Nếu có một điều mà chúng ta cần biết nhất thì đó là một dân tộc không yêu nước chỉ có thể đi từ tai họa này tới thảm kịch khác. Đó là bài học của mọi dân tộc nhưng là bài học lịch sử cay đắng và đáng nhớ nhất của dân tộc ta trong non một thế kỷ qua.
Một dân tộc không yêu nước chỉ có thể đi từ tai họa này tới thảm kịch khác
Gần đây đã có thảo luận về bộ Lịch Sử Việt Nam 15 tập do Viện Sử Học Hà Nội tái phát hành với vài sửa chữa và bộ phim The Vietnam War. Tôi chưa đọc bộ sử này và cũng chưa xem bộ phim này nhưng đã có thể biết rằng không cần dành ưu tiên cho chúng trong thời dụng biểu của tôi. Có những trường hợp có thể kết luận chỉ qua một vài sự kiện. Thí dụ như khi một người nói nước Pháp ở Châu Á thì ta có thể kết luận người đó không có kiến thức về địa lý dù chưa quen.
Một số bạn tôi đã đọc qua bộ Lịch Sử Việt Nam và đều nói đó là bộ sử vừa kém vừa không trung thực. Họ đều là những người có trình độ cao và đáng tin, nhưng đánh giá của tôi cũng dựa vào chính những phát biểu của ông Trần Đức Cường, người chủ biên. Ông Cường nói rằng bộ sử đã không đề cập tới vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm và trận Gạc Ma năm 1988 vì không có tài liệu. Về chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ông nói tuy dùng danh xưng chính thức "Việt Nam Cộng Hòa" thay vì "ngụy quyền Sài Gòn" như trong lần in trước nhưng lập trường của ban soạn thảo bộ sử không hề thay đổi, đối với họ đây vẫn là một chính quyền do Mỹ dựng lên và sống nhờ đô la Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn chỉ là bọn lính đánh thuê. Những lời tuyên bố của ông Trần Đức Cường đủ để đánh giá bộ sách và những người biên soạn, trước hết là chính ông Trần Đức Cường.
Làm sao có thể không có tài liệu về vụ Nhân Văn - Giai Phẩm ? Các nhân chứng đã kể từng chi tiết hàng trăm hàng nghìn lần qua những hồi ký cũng như các cuộc phỏng vấn và những người người thân thuộc hoặc có quan hệ với họ cũng đã tường thuật rất đầy đủ. Tất cả những ai muốn biết đều đã biết và biết rất rõ, rất đúng những gì đã xảy ra. Chỉ có chính quyền cộng sản là im lặng vì đây là một tội ác của họ. Khi nói là "không viết vì không có tài liệu", ông Cường đã thú nhận chỉ viết sử theo chính quyền.
Cũng tương tự, trận Gạc Ma đã được tường thuật rất đầy đủ, những sự kiện khách quan và chính thức cũng không thiếu. Những ai theo dõi tình hình Việt Nam đều đã biết rõ. Theo những tài liệu của chính quyền Việt Nam thì từ đầu năm 1988 hải quân Trung Quốc đã đến vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam và từ ngày 31/01/1988 họ bắt đầu đánh chiếm các đá Chữ Thập, Châu Viên, Gaven, Tư Nghĩa. Trong suốt hơn một tháng kể ngày họ bắt đầu tấn công - và hơn ba tháng kể từ ngày họ đem quân đến - chính quyền Việt Nam hoàn toàn không có một phản ứng nào cũng không tăng cường lực lượng phòng thủ.
Ngày 14/03/1988 họ đánh chiếm Gạc Ma, bắn chìm ba tầu Việt Nam và tàn sát 64 chiến sĩ hải quân. Các ông Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh và Đỗ Mười đã đã cấm không quân Việt Nam can thiệp ; Bộ ngoại giao Việt Nam chỉ ra một tuyên ngôn phản đối chiếu lệ, rồi thôi. Tháng 5 Bộ chính trị Đảng cộng sản họp và ra nghị quyết 13 khẳng định phải phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Tháng 9 hiến pháp được tu chỉnh để bỏ đoạn trong lời nói đầu coi Trung Quốc là kẻ thù. Thế là Trung Quốc không còn là kẻ thù sau khi đã đánh chiếm Trường Sa và tàn sát quân ta. Đây chỉ là một vụ dàn cảnh để dâng đất cầu hòa. Ông Trần Đức Cường và đồng nghiệp không thiếu tài liệu nhưng đã không được phép hoặc không dám viết.
Sự hèn nhát trước kẻ có quyền thường đi đôi với sự thô lỗ trước những người sa cơ lỡ vận. Ông Cường đã gọi quân đội Việt Nam Công Hòa là bọn lính đánh thuê. Cuộc chiến đã qua từ hơn 42 năm rồi, không một người Việt Nam yêu nước nào muốn khơi lại vết thương, nhưng cũng không ai có quyền dung túng sự xuyên tạc, nhất là khi nó lại đi kèm với sự thóa mạ. Trong cả hai phe đã có hàng triệu người chết trong đó có những người rất đáng kính, ký ức của họ phải được trân trọng dù họ thuộc phe nào.
Tuy vậy cần nói một lần cho rõ là nếu trong cuộc nội chiến này có một phe đánh thuê thì đó không phải là Việt Nam Cộng Hòa. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã dựa vào Hoa Kỳ và đồng minh để tự vệ, có thể trước sau nó đã nhận viện trợ nhiều hơn chế độ cộng sản (trước khi bị bỏ rơi và vì thế thua trận), nhưng nó tuyệt đối không đánh cho ai cả ngoài cho chính mình.
Không phải như ông Lê Duẩn nói : "ta đánh là đánh cho cả Trung Quốc và Liên Xô". Ở miền Nam cũng không có những người làm những bài thơ như :
"ta là chiến binh
đấu tranh cho hòa bình
ta mơ Liên Xô thành trì cách mạng
ta yêu Trung Quốc vĩ đại đàn anh
ta nguyện hy sinh tất cả cho Mao Trạch Đông".
Về mặt tinh thần chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù những yếu kém của nó, độc lập với nước ngoài hơn hẳn chế độ cộng sản miền Bắc. Không có bất cứ một người lính Việt Nam Cộng Hòa nào ở bất cứ cấp bậc nào và vào bất cứ lúc nào nghĩ rằng họ đang đánh cho Mỹ cả. Chủ yếu do tuyên truyền xuyên tạc - như rêu rao rằng đồng bào miền Nam đang cực kỳ đói khổ và cần được giải cứu - và bưng bít sự thực, chính quyền cộng sản đã đánh lừa được một phần dư luận rằng họ là một lực lượng yêu nước nhưng sự thực không phải như thế. Họ không yêu nước và cũng không gây chiến vì quyền lợi dân tộc. Trái lại.
Ông Cường và các cộng sự viên của ông, ít nhất những người đã viết về giai đoạn cộng sản trong bộ sách này, đã sai phạm nghiêm trọng. Đối với mọi dân tộc những lúc viết, nghĩ, đọc và thảo luận về lịch sử bao giờ cũng là những lúc rất quan trọng. Đó là những lúc chúng ta gặp nhau - dù có thể ở rất xa nhau - để cùng nhìn lại dân tộc mình, để biết chúng ta là ai và tại sao chúng ta lại là chúng ta ngày nay ; nếu các biến cố lịch sử diễn ra một cách khác thì ngày nay chúng ta đã như thế nào ; và tại sao lịch sử lại đã diễn ra như thế. Đó là những lúc chúng ta nhận định căn cước chung, từ đó hiểu mình có thể và nên làm gì. Nhóm biên soạn bộ sách này đã không hiểu được như vậy. Họ không có nhân cách của những người viết sử.
Bộ phim The Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam) thì tôi chưa coi và sẽ không coi nếu không dư thời giờ vì hai lý do. Lý do thứ nhất là thực ra tôi đã coi phần chính rồi, vì theo các bạn tôi thì bộ phim này lấy lại khá nhiều của bộ phim Vietnam, a history (Việt Nam, một khúc lịch sử) mà tôi đã xem, phần còn lại cũng không khác về sử quan.
Tôi cũng đã hỏi ý kiến anh Lê Mạnh Hùng, tác giả bộ lịch sử Việt Nam mang tên Nhìn Lại Việt Sử, người mà tôi nghĩ xứng đáng được coi là một sử gia chân chính. Anh Hùng cũng cùng một quan điểm : bộ phim này không có giá trị lịch sử, nó được làm cho người Mỹ nên chỉ chủ yếu nói về Mỹ và chỉ lặp lại những thành kiến hời hợt của người Mỹ về Việt Nam, nhất là sự coi thường Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh mà họ đã bỏ rơi.
Câu hỏi duy nhất đáng đặt ra với bộ phim này cũng như với phần lớn những gì mà các tác giả Mỹ đã viết về Việt Nam là : tại sao người Mỹ mới chỉ can thiệp vào Việt Nam bên cạnh chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ sau năm 1954 mà lại có thể có ngay một thành kiến khinh thường đối với chế độ này trong khi bình thường thì người ta chỉ có thể có một thành kiến sau một thời gian dài ?
Thành kiến này chính tôi cũng nhận thấy rất rõ. Giải thích của tôi sau một thời gian tìm hiểu là người Mỹ đến Việt Nam với hy vọng tìm được những đồng minh ít nhiều có khả năng và ý chí ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản nhưng họ đã nhanh chóng thất vọng. Những người lãnh đạo các chính quyền kế tiếp nhau đối tác với họ chỉ là những cá nhân rời rạc với tham vọng cá nhân, không có đội ngũ, không có khả năng chính trị, không có ý chí, và cũng không yêu nước. Thất vọng đã quá lớn và đã có tác dụng của một cú sốc mạnh khiến sự khinh thường của họ đối với Việt Nam Cộng Hòa đã nhanh chóng trở thành một thành kiến.
Yêu nước là không im lặng thụ động trước những xúc phạm hoặc bất công - Ảnh Mai V. Pham
Cả bộ sử và bộ phim này đều chất vấn chúng ta về cùng một vấn đề : lòng yêu nước của người Việt Nam như thế nào ?
Trước hết phải hiểu lòng yêu nước là gì. Đó là một câu hỏi then chốt mà một cách kỳ lạ ít có người Việt Nam nào đặt ra và cố gắng trả lời một cách thành thật.
Như mọi tình cảm, lòng yêu nước không thể định nghĩa một cách chính xác bằng ngôn ngữ thông thường nhưng mọi người đều có thể cảm nhận những thể hiện cụ thể của nó. Đó là yêu đồng bào mình như những người anh em bình đẳng, là muốn chia sẻ cuộc sống và những nỗi vui buồn với họ, là không im lặng thụ động trước những xúc phạm hoặc bất công mà họ là nạn nhân, là phấn đấu để xã hội ngày càng tự do hơn, công bình hơn, liên đới hơn, lương thiện và thân thiện hơn, để đất nước ngày một giầu mạnh hơn, đẹp hơn, sạch hơn và được thế giới kính trọng hơn.
Cụ thể trong lúc này là tham gia cuộc vận động dân chủ, lên tiếng bênh vực dân oan, chống lại các vụ bắt người tùy tiện và các vụ xử án thô bạo, chống tham nhũng, chống sự lệ thuộc Trung Quốc, chống các nhà máy nhiệt điện than, chống lại điều 4 hiến pháp và các điều 79, 88, 158 của bộ luật hình sự dù phải trả giá cho lập trường của mình. Trước hết là phải từ chối mọi ân sủng của chế độ này. Như vậy có bao nhiêu người Việt Nam thực sự yêu nước ?
Trở lại quá khứ.
Lòng yêu nước hầu như vắng mặt trong giới cầm quyền của chế độ Việt Nam Cộng Hòa (và Quốc Gia Việt Nam trước đó). Yêu nước chưa bao giờ là một tiêu chuẩn để chọn lựa những người trách nhiệm. Tệ hơn nữa nó còn là một trở ngại, gây ngờ vực và dị ứng cho cấp trên, bởi vì như vậy là "làm chính trị" và mẫu người tốt của chế độ Việt Nam Cộng Hòa là những người không làm chính trị. Tiêu chuẩn thăng tiến trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa, kể cả trong những chức vụ rất quan trọng, là bằng cấp, là sự quen biết và trong rất nhiều trường hợp địa phương.
Trong những phát biểu riêng nhiều quan chức quan trọng còn tỏ ra có cảm tình với các ông Nguyên Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch và thủ tướng Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam - một hư cấu do Đảng cộng sản lập ra trong mục đích tuyên truyền - vì "dù sao họ cũng là người miền Nam".
Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một bộ máy điều khiển bởi những con người không thành đội ngũ, không hiểu biết về chính trị, cũng không yêu nước và chỉ có những mục tiêu cá nhân. Một chế độ như vậy trách gì người Mỹ khinh thường ngay khi mới tiếp xúc và làm sao có thể chống trả được với cuộc tiến công của miền Bắc ?
Một điều cần được nói ra là dù sao chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũng đã là một không gian tự do hơn hẳn miền Bắc và không gian tự do này đã dần dần tạo ra một lớp người trẻ có khả năng và có ý thức quốc gia thực sự, nhưng họ chưa nắm được vai trò quyết định thì lịch sử đã sang trang.
Còn miền Bắc xã hội chủ nghĩa ?
Tôi đã có một cuộc thảo luân khá dài qua điện thoại với cố trung tướng Trần Độ. Ông Trần Độ không vui khi tôi viết trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn rằng những người cộng sản không yêu nước như họ mạo nhận. Tôi đã trả lời ông rằng yêu nước trước hết là yêu đồng bào mình. Khi người ta có thể tàn sát hoặc đầy đọa những người Việt chỉ vì thành phần xã hội của họ hay vì họ không chấp nhận Đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản là người ta không yêu nước. Đối với tôi, Đảng cộng sản Việt Nam chắc chắn không phải là một đảng yêu nước, ông Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản cũng không phải là những người yêu nước, bởi vì họ đã cố tình gây ra một cuộc nội chiến làm đất nước Việt Nam bị tàn phá và hàng triệu người Việt Nam thiệt mạng chỉ để mở rộng quyền lực của họ và ảnh hưởng của phong trào cộng sản quốc tế. Trần Độ quả quyết rằng nhiều người chiến đấu trong hàng ngũ cộng sản không hề biết gì về chủ nghĩa cộng sản, họ chỉ biết đất nước Việt Nam thôi. Tôi đã trả lời rằng một số nhỏ những người đó đã lầm lẫn, còn tuyệt đại đa số đã bị bắt buộc và sợ chứ không ai hành động vì lòng yêu nước cả, họ nói là đã hành động vì lòng yêu nước chỉ vì họ không có ngay cả can đảm để nhìn nhận sự hèn nhát của mình. Trần Độ không đồng ý nhưng chắc ông cũng phần nào chia sẻ quan điểm của tôi, bởi vì sau đó chính ông đã là người đầu tiên nhờ những người thân quen phổ biến cuốn Tổ Quốc Ăn Năn ở trong nước. Ít lâu sau ông nhờ người đem sang cho tôi một bài ông vừa viết với tựa đề "Tâm đắc Hồ Chí Minh" để hỏi ý kiến. Tôi gọi điện thoại cho ông và nói rằng ông đã sai lầm khi đề cao ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ Chí Minh không có văn hóa, cũng chẳng có đạo đức và càng không phải là một người yêu nước. Chúng tôi nói chuyện khá lâu rồi Trần Độ kết luận "ừ, thế thì thôi !" và không phổ biến bài này mà ông đã bỏ cả tháng trời để viết.
Trong cả miền Nam cộng hòa lẫn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, lòng yêu nước đều rất mờ nhạt vì lòng yêu nước của người Việt Nam nói chung, cả miền Bắc lẫn miền Nam, rất yếu. Nếu người người Việt Nam thực sự yêu nước thì vào năm 1945 đảng được ủng hộ nhiều nhất đã không phải là Đảng cộng sản, một đảng theo đuổi một chủ nghĩa mà mục tiêu sau cùng là xóa bỏ các quốc gia. Cuộc nội chiến ba mươi năm 1945-1975 cũng đã chỉ xảy ra và kết thúc với thắng lợi của Đảng cộng sản vì sự thiếu vắng của lòng yêu nước. Những kẻ gây ra nội chiến giết đồng bào mình và tàn phá đất nước mình vì một ý thức hệ không bao giờ là những người yêu nước.
Yêu nước trong lúc này là tham gia cuộc vận động dân chủ, chống lại điều 4 hiến pháp và các điều 79, 88, 158 của bộ luật hình sự dù phải trả giá cho lập trường của mình.
Còn hiện nay ?
Chế độ cộng sản này dù đã thất bại trong tất cả mọi địa hạt và trên tất cả mọi phương diện vẫn còn đó mà không gặp một phản ứng đáng kể nào cũng vì chúng ta thiếu lòng yêu nước. Mỗi lần nói chuyện về đất nước với nhiều người trong nước cũng như ngoài nước, tôi có cảm tưởng như mình làm phiền lòng họ. Nhiều người thản nhiên nói rằng họ không quan tâm tới đất nước Việt Nam nữa. Đáng buồn nhưng không đáng ngạc nhiên.
Lòng yêu nước chỉ có thể mạnh khi người dân cảm thấy họ làm chủ vận mệnh đất nước, nghĩa là trong những quốc gia dân chủ, nhưng trong suốt dòng lịch sử dài của chúng ta dân chủ đã chỉ ló dạng một cách yếu ớt tại miền Nam rồi tắt lịm luôn. Nếu có một điều mà chúng ta cần biết nhất thì đó là một dân tộc không yêu nước chỉ có thể đi từ tai họa này tới thảm kịch khác. Đó là bài học của mọi dân tộc nhưng là bài học lịch sử cay đắng và đáng nhớ nhất của dân tộc ta trong non một thế kỷ qua.
Như đã nói ở phần trên, lòng yêu nước là một tình cảm và do đó không thể định nghĩa. Nhưng cũng chính vì nó là một tình cảm nên bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được nếu thành thực tự hỏi mình có thực sự yêu nước không.
Câu hỏi này nên và cần được đặt ra, vì dù trả lời thế nào người ta cũng sẽ nhìn rõ hơn và ứng xử đúng hơn sau đó. Trong cuộc vận động dân chủ hiện nay nếu thực sự yêu nước người ta tự nhiên sẽ hiểu mình phải làm gì và làm như thế nào. Và tìm đến với những ai.
Nguyễn Gia Kiểng
(06/11/2017)
Xã luận
Quan điểm của nhiều nhà bình luận là Tập Cận Bình đã khuất phục hoặc thuyết phục được bộ máy Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thành công trong tham vọng thâu tóm mọi quyền lực để trở thành một hoàng đế Trung Quốc mới. Quan điểm này cần được xét lại.
Đại hội 19 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đưa "tư tưởng Tập Cận Bình" vào hiến chương của Đảng, mặc nhiên nhìn nhận cho Tập Cận Bình một chỗ đứng ngang hàng với Mao Trạch Đông
Đại hội 19 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vừa kết thúc sau bẩy ngày họp. Điều có thể nhận xét là đã không có một chọn lựa chiến lược cụ thể nào cả dù Trung Quốc đang phải đương đầu với những vấn đề rất lớn. Quyết định duy nhất gây nhiều thảo luận sôi nổi là đại hội này đã đưa "tư tưởng Tập Cận Bình" vào hiến chương của Đảng, mặc nhiên nhìn nhận cho Tập Cận Bình một chỗ đứng ngang hàng với Mao Trạch Đông.
Với quyết định bất ngờ này Tập Cận Bình không chỉ trở thành lãnh tụ tối cao và tuyệt đối không thể phản bác trong 5 năm tới mà còn có thể trở thành lãnh tụ suốt đời của cả Đảng và nhà nước Trung Quốc. Nhưng Tập đã làm gì để xứng đáng với vinh dự đó ?
Trước hết "tư tưởng Tập Cận Bình" là gì ? Không ai biết vì không có gì cả. Ông Tập đã cố gắng trình bày tư tưởng của ông trong bài diễn văn in sẵn dài hơn ba giờ mà sau khi ông đọc xong Giang Trạch Dân, ngồi ngay bên cạnh ông, vẫn còn phải dùng kính lúp để xem có điều gì mới.
Giang Trạch Dân, ngồi ngay bên cạnh Tập Cận Bình, phải dùng kính lúp để xem có điều gì mới.
Tư tưởng này được định nghĩa như là "chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tại Trung Quốc trong thời đại mới". Nhưng chủ nghĩa xã hội nào ? Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ được nhắc lại qua loa. Không thể khác vì trước mắt cả thế giới chủ nghĩa Mác-Lênin đã được đánh giá là không chỉ sai mà còn độc hại. Và thực tại Trung Quốc nào ? Thời đại mới nào ? Tập Cận Bình không thể trả lời bởi vì ông không dám nhìn thẳng vào thực tại Trung Quốc và những đòi hỏi hiển nhiên của kỷ nguyên tri thức. Cuối cùng thì "tư tưởng Tập Cận Bình" chỉ khẳng định sự duy trì và tăng cường chế độ độc tài toàn trị một cách tuyệt đối vì "tất cả đều phải đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng, dù là các bộ phận của Đảng, hay chính phủ, quân đội hay các tổ chức xã hội dân sự ở mọi nơi". Điều mới, nếu có, của "tư tưởng" này chỉ là một sự lùi sâu khó tưởng tượng vào sự lỗi thời.
Tâp Cận Bình đã làm được những gì để xứng đáng được coi là một trong hai người vĩ đại nhất trong lịch sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng với Mao Trạch Đông ? Mao có công xây dựng Đảng Cộng Sản Trung Quốc và đưa nó tới thắng lợi nhưng Tập thì sao ?
Tập đã không giải quyết xong một vấn đề nào của Trung Quốc cả. Trái bong bóng bất động sản vẫn tiếp tục phình ra, khối tín dụng -260% GDP chưa kể những tín dụng không chính thức như hụi và các khoản cho vay của các công ty không có quy chế ngân hàng- đã tăng lên gần gấp đôi so với mười năm trước dù các định chế tiền tệ không ngừng cảnh giác. Kinh tế Trung Quốc còn vừa bị các công ty thẩm định hạ thấp điểm về mức độ khả tín. Tư bản Trung Quốc vẫn ồ ạt đào thoát ra nước ngoài. Các công ty xây dựng và than, thép vẫn quá thừa khả năng không biết làm gì. Trầm trọng hơn là mức độ ô nhiễm chết người vẫn còn nguyên vẹn dù tuổi thọ trung bình của người Trung Quốc đã giảm đi 5 năm trong mười năm qua sau khi đã giảm 5 năm trong thập niên 1990. Chênh lệch giầu nghèo quá đáng giữa các tỉnh bờ biển và các tỉnh trong lục địa không hề giảm đi và vẫn là một trái bom nổ chậm có thể làm tan vỡ Trung Quốc.
Không phải là chính quyền Tập Cận Bình không nhìn thấy những nguy cơ, họ đã cố gắng giải quyết nhưng đã không thành công. Chính sách "một vành đai một con đường" (nhất đái nhất lộ) là một thí dụ. Nó là một cố gắng để sử dụng khả năng quá thừa thãi của các công ty xây dựng kết cấu hạ tầng và đồng thời mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới, nhưng nó đã chỉ có một hậu quả rõ rệt là khiến Trung Quốc thua lỗ hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng đã phải dừng lại vì mâu thuẫn với nhu cầu tăng cường tiêu thụ nội địa. Thái độ hung hăng trên Biển Đông nhắm đoàn kết người Trung Quốc bằng cách kích thích tinh thần dân tộc và làm quên đi những bất mãn vì ô nhiễm và bất công đã có tác dụng khiến Trung Quốc bị lên án và cô lập.
Hành động ngoạn mục nhất của họ Tập là chiến dịch chống tham nhũng nhưng chưa có quan sát viên nào xác nhận nó đã khiến bộ máy nhà nước Trung Quốc lành mạnh hơn và ngày càng có dư luận cho rằng chống tham nhũng trước hết là một lý cớ cho cuộc đấu đá phe phái trong Đảng. Nói chung Tập Cận Bình chưa thành công trong một địa hạt nào và cũng chưa cho thấy hy vọng nào là sẽ thành công. Các khó khăn của Trung Quốc không giảm đi mà còn tăng lên.
Hay là Tập Cận Bình có một nhân cách cao cả đến độ phải được ngưỡng mộ dù chưa thành công ? Cũng không. Theo chính lời ông trong giai đoạn của cái gọi là Cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa cuối thập niên 1960, ông đã ngoan ngoãn vâng lời bọn Vệ Binh Đỏ và cố gắng để được vào Đảng Cộng Sản, kể cả lên án hàng trăm lần cha ruột của mình dù biết đó chỉ là những vu cáo.
Tập Cận Bình không có gì đáng được tôn vinh. Quan điểm của nhiều nhà bình luận, theo đó Tập Cận Bình đã khuất phục hoặc thuyết phục được bộ máy Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thành công trong tham vọng thâu tóm mọi quyền lực để trở thành một hoàng đế Trung Quốc mới, cần được xét lại.
Tập Cận Bình đi lao động trong thời kỳ tham gia Vệ Binh Đỏ
Chế độ cộng sản Trung Quốc đang phơi bày những thử thách quá nghiêm trọng trong khi nội bộ lại quá phân hóa vì tham nhũng và bất tài. Để đương đầu với những thử thách đó và tiếp tục tồn tại nó cần một chính quyền ổn vững và một lãnh tụ có toàn quyền và không thể bị phản bác, dù là Tập Cận Bình hay ai khác. Như vậy không phải là Tập Cận Bình đã chứng tỏ bản lĩnh, mà chỉ là Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang trong tình trạng nguy ngập và không nhìn thấy lối thoát nào khác ngoài xiết lại để tự vệ.
Lịch sử Trung Quốc cũng đã chứng tỏ rằng sự thống nhất của Trung Quốc chỉ được duy trì bằng bạo lực và thống trị trung ương. Một quốc gia như vậy không thể tồn tại trong thế giới ngày nay. Đảng Cộng Sản Trung Quốc là sợi dây duy nhất ràng buộc các tỉnh với nhau, qua đại hội 19 này nó vừa lấy một quyết định rất phiêu lưu là dành toàn quyền để trấn áp những khuynh hướng ly khai ngày càng nhiều và càng mạnh.
Tất cả vấn đề là liệu tăng cường chính sách độc tài đảng trị có giúp chế độ cộng sản Trung Quốc trụ được không ? Có tất cả mọi triển vọng là không.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang cố gắng bơi ngược dòng thác và chỉ có những giải đáp lỗi thời cho những vấn đề mới. Trung Quốc sẽ chỉ bất ổn và nguy ngập hơn.
Nguyễn Gia Kiểng
(26/ 10/2017)
Xã luận
Ngày 3/10 vừa qua, hai Bộ Công thương và Xây dựng đã phối hợp tổ chức một cuộc hội thảo tại Cần Thơ với chủ đề là nên hay không nên thiết lập thêm những nhà máy nhiệt điện chạy bằng than tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây không phải là một cuộc hội thảo mà chỉ là một cuộc họp để thông báo một quyết định.
Các chuyên gia nước ngoài quan tâm tới việc sử dụng tro, xỉ của Nhà máy nhiệt điện ở đồng bằng sông Cửu Long.
Các quan chức nhà nước, một thứ trưởng Bộ Công thương, một thứ trưởng Bộ Xây dựng cho biết vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đã có ba cụm nhiệt điện than, từ đây tới 2020 sẽ xây thêm ba cụm nhiệt điện khác và từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ có thêm 9 cụm nữa, nâng tổng công suất phát điện lên 18.225 MW, mỗi năm thải ra khoảng 13,67 triệu tấn tro, xỉ và thạch cao.
Việt Nam hiện đã có 21 cụm nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, thải ra hàng năm hơn 16 triệu tấn tro xỉ, và 12 cụm đang xây dựng và sẽ đi vào hoạt động vào năm 2020. Tổng lượng tro, xỉ phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện đến năm 2020 ước khoảng 22,6 triệu tấn. Nếu chế độ cộng sản vẫn còn cho tới năm 2030 để tiếp tục xây các nhà máy nhiệt điện than theo cùng một nhịp độ với đồng bằng sông Cửu Long, như họ dự tính thì vào năm 2030 sẽ có khoảng 70 cụm nhà máy nhiệt điện than thải ra khoảng 50 triệu tấn tro và xỉ mỗi năm.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đã có ba cụm nhiệt điện than, từ đây tới 2020 sẽ xây thêm ba cụm nhiệt điện khác, và từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ có thêm 9 cụm nữa, nâng tổng công suất phát điện lên 18.225 MW, mỗi năm thải ra khoảng 13,67 triệu tấn tro, xỉ và thạch cao.
Lập luận của chính quyền cộng sản, qua lời phát biểu của các quan chức, là một sự thách đố xấc xược với cả khoa học kỹ thuật lẫn trí tuệ, lẫn nhân dân Việt Nam. Họ nói rằng nhiệt điện than, mà cả thế giới kể cả Trung Quốc đang vất bỏ, là chọn lựa bắt buộc cho Việt Nam, vấn đề chỉ còn là làm thế nào để các nhà máy nhiệt điện than ít gây ô nhiễm nhất và họ đã tìm ra giải đáp.
Giải đáp đó là dùng khối tro xỉ thải ra để làm vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng. Họ nói rằng người nông dân miền Bắc đã sử dụng tro và xỉ để làm vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng từ thập niên 1960 và Bộ Tài nguyên và môi trường cũng "chưa bao giờ xác định" tro, xỉ và thạch cao thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than là chất thải nguy hại. Nhưng đã có những thử nghiệm khoa học nào, do những định chế khoa học nào thực hiện và trong bao nhiêu năm ? Vả lại "chưa xác định" cùng lắm cũng chỉ là chưa có kết luận. Như vậy là đủ để quyết định là có thể xây hàng loạt cụm nhà máy nhiệt điện than ? Thái độ này khiến người ta nhớ lại một sáng kiến của Đảng và Nhà nước cộng sản, chiếc hố xí hai ngăn không thối từng được khoe khoang trước đây. Người ta cũng chưa quên là khi vụ Formosa xẩy ra cũng cái Bộ Tài nguyên và môi trường vô dụng này đã tuyên bố cá chết là do thủy triều đỏ chứ không phải do nhà máy thép Hưng Nghiệp của Trung Quốc.
Điều mà người ta có thể thấy rõ là Châu Âu, dù trước đây từng dùng than làm nguồn năng lượng chính và đã tích lũy hàng ngàn triệu tấn tro-xỉ, chưa bao giờ dám nghĩ đến sử dụng chúng làm vật liệu xây dựng vì sự nguy hiểm của than quá rõ ràng.
Cũng nên nhắc lại thảm kịch amiante của Châu Âu. Chất amiante đã được sử dụng trong hơn một thế kỷ nhưng chỉ tới thập niên 1980 người ta mới có thể quả quyết rằng nó đã là nguyên nhân của nhiều loại bệnh ung thư. Nhưng đã quá trễ, cả triệu người đã hoặc sẽ thiệt mạng, đa số không biết rằng mình chết vì amiante. Bài học này cho thấy là người ta phải rất khiêm tốn và thận trọng trong những chọn lựa liên quan đến sức khỏe và môi trường. Chính quyền cộng sản quả nhiên không coi đất nước và mạng sống của người dân ra gì khi đùa với tro và xỉ than như vậy.
Nguồn ô nhiễm lớn nhất là khói nhả ra bầu trời, điều này các quan chức cộng sản không hề nói tới.
Tuy vậy tro và xỉ không phải là nguồn ô nhiễm lớn nhất của các nhà máy sử dụng than. Nguồn ô nhiễm lớn nhất là khói nhả ra bầu trời, điều này các quan chức cộng sản không hề nói tới. Khói bay đi chứ không chất đống như tro, xỉ và thạch cao nên không phải là một vấn đề cho chính quyền. Đó chỉ là vấn đề cho môi trường, cho sức khỏe và sinh mệnh của người dân mà thôi. Bầu trời Việt Nam sẽ đen nghịt, hàng triệu người sẽ chết vì ung thư, hàng triệu người khác sẽ yếu bệnh và tật nguyền. Chính quyền cộng sản đang chuẩn bị để hủy hoại đồng bằng sông Cửu Long, và đất nước nói chung.
Nhưng tại sao phải xây các nhà máy nhiệt điện than ?
Các quan chức giải thích : "Theo kinh nghiệm quốc tế, các nước đang phát triển bao giờ cũng phụ thuộc nhiệt điện than, khi nào trở thành nước phát triển, khi đó họ mới chuyển dần sang nguồn năng lượng khác".
Không thể vớ vẩn hơn. Trước khi phát triển họ không có internet và điện thoại di động, vậy bây giờ ta cũng phải bỏ internet và điện thoại di động ? Không chỉ vớ vẩn mà còn là một ngụy biện tùy tiện nơi những cấp lãnh đạo của một đảng đã từng hô hào tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không cần kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Họ lý luận : "Các loại năng lượng tái tạo khác (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) chi phí đầu tư lớn và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên ; mà nếu quyết tâm đầu tư khai thác thì cũng chiếm tỉ trọng rất thấp, không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế".
Vừa rất sai vừa rất gian trá. Thế giới đang sống một cuộc cách mạng năng lượng lớn. Năng lượng mặt trời vô tận vì chỉ một tuần lễ nắng đủ để cung cấp một khối năng lượng tương đương với trữ lượng của toàn bộ các mỏ than, dầu và khí đốt trên toàn thế giới. Các tiến bộ về kỹ thuật sản xuất và tàng trữ cũng đã khiến năng lượng mặt trời tiếp tục rẻ đi một cách nhanh chóng. Chỉ trong mười năm nữa giá điện nắng sẽ chỉ bằng một nửa giá điện sản xuất bằng than, trước khi xuống thấp hơn.
Liên Hiệp Châu Âu, mà tên gọi ban đầu là "Liên Hiệp Than và Thép Châu Âu", đã quyết định bỏ hẳn than từ hơn hai thập niên và đang tiến hành bỏ cả dầu lửa và khí đốt. Thành phố Paris, nơi không khí được coi là lành sạch, vừa quyết định sẽ cấm các xe chạy bằng Diesel trong vòng bẩy năm, và sẽ chỉ cho phép lưu hành các xe chạy bằng điện vào năm 2030.
Thời đại của than không phải là đang chấm dứt mà đã chấm dứt. Vấn đề của các quốc gia chỉ là lập một lịch trình để tháo gỡ và thay thế các nhà máy nhiệt điện than còn lại. Trung Quốc cũng đã hiểu rõ như vậy. Mười năm trước đây họ dự định xây dựng thêm hàng ngàn nhà máy nhiệt điện than, bây giờ họ tập trung đầu tư vào điện nắng và đẩy sang Việt Nam những thiết bị của các dự án mà họ không tiến hành nữa.
Không thể nghĩ là các quan chức cộng sản Việt Nam không hiểu. Họ thừa biết đầu tư vào điện nắng rẻ hơn, sạch hơn và là chọn lựa hiển nhiên, nhất là nước ta lại được thiên nhiên đặc biệt đãi ngộ về nắng. Họ thừa biết là phần lớn các nhà máy nhiệt điện than mà họ dự trù sẽ phải gỡ bỏ ngay khi mới đi vào hoạt động, thậm chí trước khi đi vào hoạt động. Họ đã chấp nhận để Việt Nam trở thành một bãi rác công nghiệp của Trung Quốc chỉ vì nhu cầu kéo dài chế độ. Họ phải duy trì một mức tăng trưởng kinh tế nào đó, dù chỉ là tăng trưởng giả tạo và độc hại, nhưng ngân khố đã trống rỗng, nợ công và nợ xấu đã chồng chất vì của cải của đất nước đã bị các quan chức tham nhũng vơ vét hết rồi. Giải pháp bắt buộc của họ là xây dựng những dự án với những thiết bị mà Trung Quốc vất bỏ. Họ không chỉ hủy hoại đất nước mà còn khiến chúng ta lệ thuộc hơn nữa vào Trung Quốc.
Câu hỏi phải được đặt ra là Đảng cộng sản sẽ còn hủy hoại đất nước bao lâu nữa trong cố gắng kéo dài sự hấp hối của chế độ ?
Câu hỏi cũng cần được đặt ra cho lương tâm của mọi người Việt Nam là chúng ta còn cam tâm để Đảng cộng sản hủy hoại đất nước đến bao giờ ?
Nguyễn Gia Kiểng
(14/10/2017)
Chúng ta cần hòa giải các tôn giáo, nhất là Phật Giáo và Công Giáo, hai tôn giáo đã bị các nhà cầm quyền Việt Nam cũng như ngoại bang bách hại, đàn áp, phân biệt đối xử và đặt vào thế đối đầu với nhau. Đã thế, các hiềm khích, hậu quả của một hoàn cảnh lịch sử trong đó cả hai tôn giáo đều là nạn nhân, thay vì được giải tỏa còn đôi khi bị thổi phồng và khai thác cho những tham vọng bất chính.
dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 2015)
Trên Núi Phúc nghĩ về một vết thương của đất nước - ảnh NGK
Giê Su Kitô chắc chắn đã ý thức được tầm quan trọng của bài ông sắp giảng. Theo sách phúc âm của Mathieu thì ông đã dẫn các môn đệ và một đám đông lên tận một đỉnh núi để nói.
Người ta có thể cảm nhận được điều này khi tới đây. Đỉnh núi này tuy thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải nhưng cao hơn gần 200 mét so với mặt Biển Galilê (Galilee) -còn được gọi là Hồ Tiberiade- kế cận và đúng là một đỉnh núi so với khu vực chung quanh. Đám đông và các môn đệ chắc chắn đã phải đi theo Giê Su (Jesus) một đoạn đường khá xa. Ngay bây giờ, dù dân cư đã đông gấp ít nhất 100 lần so với lúc đó, chung quanh ngọn núi này, được gọi là Núi Phúc (Mount of Beatitudes), cũng không có người ở. Giê Su đến từ làng Tabgha cách đó hơn mười cây số. Đỉnh núi này cống hiến một cái nhìn tuyệt đẹp xuống Biển Galilê và cảnh vật chung quanh.
Theo những gì được ghi chép lại thì Giê Su đã bắt đầu bài giảng như sau :
1. Những ai có lòng thanh bạch là có phúc thật vì Nước Trời là của họ.
2. Những ai đau buồn là có phúc thật vì sẽ được an ủi.
3. Những ai hiền lành là có phúc thật vì thế giới này sẽ là của họ.
4. Những ai khao khát lẽ phải là có phúc thật vì sẽ được toại nguyện.
5. Những ai thương yêu người là có phúc thật vì sẽ được thương yêu.
6. Những ai có tâm hồn trong sạch là có phúc thật vì sẽ được gặp Thiên Chúa.
7. Những ai tạo hòa thuận những con người là có phúc thật vì sẽ đúng là con Thiên Chúa.
8. Những ai chấp nhận chịu nạn vì lẽ phải là có phúc thật vì Nước Trời là của họ.
Bài giảng này được gọi là "Bài Giảng Trên Núi" (Sermon sur la Montagne, Sermon on the Mount). Có thể nói cùng với kinh Lạy Cha mà Giê Su dạy dân thành Jerusalem trên núi Olives, nó tóm tắt triết lý Thiên Chúa Giáo (*), tương tự như bài giảng Tứ Diệu Đế của Thích Ca (Shākya) tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) đã đặt nền tảng cho triết lý Phật Giáo. Bài giảng này đã là chủ đề của vô số giải thích và bình luận mang tính thần học. Ở đây người viết chỉ tự giới hạn trong góc nhìn tư tưởng và lịch sử.
Điều người ta có thể nhận xét là Nước Trời, hay thiên đàng, được định nghĩa như là tấm lòng thanh bạch giản dị không thèm muốn (câu số 1), là sự trung thành với lẽ phải và không thỏa hiệp với sự gian sai dù vì thế mà bị bách hại (câu số 8). Như vậy, nếu chỉ cần diệt được lòng thèm muốn và sống đúng theo lẽ phải là thoát được khổ và có thiên đàng, thì thiên đàng chủ yếu là một trạng thái của tâm hồn có thể đạt tới ngay tại đây. Nghe quen quen, Thích Ca cũng đã nói về Niết Bàn như thế hơn 500 năm trước.
Nơi Giê Su ngồi giảng nay là một nhà nguyện - ảnh NGK
Còn Thiên Chúa ? Đấng Tối Cao được định nghĩa như là điều người ta có thể tìm đến bằng sự trong sạch (câu số 6) và bằng tình yêu thương, bằng sự khước từ hận thù và bạo lực (câu số 7). Sự trong sạch mà Giê Su nói phải được hiểu là sự trong sạch tuyệt đối mà người ta chỉ có thể tới gần bằng ánh sáng của sự hiểu biết, sau một cố gắng lớn để vượt lên được sự u mê. Cũng không khác gì sự tu luyện Bát Chính Đạo của Phật Giáo.
Điều cần được nhấn mạnh trong bài giảng này là sự thượng tôn lẽ phải. Lẽ phải được coi là tương đương với Thượng Đế. Trước Giê Su bốn thế kỷ Socrates và Plato cũng đã nói như thế.
Thoạt nhìn tư tưởng của Giê Su có vẻ khác với Thích Ca ở chỗ Giê Su nói về hạnh phúc và những gì cần có để đat tới hạnh phúc trong khi Thích Ca nói về sự đau khổ và những gì cần để thoát khổ. Phật nói về họa trong khi Giê Su nói về phúc. Tuy vậy đó chỉ là hai mặt của cùng một vấn đề được trình bày theo một thứ tự thời gian đương nhiên. Thoát khổ cũng là hạnh phúc và trước khi làm đúng phải thôi làm sai. Bertrand Russell, một trong những triết gia lớn nhất của thế kỷ 20, trong tác phẩm Lịch Sử Triết Học Phương Tây (History of Western Philosophy) đã tưởng tượng ra một cuộc điều trần trước Thượng Đế của Thích Ca và Giê Su trong đó Thích Ca gọi Giê Su là "người kế thừa của tôi".
Điều thực sự khác giữa hai người là Giê Su đã biểu lộ một niềm tin lạc quan khó tưởng tượng vào lẽ phải trong khi Thích Ca có vẻ thận trọng hơn. Ông nói : "Những ai khao khát lẽ phải là có phúc thật vì sẽ được toại nguyện" (câu số 4).
Nói cách khác chính nghĩa nhất định sẽ thắng. Ngày nay rất nhiều người nói như vậy nhưng có bao nhiêu người biết rằng Giê Su là người đầu tiên nói như thế ?
Đây là một tuyên ngôn chính trị, chính trị hiểu theo nghĩa chân chính của nó là thể hiện lẽ phải và những giá trị đạo đức trong xã hội. Giê Su cũng lạc quan tin rằng thế giới sẽ phải dần dần tiến tới hòa bình và thân ái khi ông quả quyết : "Những ai hiền lành là có phúc thật vì thế giới này sẽ là của họ" (câu số 3). Chứ không phải của những danh tướng, của căm thù và bạo lực. Giê Su còn đẩy sự lạc quan tới mức độ cho rằng "Những ai đau buồn là có phúc thật vì sẽ được an ủi" (câu số 2). Tại sao đau buồn lại là có phúc ? Tuy vậy niềm tin này không nghịch lý và viển vông như nhiều người có thể nghĩ. Giê Su nói về sự đau buồn của Người Đúng. Điều gì an ủi một người đúng khi đau buồn nếu không phải là niềm tin rằng mình đã làm tất cả những gì phải làm và không làm điều gì sai trái, và như vậy mình đã đã rất cao cả và đã đến gần Sự Tối Cao, như trong câu số 8. Không chỉ là một sự an ủi mà còn là một niềm hãnh diện.
Trong kinh Lạy Cha, mà theo sách Mathieu là đoạn sau của Bài Giảng Trên Núi, Giê Su bổ túc thêm : "Chúng tôi nguyện Ý Cha thể hiện trên trái đất này cũng như trên Nước Trời" và "Xin Cha tha thứ những sai phạm của chúng tôi như chúng tôi cũng sẽ tha thứ cho những người đã sai phạm đối với chúng tôi".
Bổ túc để nhấn mạnh thêm rằng lẽ phải có thể và cần được thực hiện ngay trên trái đất này và sự khoan dung là một bắt buộc trong cuộc sống.
Quan trọng hơn là câu : "Xin giúp chúng tôi đừng sa ngã trước sự cám dỗ". Phật cũng coi sự cám dỗ của lòng tham là căn nguyên của sai lầm và đau khổ. Kinh Lạy Cha có tính chất của một cam kết long trọng làm sáng tỏ thêm Bài Giảng Trên Núi.
Tranh vẽ Giê Su giảng đạo 2000 năm trước - ảnh NGK
Có thể nói Bài Giảng Trên Núi đã là một đột phá tư tưởng rất lớn, đặt nền tảng cho nền văn minh Phương Tây cận đại đang được phần lớn thế giới chia sẻ. Điều cần ý thức rõ khi đánh giá một triết lý đạo đức là điều quan trọng nhất trong một tôn giáo hay một văn hóa không phải là sự có mặt hay vắng mặt của một số giá trị, vì nói chung thì nền văn minh nào cũng chứa đựng những giá trị như nhau.
Điều quan trọng là thứ bậc và trọng lượng tương đối của các giá trị. Trong tư tưởng của Giê Su, mà phần cốt lõi là bài giảng này, giá trị cao nhất và bao trùm tất cả là Lẽ Phải với những tên gọi khác nhau tùy bối cảnh của nó như cái Đúng, cái Tốt, điều Thiện, Luật, Chính Nghĩa v.v. Bốn thế kỷ trước Socrates cũng đã từng nói cái Đúng là cao nhất, thượng đế mà không đúng cũng không cần nghe theo, Plato cũng nói luật là cao nhất nên luật phải đúng, một luật không đúng không phải là luật.
Caiphe (Caiaphas) và các giáo sĩ Do Thái thủ cựu đã xử oan một người đúng nhưng họ đã không lầm khi họ coi Giê Su là một người gây rối loạn trong Do Thái Giáo. Quả thực những điều mà ông rao giảng rất khác, thậm chí trái ngược với Thánh Kinh Do Thái (Torah). Thượng Đế mà ông đề cao và thường gọi là "cha tôi" rất khác với thần Yavhé (Yahweh) của Do Thái Giáo. Yavhé tự xưng là một thần chiến tranh, ghen tức và sẵn sàng trừng phạt, Thiên Chúa của Giê Su trái lại là một thượng dế hiền lành, khoan dung và gần gũi với con người.
Giê Su gần như quan niệm Thiên Chúa là Lẽ Phải mà con người có thể tới gần sau một cố gắng kiên trì. Có lúc ông đã nói mọi con người đều có Thượng Đế trong mình (sách Mathieu) và ông cũng thường xác nhận ông và Thiên Chúa chỉ là một. Nhiều khi Giê Su còn phản bác cả luật Moise (Moses) trong Thánh Kinh Do Thái. Giê Su biện luận rằng ông không hủy bỏ mà chỉ hoàn tất luật cũ.
Nhưng thế nào là hoàn tất ? Đây chỉ là một cách chơi chữ. Dưới cái nhìn của một người nghiên cứu Giê Su gần như vô thần. Gần như thôi vì Giê Su thực sự tin có một thượng đế sống động thể hiện Lẽ Phải ; trên thập giá trước khi chết có lúc ông than thở "Cha ơi sao Cha nỡ bỏ con ?", có lúc ông lại xin Thiên Chúa tha tội cho những người giết ông : "Xin Cha tha thứ cho họ, họ không hiểu những gì họ làm".
Về quan niệm Thượng Đế, cũng là điểm cốt lõi của mọi tôn giáo, Giê Su Kitô rất gần Thích Ca Mâu Ni. Quan điểm của Giê Su về đời sau và thiên đường -mà ông gọi là Nước Trời- với sự phán xét và thưởng phạt theo những gì mà mỗi người đã làm trong đời này -công đức cũng như tội lỗi- cũng là một du nhập từ thuyết luân hồi, nhân quả hiện diện một cách mạnh mẽ trong Phật Giáo chứ không có trong Do Thái Giáo.
Một điểm giống nhau quan trọng khác giữa Phật Giáo và Công Giáo là các tu viện. Phật Giáo và Công Giáo là hai tôn giáo duy nhất có những người tách hẳn khỏi đời thường, từ chối mọi tiện nghi để sống cuộc đời tu hành độc thân khổ hạnh hoàn toàn cống hiến cho suy tư và đức tin tôn giáo. Tôi đã thăm tu viện trên Núi Cám Dỗ (Mont de la tentation, Mount of Temptation), nơi Giê Su đã từng nhịn đói 40 ngày, và đã gặp những tu sĩ như thế. Họ hoàn toàn tự cô lập với thế giới bên ngoài, ăn uống ở mức tối thiểu cần thiết và không nói nữa vì lời nói không còn cần thiết khi nội tâm đã là tất cả. Đây là một điều mà không ai có thể chối cãi rằng Công Giáo đã lấy từ Phật Giáo.
Trên rất nhiều điểm căn bản Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, nhất là Công Giáo, giống nhau. Thiên Chúa Giáo đã là kết quả của sự găp gỡ giữa Phật Giáo và Do Thái Giáo trong đó Phật Giáo là phần chính, Do Thái Giáo là phần phụ. Bertrand Russell hoàn toàn có lý khi coi Giê Su Kitô là người thừa kế của Thích Ca Mâu Ni.
Điều rất đáng ngạc nhiên là rất ít người Việt Nam, kể cả các học giả, nhìn thấy quan hệ mật thiết và huyết thống giữa Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, nhất là Công Giáo, mặc dù đây là một sự thực lịch sử hiển nhiên, ngoài sự tương đồng về tư tưởng như ta vừa thấy.
Trước hết hãy nhìn lướt qua lịch sử thế giới. Các tôn giáo và các triết lý bao giờ cũng ít nhiều là sản phẩm của thực trạng xã hội vào lúc và ở nơi mà chúng xuất hiện, ngay cả khi chúng được coi là vượt thời gian và không gian. Chúng được lập ra để giải quyết những khó khăn của cuộc sống. Đó đã là trường hợp của Phật Giáo. Những cuộc chiến tàn khốc và liên tục giữa vô số các vương quốc dần dần đã khiến người ta ghê tởm bạo lực và tội ác và đi đến niềm tin rằng tội ác phải bị trừng trị. (Gần như toàn bộ dòng họ Thích Ca bị tàn sát ngay trong lúc ông còn sống). Thuyết luân hồi –đã có từ trước- vì thế mạnh lên, người ta tin rằng tội ác phải bị trừng trị bởi vì người ta mong nó bị trừng trị. Không phải một mình Thích Ca mà hàng ngàn hàng vạn người trong giai cấp quý tộc và chiến binh thời đó đã bỏ nhà đi tu, hành hạ thân xác mình để chuộc tội. Điều khác biệt nơi Thích Ca là ông đã nhìn ra con đường giải thoát và đạo Phật ra đời như một giải pháp cho bể khổ trong đó xã hội Ấn Độ đang chìm đắm.
Cùng một hoàn cảnh đã xẩy ra cho vùng đất Hy Lạp hai thế kỷ sau. Những cuộc chiến liên tục giữa các thành quốc, rồi cuộc chiến tranh bành trướng của Alexander và sự sụp đổ của đế quốc Alexander sau đó đã khiến xã hội Hy Lạp tan tành trong một tình trạng tang tóc và khổ cực tuyệt đối. Đó cũng chính là lúc mà Phật Giáo được truyền bá sang Hy Lạp và gần như tức khắc được chấp nhận. Phật Giáo Hy Lạp, nghĩa là Phật Giáo thích nghi với văn hóa Hy Lạp, đã là tư tưởng chính của vùng này trong hơn bẩy thế kỷ. Sự hòa nhập giữa Phật Giáo và văn hóa Hy Lạp có thể nhìn thấy trên các tượng Phật : tất cả đều được đúc theo nghệ thuật Hy Lạp. Giai đoạn này cũng chính là giai đoạn mà vùng đất Cận Đông -trong đó có Do Thái, Palestine, Jordan, Syria, Lebanon- bị chinh phục và thống trị bởi đế quốc của Alexander, rồi đế quốc La Mã với cùng một văn hóa.
Khi Giê Su ra đời, ảnh hưởng áp đảo của văn hóa Hy Lạp – La Mã, trong đó Phật Giáo là tư tưởng tôn giáo chính, đã kéo dài ba thế kỷ. Càng áp đảo vì ngoài sự chiếm đóng còn có sự gần gũi về địa lý. Hy Lạp không xa Palestine. Sự trao đổi vốn đã mạnh từ lâu. Sau này khi Giê Su đã bị bách hại, mẹ ông là bà Maria cũng sang Hy Lạp (phần phía Châu Á, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) và sống những năm cuối đời ở đây. Tư tưởng Phật Giáo cũng đã được chấp nhận tại vùng này vì cùng một lý do khiến nó đã được chấp nhận tại Ấn Độ : chiến tranh, tang tóc và khổ cực. Nhìn những thành quách La Mã đồ sộ được xây dựng khắp nơi người ta có thể hình dung dân chúng thời đó bị đày đọa tới mức độ nào.
Lúc đó Do Thái Giáo chủ yếu co cụm lại tại miền Nam, trong vùng Judée (Judea) chung quanh thành Jérusalem. Tại miền Bắc, vùng Galilê chung quanh Biển Galilê, ảnh hưởng của văn hóa Hy La áp đảo. Thành phố lớn nhất là Tiberiade, mang tên hoàng đế La Mã Tibère (Tiberius), và Biển Galilê được gọi là Hồ Tiberiade. Giê Su lớn lên và giảng đạo trong vùng này. Ông chỉ tới Jerusalem năm lần trong suốt cuộc đời, mỗi lần là một cuộc đụng độ với các giáo sĩ Do Thái chính thống tại Jerusalem. Lần cuối cùng ông bị sát hại. Ảnh hưởng của Phật Giáo lên ông là điều hiển nhiên và giải thích những tương đồng giữa Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo mà một phần vừa được trình bày. Ngày nay người ta ít thấy những di tích vật chất của Phật Giáo tại Hy Lạp cũng như tại Cận Đông vì một đặc tính của Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) là nó thấm nhập vào tư tưởng rồi được hòa nhập vào một tôn giáo khác, Ấn Giáo tại Ấn Độ, Thiên Chúa Giáo tại Hy Lạp và Cận Đông.
Trên đỉnh Núi Phúc tôi liên tưởng đến đất nước mình.
Thảm họa Formosa đã quá kinh khủng và tác hại của nó sẽ còn kéo dài nhưng nhà máy thép Formosa vẫn còn đó để tiếp tục đe dọa phá hoại môi trường. Tại sao lại chỉ có đồng bào Công Giáo của giáo phận Vinh phản ứng mặc dù họ chỉ là một thiểu số 8% ? Giải thích thông thường là Công Giáo là cộng đồng duy nhất có tổ chức.
Đồng ý, nhưng tại sao phần còn lại của quần chúng không hưởng ứng dù họ cũng là nạn nhân không khác gì người Công Giáo ? Sự kìm kẹp của bộ máy công an đồ sộ chỉ là một lý do và cũng không phải là lý do chính. Lý do chính là chính là sự cô lập của Thiên Chúa Giáo với phần còn lại của dân tộc. Đây là một vết thương vẫn chưa lành của dân tộc ta, hậu quả những chính sách và ý đồ bất chính trong đó Phật Giáo đã bị lạm dụng.
Sự kỳ thị đối với Thiên Chúa Giáo không chỉ bắt đầu từ thời vua Minh Mạng. Chỉ ít lâu sau khi tới Việt Nam Thiên Chúa Giáo đã gặp phản ứng thù ghét dữ dội của Nho Giáo. Thiên Chúa Giáo không chỉ đem đến những giá trị mới mà còn phân biệt rõ rệt Vua và Trời, và tôn thờ Giê Su như là con duy nhất của Trời trong khi đối với Nho Giáo vua chính là con Trời và thay Trời trị nước.
Giê Su từng nói hãy trả cho César những gì của César và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Điều này không thể chấp nhận được đối với giới nho sĩ. Họ là một giai cấp sinh sống nhờ chế độ quân chủ tuyệt đối. Họ đã chấp nhận làm những tôi tớ vô điều kiện cho các vua chúa, kể cả phạm tội ác, để có miếng ăn và địa vị trong một xã hội nô lệ. Phản ứng dữ dội của họ đối Công Giáo là một phản ứng tự vệ nghề nghiệp. Trước hết bằng bạo lực qua những đợt cấm đạo đẫm máu từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh và bùng phát trở lại dưới thời Minh Mạng và Tự Đức ; sau cùng là các cuộc tấn công các làng công giáo của các nhóm Cần Vương và Văn Thân.
Việt Nam đã là nước cấm đạo hung bạo nhất và có nhiều người tử đạo nhất, bởi vì Việt Nam còn tôn sùng Nho Giáo hơn cả Trung Quốc. Nước ta đã bị Trung Quốc đô hộ trong hơn một ngàn năm và sau đó các triều đại kế tiếp nhau đã cố gắng áp đặt văn hóa Khổng Giáo, nhưng Trung Quốc ít ra còn có một vài xét lại, Việt Nam thì chỉ hoàn toàn rập khuôn.
Giới nho sĩ chống Công Giáo dĩ nhiên cũng đã sử dụng vũ khi tuyên truyền. Họ đã viết ra hoặc truyền miệng vô số chuyện bịa đặt để bôi nhọ và gây ác cảm đối với đạo Công Giáo. Một thí dụ điển hình là cuốn Tây Dương Gia Tô Bí Lục viết ra từ đời nhà Nguyễn mà chính quyền cộng sản đã cho in lại và phổ biến năm 1980. Cuốn sách hoàn toàn không có một giá trị tài liệu hoặc lý luận nào nhưng phá mọi kỷ lục về hạ cấp và thô bỉ.
Một thí dụ khác là sự vu cáo rằng Công Giáo đã là dụng cụ để thực dân Pháp thôn tính nước ta. Hoàn toàn dựng đứng, giáo hội Công Giáo đã bị tàn sát và loại bỏ hẳn khỏi chính quyền Pháp từ sau Cách Mạng 1789. Đôi khi họ cũng tham khảo lịch sử Thiên Chúa Giáo nhưng chỉ để tìm những chi tiết có thể xuyên tạc để bôi nhọ. Cuộc chiến tranh tuyên truyền này vẫn tiếp tục sau khi chính sách cấm đạo đã chấm dứt.
Dĩ nhiên họ cũng đã cố gắng lôi kéo Phật Giáo. Phật Giáo tuy không phải là tôn giáo của đa số người Việt Nam như nhiều người lầm tưởng nhưng là một tôn giáo đã đồng hành thân thiện với dân tộc trong suốt dòng lịch sử và mọi người Việt Nam dù theo tôn giáo nào hay không có tôn giáo đều ít nhiều là Phật tử. Xung đột với Phật Giáo cũng gần như xung đột với dân tộc. Các nho sĩ chống Công Giáo vì thế phải tìm cách đặt Phật Giáo vào thế xung đột với Công Giáo. Họ lập luận rằng Phật Giáo là tôn giáo của dân tộc ta từ ngàn xưa nay đang bị một tôn giáo ngoại lai cạnh tranh và đe dọa. Nhưng họ không thành công. Phật Giáo không hề mâu thuẫn với Công Giáo, ít nhất cho tới năm 1945. Lý do là vì họ không có lập luận nào thuyết phuc. Hơn nữa Nho Giáo đã chèn ép và miệt thị Phật Giáo trong suốt năm thế kỷ từ cuối đời nhà Trần nên không còn tư cách nào để vận dụng Phật Giáo. Sự miệt thị này thông thường đến nỗi không ai ngạc nhiên khi một người khả ái như Bà Huyện Thanh Quan có thể viết khi thăm chùa Trấn Quốc "Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu !". Thời Pháp thuộc trái lại đã là giai đoạn mà Phật Giáo được kính trọng và được tự do phát triển.
Nói chung, cho tới năm 1945 giữa Phật Giáo và Công Giáo không hề có xung khắc. Sự chia rẽ giữa Phật Giáo và Công Giáo chỉ có thực và trở thành nghiêm trọng sau năm 1945. Đảng Cộng Sản coi Công Giáo là một kẻ thù không thể thu phục và dùng mọi thủ đoạn và phương tiện để cô lập, kể cả cho cán bộ đội lốt ni sư để sách động Phật tử và quần chúng chống Công Giáo. Lần này Đảng Cộng Sản có khá nhiều đồng minh : những người vốn đã ghét đạo Công Giáo vì tự coi là con cháu tinh thần của các vị Cần Vương – Văn Thân, những trí thức thân cộng –dù là vì thích chủ nghĩa cộng sản hay vì lầm tưởng Đảng Cộng Sản chỉ tranh đấu vì độc lập của dân tộc-, trình độ dân trí của dân ta còn thấp và dễ bị lung lạc, và sau cùng là sự vô ý thức hoặc vụng về của những người lãnh đạo phe quốc gia, điển hình là chính quyền Ngô Đình Diệm.
Ngoài ra cũng phải nói tới trách nhiệm của chính nhiều người Công Giáo và ngay cả một số tu sĩ. Vì bị cô lập, họ đã có phản xạ co cụm thay vì mở ra, hơn thế nữa đôi khi còn cao ngạo, như buộc người ngoại đạo phải theo đạo nếu muốn kết hôn với một người có đạo v.v. Cách ứng xử sai lầm này góp phần không nhỏ tạo ra dị ứng cho phần còn lại của xã hội. Cuối cùng Đảng Cộng Sản đã khá thành công trong việc chia rẽ Công Giáo và Phật Giáo. Vết thương của thời kỳ cấm đạo chưa kịp lành thì lại bị mở ra và vẫn còn chẩy máu.
Ngày hôm nay Đảng Cộng Sản lại càng có lý do để chia rẽ Công Giáo và Phật Giáo. Họ đã kiểm soát được Phật Giáo. Họ cần cô lập Công Giáo, thành phần dân tộc đoàn kết nhất, có lập trường đối lập quả quyết nhất và đáng ngại nhất đối với họ.
Người Công Giáo tuy chỉ là 8% dân tộc nhưng mọi kinh nghiệm đấu tranh chống độc tài trên thế giới đều đã chứng tỏ rằng chỉ cần một khối người 3% có quyết tâm là đủ để giành thắng lợi với điều kiện là khối người này không bị cô lập. Phá vỡ được thế cô lập của người Công Giáo, xóa bỏ được mâu thuẫn giữa Phật Giáo và Công Giáo, hòa giải được Công Giáo với dân tộc là chúng ta đã không chỉ hàn gắn được một vết thương lớn của dân tộc mà còn thay đổi hẳn bài toán dân chủ hóa.
Không hề có mâu thuẫn về niềm tin và đạo lý giữa Phật Giáo và Công Giáo. Hai tôn giáo này thực sự là anh em và cũng chưa hề xung đột. Điều này cần được nói ra và đáng lẽ đã phải được nói ra và chia sẻ từ rất lâu rồi. Sự chia rẽ chỉ là giả tạo do Đảng Cộng Sản cố tình gây ra trong mục đích chia rẽ dân tộc để thống trị. Nó phải bị tố giác, lên án và xóa bỏ.
Nguyễn Gia Kiểng
(28/09/2017)
(*) Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có dịch đoạn này thành kinh Phúc Thật Tám Mối, nhưng bản dịch này vì đã quá xưa nên không sát nghĩa và dễ gây hiểu lầm cho người bình thường. Giê Su giảng bài này vào khoảng năm 30, một thời gian ngắn trước khi bị bắt và bị đóng đinh trên thập giá tại Jerusalem. Lúc đó Giê Su khoảng 35 tuổi và đang là một giáo sĩ đạo Do Thái (Rabbin/Rabbi). Kinh Lạy Cha theo phúc âm Mathieu là một đoạn của bài giảng này nhưng một số tài liệu khác lại nói là Giê Su đã dạy kinh Lạy Cha tại đỉnh núi Olives, có thể ít lâu sau đó, trước khi mắc nạn.
Những câu hỏi triết lý và đạo đức luôn luôn đặt ra trong hoạt động chính trị dù chúng ta muốn hay không. Chúng ta phải trả lời bởi vì không trả lời cũng là một cách trả lời và mỗi chúng ta đều sống và hành động theo cách mà chúng ta trả lời những câu hỏi đó.
Sự thô vụng và thất bại của nhà nước cộng sản Việt Nam là những dấu hiệu mở ra một giai đoạn mới
Chúng ta có thể sắp chứng kiến những thay đổi lớn. Mùa hè 2017 đã phá nhiều kỷ lục về thô vụng và thất bại của nhà nước cộng sản Việt Nam, với những dấu hiệu mở ra một giai đoạn mới.
Bắt đầu là vụ rút gian khoan thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam sau khi bị Trung Quốc hăm dọa nhân danh một đường lưỡi bò xấc xược đã bị tòa án quốc tế chính thức bác bỏ. Việt Nam bỏ của chạy lấy người dù hoàn toàn có quyền. Đáng để ý hơn là cách mà Đảng cộng sản đã quyết định tháo chạy. Theo những tiết lộ không bị phủ nhận thì tuyệt đại đa số bộ chính trị Đảng cộng sản không đồng ý nhưng hai người đã áp đặt quyết định này. Đó là tổng bí thư và bộ trưởng quốc phòng, cũng là chủ tịch và bí thư quân ủy trung ương của Đảng cộng sản, hai người hiểu rõ nhất khả năng của quân đội. Đây là hành động bỏ chạy trước kẻ cướp vì thấy không đủ sức chống cự và cũng không thấy có hy vọng được thế giới bảo vệ. Triệt thoái tạm thời hay đã chọn lựa thần phục ?
Kế đến là vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, một hành động ngu xuẩn không thể tưởng tượng nổi. Đức và Châu Âu nhất định sẽ phản ứng rất quả quyết dù không ồn ào, bởi vì đối với họ đây là một hành động khủng bố không tha thứ được vào giữa lúc mà ưu tư lớn nhất của họ là chống khủng bố. Hơn nữa vụ này lại xảy ra ngay tại thủ đô của nước lãnh đạo Liên Hiệp Châu Âu. Phản ứng của họ sẽ rất tai hại cho Việt Nam, bởi vì Liên Hiệp Châu Âu đang là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam đồng thời cũng là phao cứu của Việt Nam sau khi Donald Trump quyết định giảm thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ. Đáng để ý nhất trong vụ này là sự lúng túng của những người lãnh đạo chế độ. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn im lặng, cũng như chủ tịch nước và thủ tướng, còn bộ trưởng công an Tô Lâm thì tuyên bố một tuần sau vụ bắt cóc này là không được thông báo. Vậy thì ai đã ra lệnh tổ chức cuộc bắt cóc này ? Không ai, dù đánh giá các cấp lãnh đạo cộng sản thế nào, có thể tưởng tượng rằng các ông Trọng, Quang và Phúc không biết rằng đây là một hành động điên rồ. Sư kiện bộ trưởng công an Tô Lâm, ủy viên bộ chính trị, không biết gì cũng chứng tỏ đây không phải là một quyết định của ban lãnh đạo. Vả lại bắt Trịnh Xuân Thanh về nước để làm gì ? Tất cả những gì mà Trịnh Xuân Thanh có thể khai, các đồng lõa đã khai hết rồi. Giả thuyết hợp lý nhất là một nhóm nào đó trong công an hoặc quân đội đã chủ mưu vụ này trong mục tiêu đặt ban lãnh đạo Đảng và Nhà Nước vào thế bí. Nhưng nếu như thế thì tại sao đến nay vẫn chưa ai bị trừng phạt và Trịnh Xuân Thanh chưa được trả lại cho Đức kèm theo lời xin lỗi ? Phải chăng ban lãnh đạo Đảng và Nhà Nước đã chia rẽ đến độ không còn lấy được một quyết định nào cả, dù là một quyết định hiển nhiên và bắt buộc như trong trường hợp này ?
Rồi vụ thuốc ung thư giả H-Capita của công ty VN Pharma. Đây là một tội ác giết người nhưng bà bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến tỏ ra thản nhiên, không có một lời nào với các nạn nhân cả mà chỉ nói tới "gánh nặng chi phí cho bệnh nhân". Bà không hề cảm thấy có trách nhiệm. Đây không phải là lần đầu mà bà Kim Tiến nói ngang như vậy. Nhưng bà không bị cách chức hay yêu cầu từ chức.
Vụ BOT Cai Lậy chỉ hé mở hồ sơ của hàng chục BOT khác trong đó các quan chức tham nhũng cho phép các công ty bắt dân nộp tiền mãi lộ đôi khi chỉ sau những công trình tu bổ qua loa.
Rồi vụ kiện của Trịnh Vĩnh Bình trong đó một người tỵ nạn cộng sản đã về nước câu kết với một chính quyền bất lương để làm giầu, rồi quay lại kiện chính quyền này đối xử bất lương với mình nhờ có tiền thuê những văn phòng luật sư lớn. Chính quyền im lặng một cách kỳ lạ, như cũng đã im lặng khi Trung Quốc ngang ngược tập trận bắn đạn thật trong khu đặc quyền của Việt Nam ngay trong ngày quốc khánh.
Như để đóng góp cho không khí ảm đạm của dịp kỷ niệm Cách Mạng Tháng 8 và quốc khánh 02/09, ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố chế độ có thể bị sụp đổ về ngân sách. Lần này ông Phúc có lý. Nợ chính phủ đã lên tới trên 70% tổng sản lượng quốc gia, vượt quá mức báo động. Nếu cộng thêm những khoản nợ của các công ty nhà nước mà chính phủ phải liên đới chịu trách nhiệm và của các chính quyền địa phương thì nợ công phải trên xa mức 200% GDP. Mức nợ công cao chưa hẳn là nguy kịch, nợ công của Nhật cũng trên 200% GDP, điều nguy kịch là Việt Nam không có khả năng hoàn trả, phải vay nợ mới để trả nợ cũ và càng ngày càng khó vay nợ mới.
Một vụ việc nhỏ nói lên nhiều về nội tình của chế độ và Đảng cộng sản. Tôi chỉ nghe nói đến Trần Tuấn Kiệt, giảng viên trường Cao Đẳng Cần Thơ khi báo chí trong nước đưa tin ông này bị bắt giam và khởi tố ngày 02/08 vì "lợi dụng các quyền tự do dân chủ" theo điều 258. Các bạn tôi truy cập trên mạng cho biết ông này là đảng viên và trưởng phòng Thanh Tra và Pháp Chế của trường, tội của ông là đã tố cáo một đồng nghiệp được thăng thưởng không đúng quy định vì trước đây dù "chưa học xong trung cấp chính trị và chưa phải là đảng viên chính thức" (sic) đã được làm phó phòng Quản Lý Nghiên Cứu Khoa Học - Hợp Tác Quốc Tế, gần đây lại được bổ nhiệm làm hiệu phó của trường quá sớm v.v. Thì ra đây là một mâu thuẫn giữa các đồng nghiệp. Nhưng tại sao lại phải là đảng viên chính thức và học xong trung cấp chính trị mới có thể làm phó phòng nghiên cứu khoa học ? Chi tiết này cho thấy ách toàn trị mà Đảng cộng sản áp đặt lên đất nước. Nó cũng giải thích tại sao nước ta tụt hậu bi đát : muốn được bổ nhiệm vào một chức vụ nào trong guồng máy nhà nước, dù là chức vụ nhỏ và chuyên môn, phải là đảng viên cộng sản và phải qua một khoa huấn luyện chính trị. Nước ta có gần 100 triệu dân nhưng mọi chức vụ trách nhiệm trong bộ máy nhà nước đều chỉ dành cho một giai cấp thống trị gồm khoảng hai triệu đảng viên cộng sản có chút vai vế. Còn gì là trí tuệ và nhân cách sau khi đã chấp nhận để bị nhồi sọ cái "triết học" Mác – Lênin vừa ngu xuẩn vừa độc hại ? Nhưng có lẽ vụ này không chỉ giản dị như vậy. Trần Tuấn Kiệt đã bị khiển trách từ tháng 02 năm nay vì trong khi phản đối sự thăng thưởng mà ông cho là có ưu đãi này đã "viết bài bình luận đăng Facebook có nội dung gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự của lãnh đạo UBND thành phố" (sic). Tuy vậy anh đảng viên trung thành Trần Tuấn Kiệt không chịu nhận khuyết điểm và đòi tranh cãi tới cùng. Có thể hiểu là Trần Tuấn Kiệt tố giác chính quyền thành phố Cần Thơ tham nhũng và đã bị bắt để bịt miệng.
Chính quyền này đang trong tình trạng bấn loạn, bầy nhầy, bất lực, nhưng lại gia tăng đàn áp
Cảm giác rõ rệt là chính quyền này đang trong tình trạng bấn loạn, bầy nhầy, bất lực. Tuy vậy nó lại gia tăng đàn áp. Đã có hơn hai mươi người bị bắt nhân danh các điều 79, 88, 258, 245. Bọn côn đồ vẫn được sử dụng để khủng bố những người dân chủ và các linh mục. Vụ khủng bố mới nhất vừa xảy ra ngày 4/9 ở giáo xứ Thọ Hòa, Đồng Nai. Công an đã chỉ tới lãnh các đồng lõa về -sau khi chúng thất bại trước phản ứng quyết liệt của giáo dân- chứ không có điều tra gì khác dù bọn này mang theo cả súng và roi điện. Như họ đã không làm gì sau những vụ Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Trung Tôn bị bọn côn đồ bắt cóc và hành hung dã man. Hay ngay cả khi bọn súc vật này xông vào hành hung ba phụ nữ lên tiếng đòi nhân quyền ngay trong nhà họ và sau đó còn quay phim đưa lên mạng để thách thức dư luận. Cả nước đều đã biết công an và côn đồ chỉ là một.
Những dân oan như Cấn Thị Thêu và Trần Thị Nga, hay Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt vì quá nổi tiếng trên Facebook
Sự hung bạo càng thô bỉ khi nó tùy tiện một cách vớ vẩn. Danh sách những người bị bắt là những dân oan như Cấn Thị Thêu và Trần Thị Nga, hay Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt vì quá nổi tiếng trên Facebook, hay cậu sinh viên Phan Kim Khánh lập một blog chống tham nhũng để hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền. Những người khác không ai biết vì sao, rất có thể chỉ vì đã gây bực bội cho các chính quyền địa phương. Trong trường hợp của hai người thuộc nhóm Chấn Hưng Nước Việt thì không ai hiểu họ đã gây thiệt hại nào cho Đảng và Nhà nước cộng sản.
Người bị bắt vì lý do chính trị gần đây nhất là Nguyễn Văn Túc. Túc được dư luận biết đến sau khi bị bắt tháng 9/ 2008 và bị xử 4 năm tù trong "vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa và đồng bọn" (sic). Tất cả những gì mà họ đã làm chỉ là rủ nhau đi treo những biểu ngữ kiểu "Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam" và "Đả đảo bọn tham nhũng", những điều mà chính quyền cộng sản cũng nói. Thỉnh thoảng cũng có những khẩu hiệu "Yêu cầu thực hiện đa nguyên, đa đảng", nhưng yêu cầu thì có tội tình gì ? Vả lại Túc cũng chỉ đi theo các bạn thôi chứ chẳng có vai trò gì cả. Túc là một nông dân rất hiền lành, nghèo và kém sức khỏe, lúc đầu chỉ là một dân oan có miếng đất nhỏ bị cưỡng chế và bồi thường một cách không công bằng. Túc đã khiếu kiện ròng rã mấy năm không kết quả. Nếu chính quyền giải quyết ổn thỏa cho Túc thì đã chẳng có chuyện gì. Túc đã chỉ ủng hộ cuộc đấu tranh cho dân chủ khi nhận ra rằng không thể có công lý dưới một chế độ độc tài toàn trị. Nhưng Túc không có ý định và cũng không có khả năng tham gia vào một âm mưu lật đổ chính quyền nào cả. Túc chỉ là một dân oan uất ức mà thôi. Có thể người ta đã chỉ viện cớ để buộc tội và bỏ tù một người dân oan cứng đầu. Túc đã ở tù bốn năm và có mọi triển vọng sẽ còn bị xử thêm vài năm tù nữa vì tham gia Hội Anh Em Dân Chủ. Nếu quả nhiên Túc có tham gia Hội Anh Em Dân Chủ thì cũng chỉ là vì nể các bạn chứ không có hoạt động nào để phát triển tổ chức cả. Một người như Túc mà cũng bị bỏ tù –và bị bỏ tù tới hai lần- vì tội âm mưu lật đổ chính quyền thì bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể bị buộc tội và bỏ tù.
Với Túc toàn bộ những người được biết đến trong Hội Anh Em Dân Chủ đã lâm vào vòng lao lý. Trước đó Nguyển Văn Đài đã bị bắt từ tháng 12/2015, ít lâu sau khi bị công an giả dạng làm côn đồ đón đường đánh bị thương nặng. Cũng tương tự như Nguyễn Trung Tôn nhưng anh Tôn còn bị đánh dã man hơn. Cùng với Nguyễn Trung Tôn lần này là Phạm Văn Trội, Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Bắc Truyển. Riêng Nguyễn Bắc Truyển thì chỉ quen biết chứ không tham gia Hội Anh Em Dân Chủ .
Từ trái qua, Phạm Văn Trội, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Tôn và Trương Minh Đức (Nguồn Facebook Lê Nguyễn Hương Trà)
Nhưng Hội Anh Em Dân Chủ đã làm gì để bị đàn áp thẳng tay như thế ? Họ bị buộc tội "âm mưu lật đổ chính quyền" theo điều 79 của bộ Luật Hình Sự, một tội danh dựng đứng. Sự gian trá đã quá lộ liễu vì Nguyễn Văn Đài, người sáng lập ra hội và bị bắt giam từ gần hai năm nay, chỉ bị cáo buộc là "tuyên truyền chống nhà nước" theo điều 88, nghĩa là đã có những phát biểu được coi là chống chế độ. Chỉ sau đó, khi đã quyết định gia tăng mức độ thô bạo và bắt thêm nhiều người khác, công an mới đổi tội danh. Thực ra Hội Anh Em Dân Chủ chỉ là một tổ chức xã hội dân sự. Họ đã tự xác nhận như thế và đã chỉ hoạt động như thế. Họ tập trung cố gắng vào việc bảo vệ nhân quyền. Họ không có khả năng và cũng không có mục tiêu lật đổ chính quyền, cũng không có một cương lĩnh chính trị. Bắt họ đã là thô bạo, buộc tội họ âm mưu lật đổ chính quyền còn thô bỉ hơn. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu sắp tới các anh em này bị tuyên những án tù rất nặng. Đảng cộng sản hình như đã chìm hẳn vào tâm lý tuyệt vọng cho rằng toàn dân Việt Nam đã dứt khoát thù ghét họ như một chính quyền gian ác rồi, hình ảnh của họ không thay đổi được nữa và họ chẳng còn gì để mất, điều duy nhất có thể làm là kéo dài thêm được ngày nào hay ngày ấy.
Chúng ta có thể và cần tự hỏi chính quyền này là chính quyền loại gì đây, nhưng chúng ta cũng cần tự hỏi dân tộc Việt Nam đang như thế nào trong lúc này. Thảm kịch quốc gia của chúng ta là trước một chính quyền tồi tệ như vậy đã không có một phản ứng đáng kể nào. Cuộc đấu tranh dũng cảm của giáo phận Vinh sau hơn một năm đương đầu với bộ máy đàn áp đồ xộ đang cần phục hồi sức mạnh. Còn đối lập dân chủ thì hầu như đã tan biến. Các tổ chức ra đời từ vài năm trước cùng với sự nở rộ của các mạng xã hội và đã tỏ ra tích cực trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đều đã tan rã hoặc gần như tan rã. Một số người tuyên bố bỏ cuộc. Không những thế người ta còn chứng kiến những cuộc ẩu đả ngôn ngữ giữa những người và nhóm từng tự nhận là đấu tranh cho dân chủ. Một số người thân trong cũng như ngoài nước đã nói với tôi rằng họ thất vọng đến nỗi không còn tin vào tương lai của Việt Nam nữa. Điều gì đã xảy ra ?
Sự phát triển vũ bão và thần tốc của các phương tiện truyền thông –Facebook, Skype, Youtube...- đã mở ra một không gian trao đổi tự do nhưng những người dân chủ hay tự nhận là dân chủ đã không vận dụng được vì ngộ nhận và vì thiếu văn hóa chính trị. Hãy lấy thí dụ Facebook. Đây là phương tiện cho phép trao đổi trực tiếp và tức khắc với rất nhiều người, một dụng cụ tuyệt vời để thành lập, điều hành và phát triển các tổ chức. Việt Nam hiện có hơn 40 triệu tài khoản Facebook, chỉ cần một phần ngàn những chủ tài khoản Facebook này phối hợp với nhau thì phong trào dân chủ đã mạnh lắm rồi và thắng lợi của dân chủ sẽ hoàn toàn trong tầm tay.
Tuy nhiên đa số các Facebooker, kể cả những người phản kháng, đã nhìn Facebook một cách khác hẳn, nghĩa là như một phương tiện để khỏi cần tổ chức vì một cá nhân từ nay có thể đến trực tiếp với quần chúng, tranh thủ quần chúng và trở thành một trung tâm. Trong nhiều trường hợp Facebook và Youtube còn là vũ khí để đánh phá và bôi nhọ lẫn nhau. Và người ta đã thấy xuất hiện một số ngôi sao, những người đã được hàng nghìn hay hàng chục nghìn Like trong các status và live stream. Người ta cũng thấy xuất hiện dồn dập những những nhóm diễn đàn, câu lạc bộ v.v.
Nhưng thời gian đã làm công việc của nó. Các nhóm đã lần lượt tan rã vì người ta dần dần khám phá ra rằng điều cần thiết để kết hợp với nhau không phải chỉ là có thể gặp nhau mà còn là, và nhất là, theo đuổi cùng một số mục tiêu với cùng những phương tiện, rằng mình không đồng ý với nhau như đã lạc quan tin tưởng lúc ban đầu, hay những người bạn của mình không tốt hoặc không giỏi như mình nghĩ. Các ngôi sao cũng dần dần mờ nhạt đi sau khi trở thành quen thuộc, càng ngày càng phải cố gắng hơn để giữ vốn liếng quần chúng của mình bằng những status và live stream thống thiết hơn hoặc gay gắt hơn. Những cố gắng tuyệt vọng này trong nhiều trường hợp đã chỉ có tác dụng phơi bày rõ hơn sự non nớt hoặc bản chất không tốt của các tác giả. Kết quả là các nhóm đều rã rượi, nếu chưa tan hẳn, và các ngôi sao tắt lịm dần. Lúc này phong trào dân chủ trong nước hầu như không còn sức sống. Không có gì đáng ngạc nhiên.
Tuy vậy thất vọng và chán nản là sai. Tình trạng hiện nay chỉ là hậu quả tất nhiên của một ngộ nhận tai hại, di sản của văn hóa nhân sĩ Khổng Giáo, theo đó mục đích đầu tiên của đấu tranh chính trị là để được nổi tiếng và ngưỡng mộ. Với một cái nhìn bình tĩnh và chính xác hơn thì đây chính là thời điểm để phong trào dân chủ, nói chung, và mỗi người dân chủ, nói riêng, trấn tĩnh lại để thực sự khởi hành về thắng lợi vì khách quan mà nói, tình hình hiện nay rất thuận lợi cho cuộc vận động dân chủ. Nhà nước này không còn là một nhà nước đúng nghĩa và Đảng cộng sản cũng không còn là một chính đảng đúng nghĩa. Chế độ đã tích lũy quá nhiều những mâu thuẫn không còn giải đáp nữa, vì đã kéo dài quá lâu và cũng không còn sức để giải quyết những vấn đề mới đang dồn dập xuất hiện. Trong cơn bối rối, nó còn sẽ liên tục phạm thêm những lỗi lầm mới. Chắc chắn ngay trong nội bộ Đảng cộng sản, đại đa số đảng viên cũng đã hiểu rằng chế độ toàn trị đã đến lúc phải chấm dứt và họ phải tìm cho mình một tương lai khác. Hạn kỳ dân chủ có thể không xa.
Nhưng trấn tĩnh lại như thế nào ?
Điều cần thiết không phải là những sáng kiến mới mà là một tinh thần mới mà chúng ta chỉ có thể có được sau khi tự đặt cho mình những câu hỏi nền tảng –nghĩa là những câu hỏi mang tính triết lý và đạo đức- và trả lời một cách lương thiện.
Mình có thực sự yêu nước không và muốn gì ? Mình tranh đấu trước hết vì tương lai đất nước hay trước hết vì tương lai của chính mình ? Dân chủ có đúng là một lý tưởng không hay đồng thời cũng là một danh nghĩa và một chiêu bài để đánh bóng mình ? Sự cao cả của một đời người là gì ? Là sự hiểu biết, là sống theo lẽ phải và phục vụ lẽ phải, là cố gắng góp phần cải thiện cuộc sống của đồng loai, trước hết là đồng bào mình, hay là được xưng tụng là anh hùng dân tộc, được có vai trò và địa vị lớn ? v.v.
Chỉ sau khi đã trả lời một cách thực thà với chính mình những câu hỏi đó chúng ta mới có thể trả lời một cách nghiêm chỉnh câu hỏi bắt buộc : phải đấu tranh như thế nào để đem lại dân chủ cho đất nước ?
Những câu hỏi nền tảng này tuy rất quan trọng nhưng không khó. Chỉ cần mỗi người tự đặt ra một cách thẳng thắn cho mình và trả lời một cách lương thiện thì tất cả mọi vấn đề chiến lược và chiến thuật đấu tranh cho dân chủ sẽ đều sáng tỏ và dễ dàng vì thực ra những giải đáp đều khá hiển nhiên. Cho đến nay người ta đã từ chối những giải đáp đúng chứ không phải không thể nhìn thấy. Hơn nữa, dù trả lời như thế nào những câu hỏi nền tảng trên, người ta cũng sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt. Ít nhất người ta sẽ khiêm tốn hơn và nhìn rõ hơn ai là ai. Chúng ta bế tắc vì chúng ta đã không đặt ra cho mình những câu hỏi đó. Tại sao ? Lý do là vì những câu hỏi triết lý và đạo đức luôn luôn đặt ra trong hoạt động chính trị dù chúng ta muốn hay không, chúng ta phải trả lời bởi vì không trả lời cũng là một cách trả lời, và mỗi chúng ta đều sống và hành động theo cách mà chúng ta trả lời những câu hỏi đó.
Một thí dụ. Nhìn cho kỹ thì "kịch bản dân chủ hóa" của một số không nhỏ trí thức hiện nay, nhất là những người đã có chút địa vị hoặc tiếng tăm, là hy vọng một thay đổi trong đảng và nhà nước cộng sản -dù là sau một tranh chấp nội bộ hay sau một cuộc đảo chính hay do một biến cố nào khác mà mình không chủ động- rồi chế độ sẽ cải tiến, những người tạo ra chuyển biến sẽ chấp nhận dân chủ, sẽ tìm đến và tôn vinh những người đã có uy tín. Như thế điều quan trọng để hò hẹn với tương lai là tranh đua uy tín. Sự tranh đua uy tín này có thể khiến người ta kết hợp với những người mà mình biết là xấu nhưng chịu đứng sau mình và xa lánh những người mà mình biết là tốt nhưng có thể khiến mình lu mờ. Tôi không có ý định mỉa mai những nhân sĩ này bởi vì dầu sao họ cũng hơn những người, đông đảo hơn nhiều, không làm gì cả. Nhưng họ đánh lạc sự chú ý của xã hội khỏi những cố gắng nghiêm túc và khiến cho cuộc đấu tranh cho dân chủ bế tắc. Họ cố tình, xin nhấn mạnh là cố tình, quên đi một sự thực đồ sộ trong lịch sử thế giới là người ta không thể cải tiến một chế độ tham nhũng khi sự tham nhũng đã nghiêm trọng và người ta cũng không thể cải tổ một chế độ cộng sản. Họ cố tình bỏ qua sự thực này bởi vì nó phản bác kịch bản lập thân của họ, một kịch bản mà họ cũng thừa biết là rất khó thành công nhưng phù hợp với mơ ước của họ. Nhưng tại sao họ lại khăng khăng giữ ước mơ và kịch bản hoang tưởng đó ? Câu trả lời là vì họ đã không chịu thẳng thắn đặt ra và trả lời những câu hỏi nền tảng đàng nào cũng đặt ra và không trả lời chỉ đồng nghĩa với trả lời sai.
Câu hỏi phải đấu tranh như thế nào để giành thắng lợi cho dân chủ không khó. Những nghiên cứu và kinh nghiệm trên thế giới rất nhiều và những bài học trong hơn 40 năm qua của nước ta cũng đã khá hùng hồn. Chúng ta lúng túng và bất lực chỉ vì những chọn lựa chiến thuật và chiến lược bao giờ cũng tùy thuộc mật thiết vào cách mà chúng ta trả lời cho những câu hỏi nền tảng.
Đối diện thẳng thắn những câu hỏi đó sẽ giúp mỗi người biết mình là ai và biết nhận diện người khác. Những người dân chủ và yêu nước thực sự sẽ nhận ra nhau và tìm đến với nhau. Và thắng lợi của cuộc vận động dân chủ sẽ không còn xa vì phong trào dân chủ sẽ vừa đông đảo vừa có sức mạnh vô địch của lẽ phải trong khi chế độ này đã rất yếu.
Nguyễn Gia Kiểng
(15/09/2017)
Bài 5 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)
30 năm sau 1975
Cuộc chiến đấu thực sự
Ba mươi năm là thời gian của một thế hệ, và đối với Việt Nam, cũng dài bằng thời gian của cuộc nội chiến quốc-cộng 1945-1975. Một thế hệ đã sinh ra và lớn lên. Dân số Việt Nam đã tăng quá gấp đôi, từ 40 triệu lên 83 triệu. Những thanh niên sinh ra sau cuộc chiến chiếm quá 2/3 dân số. Điều này có nghĩa là cuộc chiến đã thuộc vào dĩ vãng và đã đến lúc ta có thể nghĩ đến nó như một biến cố lịch sử thay vì một đam mê.
Trước hết cần hiểu bối cảnh lịch sử của cuộc xung đột kết thúc ngày 30/4/1975.
Đất nước sẽ không thể vươn lên được nếu người dân không quan tâm tới đất nước và gắn bó đời mình với tương lai đất nước.
Cuộc chiến này diễn ra vào giữa lúc Việt Nam đang sống một cuộc chuyển hóa lớn từ văn hóa Khổng Giáo sang văn hóa Phương Tây. Khổng Giáo đã bị đánh bại và bị lố bịch hóa (Cái học nhà Nho đã hỏng rồi !, Tú Xương) nhưng vẫn còn là văn hóa nền tảng của dân tộc ta. Người ta không thể đoạn tuyệt nhanh chóng với một nền văn hóa đã được độc tôn trong hai ngàn năm. Ngược lại, văn hóa phương Tây tuy toàn thắng về mặt chính trị và cũng hơn hẳn về mặt trí thức nhưng mới chỉ được tiếp thu một cách rất phiến diện. Lý do là vì nó được chuyên chở bởi một ngôn ngữ - tiếng Pháp - rất ít người hiểu, đồng thời nó cũng là một bước nhảy vọt trí tuệ quá lớn đối với người Việt Nam. Nước ta lâm vào một cuộc khủng hoảng căn cước lớn, nhận ra văn hóa truyền thống của mình là dở trong khi không dứt bỏ được nó, ái mộ văn hóa của những kẻ rất xa lạ tới chiếm đóng nước mình. Chúng ta không biết mình là ai và muốn gì.
Cần nhìn giai đoạn Pháp thuộc một cách khách quan. Đối với nhà nước Việt Nam, nghĩa là triều Nguyễn, nó là một cuộc xâm lược nhưng đối với nhân dân Việt Nam và mỗi người Việt Nam, nó lại có tác dụng khai phóng lớn cả về vật chất lẫn tinh thần. Mức sống, trình độ hiểu biết, và các quyền con người căn bản được nâng cao một cách ngoạn mục. Dù mất chủ quyền, nước ta phát triển rất nhanh và rất mạnh về mọi mặt dưới thời Pháp thuộc. Sự kiện kẻ thống trị nước ngoài đem lại phúc lợi hơn hẳn so với các chính quyền Việt Nam đã giáng một đòn chí tử lên ý niệm chủ quyền truyền thống. Sản phẩm của cuộc chuyển hóa áp đặt này trước hết là một bối rối tâm lý và một khủng hoảng căn cước mà ta vừa nói, nhưng đồng thời một tinh thần quốc gia mới cũng được khai sinh.
Trái với ngộ nhận của khá đông người, ý niệm quốc gia và lòng yêu nước chỉ mới xuất hiện trên thế giới gần đây thôi cùng với ý niệm con người tự do và hệ luận của nó là thể chế dân chủ. Trước đó chỉ có những vùng đất thuộc quyền sở hữu của những dòng vua trong đó người dân chỉ là nô lệ. Kẻ nô lệ có thể do bị điều kiện hóa quá lâu tưởng lầm rằng mình yêu sợi dây xích nhưng đó không phải là một tình yêu. Ý niệm quốc gia như là di sản và tài sản của mọi người chỉ xuất hiện tại châu Âu từ thế kỷ 18. Chỉ có quốc gia được quan niệm như vậy mới cho phép nói tới lòng yêu nước. Tại Việt Nam, một cách ngược đời, ý thức về quốc gia đã thực sự ra đời dưới thời Pháp thuộc, vào lúc chúng ta không có chủ quyền. Nó là sản phẩm của một cộng đồng đã khá giả hơn, đã tự do hơn, đã cảm thấy mình có một số quyền và do đó một số trách nhiệm với đất nước, hơn nữa lại chia sẻ cùng một sự tủi nhục bị người Pháp thống trị. Ý thức quốc gia và lòng yêu nước sơ sinh này dầu vậy chỉ giới hạn trong một thiểu số. Sức mạnh của tinh thần quốc gia và lòng yêu nước là ở chỗ chúng là những giá trị đúng chứ không phải vì chúng đã có và đã mạnh từ lâu ; điều này cần đã ý thức rõ rệt nếu ta muốn hiểu cuộc chiến 1945-1975.
Một giai cấp trí thức Tây học mới xuất hiện và sẽ là nhân sự lãnh đạo của cái được gọi là "phe quốc gia" (Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa) sau này. Đặc điểm đầu tiên của giai cấp trí thức này là họ có kiến thức vượt trội về mọi mặt so với lớp nho sĩ tiền bối của họ, nhưng hầu như hoàn toàn không có tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị. Họ là hậu thân của giai cấp sĩ mà đạo lập thân là học cặm cụi với hy vọng được làm những công cụ ngoan ngoãn cho kẻ cầm quyền. Một đặc điểm khác là trong đại bộ phận, cũng do hậu quả của di sản Khổng giáo, họ không có tinh thần dân tộc. Họ sống trong một buổi giao thời với đầy rẫy cơ hội, lại may mắn ở vào một vị trí thuận lợi để lợi dụng những cơ hội đó cho nên không mong ước gì hơn là chế độ thuộc địa cứ tiếp tục.
Chế độ Pháp thuộc không phải chỉ là một đảo lộn lớn và đột ngột mà còn có mâu thuẫn nội tại của chính nó: nó là một sự thống trị nhưng đồng thời cũng có tác dụng khai phóng vì tạo ra những con người sung túc hơn và tự do hơn. Những con người tự do chắc chắn sẽ đòi hỏi sự bình đẳng giữa các dân tộc, nghĩa là chống lại chế độ thuộc địa. Tâm lý háo hức học hỏi, bắt chước người phương Tây qua các phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Tây Du dần dần đã nhường chỗ cho các đòi hỏi chính trị từ cuối thập niên 1920 cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Cao điểm là cuộc khởi nghĩa 1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Người Pháp, nhất là cánh tả, đã ý thức được rằng chế độ thuộc địa không thể tiếp tục. Cuối thập niên 1920, toàn quyền Varenne đã bắt đầu những cuộc đối thoại trong chiều hướng mở rộng các quyền chính trị cho người Việt, sang thập niên 1930 chính quyền Front Populaire còn đề nghị một bước quyết định khác là trở lại hiệp ước Patenôtre 1884, trao trả lại miền Bắc cho triều đình Huế. Đề nghị này bị chính trí thức Việt Nam đồng loạt bác bỏ. Sự kiện này thật đáng chú ý, nó chứng tỏ khoảng trống chính trị bi đát của nước ta lúc đó. Người Việt, kể cả những người đòi độc lập, coi triều đình Huế, chính quyền Việt Nam duy nhất, còn tệ hơn chính quyền thuộc địa Pháp. Như vậy, nếu người Pháp muốn trả độc lập cho Việt Nam họ phải bàn giao quyền lực cho ai? Việt Nam đã hoàn toàn sụp đổ cả về định chế lẫn tinh thần. Sự sụp đổ này đã thể hiện rõ rệt sau cuộc khởi nghĩa dũng cảm nhưng lãng mạn của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Những hy sinh của các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, trong đó lẫm liệt nhất là 13 người lãnh đạo lên đoạn đầu đài ngày 17/6/1930, đã chỉ được tiếp nối bởi một phong trào tiểu thuyết ái tình, thơ lãng mạn, nhạc trữ tình, tranh ấn tượng, v.v. Tinh thần dân tộc hầu như không có, trí thức Việt Nam vẫn chỉ cặm cụi học để lấy bằng và làm quan.
Đối với quần chúng Việt Nam, giai đoạn Pháp thuộc đã có hai tác dụng. Một mặt đời sống của họ được cải thiện đem lại cho họ cùng một lúc một khả năng đề kháng lớn hơn và một ý thức rõ rệt hơn về thân phận đày đọa mà họ cũng như ông cha họ đã phải chịu đựng qua các thế hệ ; mặt khác là sự ghen tức với giai cấp trí thức tiểu tư sản, giai cấp được hưởng lợi nhiều nhất trong giai đoạn Pháp thuộc.
Tóm lại, vào lúc thế chiến II bùng nổ, nước ta đang ở trong giai đoạn nghiêm trọng của một cuộc chuyển hóa lớn. Như một cơ thể ở tuổi dậy thì, xã hội Việt Nam đã thay đổi quá nhiều và quá mạnh nên đã mất thăng bằng và tích lũy ở mức độ cao những mâu thuẫn và căng thẳng. Một giai cấp trí thức mới xuất hiện, được đặc biệt ưu đãi và hãnh diện làm công cụ cai trị cho người Pháp, tương tự như giai cấp sĩ trước họ hãnh diện làm công cụ thống trị cho các vua chúa. Họ không thấy có một bổn phận nào đối với quần chúng Việt Nam cả. Họ quá thỏa mãn để đặt cho mình những vấn đề. Họ không cần quan tâm tới đất nước, vả lại họ không biết suy nghĩ. Những người chống đối chế độ thuộc địa chỉ là một thiểu số và nhiều khi cũng chỉ chống đối vì không thành công trong lộ trình đi học và làm quan. Điển hình là trường hợp ông Hồ Chí Minh trở thành nhà cách mạng vì không được vào Trường Thuộc Địa (Ecole Coliniale). Trước mặt họ là một quần chúng thèm muốn và ghen tức, ngày càng ý thức được rằng mình đã bị chà đạp quá lâu. Nước Việt Nam truyền thống đã sụp đổ hoàn toàn trong khi một ý thức mới về quốc gia chỉ mới bắt đầu thai nghén. Sự thất bại của các đảng phái lấy tinh thần dân tộc làm nền tảng là điều hiển nhiên. Vả lại chính các đảng phái này cũng chẳng có tư tưởng chính trị nào cả.
Trong bối cảnh đó, một lực lượng chính trị rất lạ lùng đã xuất hiện, đảng cộng sản.
Đây là chính đảng đầu tiên được thành lập tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc nhưng mục tiêu của nó không phải là để phục vụ cho Việt Nam mà là để phục vụ cho quốc tế vô sản. Nó không kêu gọi đoàn kết dân tộc mà kêu gọi hận thù giai cấp. Tổ quốc của nó không phải là Việt Nam mà là một nước rất xa lạ và chưa hề có một liên hệ nào với Việt Nam : nước Nga. Các tên gọi đầu tiên của nó không bày tỏ một tình cảm nào đối với Việt Nam : Đông Dương Cộng Sản Đảng, Xô Viết Nghệ Tĩnh. Nó chống Pháp không phải để giành độc lập cho Việt Nam mà vì chống chủ nghĩa thực dân là một trong những chủ trương của Đệ Tam Quốc Tế. Trong một quốc gia lành mạnh một đảng như vậy không có hy vọng nào được hưởng ứng cả. Nhưng đảng cộng sản đã là đảng được ủng hộ mạnh nhất. Nó cũng là đảng duy nhất có hậu thuẫn quốc tế. Khi thế chiến II chấm dứt với khoảng trống chính quyền toàn diện, nó không mạnh nhưng là lực lượng có tổ chức duy nhất. Nó đã nắm được chính quyền và lần này dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giành độc lập. Đây chỉ là một thay đổi khẩu hiệu theo chủ trương "cách mạng vô sản trong một nước" của Stalin mà thôi, nhưng đã đem chính nghĩa lại cho đảng cộng sản. Các đảng phái quốc gia, hoặc mới tái lập hoặc mới thành lập, đã hoàn toàn bất lực và bị tiêu diệt. Cuộc chiến 1945-1975, trong cả hai giai đoạn mà đảng cộng sản gọi là chống Pháp và chống Mỹ, đã diễn ra với sự vắng mặt của các chính đảng không cộng sản. Các chính quyền quốc gia, trừ một vài nhân vật rất hiếm hoi xuất hiện một cách ngắn ngủi sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chỉ là sự nối tiếp của bộ máy thuộc địa Pháp cả về cơ chế lẫn nhân sự, điều khiển bởi những người thuộc lớp trí thức đào tạo trong thời Pháp thuộc, những người đã rất thỏa mãn dưới chế độ thuộc địa, không có kiến thức chính trị, không có tinh thần dân tộc và cũng không có đội ngũ.
Nếu nhìn cuộc chiến 1945-1975 như một cuộc nội chiến với sự tiếp tay của các thế lực quốc tế thì có thể nói đó là cuộc đụng độ giữa một bên là một tổ chức theo đuổi một cách cuồng tín một chủ nghĩa tồi tệ và một bên là một khối người không thành tổ chức, không có bản lĩnh chính trị, cũng không có luôn tinh thần dân tộc. Như vậy thì sự thất bại của các chính quyền quốc gia là điều không tránh khỏi, dù phương tiện dồi dào hơn hẳn và được sự tham chiến trực tiếp của đông đảo quân nước ngoài.
Khi một cuộc chiến đã kéo dài 30 năm, mọi phương tiện đã được sử dụng, đã từng là quan tâm hàng đầu của dư luận thế giới và đã được tranh cãi một cách sôi nổi trên qui mô toàn cầu thì kết thúc của nó không thể là một sự ngẫu nhiên mà là một kết thúc hợp lý, dù có thể là không tốt dưới mắt một số người.
Với cuộc chiến đi dần vào dĩ vãng một số nhận định có thể được đưa ra một cách khách quan. Trước hết là vấn đề chính đáng.
Dù các chính quyền quốc gia không phải là một kết hợp chính trị để có một lập trường chung, điểm nổi bật mà mọi người có thể nhìn thấy là thái độ thân phương Tây. Đây là một thái độ đúng, chúng ta có nhiều điều để học hỏi ở các nước phương Tây, cụ thể là Pháp và Mỹ. Chúng ta cũng cần sự dìu dắt và giúp đỡ của họ. Nhưng chọn lựa đúng này đòi hỏi một giải thích khó khăn. Nó cần được suy nghĩ và lý luận để được quần chúng chấp nhận. Vấn đề là những người kế tiếp nhau cầm đầu phe quốc gia không lý luận, họ chỉ theo Pháp để tranh giành ân sủng của kẻ thống trị nước ngoài, và sau đó theo Mỹ trong cùng một tinh thần. Các chính quyền quốc gia vì vậy không có sự chính đáng. Một điểm cần lưu ý là không một người lãnh đạo phe quốc gia nào hiểu rằng cuộc đấu tranh chống cộng chỉ có ý nghĩa nếu mục tiêu của nó là để xây dựng dân chủ.
Các chính quyền quốc gia, trong sự xô bồ của chúng cũng đã dần dần tạo điều kiện cho sự xuất hiện của một lớp người mới có ý thức dân tộc và trưởng thành trong một không khí tương đối dân chủ nhưng lớp người này chưa nắm được thế chủ động và cũng còn ở rất xa mức độ chuẩn bị cần thiết vào ngày 30/4/1975.
Sự chính đáng của đảng cộng sản là ở chỗ họ tranh đấu chống sự thống trị của nước ngoài. Nhưng chúng ta cũng cần xét lại chính điểm này. Giai đoạn Pháp thuộc không phải là tai hại đối với Việt Nam. Nó đã là giai đoạn mà nước ta phát triển nhanh nhất và trí tuệ Việt Nam được khai thông nhiều nhất. Người Pháp cũng đã qui định được biên giới trên đất liền và trên biển một cách thuận lợi cho Việt Nam, điều mà sau này chính quyền cộng sản không bảo vệ được. Cũng phải nhìn nhận rằng ngay dưới thời Pháp thuộc chỗ đứng và tầm quan trọng của người Việt Nam không ngừng được tăng cường. Nếu sự gia tăng về dân trí và dân số cứ tiếp tục thì độc lập chỉ là vấn đề thời gian. Như đã trình bày ở phần trên, chính người Pháp cũng đã nhìn thấy điều này và ngay từ các thập niên 1920 và 1930 họ đã bắt đầu tìm cách triệt thoái. Giành độc lập là điều bắt buộc nhưng chiến tranh có phải là giải pháp hay nhất không ? Chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống Pháp 1945-1954 không hiển nhiên như đảng cộng sản muốn chúng ta hiểu, nhất là lúc đó Pháp đã thừa nhận sự độc lập của Việt Nam trên nguyên tắc.
Cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ hoàn toàn vô nghĩa. Chống Mỹ là lý cớ chứ không phải là lý do. Lúc đó miền Nam đã là một nước cộng hòa, không lệ thuộc Mỹ hơn là miền Bắc lệ thuộc Liên Xô và Trung Quốc. Đảng cộng sản quyết tâm thiết lập chế độ cộng sản trên toàn lãnh thổ vì thế họ phải đánh miền Nam, dù có Mỹ hay không có Mỹ. Khi cuộc chiến bắt đầu, số cố vấn Mỹ chỉ có vài ngàn, còn ít hơn cả số cố vấn Trung Quốc và Liên Xô ở miền Bắc. Khi quân Mỹ đã rút ra hết sau hiệp định Paris, họ vẫn tiến đánh miền Nam. Và tại sao phải chống Mỹ ? Mỹ hoàn toàn không có chính sách thực dân, họ giúp Việt Nam về tài chính, khoa học, kỹ thuật, phương pháp và tổ chức, tất cả đều là những điều chúng ta cần. Vả lại, sau khi đã hy sinh hàng triệu sinh mệnh để đuổi Mỹ đi ngày nay chính quyền cộng sản đang làm tất cả để đem Mỹ trở lại. Cả hai cuộc chiến đều chỉ do tham vọng nắm độc quyền cai trị của đảng cộng sản cùng với vai trò mũi nhọn tiến công của phong trào cộng sản thế giới mà một cách mù quáng đảng cộng sản đã tự nguyện đảm nhiệm.
Nếu, như phải lý luận một cách lành mạnh, sự chính đáng của một chính quyền là phát triển đất nước và đem lại sự sung túc, bảo đảm tự do và dân chủ, bảo đảm công lý và trật tự an ninh, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ người dân thì chính quyền cộng sản không có một sự chính đáng nào cả. Vả lại họ không do người dân chọn lựa.
Sự chính đáng của đảng cộng sản là ở chỗ nó đã chiến thắng. Nhưng chiến thắng không chứng tỏ là có chính nghĩa. Lịch sử nhân loại không thiếu những trường hợp những kẻ hung bạo và dã man đã khuất phục được những xã hội văn minh hơn chúng. Chiến thắng của đảng cộng sản chủ yếu dựa vào hai vũ khí : khủng bố và tuyên truyền dối trá. Họ sẵn sàng làm tất cả những gì mà đối thủ của họ không dám tự cho phép. Họ làm cho người dân miền Bắc tin rằng dân chúng miền Nam đói khổ cùng cực và bị đánh đập hàng ngày. Nếu hiểu giải phóng là đem lại tự do và no ấm thì giữa hai miền Nam và Bắc không phải miền Nam cần được giải phóng.
Dưới cả hai chế độ, đại khối dân tộc đã chỉ là nạn nhân. Những người có trí tuệ và tâm huyết rất đông đảo trong cả hai hàng ngũ nhưng họ không có tổ chức và hậu thuẫn nên đã không nắm được vai trò quyết định. Họ phải ý thức được điều này để đừng bị gắn bó với một quá khứ nào cả, dù là kinh nghiệm dân chủ bệnh hoạn giả dối của phe quốc gia, hay kinh nghiệm bạo ngược đẫm máu của phe cộng sản.
Đất nước đã được những gì và mất những gì trong 30 năm qua ?
Đã có tiến bộ về mặt kinh tế trong gần 20 năm qua nhờ mở cửa một phần về kinh tế thị trường sau hơn mười năm đập phá. Đời sống của nhân dân đã được cải thiện. Mức tăng trưởng được duy trì một cách đều đặn ở mức độ trên 7% mỗi năm. Tuy vậy tỷ lệ tăng trưởng này phải được coi là thấp đối với một nước đã quá chậm trễ so với thế giới, với một địa thế thuận lợi và một nguồn nhân lực phong phú. So với Trung Quốc, Việt Nam đã bắt đầu tăng trưởng sau Trung Quốc gần mười năm nhưng tỷ lệ tăng trưởng luôn luôn thấp hơn, khoảng cách so với Trung Quốc ngày càng mở rộng ra chứ không thu hẹp lại. So với các tỉnh bờ biển của Trung Quốc, mà mức độ tăng trưởng là trên 15% mỗi năm, thì sự thua kém lại càng bi đát.
Dầu sao, nhờ đời sống được cải thiện và nhờ lượng thông tin ngày càng gia tăng, và nhất là nhờ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế giới, một xã hội dân sự đã hình thành và không ngừng tự cởi trói, buộc chính quyền cộng sản phải liên tục nhượng bộ. Một đồng thuận mới cũng đã thành hình. Đó là đồng thuận xây dựng dân chủ đa nguyên, trong tinh thần hòa giải dân tộc, bằng những phương thức bất bạo động. Khi đã có đồng thuận này thì sớm hay muộn đất nước cũng sẽ chuyển hóa về dân chủ.
Một điểm tích cực lớn khác là sự hình thành của cộng đồng người Việt hải ngoại hơn ba triệu người hiện diện trên khắp thế giới, nhất là tại các nước tiên tiến. Cộng đồng này hiện nay đã là nguồn đóng góp lớn nhất cho đất nước với trên 3 tỷ USD mỗi năm, tương đương với thu nhập của mười triệu người trong nước. Nhưng tiềm năng đóng góp của nó còn to lớn hơn nhiều. Nó có thể là những đầu cầu khoa học, kỹ thuật, thương mại. Nó cũng có thể đóng vai trò con mắt của Việt Nam để quan sát và học hỏi thế giới. Tuy vậy cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đặt ra một vấn nạn lớn cho đất nước. Nếu quan hệ giữa trong và ngoài nước không được bình thường hóa mau chóng thì thế hệ mới sẽ mất đi quan hệ với đất nước và bị đồng hóa vào nước định cư. Một dấu hiệu báo động là phần lớn các thanh niên trưởng thành tại nước ngoài không còn thông thạo tiếng Việt nữa, chưa nói đến sự hiểu biết về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Phải bình thường hóa quan hệ trong thời gian mà thế hệ cha anh, thế hệ đã trưởng thành trước khi rời Việt Nam, còn có khả năng đóng vai trò gạch nối giữa con em mình và đất nước Việt Nam. Nhưng bình thường hóa quan hệ giữa trong và ngoài nước chỉ có thể thực hiện được nếu đất nước có dân chủ. Một thanh niên 30 tuổi, lớn lên tại các nước phương Tây không thể nào chấp nhận được chế độ độc đảng. Khẩu hiệu "xây dựng dân chủ với một đảng duy nhất" đối với họ chỉ là một sự khiêu khích.
Bên cạnh những điểm tích cực, nhiều nguy cơ lớn cũng đã xuất hiện. Nguy cơ lớn nhất là tệ tham nhũng đang tàn phá và làm tê liệt đất nước. Tham nhũng làm hỏng cơ chế thị trường, loại bỏ những giải pháp và những con người đứng đắn, đưa kẻ bất tài và lưu manh vào địa vị quyết định, đặt quan hệ giữa người và người trên sự gian trá. Không đẩy lùi được tham nhũng thì ngay cả đà tăng trưởng khiêm tốn hiện nay cũng sẽ không duy trì được. Chúng ta cần ý thức rằng chưa có một nước nào trở thành giàu mạnh với một mức độ tham nhũng cao. Từ nhiều năm nay nhà nước cộng sản không ngừng kêu gào chống tham nhũng, dùng những từ ngữ thống thiết như "nội xâm", "quốc nạn", nhưng tham nhũng vẫn tiếp tục tăng lên, và tăng nhanh, chứ không giảm đi. Vấn đề vẫn chưa có giải đáp.
Một nguy cơ khác, chủ yếu do hậu quả của tham nhũng và độc tài, là sự băng hoại của các giá trị đạo đức và sự lãnh đạm hoàn toàn với tương lai đất nước. Tuổi trẻ mất định hướng và niềm tin, sa ngã vào nghiện ngập và sự đồi trụy. Thất vọng kéo dài quá lâu với nhà nước đã biến thành thất vọng đối với chính đất nước. Cảm giác bất lực đã khiến mỗi người chỉ còn tìm cách giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân, bất chấp sự lương thiện nếu cần. Nhưng đây chỉ là một trò chơi điên dại trong đó mỗi người chống tất cả và tất cả chống mỗi người với kết quả tất nhiên là mọi người đều thua.
Tăng trưởng kinh tế thực ra cũng chỉ làm giàu cho một số nhỏ. Cuộc sống của đại bộ phận dân chúng, nhất là tại nông thôn, vẫn còn cơ cực. Chênh lệch giàu nghèo thách đố hơn bao giờ hết và đang tăng lên thay vì giảm đi. Đất nước Việt Nam trở thành của riêng của một thiểu số. Gần đây khối lượng tiền bẩn quá lớn đã tạo ra một tệ nạn mới, nạn đầu cơ nhà đất. Đối với đại đa số thanh niên, một ngôi nhà đã trở thành một ước mơ ngoài tầm tay. Họ trở thành những kẻ bơ vơ ngay trên đất nước mình. Họ càng không có lý do để quan tâm tới đất nước.
Một đe dọa lớn khác là môi trường. Ý thức bảo vệ môi trường đã đến quá trễ và những cố gắng quá giới hạn. Sự hủy hoại môi trường đã khiến lụt lội và hạn hán kế tiếp nhau mỗi năm, ngay cả khí hậu cũng thay đổi. Năm nay chúng ta bị hạn hán nặng. Ô nhiễm đã khiến người ta phải bịt mặt trong các thành phố lớn. Nếu tình trạng này tiếp tục thì chẳng bao lâu người Việt Nam sẽ thành xa lạ với nhau vì không còn nhìn được mặt nhau. Chúng ta cũng đang bị cướp nước. Trung Quốc đã ngang ngược xây dựng các đập lớn trên thượng nguồn sông Mê Kông và sông Hồng làm cạn dần hai con sông này. Nước mặn đã tràn vào đồng bằng miền Nam. Chính quyền cộng sản Việt Nam không dám có phản ứng, như đã không dám phản ứng khi hải quân Trung Quốc tàn sát ngư dân mình trên biển cả.
Vấn đề nhức nhối nhất là chúng ta vẫn chưa có giải pháp cho bài toán dân chủ hóa, điều kiện cần dù không đủ, để giải quyết mọi vấn đề của đất nước. Chúng ta vẫn còn là một trong bốn nước cộng sản cuối cùng của thế giới, đề cao một chủ nghĩa đã hiện nguyên hình như là một sai lầm đẫm máu và đã bị ném vào sọt rác của lịch sử. Người Việt Nam nào không hổ thẹn ? Phải giải quyết nhanh chóng bài toán dân chủ hóa bởi vì chúng ta không có nhiều thì giờ. Trong vòng một thế hệ nữa, một ưu thế quyết định của chúng ta ngày nay sẽ trở thành một gánh nặng : tỷ lệ trẻ/già sẽ đảo ngược.
Ba mươi năm sau ngày 30/4/1975, Việt Nam đã là một nước độc lập và hòa bình, đã có quan hệ bình thường với mọi quốc gia trên thế giới nhưng vẫn là một nước nghèo và lạc hậu, đang chuyển hóa một cách khó khăn với một tương lai đầy dấu hỏi.
Giải pháp nào ?
Ba vấn đề chính của chúng ta hôm nay là xây dựng dân chủ, đẩy lùi tham nhũng và xây dựng một ý thức quốc gia mới.
Cả ba đòi hỏi một chính quyền mới.
Xây dựng dân chủ đòi hỏi những người có văn hóa dân chủ thực sự. Những con người được đào tạo ra bởi một hệ thống chuyên chính ngay cả nếu chấp nhận dân chủ cũng không thể có phản xạ dân chủ bởi vì trấn áp, tuyên truyền một chiều, bầu cử bịp bợm nằm trong giáo dục của họ. Cùng lắm họ chỉ tạo ra được một thứ dân chủ hình thức và bệnh hoạn. Dân chủ là một cơ chế phức tạp không những đòi hỏi sự hiểu biết mà còn đòi hỏi kinh nghiệm và phản xạ. Quyền lực bao giờ cũng cám dỗ. Muốn xây dựng và bảo vệ dân chủ cần có những người không thể ứng xử khác hơn là dân chủ, bởi vì đó là bản chất của họ.
Tham nhũng không giản dị là một vấn đề đạo đức, chống tham nhũng không phải chỉ đòi hỏi ý chí và sự lương thiện. Tham nhũng là những liên minh quyền lợi và quyền lực có tổ chức, có phương tiện, có kiến thức, có quyết tâm, và cả dã tâm. Đó cũng là quan hệ đan xen, có vay trả, có ân oán và có luật chơi riêng. Những người cầm quyền hiện nay đã chứng tỏ họ không thể chống tham nhũng. Nếu họ thực sự chống tham nhũng thì họ đã không được đặt để vào các chức vụ mà họ đang giữ. Họ đã trở thành những cấp lãnh đạo bởi vì đã thỏa hiệp với tham nhũng. Muốn chống tham nhũng thì trước hết phải không nợ nần gì ai cả, sau đó phải có lực lượng nếu không muốn bị tiêu diệt. Như vậy chống tham nhũng đòi hỏi một đội ngũ đông đảo những người gắn bó với nhau và coi cuộc chiến chống tham nhũng như cuộc chiến đấu của đời mình.
Đất nước sẽ không thể vươn lên được nếu người dân không quan tâm tới đất nước và gắn bó đời mình với tương lai đất nước. Muốn như thế phải xây dựng một ý thức quốc gia mới, quan niệm đất nước như một tình cảm, một không gian liên đới và một đồng thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung, chứ không phải là một chủng tộc, càng không phải là vùng lộng hành tự do của tập đoàn cầm quyền. Đây là cả một bước nhảy vọt về triết lý chính trị. Nhưng còn có bao nhiêu người quan tâm tới đất nước và gắn bó đời mình với đất nước ? Chắc là không nhiều, nhưng chắc là không thiếu những người sẵn sàng liên kết với các thế lực bất chính. Xây dựng thành công một ý thức quốc gia mới như vậy vừa là một cuộc chiến đấu văn hóa đòi hỏi nhiều trí tuệ vừa là một cuộc chiến đấu chính trị đòi hỏi một đội ngũ gắn bó và kiên trì.
Cả ba cuộc chiến đấu xây dựng dân chủ, chống tham nhũng và xây dựng một ý thức dân tộc mới đều đòi hỏi một đội ngũ những người dân chủ lương thiện, có bản lĩnh và quyết tâm. Trước hết là nếu không có đội ngũ chúng ta sẽ không áp đặt được dân chủ. Tập đoàn cầm quyền hiện nay không mạnh, cũng không gắn bó và cũng không quyết tâm. Nó ngoan cố chỉ vì chúng ta bất lực, và chúng ta bất lực vì chúng ta thiếu tổ chức.
Nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa có một tổ chức dân chủ có tầm vóc ? Đó là câu hỏi gay gắt nhất phải được đặt ra trong dịp kỷ niệm 30 năm ngày 30/4/1975.
Lý do là vì chúng ta thiếu văn hóa tổ chức. Chính vì thế mà chúng ta luôn luôn có hàng ngàn lý do chính đáng để không tham gia, hay tiếp tục tham gia, một tổ chức và quên đi lý do cơ bản là nếu không có tổ chức chúng ta không làm được gì cả. Chính quyền cộng sản không sợ những phản kháng cá nhân. Họ chỉ sợ những đấu tranh có tổ chức.
Nếu sau ba mươi năm chúng ta ý thức sự cần thiết của một tổ chức dân chủ là chúng ta đã làm một bước đột phá lớn và có quyền hy vọng.
Xin kết thúc bài này bằng một nhận định lịch sử. Không phải là chúng ta đã không có tiến bộ. Trái lại chúng ta đã tiến nhanh, có lẽ quá nhanh và vì thế đã mệt mỏi.
Vùng đất chung quanh biển Đông trong đó có nước ta vào thời tiền sử do điều kiện địa lý đã không thuận lợi cho sự phát triển của một nền văn minh. Chỉ một vài thế kỷ trước công nguyên chúng ta mới tiếp xúc với hai nền văn minh lớn từ Trung Hoa và Ấn Độ. Khi người Trung Hoa đến, chúng ta còn là một vùng đất bán khai; mặc dầu có một số trống đồng mà chúng ta hãnh diện. Chúng ta chưa có chữ viết, chưa biết đến bánh xe, chưa có các thị trấn, cũng chưa biết cày bừa. Chúng ta vẫn chủ yếu ở thời đại đồ đá. Ngay cả những trống đồng cũng tố giác sự lạc hậu của chúng ta vì lúc đó thế giới đã vào thời đại đồ sắt từ lâu rồi. Chúng ta chậm trễ khoảng 4.000 năm so với thế giới văn minh lúc đó.
Đầu thế kỷ 16 khi người phương Tây đến, chúng ta ở một tình trạng tổ chức xã hội tương tự như châu Âu hồi đầu công nguyên dưới thời đế quốc La Mã. Trong khoảng 20 thế kỷ chúng ta đã rút ngắn khoảng cách với thế giới văn minh được hơn 20 thế kỷ.
Ngày nay, về mặt văn hóa tư tưởng và tổ chức xã hội chúng ta còn chậm hơn thế giới khoảng 50 năm (mức sống và sự giàu có là một vấn đề khác). Như thế có nghĩa là trong gần năm thế kỷ chúng ta lại rút ngắn được khoảng cách thêm hơn 15 thế kỷ nữa. Đó là một thành tích không nhỏ, chứng tỏ khả năng thích nghi và học hỏi của dân tộc ta. Nhưng có lẽ vì phải đi quá nhanh, quá vội mà chúng ta đã biết nhiều hơn là hiểu, đã học và làm mà không có thì giờ để suy nghĩ và sáng tạo.
Trong cả hai bước nhảy vọt lớn, khi tiếp xúc với người Trung Hoa và khi tiếp xúc với người phương Tây, chúng ta đều chịu số phận nô lệ. Số phận này đã tạo ra một khuôn mẫu, các chính quyền độc lập cũng chỉ là những chế độ nô lệ bản xứ không hơn không kém.
Truyền thống nô lệ tuy, một mặt, do những bắt buộc của nó, đem lại cho chúng ta một số đức tính - chịu đựng, nhẫn nại, siêng năng, học nhanh, thích nghi nhanh với những thay đổi đột ngột - nhưng đồng thời cũng tạo ra trong chúng ta những khuyết tật lớn cần phải mau chóng khắc phục. Không có tự do, chúng ta thiếu sáng tạo. Sự thiếu thốn và nghèo khổ khiến chúng ta trở thành ghen tức và nhỏ mọn. Quen chịu đựng sự ác độc của kẻ thống trị, chúng ta trở thành ác độc với nhau. Quen nhìn đồng loại bị khinh bỉ và chà đạp, chúng ta nhiễm tập quán coi thường lẫn nhau và chỉ biết nể sợ người nước ngoài. Không được quyền quyết định, chúng ta thiếu tinh thần trách nhiệm. Quen nhận những mệnh lệnh mâu thuẫn và tùy tiện của kẻ thống trị, chúng ta không quen phê phán và cũng không cảm thấy như cầu phải giải quyết những mâu thuẫn của chính mình, v.v. Nhưng khuyết tật lớn nhất là thiếu văn hóa tổ chức. Những kẻ nô lệ không được quyền kết hợp với nhau vì kết hợp với nhau họ sẽ có sức mạnh để bẻ gẫy ách nô lệ, điều mà kẻ thống trị không bao giờ dung túng, từ đó họ không biết kết hợp và dần dần không cảm thấy nhu cầu kết hợp, thay vào đó mỗi người tìm cách giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân.
Cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay là làm thế nào để trong vòng 10 năm san bằng được khoảng cách 50 năm còn lại. Đây là cuộc chiến đấu khó khăn nhất. Cố gắng cuối cùng bao giờ cũng là cố gắng đau nhức nhất, bởi vì lần này chúng ta trước hết phải chiến thắng chính mình, sau một cuộc xung đột dữ dội với chính mình, để vượt lên một tầng văn hóa mới để vứt bỏ tập tính của kẻ nô lệ và tiến tới văn hóa của con người tự do trong đó óc phê phán, óc sáng tạo và văn hóa tổ chức là những thành tố cơ bản. Đó là điều kiện sống còn của chúng ta, cũng như của mọi dân tộc, trong kỷ nguyên trí tuệ này.
(TL số 192, 5/2005)
Đọc thêm :
Bài 4 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)
Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám
Ghi chú tháng 8/2015
Bài này được viết ra năm 1991, giữa cao điểm của làn sóng dân chủ thứ ba làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế giới. Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua nhưng những nhận định của nó vẫn còn rất thời sự, có lẽ còn thời sự hơn nhiều so với khi được viết ra. Kết luận vào năm 1991 của bài này là thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1945 để đất nước có lối thoát. Mong ước này đã không được toại nguyện, nhưng một thế hệ mới đã xuất hiện được thông tin đầy đủ hơn và với ý thức chính trị rõ rệt hơn. Tiến bộ tuy chậm nhưng có thực.
Đăng lại bài này tôi cũng xin ghi nhận hai thiếu sót :
Một là, tôi đã không nhấn mạnh thiệt hại lớn nhất mà Đảng Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc trong Cách Mạng Tháng 8. Đó là sự tàn sát những người yêu nước trong các đảng phái quốc gia, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Họ là những trí thức yêu nước chân chính duy nhất vào lúc đó. Những người trí thức khác hoặc chỉ học để làm quan hoặc chìm đắm trong thơ văn lãng mạn. Còn những người cộng sản ? Họ đặt lý tưởng cộng sản lên trên dân tộc, họ tranh đấu và hy sinh cho lý tưởng cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế hơn là cho dân tộc. Đó chính là lý do họ chủ trương cuộc kháng chiến võ trang. Đó cũng là lý do khiến họ tàn sát những người yêu nước để giành độc quyền kháng chiến. Những người yêu nước chân chính đã bị tiêu diệt gần hết. Ý chí và tình cảm dân tộc gần như đã bị bẻ gẫy.
Hai là, sự sợ hãi không phải là lý do duy nhất khiến chế độ toàn trị vẫn còn tiếp tục. Một nguyên nhân quan trọng khác là sai lầm phương pháp. Do quen bị áp đặt những lý luận khiên cưỡng một số đông đảo trí thức Việt Nam quay lại ức hiếp trí tuệ của chính mình. Thay vì dựa vào sự hiểu biết và lý luận để rút ra kết luận họ chọn lựa trước những giải pháp tiện lợi hoặc an toàn rồi loay hoay biện hộ cho những lập trường trái ngược với cả thực tế lẫn lý luận đúng đắn. Sự coi thường kiến thức và lý luận này đã khiến nhiều người cố bám vào ảo tưởng có thể cải tổ chế độ qua những yêu cầu và kiến nghị. Nhưng thực tế đã chứng tỏ rằng không một chế độ cộng sản nào có thể cải tổ được và giải pháp duy nhất đối với một chính quyền tham nhũng là thay thế nó bằng một chính quyền khác. Chúng ta đang có một chế độ cộng sản rất tham nhũng.
NGK
-------------------------------
Trong lịch sử thế giới chưa có chủ nghĩa nào khơi dậy nhiều đam mê và gây ra nhiều xung đột đẫm máu cho nhiều dân tộc bằng chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam đã là một trong những nạn nhân đau đớn nhất. Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất. Ba mươi năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, hàng triệu người thiệt mạng, dân tộc bị chia rẽ trầm trọng. Thành tích của Đảng Cộng Sản Việt Nam tai hại một cách đáng sợ.
Chủ nghĩa cộng sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc nhất.
Tôi chưa bao giờ bị chủ nghĩa cộng sản cám dỗ cả. Nhưng cộng sản đã chinh phục được những con người tôi rất quí mến. Càng lớn lên tôi càng khám phá ra rằng những trí thức, văn nghệ sĩ mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời niên thiếu phần lớn đã di theo cộng sản và vẫn còn tiếp tục thán phục cộng sản. Từ khi bắt đầu theo dõi hoạt động chính trị, niềm đau lớn nhất của tôi là nhiều bạn bè quí mến nhất của tôi lần lượt ngả theo cộng sản. Cộng sản, đặc biệt là cộng sản Việt Nam, đã có một sức quyến rũ ghê gớm. Ghê gớm đến nỗi nhiều trí thức lỗi lạc mặc dầu đã hiến trọn cuộc đời cho cộng sản để chỉ được một chỗ đứng chầu rìa bạc bẽo, mặc dầu phải chứng kiến những tội ác kinh khiếp của nó, vẫn không thể dứt bỏ nó. Sức thu hút mãnh liệt ấy bắt đầu từ một biến cố trọng đại rồi cứ trên đà đó mà tiếp tục. Biến cố trọng đại đó là Cách Mạng Tháng Tám.
"Bài học 45" là điều được những người chống cộng nhắc đi nhắc lại nhiều nhất. Trong những công kích gần đây nhắm vào chủ trương "hòa giải và hòa hợp dân tộc" của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "bài học 45" cũng được viện dẫn nhiều nhất. Người ta phê phán chúng tôi là không thuộc lịch sử, không biết "bài học 45". Có lần Trần Thanh Hiệp nhăn mặt vì giận dữ nói với tôi : "Làm sao người ta có thể tưởng tượng là mình không biết đến những sự kiện tầm thường như vậy được nhỉ ?".
Tựu trung "bài học 45" được viện dẫn và lý luận như thế này : "Vào những năm 1945-1946, phe Quốc Gia có lực lượng mạnh, có thể thắng được Cộng Sản nhưng vì đã ngây thơ, cả tin vào cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản rồi bị lường gạt và tiêu diệt. Bài học cay đắng đó chứng tỏ rằng thỏa hiệp vời cộng sản là chết. Vì vậy những kẻ còn nói chuyện thỏa hiệp, liên hiệp, hòa giải, v.v. với cộng sản chỉ có thể hoặc ngây thơ, ấu trĩ, hoặc tay sai cộng sản, hoặc cộng sản trá hình".
Cái nhìn này được rất nhiều người chia sẻ. Nó đã trở thành một phần của ký ức tập thể.
Suy nghĩ và hành động của chúng ta lệ thuộc rất nhiều ở ký ức tập thể. Khi ký ức tập thể sai thì những phân tích và kết luận khó có thể đúng. "Bài học 45" đã được ghi nhận như thế trong ký ức tập thể của chúng ta. Nhìn lại giai đoạn 1945-1946 vì vậy là điều cần thiết.
Trái với khẳng định của nhiều người, vào thời điểm 1945, phe quốc gia không mạnh, cũng không yếu, mà phải nói là không đáng kể, trong khi đảng cộng sản đã bành trướng khắp nơi và đã nắm trọn được tình hình.
Cán cân lực lượng ngay từ lúc đầu đã lệch hẳn về phía cộng sản. Nhượng Tống, sáng lập viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuốn hồi ký Nguyễn Thái Học của ông, cho biết rằng khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập cuối năm 1927 thì Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tiền thân của đảng cộng sản, thành lập năm 1925, đã có cơ sở ở khắp nơi và Việt Nam Quốc Dân Đảng không thể nào cạnh tranh được với họ. Nhờ hoạt động táo bạo, Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phát triển nhanh trong vòng hai năm, và được cả nước biết đến và hưởng ứng sau cuộc khởi nghĩa liều lĩnh tháng 2-1930. Nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phải trả bằng tính mạng của chính mình cho uy tín này. Toàn bộ ban lãnh đạo bị tiêu diệt, một số nhỏ trốn thoát dang Trung Hoa. Những đảng viên còn lại trong nước như rắn không đầu không liên lạc được với nhau nữa và cũng không biết phải làm gì, lại bị truy lùng ráo riết nên hoàn toàn tê liệt, cái uy tín có được đã không khai thác được. Đến năm 1931, khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên kiên cường không kém và cũng bị đàn áp dã man không kém cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì đảng cộng sản cũng chiếm được tình cảm của quần chúng ngang hàng với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chỉ khác một điều là cơ cấu của họ vẫn còn và họ khai thác được cảm tình này để thu hút quần chúng trong khi Việt Nam Quốc Dân Đảng đã gục ngã.
Nhìn lại thập niên 1930, người ta phải ngỡ ngàng về sự ủy mị của trí thức Việt Nam lúc đó. Sau hai cuộc khởi nghĩa đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Xô Viết Nghệ Tĩnh, bên lề những biến động lớn của thế giới, thanh niên Việt Nam tại các thành phố vẫn chỉ biết mê mải đèn sách với mộng ra làm quan hay đắm chìm trong một phong trào lãng mạn rất khó hiểu. Oái oăm thay, thập niên 1930 lại được coi như là thời đại vàng son của tiểu thuyết, thơ tình, nhạc ướt át, tranh ấn tượng. Những người cộng sản ít ra đã không trùm chăn nằm ngủ trong giai đoạn này, sự dũng cảm của họ không thể chối cãi được. Sau Cách Mạng Tháng Tám, trí thức Việt Nam ngỡ ngàng tỉnh dậy, hổ thẹn vì sự hèn nhát của mình và bị thôi miên bởi sự dũng cảm của người cộng sản, từ đó về sau nhiều người đã phục tùng họ một cách không điều kiện.
Một bước ngoặc quan trọng đã làm cho thế thắng của đảng cộng sản không thể đảo ngược được là giai đoạn 1936-1938 khi Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) lên nắm chính quyền tại Pháp. Mặt trận này là một liên hiệp giữa Đảng Xã Hội Pháp và Đảng Cộng Sản Pháp, và vì vốn chống chính sách thuộc địa nên đã dành nhiều dễ dãi cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam. Đảng cộng sản đã chụp lấy cơ hội để hoạt động và phát triển công khai trong khi những cơ sở còn lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn chỉ giới hạn trong một vài hoạt động bí mật. Đảng cộng sản vì vậy đã độc chiếm được cuộc đấu tranh giành độc lập. Họ đã phối hợp được hoạt động bí mật với hoạt động công khai, đã xây dựng được cơ sở ở khắp nơi, đã có cơ quan ngôn luận, đã len lỏi và khuynh đảo được nhiều tổ chức nghiệp đoàn và hiệp hội, đã chủ động được nhiều cuộc đình công và phá hoại, gây tiếng vang và phấn khởi ở khắp nơi. Khi Thế chiến II bùng nổ và Nhật vào Đông Dương, họ là tổ chức tranh đấu duy nhất thực sự có hoạt động. Thế ưu thắng áp đảo của họ cứ thế mà tiếp tục. Nạn đói 1945, trong đó hàng triệu người bị chết, đã đem lại cho khẩu hiệu xóa bỏ giàu nghèo của cộng sản một hấp lực ghê gớm. Phẩm giá và mạng sống của người nghèo lúc đó không bằng chén gạo, củ khoai. Hấp lực của cộng sản còn đi xa hơn thế nữa, nó còn buôn bán cái ảo tưởng là những người vô học cũng có thể là những cấp lãnh đạo. Chính cái ảo tưởng đó đã làm say sưa nhiều người mộc mạc đến độ họ sẵn sàng chết cho đảng. Nhưng cũng chính cái ảo tưởng đó đã khiến cho sự dốt nát ngự trị trong chính quyền cộng sản và đập phá đất nước cho đến ngày nay.
Tương quan lực lượng đã như vậy, về đường lối thì sao ?
Người ta trông đợi rất nhiều ở nhóm Phong Hóa Ngày Nay, đặc biệt là ở ông Nguyễn Tường Tam và người em xuất chúng của ông là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Họ được coi là những nhà trí thức lỗi lạc nhất lúc đó. Đảng Đại Việt Dân Chính của họ ra đời năm 1943 với một cương lĩnh mà ông Nguyễn Tường Bách, em ruột của hai ông Tam, Long và cũng là một nhân vật cốt cán của Đại Việt Dân Chính, đánh giá như sau : "đó là một sự kết hợp hỗn tạp của chủ nghĩa quốc gia trong đó có thành phần của chủ nghĩa Tam Dân, lại có cả thành phần của chủ nghĩa phát xít", ông Bách nhận định : "cái cương lĩnh hỗn tạp ấy dĩ nhiên không thể lôi kéo được quần chúng". Đó là tư tưởng của nhóm trí thức sáng giá nhất lúc đó. Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng vẫn không có đường lối nào rõ rệt cả. Sau này Đại Việt Dân Chính sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng và các ông Tam, Long, Bách trở thành những nhân vật cốt cán của Việt Nam Quốc Dân Đảng, ta có thể hiểu rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng tán thành cái "cương lĩnh hỗn tạp" đó. Vào thời điểm này, con người đầu tư vào tư tưởng nhiều nhất là ông Lý Đông A, nhưng luận thuyết của ông không phải là một cương lĩnh chính trị, nó chỉ giới hạn ở lý thuyết và lại mang nhiều ngộ nhận về mặt triết lý và ngôn ngữ. Vả lại Đảng Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A không phát triển trong quần chúng, không đóng vai trò đáng kể nào trong những năm 1945/1946 cả.
Tư tưởng chỉ đạo đã như vậy, chiến lược của phe quốc gia lại quá nông cạn. Đa số các tổ chức ra đời lúc đó trông đợi ở Nhật đánh đổ Pháp và trao quyền cho họ. Họ không nhận ra một số sự thật hiển nhiên là Nhật không thể đánh đổ Pháp ; Chính quyền Đông Dương của Pháp lúc đó phục tùng chính phủ Vichy, đồng minh của Đức, mà Đức lại là đồng minh của Nhật, nên Nhật không thể có ý định đánh đổ chính quyền thuộc địa Pháp. Vả lại Nhật còn nhiều vấn đề cấp bách khác cần phải đối phó hơn là đuổi Pháp để trao trả độc lập cho Việt Nam. Họ còn cần Pháp giữ gìn anh ninh trật tự, bảo đảm hậu cần cho họ tại Việt Nam. Pháp đã chấp nhận như vậy và đó là tất cả những gì Nhật muốn. Kiến Quốc Quân của Việt Nam Quang Phục Hội đã phải trả cái giá vô cùng đắt cho lòng tin ở Nhật, nhưng các đảng phái quốc gia vẫn chưa vỡ mộng, hoặc vỡ mộng nhưng không nhìn thấy đường lối nào khác. Nhật chỉ đảo chính Pháp khi quốc xã Đức đã đầu hàng và chính quyền thuộc địa Pháp sắp ngả theo phe Đồng Minh, nhưng lúc đó Nhật cũng đã tuyệt vọng và không còn nhờ cậy được nữa. Đến khi Nhật đã thua rõ rệt, các nhóm quốc gia lưu vong lại ngả sang nương tựa Tưởng Giới Thạch.
Đường lối và chiến lược bao giờ cũng là căn bản khởi đầu của mọi cuộc đấu tranh chính trị. Các đảng phái quốc gia đã thiếu đường lối và không có chiến lược chung nên đã không kết hợp được. Người ta nói nhiều về khủng hoảng lãnh đạo và chê trách các lãnh tụ quốc gia lúc đó là nặng đầu óc lãnh tụ, không ai chịu ai. Nhưng đó chỉ là hiện tượng ngoài mặt, lý do căn bản là phe quốc gia đã thiếu đường lối và chiến lược. Khủng hoảng lãnh đạo là hậu quả tất nhiên của khủng hoảng về lập trường.
Tổ chức rời rạc, đường lối không có, chiến lược cũng không, các phe phái quốc gia nhỏ bé hoàn toàn rối loạn. Đầu năm 1945 cộng sản, dưới danh nghĩa Việt Minh, đã kiểm soát được tình hình.
Ông Trần Trọng Kim, thủ tướng chính phủ Nam Triều thành lập tháng 4/1945, một tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhận định trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi như sau : "Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá huyện kia, lính Bảo An ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn nhưng cũng không chống lại nữa" ; tại miền Bắc, khâm sai Phan Kế Toại "sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức". Đến gần ngày Nhật đầu hàng, ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế của chính phủ Trần Trọng Kim, đề nghị "phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các Trần Trọng Kim nên thôi đi để cho họ làm việc may ra họ cứu được nước". Ông Hồ Tá Khanh không hề có cảm tình nào với Việt Minh cả.
Việt Minh không hề giấu giếm là sẽ dùng bạo lực để nắm chính quyền một mình vì lúc đó họ thấy mình là lực lượng duy nhất. Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Bắc, bí mật tiếp xúc với họ xin thỏa hiệp, họ chỉ cử một "thiếu niên" (theo lời ông Trần Trọng Kim) tới gặp. Thiếu niên này không thèm xưng cả tên tuổi, chỉ nói thẳng cho ông Trần Trọng Kim hay là họ không cần hợp tác với ai cả, họ sẽ cướp toàn bộ chính quyền bằng võ lực dù cho nhân dân có mười phần chết chín đi nữa. Ông Trần Trọng Kim gởi hai bộ trưởng Phan Anh ra Bắc và Hồ Tá Khanh vào Nam để vận động các nhân sĩ, cả hai ông đều bị Việt Minh bắt giữ trên đường đi. Việt Minh đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ.
Ngay khi Nhật đầu hàng, ngày 14/8/1945, Việt Minh lập tức khởi nghĩa làm chủ tình hình khắp nơi, tới ngày 19/8/1945 họ huy động dân chúng xuống đường tràn ngập các cơ quan và nắm chính quyền tại Hà Nội. Điều này chứng tỏ họ đã có kế hoạch chu đáo. Ngày 25/8, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9, ngày Nhật hoàng ký văn kiện đầu hàng cũng là ngày Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và công bố nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Các đảng phái quốc gia hoàn toàn vắng mặt.
Tháng 10/1945, quân Trung Hoa tiến vào Việt Nam, đem theo một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách). Nhờ sự che chở của quân Trung Hoa, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Cách bắt đầu công khai hoạt động, đả kích Việt Minh, đòi chia quyền. Báo Việt Nam của Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu đả kích cộng sản mạnh mẽ, Việt Cách lập được một trụ sở và một loa phóng thanh ở đường Quan Thánh. Trong hồi ký Những Ngày Chưa Quên ông Đoàn Thêm thuật lại là các buổi phát thanh của Việt Cách mới đầu lôi kéo cả ngàn người, nhưng càng về sau càng thưa thớt. Trần Thanh Hiệp có mặt tại trụ sở Quan Thánh trong suốt giai đoạn này cũng nhìn nhận như vậy. Ảnh hưởng của phe quốc gia chỉ giới hạn ở trong một vài khu phố tại Hà Nội, ra ngoài các khu này họ có thể bị bắt và bị thủ tiêu dễ dàng. Ngoài Hà Nội, các cán bộ phe quốc gia bị phát hiện sẽ bị thủ tiêu ngay. Người ta nói nhiều đến các chiến khu của phe quốc gia ở phía Bắc Hà Nội, nhưng mọi nhân chứng trong thời gian đó đều xác nhận đó chỉ là những thị xã hoàn toàn bị cô lập. Quân quốc gia ở đó trong đại bộ phận là các toán lính khố xanh của Pháp trước đây bơ vơ sau ngày Nhật đảo chính và được các lãnh tụ phe quốc gia kết nạp trên đường theo quân Trung Hoa về Hà Nội. Mỗi thị xã chỉ có vài chục tay súng và bị quân du kích Việt Minh vây kín. Sau này, khi các cấp lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng theo quân Trung Hoa rút về nước thì khi họ triệt thoái khỏi nơi đâu các thị xã lọt vào tay Việt Minh tới đó. Tất cả bị xóa bỏ trong vòng vài ngày.
Một số người quốc gia mong đợi quân Trung Hoa đánh dẹp Việt Minh giùm mình. Cũng may cho họ mà sự kiện này không xảy ra, nó không đem lại cho họ chính quyền mà chỉ khiến họ trở thành những kẻ phản quốc. Dù quân Trung Hoa có ra tay đánh Việt Minh chăng nữa, họ cũng chỉ có thể đẩy quân Việt Minh ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng mà thôi, phần còn lại của cả lãnh thổ vẫn ở trong tay Việt Minh. Các tướng Trung Hoa biết như vậy nên mặc dầu họ không ưa Việt Minh và muốn bênh vực phe quốc gia, họ chỉ có thể làm áp lực để Việt Minh nhượng bộ phe quốc gia được phần nào hay phần ấy.
Chính do áp lực của quân Trung Hoa mà đầu tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã phải nhượng bộ giải tán chính phủ mà ông đã thành lập từ 6 tháng trước và chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp với sự tham dự của những bộ trưởng thuộc các đảng phái quốc gia hay không có đảng phái. Vì Việt Minh đã làm chủ tình hình nên chính phủ này hoàn toàn không có một thẩm quyền nào cả. Ông Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội Vụ) tâm sự với ông Trần Trọng Kim rằng mọi quyết định đều do địa phương, ông không làm gì cả, còn ông Nguyễn Tường Tam thì nói rằng hồ sơ Bộ Ngoại Giao của ông chỉ có ba lá đơn của người Tàu nhờ tìm nhà và tìm hộ cái ví bị mất cắp. Khi quân Trung Hoa sắp rút đi, ông Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch chính phủ, bỏ nước sang Tàu. Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đó cũng theo đường Việt Trì, Yên Bái chạy sang Trung Hoa. Chính phủ liên hiệp tan rã sau bốn tháng. Từ đó Việt Minh thẳng tay tàn sát đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Chính phủ liên hiệp tháng 3/1946 dầu sao cũng đã có một tác dụng tốt cho phe quốc gia, nhờ đó mà các cán bộ phe quốc gia không bị tàn sát thẳng tay trong vài tháng. Sau này tôi có dịp nói chuyện nhiều lần với ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhân vật quan trọng nhất của phe quốc gia lúc đó. Ông Khanh nói rằng nhờ có chính phủ liên hiệp mà nhiều đồng chí của ông đã có thì giờ trốn thoát hoặc sang Trung Hoa, hoặc sang những địa phương khác nếu không thì đã có thể bị tàn sát hết. Tôi nghe rất nhiều người chê ông Vũ Hồng Khanh là dở. Ông Vũ Hồng Khanh quả nhiên không phải là người lãnh đạo xuất sắc, ông kém về nhiều mặt, nhưng ông hơn đa số những người chê ông. Mỗi lần nghĩ tới ông, tôi lại nhớ tới câu nói của ông Ngô Thời Nhiệm : "gặp thời thế thế thời phải thế".
Sức mạnh của Việt Minh so với phe quốc gia áp đảo đến nỗi cho tới mãi sau này đại đa số những người cộng sản có vai trò quan trọng vào thời điểm Cách Mạng Tháng Tám mà tôi đã được gặp, kể cả những người ngày nay đã thất vọng, chỉ coi các phe phái quốc gia lúc đó như là những bọn phá đám dựa hơi quân Trung Hoa, hay quân Pháp tại miền Nam, để gây khó khăn cho họ. Thái độ của họ, dù thiên vị, cũng phản ánh tương quan lực lượng lúc đó.
Cũng có người hiểu biết hơn, nhìn nhận rằng sau Cách Mạng Tháng Tám, phe quốc gia đã hoàn toàn tuyệt vọng nhưng lại chê nội các Trần Trọng Kim là hèn nhát đã đầu hàng Việt Minh và đã để cho Việt Minh chiếm cả nước, nhờ thế mới tạo được sức mạnh. Ông Trần Trọng Kim trả lời rằng những người này ở ngoài cuộc nên không biết rằng lúc đó nội các của ông không làm được gì khác hơn là đầu hàng. Trần Trọng Kim đã hỏi người chỉ huy Đoàn Thanh Niên Tiền Tuyến, đạo quân nòng cốt của chính phủ, và đã được người chỉ huy trả lời rằng cá nhân ông ta sẵn sàng chống lại Việt Minh, nhưng quân của ông ta thì không có gì bảo đảm. Các đội quân giữ kinh thành cũng đều đã ngả theo Việt Minh hết. Quân Nhật lúc đó có đề nghị dẹp quân Việt Minh giùm cho chính phủ Trần Trọng Kim, nhưng ông Trần Trọng Kim đã từ chối vì thấy như vậy chỉ gây đổ máu vô ích. Quyết định của chính phủ Trần Trọng Kim là một quyết định sáng suốt của những người có lòng yêu nước và hiểu tình thế.
Cách Mạng Tháng Tám đã là một biến cố vĩ đại trong lịch sử nước ta. Kể từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ năm 1863, nước ta đã mất chủ quyền hết thảy 82 năm. Chúng ta đã tủi nhục vì ngoại thuộc trong suốt thời gian đó. Nhưng tủi nhục nhất là năm năm sau cùng. Trước đó chúng ta bị một cường quốc đô hộ nhưng từ năm 1940 trở đi khi Pháp đã bị Đức đánh bại, chúng ta bị một nhóm người Pháp đã mất nước, đã đầu hàng chế ngự và chà đạp mà không làm gì được. Đáng tủi nhất là đám thực dân đã mất nước này chẳng đông đảo gì. Sở dĩ họ đã đứng vững được là vì đã có những người Việt Nam tiếp tay cho họ. Mỉa mai thay, những người này về sau lại là rường cột của các chính quyền được gọi là quốc gia. Chưa bao giờ nước ta nhục đến thế. Ngày 19/8/1945 đã là ngày người Việt Nam đứng dậy, xác nhận nước Việt Nam cũng là một quốc gia như các quốc gia khác và người Việt Nam cũng là những con người như những con người khác trên thế giới.
Người cộng sản đã không cướp đoạt Cách Mạng Tháng Tám của ai. Họ đã chuẩn bị nó, tổ chức thành công nó sau khi đã chấp nhận muôn ngàn thử thách cho nó. Người cộng sản đã chịu phần hy sinh chính trong suốt khoảng thời gian 1931/1945. Máu người cộng sản đã đổ ra nhiều nhất và trong các nhà tù chính trị, tù nhân cộng sản đông gấp ba bốn lần tù nhân của tất cả các đảng phái quốc gia cộng lại. Người cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo một mình cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam trong Cách Mạng Tháng Tám. Họ xứng đáng được hưởng trọn vẹn vinh quang của Cách Mạng Tháng Tám.
Nhưng những nhân chứng của Cách Mạng Tháng Tám đều nhớ rằng cuộc cách mạng ấy đã khởi đầu với những phát súng lục vừa động viên vừa uy hiếp tinh thần quần chúng. Chi tiết này tuy nhỏ mà quan trọng. Đó là thảm kịch của Cách Mạng Tháng Tám, bởi vì bạo lực đã là tinh thần chỉ đạo của nó cũng như của mọi chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này và ngay cho tới bây giờ. Bạo lực này đã tàn sát hàng trăm ngàn người yêu nước thực sự, những đứa con quả cảm nhất của tổ quốc đáng lẽ phải được tôn vinh nhưng đã bị giết chỉ vì không tán thành chủ nghĩa cộng sản.
Tôi phân tích và trình bày sức mạnh áp đảo của cộng sản vào giai đoạn trước và sau Cách Mạng Tháng Tám, không phải để tâng bốc họ mà để thấy rõ tội ác của họ. Với một sức mạnh và một khí thế vượt trội và hơn hẳn như thế, thực ra Việt Minh không cần gì phải tàn sát những người không cộng sản cả. Không ai làm gì được họ hết. Họ vẫn có thể lãnh đạo cuộc tranh đấu giành độc lập, và có lẽ còn thành công mau chóng và dễ dàng hơn nhiều, nếu không tàn sát những người quốc gia. Nhưng họ vẫn tàn sát, như họ đã tàn sát hàng vạn người trong Cải Cách Ruộng Đất, như họ đã hạ nhục tập thể và bỏ tù hàng loạt quân nhân và công chức miền Nam sau ngày 30/4/1975, bởi vì mục tiêu của họ không phải chỉ là giành độc lập mà là giành độc lập để thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tàn sát bởi vì tình dân tộc, nghĩa đồng bào của họ, nếu có, cũng không có một trọng lượng nào so với chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ tôn thờ. Có thể là người cộng sản cũng yêu nước nhưng họ không phải chỉ yêu nước mà còn yêu chủ nghĩa, và họ yêu chủ nghĩa hơn yêu nước và trước khi yêu nước.
Cuốn Thời Dựng Đảng của đảng cộng sản viết về ông Hồ Chí Minh như sau : "các chế độ đời đời nhớ ơn bác Hồ trước hết là người đã truyền bá chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam". Ngày nay khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã hiện hình trung thực dưới mắt mọi người và mọi dân tộc như một lầm lẫn tai hại thì những đam mê mà nó khơi dậy bỗng nhiên trở thành kệch cỡm một cách đáng thương và những tội ác mà người ta đã phạm nhân danh nó chỉ còn là một sự đần độn đẫm máu.
Nhưng tại sao "bài học 45" đã đi vào ký ức tập thể của những người chống cộng một cách sai lầm ?
Sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp đã theo quân Anh trở lại Việt Nam và họp lập tức nổ súng chiếm lại các tỉnh phía Nam. Ngày 19-12/1946, chiến tranh thực sự bùng nổ tại miền Bắc và quân Pháp mau chóng chiếm được các thành phố. Đánh chiếm đến đâu, người Pháp lập các cở cấu cai trị đến đó. Năm 1947, họ gộp các cơ cấu này trọng một "chính phủ quốc gia Việt Nam" do một thiếu tướng quân đội Pháp gốc Việt là Nguyễn Văn Xuân cầm đầu. Nguyễn Văn Xuân trước đó một năm đã từng được Pháp cử làm phó chủ tịch "Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu trong một âm mưu tách rời miền Nam khỏi Việt Nam. Âm mưu này thất bại và đã đưa đến cái chết trong ân hận của Nguyễn Văn Thinh nhưng cũng đã giúp cho Nguyễn Văn Xuân được Pháp thăng chức lên thiếu tướng. Chính phủ này là một sản phẩm của Pháp, gồm những người đã làm việc cho Pháp và đi lính cho Pháp. Năm 1948, chính phủ này được bàn giao cho Bảo Đại sau Hiệp ước Elysée ; nó được sự tham gia của một số nhân vật thuộc phe quốc gia trước đây. Nhưng nó hoàn toàn không dính dáng gì với phe quốc gia trước đây mà chỉ là sự tiếp nối của chính quyền thuộc địa Pháp. Các đảng phái quốc gia cũ vẫn tiếp tục bị ngược đãi ngay dưới các chính quyền quốc gia sau này. Gia đình tôi quen biết hai người bị kết án tù chung thân và bị đày ra Côn Đảo sau cuộc đảo chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930. Họ chỉ được phóng thích năm 1955, nghĩa là 7 năm sau các chính quyền gọi là quốc gia được thành lập và sau 25 năm tù đày vì "hạnh kiểm tốt". Ông Nguyễn Viết Nguyên, trưởng ban binh bị của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, cũng ở trong một trường hợp tương tự. Ông mất cuối năm 1960. Các đồng chí của ông không được chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép làm tang lễ. Họ phải dọa nếu bị cấm sẽ bỏ quan tài ở giữa đường rồi giải tán, chính quyền Ngô Đình Diệm mới nhượng bộ. Trên đường đưa thi hài người anh hùng dân tộc đó đến nơi an nghỉ cuối cùng, cảnh sát đứng gờm gờm hai bên đường sẵn sàng can thiệp.
Tình thế đã thay đổi, độc lập đã trở thành một mục tiêu không thể chối cãi được, các ông quan lại, sĩ quan và cai đội thời Pháp thuộc bỗng dưng trở thành những người lãnh đạo cuộc tranh đấu "chống cộng để bảo vệ chính nghĩa quốc gia". Họ cần hạ uy tín của những người lãnh đạo phe quốc gia cũ, vì dầu sao đi nữa những người này cũng là những người yêu nước hơn họ, chống cộng hơn họ, và chính đáng hơn họ ngàn lần trước dân tộc và lịch sử. "Bài học 45" đã được chế tạo ra như vậy và cho mục đích đó. Dần dần vì được nhắc đi nhắc lại, nó đi vào ký ức tập thể của phe chống cộng. Nhồi sọ và xuyên tạc lịch sử không thuộc độc quyền của phe cộng sản.
Sau cùng, nếu cần rút ra bài học của Cách Mạng Tháng Tám ?
Trước hết, những gì đã xảy ra vào giai đoạn 1945-1946 không chứng tỏ rằng các lãnh tụ phe quốc gia đã dại dột khi liên hiệp với cộng sản. Chính phủ liên hiệp đã có lợi cho phe quốc gia. Nó đã cho phe quốc gia một thời gian tương đối yên ổn để hoạt động và tranh thủ quần chúng. Nhưng thời gian này quá ngắn để phe quốc gia có thể khai thác để thay đổi một tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Giai đoạn 1945-1946 cũng không chứng tỏ rằng liên hiệp với cộng sản là chết. Trước đó cũng như trong lúc đó và sau đó đã có nhiều chính phủ liên hiệp tại nhiều quốc gia nhưng không phải phe cộng sản lúc nào cũng thắng, trái lại họ đã bại nhiều hơn thắng. Một chính phủ liên hiệp giữa hai phe không thể sống chung với nhhau chỉ tạo ra một tình huống mới và phe nào có tư thế để vận dụng được tình huống đó thì phe đó sẽ thắng.
"Bài học 45" thực sự là một cơ hội chỉ là một cơ hội cho những ai đã tiên liệu nó, đã chuẩn bị cho nó, đã chờ đợi nó. Người Việt Nam nào, nhất là người Việt Nam không cộng sản, không thấy tủi hổ là sau những hy sinh cao cả của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng, hầu như suốt thập niên 1930, đa số trí thức Việt Nam đã trùm chăn hưởng thụ, đã say mê những câu thơ lãng mạn, trong khi thế giới biến động mạnh và bất ổn tại châu Âu là điều có thể nhìn thấy và tiên liệu dễ dàng. Việt Nam đã không chuẩn bị cho cơ hội 1940 và đã không chuẩn bị kịp cho cơ hội 1945, vì thế Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay. Trong chiều sâu, dân tộc nào không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình.
Mười sáu năm đã trôi qua kể từ ngày cả nước qui về một mối dưới chế độ cộng sản. Nếu các lực lượng dân chủ tiến bộ thực tâm chuẩn bị nghiêm túc thì chúng ta đã có nhiều cơ hội. Nhưng chúng ta không nhìn thấy những cơ hội đó. Chúng ta đã lãng phí thời giờ và nghị lực vào những hành động hời hợt và giả tạo chỉ có tác dụng làm thuốc tê cho cơn đau mất nước và làm thuốc an thần cho sự tuyệt vọng ngự trị trong lòng. Chúng ta đã không hình thành được một lực lượng có tầm vóc nào mà cũng chưa đạt tới đồng thuận về một đường lối đấu tranh nào. Nếu có cơ hội cứu nước thì với thực trạng hiện nay chúng ta cũng không có khả năng để chụp lấy.
Chuẩn bị cho một cuộc đổi đời và đổi chế độ là một việc phải làm âm thầm và kiên nhẫn từ lâu trước khi cơ hội tới. Phe quốc gia không chuẩn bị trong những năm 1930 nên đã không nắm được cơ hội 1940, và vì mới bắt đầu chuẩn bị từ 1940 trở đi nên đã không đúng hẹn với cơ hội 1945. Năm 1947, Việt Minh đã mất rất nhiều uy tín, nhân dân đã vô cùng bất mãn sau hai năm chịu đựng chính sách khủng bố thô bạo và chờ đợi một giải pháp mới nhưng vì không có một lực lượng dân tộc nào cả nên đã chỉ có giải pháp Bảo Đại. Năm 1954, khi Pháp đã bại trận và người Việt Nam có thể thực sự làm chủ được vận mệnh của mình thì cũng vì không có chuẩn bị nghiêm túc nào cả lại chỉ có Ngô Đình Diệm, con người đã từng hợp tác với Pháp, với Bảo Đại, đã đi đêm với Nhật và đã tiếp tay đắc lực đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng khi đang làm quan. Khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ cũng chỉ có các tướng tá mà một phần khá lớn xuất thân từ hàng ngũ quân đội Pháp. Cuối cùng Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay.
Trong công tác chuẩn bị, điều quan trọng nhất là chuẩn bị về tư tưởng. Một phong trào hành động luôn luôn phải được một trào lưu tư tưởng đi trước. Bởi vậy, đối thoại và thảo luận bộc trực là điều chúng ta không thể tiết kiệm. Và có lẽ trong khi chúng ta thẳng thắn trình bày những khác biệt chúng ta sẽ nhận ra là những khác biệt ấy không quan trọng lắm. Lúc đó chúng ta có thể nghĩ đến kết hợp. Chỉ có thể có kết hợp hành động giữa những con người đồng ý với nhau về mục tiêu phải đạt tới và về con đường phải đi.
Một yếu tố cũng vô cùng quan trọng là niềm tin bởi vì không thể có thắng lợi nếu không có lạc quan. Niềm tin này có ba vế : tin ở sự sụp đổ chắc chắn của chế độ cộng sản để mạnh dạn vượt lên trên những lô gích cũ, những lằn ranh cũ ; tin ở thế tất thắng của dân chủ để dứt khoát từ bỏ những tâm lý và phương pháp lỗi thời và hành động như những người dân chủ chân chính ; tin ở thiện chí của nhau để đừng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và hoảng hốt coi những người khác lập trường với mình là phản bội.
Đảng cộng sản đã tiêu xài hết vốn liếng của họ. Vai trò lịch sử của họ đã hết. Trước những vấn đề lớn của đất nước họ không còn là giải pháp mà là chướng ngại. Hàng ngũ của họ đang tan rã. Những con người từ những quá khứ xung đột đang nhìn cùng về một hướng và hướng đó không phải là hướng Mác-Lênin.
Như một trái cây đã chín, chế độ cộng sản sắp rụng. Nó có thể rụng vì bị rung cây, nó có thể rụng vì một cơn gió nhẹ và nó cũng có thể rụng vì đã quá chín dưới trọng lượng của chính nó. Đất nước này cần một giải pháp thay đổi. Chúng ta đang có cơ hội, tiếc rằng chúng ta đã không đủ chuẩn bị. Nhưng cơ hội vẫn còn đó và vẫn chờ đợi chúng ta.
Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám trước hết là để tái lập một sự thực lịch sử và để có thể rút ra những bài học xác đáng. Nhưng cũng có một lý do khác thúc đẩy tôi viết bài này. Đó là một sự tương đồng giữa thời lỳ 1940-1945 và tình hình hiện nay. Năm 1940 Pháp đã bị bại trận, đã hoang mang và rã rượi, mà chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục một cách hung bạo bởi vì người Việt Nam, trừ người cộng sản, đã không chuẩn bị trước để nắm lấy cơ hội. Ngày nay hệ thống cộng sản đã sụp đổ, các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những đứa con côi của một sự phá sản ; không còn người Việt Nam nào, ngay cả những người trong guồng máy cộng sản, muốn chế độ này tiếp tục nữa, nhưng nó vẫn còn đó do quán lực của quá khứ. Quán lực này có một tên gọi : đó là sự sợ hãi. Sợ hãi cho tương lai mình trong một chế độ mới hay sợ hãi một bạo lực đang hấp hối. Chúng ta sẽ đánh bại được chế độ độc tài này nếu tháo gỡ được quán lực ấy. Lịch sử sẽ khai thông ngay vào lúc không còn ai sợ hãi nữa, và lịch sử sẽ thuộc về những ai tìm được giải pháp an toàn và danh dự cho tất cả mọi người.
Thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1940.
Nguyễn Gia Kiểng
(Thông Luận số 41, tháng 9/1991)
Đọc thêm :
Bài 3 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)
Nhìn lại chủ nghĩa Mác-Lênin
Tháng 2 này Đảng Cộng Sản Việt Nam kỷ niệm 82 năm thành lập, đây là dịp để nhìn lại một cách tổng quát và dứt khoát chủ nghĩa Mác-Lênin, một chủ nghĩa mà trong suốt quá trình thành lập, đấu tranh và cầm quyền Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lấy làm tư tưởng nền tảng và đã có hậu quả to lớn đối với nước ta.
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng nền tảng
Đây là một việc làm cần thiết vì quần chúng Việt Nam vẫn còn thiếu một cái nhìn ngắn gọn về một chủ nghĩa đã và đang tác động lớn lên cuộc sống và tương lai của họ. Mặt khác viết về chủ nghĩa Mác-Lênin trong một bài báo là điều có thể làm được trong lúc này bởi vì cuộc tranh luận về chủ nghĩa này đã chấm dứt và đã có kết luận ; viết về nó không khác lật lại một trang sử. Một lý do khác là, trái với nhận định lạc quan của một số người, Việt Nam chưa thực sự bước vào giai đoạn hậu cộng sản, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, hay đúng hơn gánh nặng của nó trên đất nước ta, vẫn còn rất lớn.
Marx và chủ nghĩa Marx
Karl Marx sinh năm 1818 tại Trier (Đức) trong một gia đình giáo sĩ Do Thái từ nhiều đời nhưng thân phụ ông đã bỏ đạo Do Thái để theo đạo Tin Lành. Nguồn gốc và thời đại đã có ảnh hưởng lớn trên ông. Từ dòng dõi giáo sĩ Do Thái Marx thừa hưởng tâm lý tiên tri, quả quyết và giáo điều thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của ông. Chủ trương xây dựng một thiên đường ngay trong cuộc đời này và trên mặt đất này, bằng bạo lực nếu cần, cũng không khác niềm tin của đạo Do Thái trong kinh Torah (Cựu Ước). Marx cũng trưởng thành cùng với sự hình thành của nước Đức. Khi Marx sinh ra trên lãnh thổ nước Đức hiện nay có hơn hai trăm vương quốc tự trị, nhiều khi xung đột với nhau. Nước Đức đã thống nhất và trở thành cường quốc mạnh nhất Châu Âu trong vòng một nửa thế kỷ. Lúc đó Châu Âu vẫn còn bàng hoàng vì cuộc cách mạng Pháp 1789 và những cuộc chiến khốc liệt do Napoléon gây ra. Pháp, cường quốc số 1 Châu Âu trong thế kỷ trước thế kỷ trước, đã tan hoang và kiệt quệ sau Cách Mạng 1789 và những cuộc chiến của Napoléon để trở thành vùng đất của những bạo loạn, với những cao điểm là Cách Mạng 1830, Cách Mạng 1848 và Công Xã Paris 1871. Song song với những đảo lộn chính trị ồ ạt và đẫm máu đó, cuộc cách mạng kỹ nghệ, thành quả của những tiến bộ khoa học dồn dập từ thế kỷ trước, vẫn tiếp tục tràn tới làm thay đổi đột ngột cách suy nghĩ, nếp sống và tổ chức xã hội. Chưa hết, thế kỷ 19 cũng là thế kỷ đầy bão táp về mặt tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng chính trị. Các ý kiến không sâu sắc như trong thế kỷ 18 -được coi là thế kỷ ánh sáng với sự bùng phát của khoa học và triết học- nhưng các cuộc thảo luận sôi nổi hơn nhiều. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa kinh tế tự do, chủ nghĩa phúc lợi, chủ nghĩa xã hội, tư hữu, bóc lột, cách mạng v.v. là những đề tài tranh cãi gay cấn trong mọi cuộc gặp gỡ của trí thức. Càng gay cấn vì tuy khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, trên những chọn lựa nhưng hầu như mọi trí thức lúc đó đều theo chủ nghĩa nhất nguyên, nghĩa là cho rằng chân lý chỉ có một, và dĩ nhiên ai cũng tin là mình có chân lý.
Tóm lại, thế kỷ 19 trong đó Marx sinh sống, là một thế kỷ cuồng loạn về mọi mặt. Một giai đoạn nguy hiểm. Quá nhiều đảo lộn cực mạnh xẩy ra trong một thời gian quá ngắn. Và Marx ở ngay giữa cơn bão này bởi vì từ thế kỷ 18 Đức trở thành trung tâm của hai phong trào tư tưởng mạnh xuất phát từ Pháp : phong trào thuần lý và phong trào lãng mạn. Phong trào thuần lý, chủ yếu do ảnh hưởng của các phát minh khoa học, tin rằng chỉ có những gì thuần lý mới có giá trị. Phong trào lãng mạn chủ trương phải cởi bỏ tất cả mọi ràng buộc để tìm cảm giác cực mạnh. Hai phong trào này giống nhau ở chỗ chúng đều không dành cho các giá trị đạo đức một tầm quan trọng nào. Không khí cuồng loạn đó không thích hợp cho những suy nghĩ chín chắn và thận trọng. Không thể bỏ qua bối cảnh sôi động này nếu muốn hiểu Marx.
Trái với một nhận định đã thời thượng trong một giai đoạn, Marx không phải là một triết gia đúng nghĩa, dù ông là một nhà tuyên truyền và bút chiến thiên tài. Marx học triết và được cả một trường đaị học –mà ông không theo học- tặng bằng tiến sĩ triết khi mới ngoài hai mươi tuổi, nhưng không vì thế mà ông là một triết gia. Các triết gia không đồng ý về một định nghĩa chính xác của triết nhưng họ đều coi triết là một cố gắng tìm sự hiểu biết xâu xa và chính xác ở mức độ tối đa có thể đạt tới. Bertrand Russell ví triết như một vùng trái độn giữa khoa học và thần học ; nó không thể trái ngược với khoa học để có sự chính xác, nhưng nó cũng phải dám phiêu lưu vào những gì mà khoa học không thể hoặc chưa thể giải thích. Chính vì sự phiêu lưu này mà một triết gia, một mặt, phải nắm vững những hiểu biết khoa học đã đạt được và, mặt khác, phải rất thận trọng trong lý luận.
Trong những bộ môn của triết tri thức học là phần quan trọng nhất, nó có mục đích chất vấn những gì mà chúng ta biết hoặc tin để xem chúng ta có thể tin tới mức độ nào. Những xác quyết hồ đồ -như Marx luôn luôn làm- là điều tối kỵ đối với triết. Không phải ai học triết cũng là triết gia. Bằng cấp, kể cả bằng tiến sĩ, chỉ chứng nhận một căn bản để từ đó học hỏi thêm ; điều quan trọng là những gì mình học được sau đó. Trong trường hợp của Marx bản tính hiếu động cũng như bối cảnh xô bồ của thời đại không thúc đẩy ông học hỏi thêm. Vả lại dù học triết nhưng Marx không thích triết. Ông viết trong cuốn Luận Án về Feuerbach, cuốn sách có thể coi là tác phẩm về triết duy nhất của ông : "các triết lý chỉ cố hiểu thế giới trong khi vấn đề là phải thay đổi nó". Câu này chứng tỏ Marx không những không thích triết mà còn phản triết. Tại sao phải thay đổi thế giới ? Thay đổi cái gì và để đạt tới kết quả nào ? Và làm sao có thể thay đổi được một cái gì nếu không hiểu nó ? Sau cuốn sách nhỏ này, viết năm 1845 nhưng chỉ phổ biến hạn chế, nhiều nhân chứng cho biết Marx đã bỏ hẳn môn triết để dành trọn thời giờ và cố gắng cho tuyên truyền và hành động ; ông chỉ quan tâm trở lại tới triết rất lâu sau đó khi đọc lại Hegel để soạn thảo cuốn Tư Bản Luận.
Marx đã viết rất nhiều hầu như trên tất cả mọi chủ đề trừ khoa học thuần túy nhưng không bao giờ tập trung vào chủ đề nào cả. Ông viết nhiều nhất trong thập niên 1840, khi chưa đầy 30 tuổi. Sau đó, từ năm 1849, ông sang Anh và sống rất cơ cực. Ông đã phải viết hàng ngàn bài báo cho tờ báo Mỹ New York Tribune vì "lý do thực phẩm" theo chính lời ông. Dầu vậy Marx đã rất túng thiếu, ba trong sáu đứa con của ông đã chết vì thiếu ăn ; Marx và phần còn lại của gia đình đã chỉ sống sót nhờ sự giúp đỡ của người bạn trung thành Engels. Chỉ từ 1869 trở đi, khi Engels được thừa hưởng gia tài vì thân phụ qua đời và có thể trợ cấp đều đặn cho ông 350 đồng bảng Anh mỗi năm, Marx mới tạm thoải mái. Tình trạng đau thương này không cho phép Marx học hỏi thêm và cũng không cho phép ông suy nghĩ và viết một cách bình thường. Hơn thế Marx còn phải rất chật vật để khảo cứu về kinh tế, một bộ môn mà ông hoàn toàn không biết gì và cũng không có căn bản để học hỏi một cách nghiêm chỉnh, trong khi soạn thảo cuốn Tư Bản Luận, tác phẩm công phu nhất của ông mà -theo chính lời ông- để viết ra ông đã phải "hy sinh cuộc sống, hạnh phúc và gia đình". Ngoài ra do bản tính hiếu thắng Marx cũng mất rất nhiều thì giờ để viết những lá thư tranh cãi vô bổ với những người phê phán hoặc không đồng ý với ông. Một số những thư từ này về sau cũng được sưu tập lại và xuất bản. Cũng nên đặt câu hỏi tại sao Marx lại có thể cô đơn và khổ cực đến thế mặc dù đã rất nổi tiếng ? Rất có thể là do bản tính kiêu căng ông không có bạn, nhưng cũng có thể là ít người thực sự quí mến ông.
Các tác phẩm của Marx thường là những cuốn sách ngắn, trừ ngoại lệ là cuốn Tư Bản Luận. Ông viết rất nhiều bài báo. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những gì Marx viết và nhắc lại đều mang tính bút chiến và xác quyết nhưng rất ít lý luận. Có lẽ do nguồn gốc gia đình giáo sĩ Do Thái của Marx mà chúng đều có giọng điệu phán quyết và tiên tri. Những tác phẩm được liệt kê nhiều nhất là Luận Án Về Feuerbach (1845), Tuyên Ngôn Cộng Sản (1847), Đấu Tranh Giai Cấp Tại Pháp (1850), Ngày 18 Brumaire (1850), Phê Bình Kinh Tế Chính Trị (1859), Nội Chiến tại Pháp (1871), Phê Bình Cương Lĩnh Gotha (1875) và dĩ nhiên Tư Bản Luận (chỉ quyển I được in trong lúc Marx còn sống năm 1867). Ngoài ra Marx cũng tham gia vào hai tác phẩm của Engels, Ý Thức Hệ Đức (1846) và Chống Dürhing (1878). Như trên đã nói trừ cuốn Tư Bản Luận tất cả những tác phẩm của Marx đều là những cuốn sách ngắn rất ít giá trị lý luận và khảo cứu, có mục đích tranh luận và hô hào. Marx chủ yếu viết các bài báo. Những ý kiến của Marx được lặp lại nhiều lần một cách tản mát trong các tác phẩm chứ không được tập trung và đào sâu trong trong một cuốn sách nào. Tất cả những ý kiến của Marx có thể tìm thấy trong cuốn Tư Bản Luận.
Marx đã viết những gì ?
Những tư tưởng chính của Marx có thể gom lại trong bốn chủ đề :
1. Một phần được coi là triết lý gồm lý luận biện chứng mà Marx lấy lại của Hegel nhưng ứng dụng vào chủ nghĩa duy vật thành Duy Vật Biện Chứng (dialectic materialism) và sau đó ứng dụng vào lịch sử thành Duy Vật Sử Quan (materialistic conception of history).
2. Một lý thuyết về kinh tế chính trị trong đó cốt lõi là lý thuyết giá trị và thặng dư giá trị được trình bày trong Tư Bản Luận.
3. Một lý thuyết về nhà nước và cách mạng được lặp lại nhiều lần đặc biệt là trong Tuyên Ngôn Cộng Sản và Tư Bản Luận nhưng không bao giờ được đào sâu.
4. Quan trong hơn là quan điểm của Marx về đạo đức được phát biểu nhiều lần một cách rất quả quyết dù không biện luận.
Vào lúc này, khi mọi tranh luận nghiêm chỉnh về Marx đã kết thúc ta có thể nói ngắn gọn hai điều. Một là những gì Marx đã nói đều không có giá trị lý luận bởi vì Marx chỉ xác quyết chứ không chứng minh gì cả. Hai là tất cả đã được các nhà lý luận nghiêm chỉnh, và sau đó thực tế, chứng minh là sai và độc hại. Tuy vậy cũng không phải là vô ích nếu ta nhìn lại một cách ngắn gọn một lần chót nền tảng tư tưởng của Marx và của phong trào cộng sản thế giới.
Một nghịch lý đầu tiên cần được đặc biệt chú ý là thứ tự thời gian của hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Marx, Tuyên Ngôn Cộng Sản và Tư Bản Luận. Tuyên Ngôn Cộng Sản là tín điều của chủ nghĩa cộng sản ; nó khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ tiêu vong nhưng không nói tại sao. Tư Bản Luận có mục đích chứng minh niềm tin này. Tuy vậy Tuyên Ngôn Cộng Sản lại có trước Tư Bản Luận gần hai mươi năm. Như vậy là kết luận có trước lý luận. Đây là một cung cách mà không một người tỉnh táo nào có thể tự cho phép, chưa nói một nhà tư tưởng. Kết luận khi chưa lý luận chỉ có thể là kết luận theo cảm tính hoặc kết luận một cách gian trá và có mọi triển vọng là sai ; lý luận với mục đích biện hộ cho một kết luận đã có sẵn chỉ có thể là ngụy biện. Chỉ riêng một điểm này thôi cũng đủ khiến chủ nghĩa Marx đáng bị bác bỏ.
Chính Marx đã là nạn nhân đầu tiên của nghịch lý này. Tuyên Ngôn Cộng Sản khẳng định chủ nghĩa tư bản sẽ bị đào thải như một tất yếu (nghĩa là một điều chắc chắn sẽ đến), và Marx cam kết sẽ chứng minh một cách khoa học. Mọi người chờ đợi và Marx đã phải vật vã trong hai mươi năm để viết Tư Bản Luận cố chứng minh một điều không thể chứng minh được vì không đúng. Khi cuốn Tư Bản Luận được phát hành sau một thời gian chờ đợi dài nó đã là một thất vọng lớn. Nó quanh co, dài dòng, nhàm chán và không chứng minh được gì cả. Đọc nó là một cực hình, nó là cuốn sách của một người viết về một vấn đề mà mình không biết gì. Đã chỉ có quyển I được in ra bằng tiếng Đức khi Marx còn sống, năm 1867. Bản tiếng Anh phải đợi đến 19 năm sau, năm 1886, nghĩa là ba năm sau khi Marx qua đời. Các quyển II và III chỉ được in ra năm 1885 và 1894. Người ta có thể hình dung sự thất bại bi đát của cuốn sách. Trên thực tế nó đánh một dấu chấm hết trên sự nghiệp của Marx như một lý thuyết gia.
Marx đã lấy lại lý luận về giá trị mà David Ricardo đưa ra hồi đầu thế kỷ 19 nhưng thêm vào đó những suy luận mông lung. Kinh tế đối với Marx chỉ là sản xuất, và sản xuất chỉ là sản xuất hàng hóa ; hình ảnh xí nghiệp của Marx chỉ là xí nghiệp của một chủ nhân quyết định hoàn toàn theo ý muốn, Marx không hề biết đến các công ty cổ phần, thị trường, tiền tệ, tín dụng, luật lao động, luật thương mại v.v. dù những khái niệm này đã khá phổ biến vào thời đại của ông. Ông lý luận một cách quanh co, pha trộn kinh tế với xã hội học, tâm lý học, lịch sử, triết học, rồi kết luận gượng gạo rằng sẽ có tích lũy và tập trung tư bản, giai cấp lao động sẽ bị bần cùng hóa và sẽ nổi dậy đánh đổ chế độ tư bản. Điều rất mỉa mai là cuốn sách đã ra đời sau khi thực tế đã rõ ràng là trái ngược với những gì Marx tiên đoán. Số lượng các xí nghiệp tăng lên nhiều thay vì nhỏ lại, giai cấp lao động sống thoải mái hơn nhiều thay vì bị bần cùng hóa.
Qui luật biện chứng của Hegel tự nó đã sai. Theo Hegel mọi sự trong vũ trụ biến chuyển theo một qui luật được gọi là "biện chứng" qui định bởi một Lý Trí Tuyệt Đối huyền bí không khác các thượng đế của các tôn giáo, nhưng thuần lý. Qui luật biện chứng như sau : bất cứ thực thể nào, dù là sự vật hay ý kiến, mà ta lấy làm điểm khởi hành của lý luận hay quan sát (và gọi là tiền đề) cũng có một sự phản bác (gọi là phản đề), sự mâu thuẫn giữa đôi bên cuối cùng dẫn tới kết quả là một tổng hợp thuần lý hơn thay thế cả tiền đề lẫn phản đề. Tổng hợp sau đó lại là khởi điểm cho cho một biện chứng khác, nghĩa là một tiền đề mới, và tiến trình biện chứng cứ thế mà tiếp tục, mỗi bước là một tiến bộ nghĩa là dẫn tới một tình trạng hợp lý hơn. Vì thế theo Hegel tất cả những gì hiện hữu đều hợp lý và ngược lại tất cả những gì hợp lý đều sẽ thể hiện. Áp dụng vào lịch sử Hegel cho rằng lịch sử là sự xung đột giữa các quốc gia, mỗi quốc gia -tiền đề- đều có một quốc gia đối nghịch -phản đề-, mâu thuẫn giữa hai quốc gia dẫn tới kết quả là sự thống nhất thành một quốc gia mới. Quốc gia mới này, bao gồm những ưu điểm của cả hai. Đến lượt nó lại gặp mâu thuẫn v.v. Hegel trình bày hệ thống tư tưởng của mình một cách phức tạp đến nỗi nhiều người không thể hiểu và không dám kết luận là nó sai. Nhưng nó có mọi lý do để sai. Trước hết Lý Trí Tuyệt Đối chỉ là một giả thuyết không khác thượng đế của các tôn giáo và cùng lắm chỉ có thể kiểm chứng chứ không thể chứng minh, nhưng thực tế lại không kiểm chứng những gì Hegel nói. Cho đến nay tất cả các phát minh lớn làm thay đổi lịch sử nhân loại không diễn ra vì các nhà bác học đã lý luận theo biện chứng của Hegel, các cuộc xung đột giữa các quốc gia trong tuyệt đại đa số cũng không dẫn tới sự thống nhất trong một quốc gia mới văn minh hơn và hợp lý hơn. Lý thuyết biện chứng của Hegel cũng chỉ là một lý luận cổ điển coi trái đất là trung tâm và phần quan trọng nhất của vũ trụ trong khi khoa học đã chứng minh ngay trong sinh thời của Hegel rằng nó chỉ là một phần vô cùng nhỏ trong một vũ trụ vô cùng lớn. Vả lại lý luận của Hegel đàng nào cũng không thể chấp nhận được vì Hegel không hề định nghĩa những tiêu chuẩn phải có để một cái gì đó được coi là phản đề hay tổng hợp, như vậy qui luật biện chứng có thể được vận dụng một cách rất tùy tiện.
Marx đã chấp nhận biện chứng của Hegel (và do đó đảm nhiệm mọi sai lầm của Hegel) vì nó được trình bày như một qui luật tất yếu, điều mà ông đang cần để chứng minh tính tất yếu của sự đào thải của xã hội tư bản, nhường chỗ cho xã hội cộng sản. Tuy vậy Marx vận dụng biện chứng của Hegel một cách khác, thành Duy Vật Biện Chứng rồi Duy Vật Sử Quan.
Duy Vật Biện chứng là biện chứng của Hegel nhưng có nguyên nhân không phải từ một Trí Tuệ Tuyệt Đối mà từ chính vật chất. Khái niệm duy vật (materialism) xuất hiện trong câu hỏi căn bản của môn tri thức học "cái gì có thực để làm khởi điểm cho sự chắc chắn của sự hiểu biết của chúng ta" ? Đồng thời nó cũng hiện diện trong cuộc tranh cãi về siêu hình học xem hồn hay xác quan trọng hơn. Có hai cách trả lời khác nhau. Trường phái duy tâm (idealism) cho rằng chỉ có ý kiến là có thực trong khi trường phái duy vật cho rằng chỉ có vật chất là có thực.
Người ta đã có thể chất vấn Hegel rằng Lý Trí Tuyệt Đối tại sao và do đâu mà có, nhưng người ta lại càng khó chấp nhận khẳng định không chứng minh của Marx, theo đó tất cả trong vũ trụ này đều do vật chất qui định. Marx có thể nghĩ là ý kiến của ông độc đáo nhưng về bản chất nó không khác niềm tin của những người thổ dân ở trung tâm nước Úc thờ tảng đá Uluru như một thần linh. Marx còn liều lĩnh hơn hẳn Hegel. Hegel chỉ dùng biện chứng để giải thích quá khứ (và biện minh cho sự thống nhất nước Đức) trong khi Marx còn dùng biện chứng để tiên liệu tương lai một cách chắc nịch. Về lịch sử, khác với Hegel nhưng cũng tùy tiện như Hegel, Marx coi động cơ của lịch sử là sự xung đột giữa các giai cấp, mặc dù Marx chưa bao giờ định nghĩa rõ ràng thế nào là một giai cấp.
Theo Marx, chính những xung đột giai cấp này đã khiến xã hội loài người tiến hóa qua các giai đoạn cộng sản nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, và sắp tới cộng sản. Marx còn thêm thắt những xác quyết khác –cũng không chứng minh như thường lệ-, như sự hiểu biết về một vật thể là một hành động có tác dụng làm thay đổi vật thể đó, để tự phân biệt với Hegel. Rõ ràng là Marx cũng không tha thiết gì với biện chứng của Hegel mà chỉ chấp nhận nó vì hai đặc tính phù hợp với cuộc cách mạng vô sản mà ông hô hào : một là nó là một lý thuyết tiền định (determinist) và do đó có thể sử dụng để chứng minh sự tất thắng của cuộc cách mạng này, hai là nó thuần lý và do đó cho phép biện luận một cách có vẻ khoa học và chính xác.
Trên thực tế biện chứng của Marx còn cho phép lý luận một cách tùy tiện hơn cả biện chứng của Hegel vì nó không những giải thích quá khứ, một điều ta có thể ít nhiều quan sát, mà còn tiên liệu cả tương lai. Một thí dụ : bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản Liên Xô lý luận biện chứng như sau :
1. kinh tế phải được lãnh đạo tập trung để có hiệu quả (tiền đề) ;
2. nhưng khái niệm công nhân làm chủ xí nghiệp đòi hỏi tản quyền (phản đề) ;
3. giải pháp là nhà nước Xô Viết (tổng hợp).
Cách lý luận "biện chứng" này cho phép những người không cần có một trình độ lý luận và kiến thức nào nói bất cứ gì sau một thời gian huấn luyện ngắn về biện chứng. Nó đã là nguyên nhân của niềm tin nền tảng của các chế độ cộng sản rằng những người vô học cũng có thể lý luận và giữ những vai trò lãnh đạo.
Quan điểm về nhà nước và cách mạng của Marx có thể tóm tắt như sau : nhà nước và luật pháp chỉ là dụng cụ đàn áp của giai cấp cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay (nghĩa là giữa thế kỷ 19) giai cấp cầm quyền là giai tư sản cho nên chính quyền và luật pháp chỉ là những dụng cụ của giai cấp tư sản để thống trị và bóc lột giai cấp lao động vô sản. Giai cấp vô sản chỉ có một chọn lựa là vùng dậy đánh đổ giai cấp tư sản bằng mọi phương tiện, kể cả và nhất là bằng bạo lực. Marx không giải thích tại sao phải dùng bạo lực để đạt một mục tiêu đàng nào cũng đến nếu sự thay thế xã hội tư bản bằng một xã hội cộng sản là điều tất yếu theo duy vật lịch sử. Theo Marx, vì chỉ có vai trò dụng cụ đàn áp của giai cấp thống trị nên nhà nước không còn lý do tồn tại trong xã hội cộng sản không giai cấp sắp đến, và do đó sẽ tàn lụi đi. Tuy vậy để tiến từ xã hội tư bản sang xã hội cộng sản sẽ cần một giai đoạn chuyên chính vô sản trong đó nhà nước vẫn còn được duy trì như là dụng cụ của giai cấp vô sản để tiêu diệt hẳn chế độ tư bản và xây dựng xã hội cộng sản. Đối với Marx giai cấp vô sản chủ yếu là giai cấp công nhân ; cuộc cách mạng vô sản chủ yếu là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân cho nên nó chỉ có thể thành công khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đầy đủ để tạo ra một giai cấp công nhân đông đảo.
Quan điểm coi nhà nước và luật pháp như là những dụng cụ đàn áp và bóc lột của giai cấp thống trị là một quan điểm đen tối và rất chủ quan của riêng Marx bởi vì ngay trong thời đại của Marx và trước đó phần lớn các nhà tư tưởng nghĩ khác hẳn. Họ coi chính quyền là phương tiện để đảm bảo an ninh và công lý –nghĩa là chống bóc lột- và đem lại hạnh phúc cho người dân. Họ cũng quan niệm luật pháp là sự thể hiện trong xã hội những giá trị đạo đức và nhân bản.
Thực tế đã phủ nhận hoàn toàn lập trường của Marx. Cuộc cách mạng cộng sản đã không thành công trong các nước tư bản phát triển như Marx tiên liệu, trái lại chế độ tư bản càng phát triển thì nhu cầu làm cách mạng để lật đổ nó càng giảm. Các đảng cộng sản đã chỉ giành được chính quyền tại các nước nông nghiệp lạc hậu, như Nga và Trung Quốc ; các chế độ cộng sản được thành lập cũng không phải là một bước tiến về xã hội cộng sản mà đều biến chất và tàn lụi đi. Chỉ có một điều đúng với quan niệm về nhà nước của Marx là trong các chế độ đó chính quyền và luật pháp đã quả nhiên là những dụng cụ đàn áp, nhưng đó là vì họ theo quan điểm của Marx chứ không phải vì một tất yếu lịch sử nào cả.
Điều độc hại nhất trong tư tưởng chính trị của Marx là sự phủ nhận hoàn toàn các giá trị đạo đức và tình cảm. Marx, và sau đó sau đó Lenin, chỉ coi những giá trị như sự lương thiện, sự thủy chung, tình bạn, tình yêu, sự đam mê, lòng bác ái, lòng biết ơn v.v. như là những sản phẩm của quan hệ sản xuất và có mục đích phục vụ giai cấp thống trị. Cũng nên nhận định rằng những người cộng sản coi chủ nghĩa Mác-Lênin là khoa học bởi vì chủ nghĩa này không quan tâm tới đạo đức và tình cảm mà nó coi duy tâm và trừu tượng, do đó vô nghĩa. Đối với Marx không làm gì có cái gọi là bản chất con người. Xét cho cùng đây là một quan điểm rất bi quan. Cuộc đời còn giá trị gì khi con người cũng chỉ như đất đá ? Người ta có thể chấp nhận quan điểm này nếu muốn nhưng nó chẳng có gì là đặc sắc và cao siêu.
Khó có thể tìm thấy một tác phẩm nào ca tụng chủ nghĩa tư bản một cách nồng nhiệt như Tuyên Ngôn Cộng Sản. Theo Marx chỉ trong một thời gian ngắn chủ nghĩa tư bản đã đem lại những tiến bộ huyền diệu, đã tạo ra thế liên thuộc giữa các quốc gia, đem ánh sáng văn minh đến với những dân tộc mọi rợ, đã tạo các thành phố và giải phóng một phần đáng kể loài người khỏi "cuộc sống ngu xuẩn tại nông thôn" v.v. Tuy vậy, cũng ngay trong Tuyên Ngôn Cộng Sản, Marx chủ trương phải tiêu diệt chế độ tư bản và giai cấp tư sản bằng bạo lực. Giai cấp tư sản phải bị tiêu diệt bằng bạo lực không phải vì nó xấu hay ác mà vì một tất yếu lịch sử. Cũng thế, giai cấp vô sản phải thắng không phải vì nó tốt mà vì thắng lợi của nó là một tất yếu lịch sử. Nên nhớ là tuy Marx nói giai cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản nhưng ông không hề coi sự bóc lột này là một tội, trái lại ông coi nó là một lẽ tự nhiên, cũng tự nhiên như việc giai cấp vô sản phải tiêu diệt giai cấp tư sản. Marx không phân biệt thiện và ác, tốt và xấu. Đạo đức hoàn toàn vắng mặt trong tư tưởng của Marx.
Chính Marx khai tử chủ nghĩa Marx
Một điều cần được lưu ý là chủ nghĩa Marx chưa bao giờ được một nhà tư tưởng lớn nào bênh vực. Đã chỉ có những người làm công tác tuyên vận trong các đảng cộng sản đề cao nó. Họ viết ra hàng triệu trang giấy nhưng không viết được gì đáng để ý bởi vì đó chỉ là những cố gắng để cố bào chữa cho cái không thể bào chữa. Những triết gia có tầm vóc hoặc không đề cập tới Marx hoặc chỉ đề cập tới để bác bỏ.
Chính Marx cũng không tin ở những gì mình hô hào. Năm 1872, sau khi Công Xã Paris (một cuộc nổi dậy võ trang của những người cộng sản Pháp mà Marx và Đệ Nhất Quốc Tế nhiệt tình cổ võ) bị dẹp tan vì không lôi kéo được quần chúng, Marx tuyên bố tại Amsterdam nhân dịp đại hội Đệ Nhất Quốc Tế : "Ở những nước như Mỹ và Anh người công nhân có thể tranh đấu để đạt mục tiêu bằng phương thức ôn hòa". Nhưng nếu cách mạng bạo lực không cần thiết ở Anh và Mỹ thì nó cũng không cần thiết ở bất cứ nước nào vì Anh và Mỹ chính là hai quốc gia mà chủ nghĩa tư bản được thể hiện một cách triệt để nhất. Câu nói này tương đương với lời tuyên bố khai tử chủ nghĩa Marx vì cốt lõi của nó là kêu gọi giai cấp công nhân vùng lên cướp chính quyền bằng bạo lực để thực hiện chuyên chính vô sản. Tại đại hội này Marx vận động để dời trụ sở Đệ Nhất Quốc Tế sang Philadelphia, Mỹ. Năm 1875 đến lượt Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức, xương sống của phong trào cộng sản quốc tế vào lúc đó, họp đại hội tại Gotha chính thức chọn lựa đường lối đấu tranh hợp pháp. Biến cố này tương đương với sự cáo chung của phong trào cộng sản mà Marx hô hào vì nó là một phong trào chủ trương cách mạng bạo động. Marx đã rất thất vọng, ông viết ra cuốn "Phê Bình Cương Lĩnh Gotha" đả kích đại hội này nhưng lại không phát hành. Vì không tìm được nhà xuất bản hay vì Marx tự thấy mình không thuyết phục vì tại sao công nhân có thể đấu tranh ôn hòa tại Mỹ và Anh như chính ông đã nói mà lại không thể đấu tranh ôn hòa tại Đức nơi chế độ tư bản còn ít triệt để hơn ? Năm 1876 Đệ Nhất Quốc Tế tuyên bố tự giải tán. Marx tán thành quyết định này và từ đó không tham gia một hoạt động nào nữa cho đến khi chết năm 1883, thọ 65 tuổi. Lúc đó Marx đã hoàn toàn chìm vào quên lãng. Trước khi chết ông để lại một câu nói dí dỏm : "Điều chắc chắn là tôi không phải là một người mác xít !".
Chủ nghĩa Marx kể như đã chết tại Châu Âu. Và chết một cách buồn thảm. Như trên đã nói cuốn Tư Bản Luân, tác phẩm công phu nhất của Marx đã chỉ gây thất vọng. Không ai tán thành, hầu như không ai muốn đọc. Marx đã muốn đề tựa cuốn sách này cho Charles Darwin, một nhà bác học đương thời với ông, cha đẻ của lý thuyết tiến hóa, nhưng Darwin từ chối. J.M.Keynes, một trong những nhà kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỷ 20 đánh giá nó như sau : "Tư Bản Luận là một cuốn sách lỗi thời, không những sai về mặt khoa học mà còn vô tích sự và vô dụng trong thế giới ngày nay". Đó là năm 1932, giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang gặp khủng hoảng dữ dội. Năm 1878 vào lúc mà uy tín và ảnh hưởng của ông hầu như không còn gì, Engels đã viết cuốn Chống Durhing với mục đích trình bày một cách mạch lạc toàn bộ tư tưởng của Marx và phục hồi ảnh hưởng cho Marx (Durhing là một giáo sư đại học Berlin phản bác Marx trên nhiều điểm). Cuốn sách được Marx tán thành và đóng góp. Nó được đăng từng kỳ trên tạp chí Vorwärts của Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức. Sau một thời gian đảng này quyết định ngừng đăng với lời giải thích : "cuốn sách hoàn toàn không có lợi gì cho đa số đảng viên, trái lại còn gây một sự nhàm chán đến cực độ".
Chủ nghĩa Mác-Lênin
Nhờ Lenin mà chủ nghĩa Marx được phục hồi thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Lenin là một chuyên viên khủng bố, lớn lên trong một truyền thống khủng bố quốc gia cũng như gia đình. Tư tưởng chính trị cách mạng của Nga kể từ thập niên 1860 coi ám sát và thủ tiêu là phương pháp bình thường để giải quyết các khác biệt. Anh ruột Lenin bị hành quyết về tội khủng bố. Lenin đã nhìn thấy ở chủ nghĩa Marx một vũ khí lý tưởng để không những chỉ phá hoại mà còn cướp được chính quyền, và ông đã thành công. Do nguồn gốc khủng bố Lenin tin rằng muốn giành chính quyền không thể dựa trên hậu thuẫn quần chúng mà phải dựa trên một đội ngũ cán bộ nhỏ nhưng chuyên nghiệp và quyết tâm sẵn sàng sử dụng bạo lực. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã được mọi sử gia đánh giá là một cuộc đảo chính cướp chính quyền của một nhóm nhỏ. Chủ nghĩa Mác-Lenin có thể định nghĩa là chủ nghĩa Marx vận dụng theo cách của Lenin, nghĩa là lấy lại toàn bộ chủ nghĩa Marx nhưng đẩy tới mức triệt để một số yếu tố : tôn sùng bạo lực, coi thường luật pháp, phủ nhận mọi giá trị đạo đức. Lenin viết rất nhiều nhưng chỉ viết để hô hào, tranh luận và mạt sát. Đóng góp của ông không đáng kể về mặt lý luận nhưng quan trọng về những hậu quả.
Một câu mà Lenin nhắc lại nhiều lần, đặc biệt là trong hai cuốn Nhà Nước và Cách mạng và Cách Mạng Vô Sản và Tên Phản Bội Kautsky có thể tóm tắt tư tưởng chính trị của Lenin : "chính quyền cách mạng là chính quyền do giai cấp vô sản giành được và giữ lấy, chính quyền này không hề bị ràng buộc bởi bất cứ một luật pháp nào".
Cuốn Lenin Toàn Tập (Moscow, 1955, trang 311) in lại một diễn văn của Lenin : "Chính quyền Xô Viết đã hành động như mọi cuộc cách mạng vô sản phải hành động. Nó đã đập tan pháp lý tư sản. Chừng nào chúng ta chưa khủng bố -nghĩa là một viên đạn vào đầu ngay tại chỗ- chúng ta sẽ chẳng đạt được kết quả nào cả". Khi Steinberg, bộ trưởng tư pháp (lúc đó gọi là ủy viên nhân dân tư pháp) hỏi ông "Như thế thì cần gì bộ tư pháp nữa, cứ gọi thẳng là bộ tàn sát cho tiện !" Lenin trả lời : "Đúng lắm, tiếc là chúng ta không thể dùng danh xưng đó".
Trong diễn văn trước đại hội Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Nga năm 1920 Lenin giáo huấn thanh niên như sau : "Có một đạo đức cộng sản không ? Dĩ nhiên là có ! Bọn tư sản thường buộc tội chúng ta là phủ nhận mọi giá trị đạo đức (…) Chúng ta phủ nhận đạo đức theo nghĩa nào ? Chúng ta phủ nhận mọi đạo đức không xuất phát từ con người và giai cấp. Đó chỉ là đạo đức bịp bợm phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản. Chúng ta khẳng định đạo đức của chúng ta hoàn toàn nhắm phục vụ đấu tranh giai cấp. Đạo đức của chúng ta hoàn toàn đặt nền tảng trên cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản". Một câu nói của Lenin được nhắc lại nhiều lần là "đạo đức là những gì hợp với quyền lợi của cách mạng". Chẳng có gì để thảo luận về một quan niệm nhà nước, luật pháp và đạo đức như thế.
Theo đúng bài bản của Marx, Lenin coi nhà nước là cần thiết cho giai đoạn chuyên chính vô sản, một giai đoạn chuyển tiếp lên xã hội cộng sản, một khi xã hội cộng sản đã đạt tới thì vai trò của nhà nước sẽ mờ nhạt đi. Nhà nước trong giai đoạn chuyển tiếp đó do đảng cộng sản, đội tiền phong và người đại diện chân chính của giai cấp vô sản, lãnh đạo một cách hoàn toàn và tuyệt đối. Lenin gọi đó là chế độ dân chủ vô sản và tuyên bố nó ưu việt gấp triệu lần dân chủ tư sản. Nhưng giai đoạn chuyển tiếp đó sẽ kéo dài bao lâu ? Đại hội 22, năm 1961, của Đảng Cộng Sản Liên Xô, sau 47 năm cầm quyền, dự tính rằng sẽ đạt tới xã hội cộng sản vào năm 1980. Nhưng rồi năm 1980 qua đi mà không có gì thay đổi cả. Từ đó vấn đề đặt ra không phải là giảm mà trái lại là tăng cường vai trò của nhà nước và tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên nhà nước. Cho đến khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ năm 1991. Tại Trung Quốc chỉ một thời gian ngắn sau khi đảng cộng sản giành được chính quyền câu hỏi giai đoạn chuyển tiếp kéo dài bao lâu không đặt ra nữa. Khi Mao Trach Đông chết người ta chỉ thấy trong thư viện của ông những cuốn sách cổ của Trung Quốc và những cuốn sách giải trí chứ không hề có cuốn sách nào của Marx và Lenin. Tại Việt Nam ông Hồ Chí Minh từng nói rằng ông không có tư tưởng nào cả mà chỉ theo tư tưởng của Marx, Lenin, Stalin và Mao. Tất cả các đảng cộng sản không hề có một đóng góp lý thuyết nào cả mà chỉ khẳng định một cách máy móc sự trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, trừ đảng cộng sản Ý với Gramsci, nhưng Gramsci phản bác chủ nghĩa Mác-Lênin nhiều hơn là tán thành. Lý do dễ hiểu : người ta không thể cải tiến một cái gì về bản chất đã sai. Một sự kiện chứng tỏ chủ nghĩa Mác-Lenin không thuyết phục : trong suốt lịch sử của phong trào cộng sản chưa hề có một đảng cộng sản nào thắng một cuộc bầu cử lương thiện nào ; về điểm này chủ nghĩa Mác-Lênin còn thua cả các chủ nghĩa Phát Xít và Nazi.
Sự sai trái và độc hại của chủ nghĩa Mác-Lênin không khó nhìn thấy và nhiều nhà bình luận đã thấy ngay từ đầu và đã vạch ra một cách rất rõ ràng. Tuy vậy cho đến thập niên 1970 nó vẫn lôi kéo được một số đông người, kể cả một số trí thức xuất sắc. Lý do là vì vấn đề mà nó nêu ra cũng là vấn đề mà lương tâm con người đặt ra từ rất lâu mà vẫn chưa có giải đáp, đó là bất công xã hội và chênh lệch giầu nghèo. Kể từ khi bắt đầu văn minh thế giới luôn luôn phải sống trong một mâu thuẫn nhức nhối giữa những tư tưởng quảng đại coi mọi người là anh em và một tổ chức xã hội phân biệt chủ và tớ. Và thời nào cũng có những người ao ước xóa bỏ mâu thuẫn nhức nhối đó. Trong nhiều trường hợp chính lòng quảng đại đã khiến người ta tiếp tay cho tội ác. Chủ nghĩa Marx là một giải pháp sai và độc hại nhưng vấn đề nó đặt ra có thực. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là sự vận dụng tư tưởng của Marx cho mục tiêu cướp và giữ chính quyền bằng bạo lực và khủng bố.
Một tai họa cho nhân loại
Theo một khảo cứu công phu và nghiêm túc của một nhóm học giả Pháp chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm thiệt mạng ít nhất 100 triệu người trên thế giới, ngay cả nếu chỉ kể những nạn nhân do các chế độ cộng sản trực tiếp và cố ý sát hại. Ngày 26/01/2006 Hội Đồng Châu Âu đã ra nghị quyết 1481 coi các chế độ cộng sản là tội ác đối với nhân loại. Các nước mắc vào chế độ cộng sản đều nghèo khổ và lạc hậu hơn hẳn những nước không cộng sản với những điều kiện địa lý và lịch sử tương tự. Sự so sánh đã rất rõ rệt trong trường hợp các nước bị phân chia với một phần dưới chế độ cộng sản và một phần dưới một chế độ không cộng sản, như Đông và Tây Đức, Bắc và Nam Cao Ly, Trung Hoa Lục Địa và Đài Loan, Bắc và Nam Việt Nam trước 1975.
Do sự phủ nhận các giá trị tình cảm và đạo đức chủ nghĩa Mác-Lênin làm hoại loạn con người và khuyến khích lối sống gian trá, ác độc, ích kỷ và vô trách nhiệm. Tất cả các chế độ cộng sản đều là những chế độ cực kỳ tham nhũng bởi vì trong thâm tín của nó chủ nghĩa Mác-Lênin coi chức năng của nhà nước là thống trị và bóc lột. Đó cũng đều là những thảm kịch cho môi trường, quan hệ xã hội và văn học nghệ thuật. Đã chỉ có rất ít những tác phẩm có giá trị dưới các chế độ cộng sản và chúng đều là sáng tác của những người phản kháng.
Khi đảng cộng sản Nga cướp được chính quyền tại Nga năm 1917 chủ nghĩa Marx đã chết từ lâu tại Âu Châu. Ta có thể coi ngày chết chính thức của nó là đại hội Gotha 1875. Với bản chất khủng bố, khi sang Châu Âu Lenin đã rất phấn khởi khi tìm được một chủ nghĩa có dáng dấp của một triết lý mà lại hoàn toàn phủ nhận mọi ràng buộc pháp lý và đạo đức. Do trình độ văn hóa sơ sài ông không được gần gũi với những trí thức lớn để biết rằng chủ nghĩa Marx đã bị bác bỏ. Nếu Lenin có văn hóa hơn rất có thể chủ nghĩa Marx đã không được phục hồi thành chủ nghĩa Mác-Lênin và lịch sử nước Nga và thế giới đã khác.
Thảm kịch Việt Nam
Thảm kịch đối với Việt Nam còn lớn hơn vì chủ nghĩa Mác-Lênin đã toàn thắng năm 1975, nghĩa là đúng 100 năm sau khi nó đã bị đào thải tại Châu Âu và cũng rất lâu sau khi nó đã gây ra những tội ác ghê gớm tại Liên Xô và Trung Quốc. Chúng ta chậm trễ một cách bi đát về tư tưởng chính trị. Sự chậm trễ này cho tới nay vẫn chưa được ý thức đầy đủ.
Nhiều người lạc quan cho rằng chủ nghĩa cộng sản không còn tại Việt Nam và hiện nay chúng ta đã ở trong giai đoạn hậu cộng sản. Nhận định này sai. Đã có thay đổi về mặt kinh tế nhưng kinh tế chính là mặt mà lý thuyết Marx chưa bao giờ được áp dụng. Vả lại thay đổi cũng không quan trọng như nhiều người nghĩ. Đảng và nhà nước cộng sản vẫn kiểm soát 2/3 hoạt động kinh tế. Trên các mặt khác, có tầm quan trọng lớn hơn hẳn, như quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản trên nhà nước, quan điểm cho rằng nhà nước và luật pháp chỉ là dụng cụ thống trị và bóc lột, sự phủ nhận hoàn toàn các giá trị đạo đức, và lý luận "biện chứng" tùy tiện cho phép rút ra bất cứ kết luận nào từ bất cứ sự kiện nào v.v. chế độ vẫn chưa hề thay đổi. Sự nới lỏng, nếu có, chỉ là vì chính quyền không đủ khả năng kiểm soát chứ không phải vì không muốn kiểm soát. Và vì trong tình trạng không thể kiểm soát tất cả nó nhắm trước hết những người phản kháng nên nó thả lỏng, nhiều khi sử dụng, các tệ nạn xã hội và các băng đảng xã hội đen.
Lịch sử có lẽ sẽ không khe khắt với ông Hồ Chí Minh, người đã du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam. Ông đã lầm như rất nhiều người Việt Nam vào lúc đó. Nhưng lịch sử chắc chắn sẽ khe khắt hơn nhiều với những người sau ông đã thấy nó sai nhưng vì tham vọng quyền lực vẫn áp đặt lên dân tộc.
Và lịch sử sẽ còn gay gắt hơn đối với những trí thức ở thế kỷ 21 vẫn không dám phản kháng trước một chính quyền trắng trợn tuyên bố tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lênin và còn áp đặt nó như là môn triết duy nhất được giảng dạy trong các trường học. Rất gay gắt. Bởi vì ngoài vấn đề trách nhiệm, các thế hệ mai sau sẽ còn bị dằn vặt với những câu hỏi nhức nhối về căn cước. Như họ từ đâu đến, và cha anh họ là hạng người gì.
Nguyễn Gia Kiểng
(Tháng 02/2012)
Đọc thêm :
Bài 2 (trong Một hồ sơ về thảm họa dân tộc)
Nghĩ về một cơn điên của thế giới
Nội chiến là sự tiếp nối, phát triển và tăng cường độ tự nhiên của đấu tranh giai cấp.
Lenin
************************
Tháng 2 này Đảng Cộng Sản Việt Nam kỷ niệm lần thứ 78 ngày thành lập. Đây cũng là dịp để suy nghĩ thêm về hiện tượng cộng sản.
Cuốn Sách Đen Về Chủ Nghĩa Cộng Sản (Le Livre Noir du Communisme) xuất bản năm 1997 tại Pháp hầu như đã chấm dứt mọi tranh cãi về bản chất và thành tích của chủ nghĩa cộng sản và các chế độ cộng sản. Đó là một công trình khảo cứu đúng đắn và công phu của những học giả lương thiện, có uy tín và có thẩm quyền về phong trào cộng sản. Không một nhà bình luận đứng đắn nào phản bác những sự kiện và nhận định trong tài liệu này.
Ám ảnh đen về chủ nghĩa cộng sản
Cuốn sách đã làm một tổng kết tối thiểu về số nạn nhân của các chế độ cộng sản : khoảng 100 triệu người. Con số này thật kinh hoàng so với số nạn nhân của các chế độ bạo ngược trong lịch sử nhân loại. Quốc Xã Đúc đã làm chết 20 triệu người. Chế độ Nga Hoàng, được mô tả như một chế độ tàn ác, đã tuyên án tử hình 6360 người và hành quyết 3932 người chống đối trong 100 năm cuối cùng của nó. Theo các tác giả con số 100 triệu này, trừ trường hợp của Trung Quốc và Campuchia trong đó sự phân biệt không được rõ rệt, chỉ bao gồm những người đã bị các chế độ cộng sản cố ý và trực tiếp tàn sát để áp đặt và giữ vững quyền lực. Do đó mà số nạn nhân Việt Nam chỉ được ước lượng ở mức một triệu người.
Số nạn nhân đã thiệt mạng vì những "sai lầm khách quan" của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là những người đã chết không phải vì các chế độ cộng sản chủ ý tiêu diệt họ mà đã chết do hậu quả của việc thực hiện chủ nghĩa cộng sản còn lớn hơn nhiều. Thí dụ như tại Liên Xô cũ khoảng 20 triệu người đã chết đói, tại Bắc Triều tiên số người đã chết đói trong mười năm qua có thể lên đến vài triệu người. Tại Trung Quốc tổng số người chết vì đói và bệnh tật do sai lầm của chính sách kinh tế có thể hơn 100 triệu (mà một phần đã được ghi nhận trong Sách Đen). Những người này đã chết vì chủ nghĩa cộng sản là một phương thức tổ chức xã hội sai cho nên khi được đem áp dụng đã bẻ gẫy hệ thống sản xuất và phân phối. Những nạn nhân này đặt ra một câu hỏi nghiêm trọng : tại sao một chủ nghĩa sai đến như vậy lại có thể đông viên được nhiều người như vậy và động viên họ đến mức độ có thể chấp nhận những tội ác kinh khủng ?
Tôi vẫn ngưỡng mộ hai dân tộc Anh và Mỹ vì họ chưa từng bị cám dỗ bởi chủ nghĩa cộng sản. Họ là những ngoại lệ. Phần còn lại của thế giới đã bị cuốn hút. Chủ nghĩa cộng sản đã là vấn đề lớn nhất của thế kỷ 20. Đã có một khối người rất đông đảo tại mọi quốc gia trên thế gìới, trong đó có những người rất xuất chúng thuộc mọi bộ môn văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, cổ võ cho nó. Những nhà bác hoc, những triết gia, những giải thưởng Nobel. Câu hỏi tại sao chủ nghĩa cộng sản lại có thể lôi kéo một số đông đảo những người kiệt xuất như vậy không dễ trả lời. Đây không phải là một vấn đề của lý luận. Nó là một cơn điên của nhân loại và phải tìm giải thích trong tâm lý và lịch sử.
Karl Marx không phải là một triết gia đúng nghĩa và chủ nghĩa cộng sản chẳng bao giờ có tầm vóc của một tư tưởng chính trị hay một lý thuyết quản trị quốc gia. Marx là một nhà báo và một nhà bút chiến có tài nhưng không có khả năng nào khác. Ông học triết và đậu tiến sĩ ở tuổi rất trẻ nhưng ông chưa bao giờ thực sự suy nghĩ như một triết gia. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ triết mà ông đã học được cho những khẳng định hấp tấp mà một triết gia đúng nghĩa không thể tự cho phép. Ông chỉ lấy những ý kiến của những người khác -Hegel, Darwin, Ricardo- để ứng dụng một cách khác và để kết luận một cách quả quyết và hàm hồ. Marx đã rất khổ sở khi bị yêu cầu thực hiện lời hứa là sẽ chứng minh một cách khoa học những gì ông đã khẳng định trong Tuyên Ngôn Cộng Sản năm 1847, đặc biệt là sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Sau cùng ông đã chẳng chứng minh được gì và tất cả mọi dự đoán của ông đều bị thực tế phủ nhận một cách thảm hại. Cuốn Tư Bản (Capital) của ông, mà chỉ có tập 1 được xuất bản khi ông còn sống, là một thất vọng, ít ai đủ kiên nhẫn để đọc nó. Marx không có ý kiến gì về những vấn đề lớn đặt ra cho một quốc gia, như môi trường, dân số, đạo đức, luật pháp, văn học, nghệ thuật, sáng tạo, khoa học, kỹ thuật. (Mọi chế độ cộng sản đều đã là những thảm kịch cho môi trường và đạo đức xã hội vì chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn không biết tới những vấn đề này). Marx chỉ bàn về kinh tế và cũng chỉ quan niệm hoạt động kinh tế ở mức độ thấp nhất, mức độ sản xuất hàng hóa. Ông không biết tới dịch vụ, phân phối và tiền tệ. Những khẳng định của Marx đã bị chứng tỏ là sai lầm ngay khi Marx còn sống. Đảng Xã Hội Đức, được coi như xương sống của phong trào cộng sản thế giới lúc đó, đã bác bỏ Marx ngay từ đại hội Gotha năm 1875. Marx đã sống hơn hai mươi năm cuối đời với hào quang ngày càng xuống dốc trong cảnh nghèo khổ cùng cực tại London. Trước khi chết ông để lại một câu nói không biết mỉa mai hay chua chát : "điều chắc chắn là tôi không phải là một người Mác-xít".
Tư tưởng của Marx đã chỉ được hồi sinh, và được tô vẽ và tán dương sau đó, nhờ cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga. Và lần này nó được phối hợp với lý thuyết khủng bố của Lenin thành chủ nghĩa cộng sản, được biết tới như là chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga đã dần dần được nhìn lại một cách chính xác như một cuộc đảo chính cướp chính quyền của một đảng khủng bố có tổ chức chặt chẽ. Tư tưởng của Marx đã chỉ có công dụng đem lại một biện minh và một thế giá cho một công thức khủng bố để cướp và giữ chính quyền. Nhưng chủ nghĩa Mác-Lênin đã hiệu lực một cách đáng sợ. Tội ác được tôn vinh bởi vì nó được thực hiện nhân danh một lý tưởng quảng đại, người ta giết người để xây dựng một một xã hội ngàn lần đẹp hơn. Trái với bạo lực trần trụi của các vua chúa, bạo lực cộng sản được khoác cái áo đẹp và quí phái của một triết học và một lý tưởng. Sự tàn sát cũng không cần có giới hạn vì có chính nghĩa, và vì mọi giá trị đạo đức đã bị bác bỏ như là những phát minh của giai cấp tư sản.
Nhưng chủ nghĩa Mác-Lenin vẫn chỉ là chính nó, nghĩa là một chủ nghĩa khủng bố. Đảng cộng sản Nga, cũng giống như các đảng cộng sản khác, chưa bao giờ là một đảng quần chúng. Những công nhân đình công đòi quyền lợi sau Cách Mạng Tháng 10 đã bi tàn sát thẳng tay, cũng như các nông dân đòi được có ruộng đất. Sáu triệu người Ukraine bị cắt thực phẩm cho đến chết đói vì có mầm mống chống đối. Đừng nên quên rằng trong suốt lịch sử của phong trào công sản thế giới chưa hề có một đảng cộng sản nào thắng một cuộc bầu cử lương thiện nào, dù trước hay sau khi nắm chính quyền. Các đảng cộng sản đều giống nhau : chúng không phải là những đảng được thành lập để tranh thủ sự hưởng ứng của nhân dân qua những cuộc bầu cử, chúng đều là những tổ chức nhắm tạo ra và lợi dụng những cuộc khủng hoảng để cướp chính quyền và sau đó cai trị bằng bạo lực và khủng bố.
Vậy thì tại sao phong trào cộng sản đã được ủng hộ ?
Chủ nghĩa cộng sản, như là một lý tưởng được Marx mô tả, không phải là mới. Nó có gốc rễ từ một thời rất xa xưa, từ sự tìm kiếm ngoan cố một tổ chức xã hội hoàn chỉnh. Cuốn Nước Cộng Hòa của Plato đã là dự án cộng sản đầu tiên. Từ kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo các nước phương Tây sống trong một mâu thuẫn lớn giữa một giáo lý coi mọi người là anh em và một tổ chức xã hội phân biệt chủ và tớ, trong đó sự đói khổ thường trực đã khiến tài sản tư hữu được nhìn như là nguyên nhân của mọi tệ hại. Thiên Chúa Giáo xuất hiện như một triết lý giải phóng đã dần dần bị thuần hóa để trở thành một dụng cụ thống trị. Trong đáy sâu của tâm hồn con người mong đợi một hy vọng giải phóng mới. Thời đại Tái Sinh (Rennaissance), rồi Thế Kỷ Ánh Sáng (thế kỷ 18) đề ra chủ nghĩa cá nhân, coi con người phổ cập như là giá trị và đối tượng phục vụ cao nhất, dù có hay không có Thượng Đế. Trật tự tinh thần cũ lung lay và một ngày mai đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy ẩn số hiện ra trước mắt. Chủ nghĩa cá nhân quá mới, người ta chưa thể hiểu nó sẽ dẫn đến đâu vì đây là lần đầu tiên con người khám phá ra chính mình. Có những nhà tư tưởng, mà đại diện tiêu biểu nhất là John Locke, nhìn thấy ở chủ nghĩa cá nhân nền tảng của một tổ chức xã hội mới : chế độ dân chủ, nhưng tiếng nói của họ còn quá ít và họ lại không phản bác mà còn bênh vực quyền tư hữu mà đại đa số thù ghét hoặc ngờ vực. Nét độc đáo của họ là đã dám đi ngược lại với một thành kiến áp đảo đã được coi như một chân lý, họ đúng nhưng cũng vì thế mà họ khó được chấp nhận. Cần nhấn mạnh rằng thành kiến này không phải chỉ là của những người nghèo khổ, nó được chia sẻ bởi cả một số rất đông đảo những người có tâm hồn quảng đại. Chính Giê Su Kitô cũng đã từng nói người giầu không thể vào nước chúa. Marx không phải là người đầu tiên đề xướng chủ nghĩa xã hội nhưng đã là người biện luận tài ba nhất cho nó. Thiên tài trong nghệ thuật chế tạo ra những tổng hợp sai nhưng hấp dẫn, Marx đã đưa ra lý thuyết đấu tranh giai cấp, dẫn tới vô sản chuyên chính, hủy bỏ quyền tư hữu, để rồi sau cùng là một xã hội công bằng không giai cấp. Nhưng sau cùng là bao giờ ? Marx không trả lời, như ông không hề định nghĩa thế nào là một giai cấp. Lý thuyết của ông là một xào nấu nhiều yếu tố mâu thuẫn : có yếu tố dân chủ vì quyền lực được coi là thuộc về nhân dân, đáp ứng nguyện vọng lâu đời là hủy bỏ quyền tư hữu, và cũng đáp ứng mối lo âu không biết chủ nghĩa cá nhân, quá mới để đa số có thể hiểu là khác với chủ nghĩa ích kỷ, sẽ đưa tới cái gì. Khi sự cáo chung của các chế độ quân chủ chuyên chính đã là một tất yếu sau Cách Mạng Pháp 1789 -và sự ra đời của nền dân chủ Hoa Kỳ- thì chủ nghĩa Marx phải được nhìn như một khuynh hướng bảo thủ chống lại tư tưởng thực sự mới lúc đó là chủ nghĩa cá nhân tự do và cố giữ lại những gì còn giữ lại được của chủ nghĩa tập thể (collectivism), cách tổ chức xã hội duy nhất mà loài người biết được từ ngày sống thành xã hội. Dân chủ còn quá mới.
Một yếu tố quan trọng khác cũng xuất hiện lần đầu tiên và gây choáng váng. Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã tạo ra một quyền lực hoàn toàn mới : quyền lực của những nhà tư bản chủ nhân những công ty lớn theo nhau ra đời. Đây là một quyền lực rất lạ vào lúc đó bởi vì nó không đặt nền tảng trên bạo lực, mà trên tài sản. Sự giầu có bao giờ cũng đi đôi với quyền lực, nhưng cho tới lúc đó quyền lực của tài sản chỉ ở một tầm vóc nhỏ. Lần này quyền lực của giới tư bản đã quá lớn, bao trùm lên rất nhiều người, gần như một quyền lực chính trị. Người ta khó có thể chấp nhận được thứ quyền lực này bởi vì nó đến từ điều từ lâu đã bị thù ghét : tài sản tư hữu. Giữa lúc đang hy vọng được giải phóng người ta lại thấy phải chịu thêm một ách thống trị mới. Hơn nữa chế độ tư bản sơ sinh lại chỉ mới biết đi những bước đi chập chững, vụng dại và vô tâm. Rất ít nhà tư tưởng dám dự đoán thế giới đi về đâu, một số dự đoán những tương lai đen tối. Marx khẳng định sẽ có tích lũy tư bản, người lao động sẽ bị bần cùng hóa. Lý luận của Marx lạnh lùng một cách ghê rợn ; Marx không coi bóc lột là một tội ác -tội ác, thiện và ác, cũng như mọi khái niệm đạo đức hoàn toàn vắng mặt trong tư tưởng của Marx- mà như qui luật tự nhiên và do đó đấu tranh giai cấp để tiêu diệt giai cấp tư sản cũng là tự nhiên. Cách lý luận của Marx là một bước lùi dứt khoát và kinh hoàng về tình trạng dã man trong đó loài người cũng như mọi động vật tự nhiên phải xâu xé nhau để sống. Quá nhiều đảo lộn vật chất cũng như tinh thần. Hy vọng, bồn chồn, hoảng sợ và phẫn nộ. Thế giới lên cơn điên ! Chủ nghĩa Marx quyến rũ ở những gì nó chống lại. Không phải là một sự tình cờ mà cuốn sách quan trọng nhất của chủ nghĩa cộng sản lại mang tên là Tư Bản (Capital), cũng không phải là một sự tình cờ cuốn sách duy nhất trình bày một cách tổng quát chủ nghĩa cộng sản có tựa là Chống Duhring (Anti-Dühring). Marx không có giải pháp đúng đắn nào cho xã hội, nhưng ông đánh phá bằng những lời lẽ rất hùng hồn những gì mà người ta thù ghét : tài sản tư hữu, bất công, bóc lột v.v.
Dần dần các nhà lý luận nghiêm chỉnh tại châu Âu đã phơi bày những sai lầm của Marx. Khi Marx qua đời tư tưởng của ông đã mất gần hết ảnh hưởng. Lenin đã hồi sinh nó tại Nga, từ Nga nó dội trở lại châu Âu nhờ những thành tích ngoạn mục của chế độ Xô Viết như là một bằng chứng rằng Marx đã đúng và những người phản bác ông đã sai. Chỉ từ thập niên 1980 trở đi những "thành tích" này mới bị phơi bày là dối trá.
Lenin là một chuyên viên khủng bố, lớn lên trong một truyền thống khủng bố quốc gia và gia đình. Tư tưởng chính trị của Nga, kể từ thập niên 1860, do sự pha trộn các học thuyết Tây Âu với truyền thống bạo lực của Nga, chủ yếu là một chủ nghĩa vô chính phủ bạo động. Ám sát và thủ tiêu được coi như một phương tiện bình thường để giải quyết các khác biệt. Anh ruột Lenin bị hành quyết về tội khủng bố. Với một căn cước như vậy Lenin dĩ nhiên biết hiệu lực ghê gớm của hoạt động khủng bố. (Để có một ý niệm về hiệu lực của khủng bố chỉ cần nhìn vào những lực lượng được sử dụng để truy lùng Bin Laden và đội quân khủng bố vài ngàn người Al Qaeda). Đương đầu với khủng bố, một lực lượng qui ước, nghĩa là không dùng phương pháp khủng bố, mạnh gấp đôi, gấp ba, thậm chí gấp mười cũng tuyệt vọng. Phải mạnh gấp trăm ngàn lần. Sở dĩ các nhóm khủng bố tại Nga trước Lênin đều không lay chuyển được chính quyền Nga hoàng là vì chúng đều quá nhỏ, vả lại chúng cũng chỉ có mục tiêu phá hoại. Lenin nhìn đã thấy ở chủ nghĩa Marx một vũ khí lý tưởng để không những chỉ phá hoại mà còn cướp chính quyền : nó có vóc dáng của một triết lý cách mạng và có thể động viên được nhiều người trong khi để cướp được chính quyền chỉ cần một đội ngũ tầm vóc vừa phải nhưng có kỷ luật và quyết tâm. Chủ nghĩa Marx cũng rất hợp với tâm lý cách mạng của người Nga lúc đó : nó bác bỏ mọi giá trị đạo đức, coi bóc lột và đấu tranh giai cấp là tự nhiên, những gì đúng là những gì có lợi cho mục tiêu theo đuổi, cứu cánh biện minh cho phương tiện, Marx cũng không quan tâm tới những ý niệm quốc gia và dân tộc. Lenin đã phát minh ra cả một lý thuyết khủng bố để bổ túc cho tư tưởng của Marx. Ông ta đã nắm được chính quyền bằng vũ lực nhờ một đội ngũ nhỏ nhưng kỷ luật và sau đó thi hành chính sách khủng bố toàn diện và tuyệt đối trong nội bộ đảng cũng như đối với xã hội. Mọi thông tin và mọi quyền tự do đều bị xóa bỏ. Phải khống chế tư tưởng để triệt tiêu mọi ý định chống đối, phải dùng bạo lực để tiêu diệt những chống đối còn lại, và bạo lực phải cực kỳ hung bạo để gây kinh hoàng. Chính quyền Mác-Lênin thực hiện đấu tranh giai cấp và Lenin quan niệm đấu tranh giai cấp là nội chiến liên tục. Chính quyền Mác- Lênin là một chính quyền lâm chiến với nhân dân của chính mình.
Phong trào cộng sản đã đứng vững được tại các nước mà nó đã nắm được chính quyền nhờ khủng bố và đã bành trướng được sang các nước khác, như tại Việt Nam, cũng nhờ chiến tranh khủng bố. Và vì nó luôn luôn đặt đối phương trong thế thụ động. Các đảng cộng sản Tây Âu có vai trò chiến lược quyết định : đánh bóng các chế độ cộng sản và gây khó khăn tối đa cho các chính quyền dân chủ. Khi các đảng cộng sản tại các nuớc Tây Âu sụp đổ và bức tường bưng bít bị chọc thủng thì chủ nghĩa Mác-Lênin cũng sụp đổ tại Liên Xô và trên thế giới vì nó hiện nguyên hình như là một chủ nghĩa khủng bố. Các chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đã phải thích nghi với thực tại thế giới để kéo dài sự tồn tại dù biết rằng về lâu về dài không thể trụ được. Hợp lý hơn với chính mình, chế độ cộng sản Bắc Triều Tiên tiếp tục đóng kín, cho đến gần đây.
Chủ nghĩa cộng sản đã được ủng hộ chủ yếu vì người ta không hiểu nó và không được thông tin về những tội ác kinh khủng của những chế độ nhân danh nó. Nhưng cũng có những lý do sâu xa khác.
Trong một bài trước đây (Tổ chức và sự hình thành cuả ý kiến, Thông Luận số 199, tháng 01/2006) tôi đã trình bày cách mà chúng ta suy nghĩ. Chỉ có một số ít người lý luận để đi đến kết luận, trong đại đa số các trường hợp người ta lý luận để bảo vệ một kết luận đã có sẵn, và kết luận này, khi không phải do tham vọng và quyền lợi, thường đến từ vô thức, từ những nguyện ước ấp ủ lâu ngày, từ những ám ảnh, kỷ niệm và thành kiến, từ những tập quán và giá trị do xã hội áp đặt. Nói chung là từ quá trình hình thành của mỗi con người. Như đã nói ở phần trên, chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như một giải đáp cho nhiều ước vọng đã tích lũy từ lâu, quá lâu. Người ta ủng hộ nó bởi vì người ta chờ đợi nó và người ta không muốn nghe những lập luận phản bác, ngay cả khi dựa trên những bằng chứng xác thực, bởi vì người ta đã kết luận rồi và không muốn đổi ý kiến. Phong trào cộng sản, với những tác hại kinh khủng của nó, nhắc nhở một kinh nghiệm lịch sử : những thay đổi cần thiết bị trì hoãn quá lâu đến khi bắt buộc phải tới thì thường tới một cách rất tàn khốc.
Lý do thứ hai là sự mê hoặc của bạo lực. Bạo lực không phải là đặc tính riêng của phong trào công sản. Nó xuất hiện ở khắp nơi, Balkan, Nigeria, Sudan, Rwanda, Iraq, Afganistan... Bản năng bạo lực có trong mỗi người và nằm trong bản chất của con người. Cho đến môt ngày gần đây, khi dân chủ xuất hiện như là một phương thức tổ chức xã hội cho phép giải quyết những mâu thuẫn một cách văn minh, mọi chính quyền đều đã thành lập nhờ bạo lực và được duy trì bằng bạo lực. Con người sống dưới bạo lực và chịu đựng bạo lực trong suốt quá trình tiến hóa. Người ta vừa ghê sợ vừa ham muốn nó. Bạo lực cũng có tính lãng mạn của nó. Trong mỗi con người đều vẫn còn một tên sát nhân phải kiềm chế. Chủ nghĩa cộng sản đã thả lỏng tên sát nhân này và thỏa mãn một bản năng. Cũng nên biết rằng khủng bố mới chỉ bị lên án gần đây thôi, trước đây nó được coi là dũng cảm, anh hùng. Che Guevara đã là một thần tượng của tuổi trẻ trong thập niên 1960.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lan rộng trên thế giới không phải vì giá trị lý luận của nó mà vì nó là một dụng cụ rất hiệu lực để cướp và giữ chính quyền. Nó phù hợp với những tham vọng quyền lực. Mao Trạch Đông không cần biết tới triết lý của Marx, ông chỉ đọc những sách cổ Trung Hoa. Hồ Chí Minh, theo chính lời ông thuật lại, đã chọn chủ nghĩa Mác-Lênin khi vừa mới nghe nói tới nó và trong suốt cuộc đời chưa hề có một đóng góp lý luận nào cho chủ nghĩa này. Cũng như Đảng Cộng Sản Liên Xô, cả hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đều đã là những đảng khủng bố và thành công nhờ khủng bố. Không có gì đáng ngạc nhiên là khi nắm được chính quyền họ đã đập phá, và khi đã ngừng đập phá để xây dựng thì họ bối rối. Xây dựng không phải là chức năng cũa chủ nghĩa Mác-Lênin.
Vấn đề của chúng ta là ra khỏi chủ nghĩa này. Đúng hơn là chấm dứt giai đoạn hậu cộng sản đã bắt đầu từ nhiều năm nay. Nghĩa là đoạn tuyệt với văn hóa Mác-Lênin và giải quyết những di sản của nó, một di sản đầy máu và nước mắt, đầy tội ác, ức hiếp và thù hận. Sức sống hiện nay của chế độ cộng sản chủ yếu là sự lo sợ trước viễn ảnh phải trả lời về những tội ác và phải sòng phẳng với quá khứ. Chúng ta sẽ chỉ có giải đáp nếu hiểu bằng cả lý trí và tấm lòng hiện tượng cộng sản và tìm ra được một cách đúng để nhìn nó và nghĩ về nó.
Chúng ta đã thảo luận nhiều về tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một cách để chấp nhận tinh thần này là nhìn giai đoạn cộng sản như một cơn điên của dân tộc Việt Nam trong một cơn điên chung của cả thế giới. Không thể tìm kiếm sự hợp lý trong một cơn điên và cũng không nên đặt vấn đề trách nhiệm trong một cơn điên. Vấn đề chỉ là hàn gắn những đổ vỡ.
Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 02/2008)
Đọc thêm :
Một hồ sơ về thảm họa dân tộc
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 72 Cách Mạng Tháng 8/1945, mời độc giả đọc một vài bài tham luận có thể xem như một hồ sơ nhỏ nhưng quan trọng. Cách Mạng Tháng 8 đã có thể mở đầu cho một kỷ nguyên dân chủ và phồn vinh. Trên thực tế nó đã chỉ là khởi điểm của một thảm kịch vẫn chưa chấm dứt, khiến nước ta tụt hậu, suy nhược, ô nhiễm và phân hóa.
Tại sao ?
Để hiểu những gì đã xảy ra và rút những kết luận cần thiết cho hiện tại và tương lai tôi đã chọn để mời độc giả và thân hữu đọc lại một vài bài chung quanh khúc quanh lịch sử này.
Đường Cách Mạng tháng 8 - Ảnh minh họa
Bài thứ nhất là Rút kinh nghiệm từ hai cuộc cách mạng vừa được đăng lại trên Thông Luận. Hai cuộc cách mạng này là Cách Mạng Pháp 1789 và Cách Mạng Tháng 8/1945 tại nước ta. Cả hai cuộc cách mạng này đều là những thảm kịch, chúng đều diễn ra dưới sự chế ngự của một phong trào lãng mạn, đều dữ tợn và đẫm máu, và sau đó đều không có hòa giải dân tộc. Vấn đề đặt ra là tại sao sau một thế kỷ rưỡi dân tộc Việt Nam đã để diễn lại một thảm kịch tương tự như thảm kịch kinh khủng của nước Pháp mà chúng ta đã tiếp xúc một cách trực tiếp và hàng ngày ?
Lý do một phần là vì chúng ta đã quá thiếu hụt tư tưởng chính trị nhưng một phần cũng vì thế giới đang sống một cơn điên, cơn điên cộng sản kéo dài trong một phần lớn của thế kỷ 20, trong đó các giá trị chính trị và đạo đức bị phủ nhận ; nội chiến, bạo lực và khủng bố không bị lên án mà còn được tôn vinh. Tại sao rất nhiều người trên thế giới, kể cả những người rất ưu việt, lại bị cuốn hút vào cơn điên này ? Bài Nghĩ về một cơn điên của thế giới cống hiến một cố gắng giải thích.
Nhưng chủ nghĩa Mác-Lênin là gì và tại sao nó đã có thể mê hoặc được nhiều người đến như thế ? Ngày nay, khi những cuộc tranh luận về chủ nghĩa này đã có kết luận, chúng ta có thể đề cập đến nó như một vấn đề thuộc về lịch sử. Đáng buồn là tuy đã đi vào dĩ vãng đối với hầu hết mọi dân tộc nó vẫn còn hiện diện một cách thách đố tại nước ta, vì vậy chúng ta vẫn còn nhu cầu nhìn rõ mặt thật của nó. Đó là mục đích của bài Nhìn lại chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngoài bối cảnh thế giới thảm kịch mà chúng ta đã và đang sống cũng có lý do nội tại. Trong sự thiếu hụt tư tưởng và nhất là tư tưởng chính trị, hai yếu tố nghiêm trọng nhất là chúng ta vừa thiếu tinh thần dân tộc vừa thiếu văn hóa tổ chức. Chúng ta thiếu tinh thần dân tộc một cách nghiêm trọng ngay cả khi chúng ta lầm tưởng mình yêu nước và chúng ta thiếu văn hóa tổ chức ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng mình có thể xây dựng được một tổ chức. Chính vì thế mà khi Thế Chiến II kết thúc và một vận hội mới mở ra chúng ta đã không có một lực lượng dân tộc nào cả và đã để cho Đảng Cộng Sản, một đảng vừa nhỏ vừa chống dân tộc nhưng có tổ chức, nắm được chính quyền, đúng ra cướp được chính quyền theo như chính họ nói, và lôi kéo được rất nhiều người, kể cả nhiều trí thức ưu tú. Tình trạng bi đát này được trình bày trong bài Nhìn lại Cách Mạng Tháng 8. Bài này được viết ra vào năm 1991 khi Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu vừa sụp đổ và một vận hội mới mở ra cho đất nước với hy vọng đóng góp để thế hệ 1990 sẽ hơn thế hệ 1940. Thực tế là thế hệ 1990 có hơn thế thế hệ 1940 thực, nhưng chưa đủ và chế độ cộng sản vẫn tiếp tục trên đất nước ta.
Một bài khác đề nghị với độc giả và thân hữu là bài Cuộc chiến đấu thực sự, viết cho ngày 30/4/2005 nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày chế độ cộng sản được thiết lập trên cả nước. Bài này là một cố gắng giải thích hành trình của dân tộc ta trong tinh thần nhìn lại quá khứ để hiểu rõ hơn những gì cần làm cho tương lai. Nó vẫn còn nguyên tính thời sự.
Chúng ta bắt đầu một giai đoạn thay đổi dồn dập. Hầu như không tháng nào trôi qua mà không có một biến cố làm rung chuyển chế độ nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể hy vọng cuộc chuyển hóa về dân chủ tự nhiên sẽ đến.
Ngay cả nếu Đảng Cộng Sản có ngã gục trên chính quyền thì chúng ta vẫn cần một sức mạnh để kéo thi thể nó đi chỗ khác. Chúng ta cần một vài tổ chức dân chủ mạnh kết hợp với nhau trong một Mặt Trận Dân Chủ nhưng chúng ta sẽ không thể xây dựng được những tổ chức dân chủ đó nếu không đồng ý được với nhau trên một dự án tương lai cho đất nước. Đó là bài học lớn nhất và quan trọng nhất có thể rút ra từ kinh nghiệm của những năm vừa qua. Đó cũng là thông điệp mà những bài trên có tham vọng gửi đến những ai có tham vọng đóng góp vào một tương lai khác cho đất nước.
Trong suy nghĩ đó cũng xin mời độc giả và thân hữu đọc dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Đồng ý hay không không phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất là cùng nhau suy nghĩ về những vấn đề lớn của đất nước.
Nguyễn Gia Kiểng
(17/08/2017)
Đọc thêm :