năm ngoái, một dân biểu gốc Hoa của New Zealand đã lọt được vào ủy ban đặc biệt quốc hội phụ trách đối ngoại, quốc phòng và mậu dịch dù rằng có quá khứ 15 năm hoạt động trong cục quân báo quân đội Trung Quốc. Trái với Úc, các nhà chính trị và lãnh đạo doanh nghiệp New Zealand đã tỏ ra ngần ngại trong việc công khai chỉ trích các hành động của Bắc Kinh có thể vì sợ làm mất lòng một bạn hàng lớn.

Bên cạnh những dụ dỗ về kinh tế, Bắc Kinh cũng có những biện pháp trừng phạt đe dọa những người mà họ mua chuộc không được. Các nhà báo, chính trị gia, doanh gia, hoặc học giả bị coi là "không thân thiện" với Trung Quốc đều bị từ chối chiếu khán vào Trung Quốc, tấn công bởi các môi trường truyền thông nhà nước và bị đe dọa bởi các "troll" trên mạng và có khi là mục tiêu bị "hack" của các "hacker" Trung Quốc. Gia đình của các học sinh Trung Quốc hoặc những người di dân thường xuyên bị công an đe dọa nếu họ bị coi như là bước ra ngoài đường lối của đảng khi ở nước ngoài.

Cuộc điều tra của ASIO vào việc Trung Quốc can thiệp chính trị và vụ Dastiari đã khiến chính phủ Úc thay đổi các luật lệ về gián điệp và can thiệp nước ngoài trong tháng này. Bắc Kinh đã phản ứng một cách giận dữ với luật này cũng như các bài báo vạch trần hoạt động của Ban Mặt Trận Thống Nhất tại Úc.

Nhưng luật này lại được cộng đồng người Hoa tại Úc ủng hộ. Hầu hết con số 1.2 triệu người Úc gốc Hoa đến từ Đông Nam Á, Đài Loan hoặc là bỏ Hồng Kông và Hoa Lục để tránh các sự đàn áp của chính quyền. Một số quy trách nhiệm cho Bắc Kinh là đã tạo điều kiện cho dân chúng Úc hồ nghi cộng đồng của họ.

Như Feng ChongYi, một giảng sư tại Viện Đại Học Kỹ Thuật Sydney vốn bị công an Trung Quốc bắt giữ 10 ngày trước khi thả vì không thích các nghiên cứu của ông về chính trị Trung Quốc nhận xét : "Nếu chính quyền Trung Quốc không can thiệp vào Úc thì tại sao họ lại quan tâm và cố gắng mô tả luật này như là tuyên truyền chống Trung Quốc". 

Lê Mạnh Hùng

Nguồn : Người Việt, 27/12/2017

Published in Diễn đàn
jeudi, 23 novembre 2017 23:58

Chính trị Hoa Kỳ và tinh thần

Lúc gần đây tại Hoa Kỳ đã nổ ra một loạt những câu chuyện về tình dục. Hay nói đúng hơn là nhưng câu chuyện về sách nhiễu tình dục. Và không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng đều bẩn thỉu và có khuynh huớng cho người ta thấy những gì tệ nhất trong bản tính con nguời.

hoaky1

Roy Moore, 70 tuổi, đang ra tranh cử ghế thượng nghị sĩ tại Thượng Viện Liên Bang đại diện cho tiểu bang Alabama.

Hãy lấy các tin loan ra từ Alabama mấy tuần nay. Đây là một câu chuyện điển hình. Một nguời đàn ông lớn tuổi bị nhiều phụ nữ tố cáo là đã sách nhiễu tình dục họ khi họ còn là những cô gái còn thơ. Một trong những người tố cáo nói rằng lúc đó bà chỉ có 14 tuổi.

Roy Moore nay 70 tuổi và đang ra tranh cử ghế thượng nghị sĩ tại Thượng Viện Liên Bang đại diện cho tiểu bang Alabama. Một số cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng ông ta có nhiều cơ hội thắng.

Có một bài báo đăng trên tạp chí New Yorker rằng ông Moore còn bị cấm không cho đến một trung tâm thương mại địa phương vì ông có khuynh hướng hay quầy rầy các cô gái vị thành niên tại đó. Phải làm một cái gì tệ lắm mới có thể bị cấm như vậy.

Đến nay thì đã có một loạt những câu chuyện tương tự như vậy tố cáo những nhân vật khác nhau, phần lớn là có danh vọng. Chúng ta có thể hy vọng rằng chúng góp phần làm thay đổi cái văn hóa coi phụ nữ như là công cụ tình dục giúp cho những phụ nữ nào làm trong những ngành hoạt động nào mà những người đàn ông trong đó không nổi tiếng và vì vậy ít có cơ hội những hành động của họ bị khui ra ; và đặc biệt là cho những chị em nào mà vì vấn đề tài chánh không có thể cưỡng lại những đòi hỏi của những cấp trên của họ.

Thế nhưng câu chuyện của ông Roy Moore tại Alabama lại cho ta thấy một khía cạnh khác của xã hội Mỹ không dính líu gì đến tình dục hoặc sách nhiểu. Đó là sự xuất hiện của tinh thần "bộ lạc" trong chính trị.

Trong mấy ngày qua, ông Moore đã bị lên án bởi nhiều nhân vật cao cấp đảng Cộng Hòa tại Washington DC và nói rằng ông cần phải rút lui ra khỏi cuộc tuyển cử. Thế nhưng phản ứng tại Alabama thì khác hẳn. Tại đây một số viên chức Cộng Hòa và chính trị gia Cộng Hòa địa phương đã đứng ra biện hộ cho ông Moore.

Ed Henry, một dân biểu Cộng Hòa địa phương đã khuyến dụ rằng những phụ nữ tố cáo ông Moore cần phải bị truy tố vì đã không lên tiếng nói lên chuyện này từ trước và để cho một kẻ bị tố cáo là sách nhiểu tình dục tiêu dao tại ngoại. Quả thật là khôi hài hết chỗ nói. Và Jerry Pow, chủ tịch đảng bộ đảng Cộng Hòa tại quận Bibb County, Alabama cho biết ông sẽ bỏ phiếu cho ông Roy Moore dù rằng những lời tố cáo này là đúng và dù rằng ông Moore đã làm một hành động phạm tội đối với một trẻ em vị thành niên.

Điều làm cho nguời ta ngạc nhiên nhất là lý do mà ông Pow đưa ra. Ông nói ông bỏ phiếu cho Moore vì ông ta không thể nào bỏ phiếu cho một người Dân Chủ trong cuộc bầu cử này. Ông Jerry Pow tin rằng bất kỳ một nguời Dân Chủ nào cũng tệ hơn một người Cộng Hòa dù rằng đó là một nguời Cộng Hòa sách nhiễu tình dục gái vị thành niên và sau đó nói đối chuyện đó.

Đây là một bước vượt xa hơn nhiều lãnh vục "tin giả". Đây là một hành động lấy sự thật ném vào sọt rác và rồi hãnh diện có nhận định riêng của mình hoàn toàn dựa trên thiên kiến.

Và ở mức nào đó, tinh thần "bộ lạc" này đến từ trên đỉnh cao nhất : ta có thể thấy rằng Tổng Thống Trump đã nổi bật trong việc im lặng không nói gì đến vấn đề của ông Roy Moore, nhưng lại "tweet" những lời chỉ trích gay gắt ứng cử viên Dân Chủ Al Franken.

Bà thống đốc tiểu bang Alabama cũng đưa thêm ý kiến của mình nói rằng bà tin những lời tố cáo của các phụ nữ đối với ông Moore là đúng, nhưng cũng vẫn bỏ phiếu cho ông Moore để bảo đảm rằng sẽ có thêm một người Cộng Hòa tại Thượng Viện.

Điều đáng buồn là theo những nhà nghiên cứu đây không phải là vấn đề riêng của những nguời Cộng Hòa tại Alabama mà của tất cả chúng ta.

Năm 2010, một công trình nghiên cứu bởi hai nhà tâm lý học Brendan Nyhan và Jason Reifler đã chứng minh rằng thiên kiến thắng dự thật trong việc tạo ra quan điểm của người ta. Và họ còn biện luận rằng càng kiểm soát các sự kiện chỉ làm cho nguời ta ôm chặt thêm những thiên kiến của mình.

Khi có người nào đưa cho ta những bằng chứng đi ngược lại với những gì chúng ta tin là đúng, chúng ta cảm thấy bị đe dọa và chúng ta lại càng cố chấp trong tin tưởng của mình. Đó có vẻ là những gì xảy ra trong những tuần qua tại Alabama.

Trong bối cảnh nhiệm kỳ tổng thống của ông Donald Trump các nhà chính trị học nay khám phá ra rằng cử tri không ngu đần gì. Thật sự họ cũng biết rõ khi một nhà chính trị nói láo. Nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đối với những cảm nghĩ của họ về ông/bà ta. Và tình trạng này càng ngày càng trở nên cực đoan hơn vì chính trị không chỉ trở nên phân cực mà trở thành "bộ lạc hóa". Nguời ta tự họp thành những bộ lạc và chiến đấu chống lại những bộ lạc khác để bảo vệ cho bộ lạc của mình.

Điều đó có nghĩa là tấn công không ngừng phe đối lập và từ chối không thay đổi ý kiến của mình ngay cả trước những sự thật khó chịu như là khả năng một người mình ủng hộ có thể là một kẻ sách nhiễu trẻ vị thành niên.

Điều đáng buồn hơn nữa là tình trạng "bộ lạc hóa" này sẽ làm xói mòn nền tảng của một chế độ dân chủ. 

Lê Mạnh Hùng

Nguồn : Người Việt, 23/11/2017

Published in Diễn đàn

Việc xuất bản cuốn hồi ký của bà Hillary Clinton "What Happened" kể lại chiến dịch tranh cử tổng thống của bà hôm Tháng Chín vừa qua đã kích động một loạt các bình luận về điều gì đã ảnh hưởng đến kết quả cuộc bầu cử tổng thống năm 2016. Rất nhiều người đã biện luận rằng bà ứng cử viên của đảng Dân Chủ đã không nhận đủ trách nhiệm của mình trong thất bại này.

hen1

Bà Hillary Clinton giới thiệu cuốn hồi ký What Happened" kể lại chiến dịch tranh cử tổng thống của bà năm 2016

Thế nhưng những nhà tâm lý xã hội có thể có một số điều để giải thích chuyện đó. Theo họ, có một khuynh hướng rộng rãi gắn những không may của người khác vào bản chất con người của họ thay vì những hoàn cảnh bên ngoài trong khi đối với chính mình thì ngược lại khi mình tìm cách giải thích các thất bại của mình.

Tuy nhiên còn có một số yếu tố khác được Edward Glaeser, một nhà kinh tế tại viện Đại Học Harvard, và các cộng sự viên của ông diễn tả trong một phúc trình mà có thể giúp giải thích nhiều kết quả bầu cử.

Không có một cách đo đơn giản và khách quan để lượng định tài năng của một nhà chính trị. Nhưng nhận thức của cử tri về tài năng của một chính trị gia có vẻ được quyết định một phần lớn bởi vì khuynh hướng chính trị hay ý thức hệ của mình. Tỉ như 70% cử tri Dân Chủ cho rằng Tổng thống Barack Obama sẽ đi vào lịch sử như là một vị tổng thống tài ba hay ít nhất là trên trung bình sau hai nhiệm kỳ trong khi chỉ có 15% cử tri Cộng Hòa là nghĩ như vậy.

Ngay cả khi những tiêu chuẩn khách quan đóng một vai trò quyết định thái độ của cử tri. Cử tri nhiều khi cũng phán đoán các nhà chính trị trên những kết quả mà nhiều khi nằm ngoài tầm kiểm soát của họ.

Justin Wolfers, một nhà kinh tế khám phá ra trong một công trình nghiên cứu của mình rằng cử tri tại những tiểu bang sản xuất dầu thô có khuynh hướng bầu lại thống đốc hiện hữu khi giá dầu tăng và bầu người khác lên thay thế khi giá dầu đi xuống, mặc dầu sự kiện là các ông thống đốc này hầu như không có quyền lực gì đối với giá dầu quốc tế cả.

Tương tự như vậy, Christopher Achen và Larry Bartels của viện Đại Học Princeton cũng cho thấy một khuynh hướng mạnh mẽ các cử tri trừng phạt các nhà chính trị sau những thiên tai như lụt lội, hạn hán hoặc ngay cả chuyện nhỏ như cá mập tấn công người. Họ chứng minh rằng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 có đến 2.8 triệu cử tri bỏ phiếu chống lại ông Al Gore (ứng cử viên của đảng cầm quyền vì ông đang làm phó tổng thống cho ông Bill Clinton và ra tranh cử để thay thế ông này) bởi vì tiểu bang của họ có quá nhiều mưa (hoặc là bị hạn) trong năm đó.

Cố nhiên là có một điều tốt trong khuynh hướng gán cho các nhà chính trị có trách nhiệm đối với những sự việc mà họ hầu như không có kiểm soát được bao nhiêu. Những nhà chính trị có thể sẽ cố gắng làm việc tích cực hơn là bình thường với hy vọng có thể cải thiện được những kết quả đó bởi vì họ biết là họ sẽ bị cử tri phán xét qua những kết quả đó. Thế nhưng hầu hết những hệ quả mà ông Glaeser và những đồng liêu của ông đưa ra đều có tính tiêu cực.

Đặc biệt họ cho thấy rằng các cử tri thường tự cho là họ có thể khám phá một cách dễ dàng tài năng của các chính trị gia thường phản ứng với những thất bại bằng cách "đòi hỏi những người mới chứ không phải định chế mới"-khẩu hiệu là "throwing the bum out" chứ không phải là thay đổi những điều kiện đối với các quan chức dân cử.

Các cử tri không quan tâm bao nhiêu đến những cơ cấu để hướng dẫn tốt hơn việc nhận định ai là một chính trị gia tốt hoặc là để ngăn ngừa một chính trị gia tồi được bầu lên tỉ như một nền báo chí tự do hoặc là những cơ quan kiểm tra chống lại tham nhũng.

Cố nhiên là không một kết quả bầu cử nào có thể thu góp lại thành một tập hợp những yếu tố đơn giản chứ đừng nói đến một yếu tố tâm lý độc nhất trong khối cử tri. Nhưng ông Glaeser và các đồng liêu của ông biện luận rằng yếu tố sai lầm trong việc gán trách nhiệm này nhiều khi có thể dẫn đến việc cử tri bầu cho người có số may, thay vì người có khả năng hoặc là lựa chọn chính trị gia trên cơ sở họ có khả năng trong những lãnh vực mà các quan chức dân cử trên thật tế không có bao nhiêu kiểm soát.

Ít nhất như phúc trình này khuyến dụ thường các cử tri hay bầu những ứng cử viên tổng thống nào khoe khoang rằng họ có thể quản lý nền kinh tế đất nước một cách tốt đẹp mặc dầu sự kiện là quyền lực của ông tổng thống đối với nền kinh tế không có bao nhiêu so với quyền lực của ông đối với chiến tranh hoặc hòa bình. 

Lê Mạnh Hùng

Nguồn : Người Việt, 01/11/2017

Published in Diễn đàn

Bầu cử tạo ra chấn động lớn cho quốc gia giàu mạnh nhất Châu Âu nhưng người Việt Nam tại Đức nói chung và Berlin nói riêng có quan tâm và bám sát tình hình không ?

duc1

Ba lãnh đạo của đảng AfD công khai bài ngoại vừa có gần 100 ứng viên vào Quốc hội Đức : Alexander Gauland, Alice Weidel và Frauke Petry

BBC phỏng vấn ông Lê Mạnh Hùng, nhà báo độc lập tại Berlin, thủ đô nước Đức về câu chuyện này.

Đầu tiên BBC hỏi ông có phải ý thức chính trị và tinh thần xã hội muốn ham gia các vấn đề của quốc gia sở tại có phải vẫn còn hạn chế trong số người Việt Nam ở Berlin ?

Lê Mạnh Hùng : Nhờ mạng xã hội có thể đánh giá được dễ dàng hơn điều này. Có sự khác khác biệt với những lần bầu cử trước là người Việt thế hệ thứ nhất quan tâm nhiều hơn tới các diễn biến trên chính trường Đức, đến bầu cử.

Họ dường như bắt đầu cảm nhận được sự liên quan mật thiết giữa những gì đang diễn ra ở đất nước sở tại và cuộc sống của riêng mình. Ở Đức càng lâu họ sẽ càng vỡ ra điều đó.

duc2

Một biển quảng cáo dạy lái xe cho người Việt ở Berlin. Nhiều người Việt Nam tại đây còn vất vả với ngôn ngữ nước chủ nhà và ít hội nhập vào văn hóa Đức

Cuộc sống lo lắng về cơm áo, gạo tiền càng ngày đỡ đi, con cái đã lớn, họ có nhiều thời gian hơn để quan tâm đến xung quanh, nhiều

Nhưng những thay đổi này vẫn chưa thực sự mạnh. Hạn chế về tiếng Đức là một rào cản lớn với thế hệ thứ nhất nói chung, đặc biệt với khối người ra đi từ miền Bắc Việt Nam nói riêng, bởi quan niệm mang theo từ nhà rằng chính trị là một thứ gì đó xa lạ, thậm chí „nguy hiểm", nên xa lánh...vẫn còn đè nặng trong tâm trí của họ.

Số đông người Việt vẫn còn bị cuốn hút vào những hoạt động hội hè, đình đám, coi nước Đức chỉ là cõi tạm, quan tâm đến những vấn đề ở Việt Nam hơn là nơi mình đang sống.

duc3

Cổng Brandenburg, biểu tượng của nước Đức thống nhất nằm ở trung tâm Châu Âu

Thế hệ thứ hai thì lại có điểm khác. Nhóm sinh ra, lớn lên ở Đức, có quốc tịch Đức rất quan tâm đến bầu cử. Trong số gia đình quen biết của chúng tôi, tôi chưa bắt gặp một trường hợp nào không đi bầu. Một vài người bận việc vào ngày bỏ phiếu thì đã tìm cách bầu trước, gửi qua bưu điện... Họ hiểu được giá trị lá phiếu của họ.

Cô gái hàng xóm của tôi nói : "ít nhất cháu cũng không để cho mấy đảng cực đoan chiếm được nhiều phiếu bầu hơn !". Nhóm người trẻ tuổi tới Đức trễ thì có nhiều điểm tương đồng với thế hệ một. Chúng tôi thường nói đùa là "những người kế cận của thế hệ thứ nhất có nhiều hạn chế".

BBC : Ông biết có bao nhiêu người Việt là cử tri tại Đức trong kỳ bầu cử Quốc hội năm nay ?

Lê Mạnh Hùng : Con số chính xác số người thế hệ thứ hai tham gia bầu cử chưa thể có thống kê, nhưng tôi có thể ước đoán được là phần đông tất cả những ai có quốc tịch và quyền tham gia bầu cử.

duc4

Tòa nhà Quốc hội Đức - Bundestag : các bình luận tại Châu Âu và Hoa Kỳ nói chính trường Đức đang qua cơn chấn động sau khi phe cực hữu bài ngoại AfD thắng lớn, thu về 13,5% phiếu nhờ khẩu hiệu bài ngoại

BBC : Chính sách nhập cư của một chính phủ liên minh mới tại Đức ra sao ? Có chỉ dấu là FDP qua lời ông Christian Lindner cũng nói điều kiện để tham gia lập CP cùng đảng CDU của bà Angela Merkel là "ai trượt tỵ nạn phải bị trục xuất ngay", ông nghĩ sao ?

Lê Mạnh Hùng : Còn quá sớm để đánh giá về điều này. Đảng CDU của bà Merkel trong những ngày tới sẽ phải có một quá trình đàm phán thương lượng không dễ dàng với một số đảng khác để hình thành một liên minh cầm quyền.

Khác với các nhiệm kỳ trước, khá êm ả với đại liên minh CDU, CSU và SPD, lực lượng đối lập trong quốc hội không mạnh... lần này nếu như các diễn biến sẽ đúng như những gì đã diễn ra sau bầu cử tối hôm qua, sau các cuộc hội luận bàn tròn giữa các đảng có chân trong quốc hội, các cuộc họp báo riêng của từng đảng thì việc đưa ra các chính sách, đường lối đối nội và đối ngoại của liên minh cầm quyền tới đây sẽ luôn bị các đảng đối lập săm soi kỹ lưỡng.

Bản thân việc tìm cách liên minh với nhau ở giai đoạn này, các đảng cũng sẽ đưa ra không thiếu gì các phát ngôn mạnh bạo để quảng bá cho mình. Những đề tài lớn như Châu Âu, người nhập cư, công bằng xã hội sẽ còn tiếp tục được khai thác triệt để.

Những chính sách, biện pháp cụ thể với người tị nạn bị bác đơn sẽ còn phải bàn thảo nhiều trước khi đưa ra và khả năng thực thi chúng cũng không phải luôn là dễ dàng. Quá khứ đã có nhiều minh chứng về điều này.

duc5

Buôn bán lẻ và phục vụ ăn uống tại khu Đồng Xuân, Berlin

BBC : Trở lại vấn đề của cộng đồng Việt ở vùng Berlin và các khu vực khác, họ nên là gì để có tiếng nói ít nhiều tác động đến chính sách của Đức vào thời kỳ mới này ?

Lê Mạnh Hùng : Theo tôi nghĩ có một điều chắc chắn là tương lai của người gốc nước ngoài sống ở Đức ra sao cũng phụ thuộc một phần vào chính thái độ chính trị của bản thân họ đối với đất nước sở tại.

duc6

Lối vào một quán ăn Việt Nam tại Berlin

Quan tâm đến chính trị, dấn thân vào chính trường, mạnh dạn cất lên tiếng nói của mình, hãy nhận thức rõ rằng đây là nơi mình sẽ sống đến hết đời, là quê hương của con, cháu mình, hãy chung tay đóng góp bảo vệ, xây dựng nó... thì khả năng một kết cục bị thảm bị gây ra bởi các đảng phái cực đoan ở Đức có chân trong chính quyền sẽ được giảm thiểu tối đa.

Quốc Phương thực hiện

Nguồn : BBC, 26/09/2017

Lê Mạnh Hùng là nhà báo độc lập và nhà hoạt động văn hóa, đã sống tại Berlin từ năm 1991.

Published in Văn hóa
Trang 3 đến 3