Thủy điện Lang Cang-Mekong gây khát nước và đói phù sa cho Đông bằng sông Cửu Long bằng cách nào ?
Vùng hạ lưu sông Mekong khát nước và đói phù sa - Ảnh minh họa
1. Các phụ lưu theo quá trình lịch sử đóng góp lượng nước vào Mekong như thế nào ?
Theo Báo cáo Thủy văn của Mekong River Commission, trung bình mỗi năm các lưu vực góp phần vào dòng chảy theo bảng tỉ lệ sau, Trung Quốc 16%, Lào 35%, Thái Lan và Cam Bốt đều 18%, Việt Nam 11% và Miến 2%. Do đó, Việt Nam không phải vô can vì cũng xây nhiều thủy điện trên phụ lưu tại Việt Nam, nhưng đứng thứ năm/sáu trong sáu/bẩy nước, không có nhiều nước để cất giữ gây ra đại hạn như hiện nay.
Lượng nước đóng góp vào Mekong theo Wikipedia
Vào mùa khô Lang Cang nhờ có tuyết tan từ Hy Mã Lạp Sơn nên lưu lượng từ Vân Nam góp vào lên gần đến 80% vào dòng chảy tại Vientiane và 40% vào dòng chảy tại Kratie, tỉ lệ này là báo cáo của Mekong River Commission.
Vào những năm ít mưa nặng hạn, tỉ lệ nước từ Vân Nam có thể còn cao hơn nhiều, với 40 tỉ mét khối thể tích các hồ chứa Vân Nam, Trung Quốc có trong tay quyền lực quyết đoánkiểm soát gần 100% lưu lượng Mekong những mùa có hạn hán. Những quan sát viên chỉ dựa vào 16% trung bình năm để coi nhẹ tác hại chuỗi dập thủy điện Vân Nam khác gì biện bạch cho Trung Quốc.
Thật vậy, xem xét tác động sinh thái cần nghiên cứu toàn diên. Theo giới chuyên gia môi trường, tác động các hồ chứa thủy điện hay chuyển nước của thủy nông phải được khảo sát cả hai mùa, theo ba hoạt cảnh, năm mưa bình thường, năm mưa nhiều và năm khô hạn. Khi đó sẽ thấy viêc vận hành thủy điện có thể gây hạn chồng hạn, lũ chồng lũ cho hạ du. Sự việc đáng tiếc này đã xảy ra ở Việt Nam.
Tương tự thế, không thể kết luận là Trung Quốc không lấy nước của Mekong với lý luận đơn giản là họ chỉ tạm giữ ở các hồ chứa và xả ra sau. Muốn biết rõ, phải làm phân tích cân bằng khối lượng (mass balance) từ những số liệu nước ra và vào, cùng với thể tích, mực nước của tất cả các hồ chứa, và lượng nước chuyển đi ra khỏi lưu vực sử dụng từng giờ qua nhiều năm. Nhưng những thông số này rõ ràng Trung Quốc cố tình không không tiện công bố ra, khiến sự ngờ vực càng tăng khi hạn hán kéo dài. Dân cư Đồng bằng sông Cửu Long thì nhìn sự kiện hạn lụt sụt lở với nước mắt.
2. Các con đập cắt giảm phù sa Mekong như thế nào ?
Trung bình Mekong tải ra biển 150 Mt phù sa, theo báo cáo về sự cắt giảm trọng tải phù sa của các con đập trên Lang Cang-Mekong của Mekong River Commission đến năm 2020 Mekong chỉ còn 50% phù sa và năm 2040 Mekong sẽ không còn mang phù sa ra biển.
Những quan sát viên quan sát viên chỉ xét lưu lượng, không tính phù sa vốn nguồn dinh dưỡng cho đất và bồi lấp cho duyên hải là góp công tránh né trách nhiệm cho Trung Quốc.
3. Các hồ thủy điện trữ bao nhiêu nước ?
Theo số liệu từ Wikipedia người viết kết toán lại, tất cả các hồ chứa hiện nay trên Lang Cang-Mekong có tổng số thể tích vận hành (active storage) là 73 tỉ mét khối hay 15% lưu lượng trung bình năm. Trung Quốc chiếm phần lớn khoảng 40 tỉ (55%), sau là Lào khoảng 30 tỉ (41%) và Việt Nam chỉ có 1,6 tỉ mét khối (2%).
Theo thảo luận của người viết với cố Kỹ sư thủy điện Nguyễn Hữu Chung, chuyên gia chạy mô hình của Quebec Hydro, tác động môi sinh của thủy điện nhiều hay ít phải đánh giá theo độ điều tiết (regulation). Các đập Vân Nam điều tiết 56% và Lào 20% lưu lượng sông. Theo đánh giá của Tiến sĩ Yadu Pokhrel, Đại học Michigan, qủy trình lụt tại hạ vực Mekong xáo trộn vì thủy điện điều tiết dòng chảy thượng lưu ; chu trình chảy ngược trên sông Tonle Sap sẽ chấm dứt khi nhịp lũ của Biển Hồ bị điều tiết 50% và trì hoãn lại một tháng ; theo nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Juaguo Qi đồng viện, diện tích Biển Hồ đã bị thu hẹp dần dần suốt 15 năm theo các công trình thủy điện.
Theo số liệu Mekong River Commission nhịp lũ dâng tại Biển Hồ năm 2019 chỉ bắt đầu vào tháng 8, đã đến trễ 3 tháng và đạt thể tích cực đại 30 tỉ mét khối, 30 tỉ mét khối ít hơn so với thể tích trung bình (long term average) khiến thu hoạch ngư sản Biển Hồ không còn.
Trách nhiệm chia sẻ nước từ hồ thủy điện cho hạ du vào những năm có hạn phải dựa theo các số liệu và tỉ lệ thể tích và điều tiết. Quan điểm cho là người Việt vốn là nạn nhân của thủy điện lại phải tự trách mình và bác bỏ trách nhiệm tác nhân lớn nhất Trung Quốc, Lào (và chính phủ Việt Nam) là một phát biểu ngược ngạo bất công cho người Việt.
4. Nước về Đồng bằng sông Cửu Long từ nguồn nào trong mùa khô ?
Vào mùa khô, Đồng bằng sông Cửu Long nhận nước từ một ngã tư sông gần Phom Penh, ở đó bốn nhánh sông họp lại, sông Tonle Sap từ Biển Hồ và Mekong từ Lào chảy vào và từ đó tách ra thành sông Bassac và Mekong cùng chảy xuống Đồng bằng sông Cửu Long ra biển.
Lưu vực hạ Mekong có ba hồ chứa thiên nhiên là Biển Hồ, Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, ngoài ra là hàng trăm các hồ thủy điện nhân tạo ở thượng nguồn của chúng. Việc xây đê bao canh tác lúa vụ ba ở Đồng bằng sông Cửu Long đã làm mất nhiều khả năng trữ nước của Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười đúng như Tiến sĩ Dương Văn Ni, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện khuyến cáo, Tiến sĩ Koos Neefjes và Tiến sĩ Lê Anh Tuấn đã khảo sát và công bố báo cáo khoa học . Đồng bằng sông Cửu Long vì thế rất cần nước từ Biển Hồ chảy về, nhưng chỉ khi Biển Hồ còn lũ Đồng bằng sông Cửu Long mới có nước. Khi Biển Hồ không còn nhịp lũ như năm 2016 hay 2019, Việt Nam sẽ lâm ngủy dưới đại hạn như năm 2017 và 2020 hiện nay.
Người viết cho rằng phải vận động giúp Cam Bốt tranh đấu giới hạn lượng nước tích ở các hồ thủy điện, để nhịp lũ sinh thái Biển Hồ tồn tại thì Đồng bằng sông Cửu Long sẽ được bảo vệ theo. Biển Hồ từ năm 1997 đến 2005 có thể tích trung bình 50 tỉ đến 80 tỉ, trung bình 60 tỉ mét khối. Đồng bằng sông Cửu Long Theo PGiáo sư Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Đồng bằng sông Cửu Long cần lưu lượng khoảng 2000 mét khối/giây khoảng 10 tỉ mét khối trong mùa khô để đuổi mặn, ém phèn và có nước ngọt sinh hoạt canh tác. Việc này hoàn toàn khả thi và có cơ sở pháp lý theo Hiệp Định Mekong 1995, các thành viên đã ký kết bảo vệ nhịp lũ của Biển Hồ.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Mattis Kummu, tỉ lệ nước từ Biển Hồ góp cho Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, trong 5 tháng mùa khô họ cho từ 20% đện 50% nước về Đồng bằng sông Cửu Long, số còn lại là từ Mekong. Như thế số nước mất lớn nhất cho Đồng bằng sông Cửu Long vào mùa khô chính là số nước Biển Hồ đã mất vào mùa mưa trước đó. Những nhà quan sát chỉ tung ra lưu lượng xả ra và mực nước ở các đập Trung Quốc và Lào vào mùa hạn, không kể đến dòng nước yếu đi từ Biển Hồ, cho là bình thường để chống chế cho các chủ đập là sai sót rất lớn. Tại sao ?
Khi khí hậu có ít mưa, các hồ chứa thượng nguồn nhờ có các cổng chắn họ chủ động chặn dòng chảy, gom trữ nước trước vì nước là nhiên liệu và lợi tức của họ, nên hồ thiên nhiên Biển Hồ nằm phía dưới hoàn toàn bất lực bị tước đoạt mất nhịp lũ. Đồng bằng sông Cửu Long mất mùa nước nổi, sang mùa khô Bác sĩ Ngô Thế Vinh kết luận Đồng bằng sông Cửu Long như bệnh nhân của ông "phải gánh chịu từng cơn khát thắt ngực" dưới chân thủy điện.
5. Con đường giải thoát cho lưu vực ?
Hiện giờ đồng bào Đồng bằng sông Cửu Long đang thiếu hụt phải mua nước ngọt với giá 200.000 đến 250.000 VNĐ/mét khối. Tiến sĩ Hủy Nguyễn đã trình bày trên Facebook những biện pháp xây hồ chứa ít tốn kém và công trình nước ngọt khả thi để đối phó với hạn mặn cho Đồng bằng sông Cửu Long hy vọng được lãnh đạo đem vào qủy hoạch. Tủy có phản hồi quan ngại những hồ nước này sẽ bị lún, Kỹ sư Ngô Minh Triết không xem đó là mối ngủy mà vạch ra hệ quả sau đó là thể tích hồ chứa sẽ tăng lên.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long còn có khả năng tái phục hồi các vùng chứa nước Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười bằng cách loại bỏ dần các đê bao triệt để cho lúa 3 vụ. Tiến sĩ Dương Văn Ni cho rằng có thể bỏ vụ ba cách hai năm một lần.
Bác sĩ Ngô Thế Vinh đã giới thiệu kỹ thuật xử lý và lọc sạch nước thải theo dự án Ground Water Recharge của Orange County để bù nước ngọt và chống sụt lún và xâm mặn ; và nhà máy khử mặn nước biển thành nước ngọt của thành phố Carlsbad, với giá bán 30.000 VNĐ/mét khối. Và thế giới đã sử dụng phương pháp khử và trữ nước vào tầng nước ngầm để sử dụng (ASR Aquifer Storage and Resuse) với chi phí 7.000 VNĐ/mét khối. Các biện pháp công trình có thể thu dụng bức xạ mặt trời và gió tại Đồng bằng sông Cửu Long để hoạt động, Việt Nam có thể tự túc, bảo đảm an ninh nước ngọt và sạch khi bị đe dọa.
Mặt khác, tác hại tuyệt chủng di ngư, ngăn chặn phù sa, và gây xáo trộn chế độ thủy văn của các hồ thủy điện không có thiết kế và kỹ thuật nào loại trừ hay giảm thiểu được ; các quốc gia Lang Cang-Mekong không nên xây thêm một con đập Mekong mới nào nữa trên phụ lưu hay trên dòng chính. Dòng chảy sinh thái của dòng sông sẽ mất, thiệt hại không thể đền bù, trong khi thủy điện không còn là nguồn năng lượng tốt hay rẻ nhất.
Đã có không ít chuyên gia và tổ chức quốc tế như Natural Heritage Institute, Stimson Center, OXFAM, ADB khuyến cáo lãnh đạo các nước Mekong từ bỏ thủy điện, điện than và chuyển hướng sang năng lượng tái tạo phi thủy điện như gió và mặt trời.
Dự án hồ Nam Ngum
Người viết đã đề bạt hai dự án năng lượng mặt trời nổi với bình trữ điện 11400 MW-8,8 Tỉ USD trên hồ Nam Ngum cho Lào và 28400 MW-41 tỉ USD Biển Hồ cho Cam Bốt, để thay thế cho 9 con đập đang trù tính trên dòng chính Mekong. Tủy đó là những đề án với qủy mô phá kỷ lục thế giới rất nhiều lần nên khả năng được tiếp nhận và tài trợ rất mong manh ; tủy nhiên đã có những dấu hiệu chuyển hướng tích cực : Lào đã ký kết hợp đồng tiền thiết kế dự án mặt trời nổi 1200 MW trê hồ Nam Ngum và Cam Bốt đã tuyên bố không xây thủy điện trong 10 năm tới.
Dự án Biển Hồ
Trước tiến bộ công nghệ năng lượng tái tạo và sức ép của giá thành thấp dưới thủy điện, lãnh đạo các nước Mekong đang đứng trước cơ hội thật tốt để từ bỏ thủy điện, chọn chiến lược năng lượng hiện đại hơn, tránh cho nhau những xung khắc quyền lợi vì thủy điện nổ ra lớn hơn trước biến đổi khí hậu, đến mức không thể chấp nhận và không thể giải quyết.
Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa và ao cá của dân tộc đã lâm ngủy nay trở thành vùng đất đói phù sa thừa phèn, thiếu nước sạch, thừa nước bẩn, thiếu nược ngọt thừ nước mặn, sụt lún dần dần. Nhân dịp chính phủ Cam Bốt đã thận trọng không xây thủy điện trên Mekong trong 10 năm, chính phủ Việt Nam cần hành động liên minh với Cam Bốt cứu lấy Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long trước họa sinh tử này. Việt Nam phải thông báo cho Chính phủ Lào là theo Hiệp định Mekong 1995, Việt Nam nhìn nhận Việt Nam không có quyền phủ quyết những dự án thủy điện của Lào nhưng Lào cũng không có quyền đơn phương xây đập khi chưa có thỏa thuận của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam nên rút vốn đẫu tư vào xây đập Luang Prabang mặt khác nên đầu tư vào các dự án năng lượng mặt trời của Lào và Campuchia, sẽ giúp họ phát triển kinh tế bền vững và không còn xung khắc hay bất công giữa các dân tộc.
Phạm Phan Long
(Kỹ sư, P.E., Viet Ecology Foundation)
Nguồn : VNTB, 21/03/2020
Chú thích :
[1] http://www.mrcmekong.org/mekong-basin/hydrology/
[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Mekong
[5]https://en.wikipedia.org/wiki/Hydropower_in_the_Mekong_River_Basin
[6]https://www.nature.com/articles/s41598-018/35823-4
[7]https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0013935117308939# !
[8]http://ffw.mrcmekong.org/weekly_report/2020/2020/03/16%20Weekly%20Dry%20Season%20Situation.pdf
[11] https://tuoitre.Việt Nam/mekong-kho-mong-nuoc-tu-trung-quoc-20200221221215482.htm
[13] https://www.facebook.com/huy.nguyen.5439087
[14] http://vietecology.org/Article/Article/2362
[15] http://vietecology.org/Article/Article/21
[16] https://waterinthewest.stanford.edu/groundwater/recharge/
[17] http://vietecology.org/Article/Article/1343
[18] http://vietecology.org/Article/Article/1351
File PDF :
Tác-động-thủy-điên-Mekong-2020-FINAL-Release-mới.pdf
*******************
Một đồng bằng sông đang chết khát
Diễm My, VNTB, 22/03/2020
Nằm ở cuối lưu vực sông Mê Kông, đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam hiện đang bị hạn hán và nhiễm mặn nghiêm trọng nhất trong hơn 100 năm qua.
Trên cánh đồng "bão hạn mặn" tấn công, bà Nguyễn Thị Kim Trang (48 tuổi) gom những gốc lúa, cỏ dại nhiễm mặn cho bò ăn. "Năm nay người dân ở đây chết đói, làm lúa thì lúa nhiễm mặn chết hết, muốn đi làm công nhân trên thành phố cũng không ai dám đi vì sợ dịch bệnh. Để có tiền sinh hoạt hàng ngày, chồng tôi đi phụ hồ, còn tôi ở nhà lo cơm nước và nuôi hai con bò", bà cho biết.
Cho đến nay, sau nhiều tháng vật lộn trong đợt hạn hán kỷ lục, hàng triệu nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã phải chịu cảnh kiệt sức, do thiệt hại đáng kể về mùa màng, hoa quả và nuôi trồng thủy sản.
Lúa chết khô
Vào lúc 4 giờ chiều, mặt trời mùa hè thiêu đốt ánh nắng còn sót lại. Cánh đồng lúa ở thị trấn Long Phú (Long Phú, Sóc Trăng) chỉ còn là những mảnh đất cằn cỗi. Đây là minh họa rõ ràng nhất từ tác động của đợt hạn hán tồi tệ nhất trong hơn 100 năm qua. Xâm nhập mặn, thiếu nước nghiêm trọng, nhiều diện tích bị thiệt hại khiến nông dân mất trắng.
Ông H, một lão nông ở ở khu vực Long Phú đành phải chịu mất trắng số lúa của mình, trên cánh đồng ráo hạn.
Trồng lúa lâu năm, nhưng chưa bao giờ ông lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn như thế này. Năm ngoái, gia đình ông trúng được lúa vụ ba, nhưng trong vụ mùa này, ông hoàn toàn không thu hoạch được gì, do hạn hán và xâm nhập mặn.
Điều khiến cho những người nông dân miền Đồng bằng sông Cửu Long canh cánh nỗi lo là tiền chi cho phân bón, cày thuê,… vẫn treo lơ lửng trên đầu.
Theo thống kê của ngành nông nghiệp Sóc Trăng, do hạn mặn kéo dài, đến nay toàn tỉnh đã có hơn 1.000 ha lúa ảnh hưởng trực tiếp bởi hạn hán và xâm nhập mặn, nếu kéo dài thì 400 ha lúa, 4.000 ha cây ăn trái và 1.000 ha trồng rau sẽ chịu ảnh hưởng theo. Trong khi đó Cà Mau đã có hơn 18.000 ha lúa bị thiệt hại vì hạn hán, gần 16.000 ha lúa trên đất nuôi tôm, còn lại trà lúa vụ đông xuân, mức độ thiệt hại từ 30 đến hơn 70%.
Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam chiếm 12% tổng diện tích đất, gần 1/5 dân số và được coi là vựa lúa của Việt Nam, đóng góp 56% sản lượng lương thực và 90% xuất khẩu gạo. Nhưng bây giờ, ngôi nhà của gần 20 triệu người, đang bị xâm nhập mặn ở đất nông nghiệp.
Các nhà khoa học cho biết, sự xâm nhập mặn tại khu vực này có thể lên tới 4/1.000, đủ để giết chết tất cả các loại thực vật. Còn theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, thì với kịch bản nước biển dâng 50cm vào năm 2050, ngập nước làm thiệt hại 193,000 ha và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến 294,000 ha lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Nước mặn từ lâu đã xâm chiếm đồng bằng, nhưng do hạn hán, không có đủ nước ngọt trong sông đã làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn.
Theo thông tin từ Viện khoa học thủy lợi miền Nam, dung tích Biển Hồ ngày Campuchia 12/3 chỉ còn 1,84 tỷ m3, nên lượng điều tiết từ lưu vực Biển Hồ xuống hạ lưu hiện không đáng kể. Nguồn nước mùa khô năm 2019 – 2020 về vùng Đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn nhiều so với trung bình 10 năm gần đây.
Thiệt hại kinh tế đáng kể
Báo cáo về tình hình xuất khẩu lúa gạo trong năm 2019 của Bộ Công thương, sản lượng gạo xuất khẩu đạt 6,259 triệu tấn, thu về 2,758 tỷ USD.
Do ảnh hưởng của hạn hán và nhiễm mặn của nước trong năm nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ giảm đáng kể. Nguồn cung gạo cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu sẽ giảm do những thách thức lớn đối với Đồng bằng sông Cửu Long.
Diễm My
Nguồn : VNTB, 22/03/2020
Phân tích khả thi về đề án Trang trại Điện mặt trời nổi trên Biển Hồ với Hệ thống lưu trữ điện
Giới thiệu
Rõ ràng là mùa lũ mang phúc lợi hàng năm của Biển Hồ (Tonle Sap) ở Campuchia và Đồng bằng sông Cửu Long (Mekong) ở Việt Nam đang bị cắt giảm dần vì hậu quả của việc vận hành những con đập thủy điện từ thượng nguồn ở Vân Nam, Trung Quốc, và trên những phụ lưu của dòng Mekong ở Lào và Việt Nam. Nếu xây thêm nữa thì chu trình dòng chảy ngược trên Tonle Sap vào Biển Hồ không còn. Chu trình này vốn dự trữ nước có trong mùa mưa lại cho mùa khô chảy về Đồng bằng sông Cửu Long giúp vùng hạ lưu trên lãnh thổ Việt Nam này có nước ngọt bảo vệ an ninh lương thực, chống xâm mặn và gìn giữ hệ sinh thái như bao lâu nay.
Bài phân tích ngắn gọn này đưa ra một giải pháp thay thể thủy điện bằng việc xây dựng một trang trại điện mặt trời nổi trên mặt Biển Hồ ở một quy mô đủ đáp ứng nhu cầu năng lượng với giá rẻ ngang hàng cho Campuchia.
Liệu Dự án Điện mặt trời trên Biển Hồ có thể cứu dòng Mekong và Việt Nam ?
Câu trả lời là CÓ. Và những phân tích khả thi trong bài báo này sẽ đưa ra những minh chứng cho câu trả lời đó. Cụ thể, một dự án Điện mặt trời nổi công suất 28 GW sử dụng hệ thống pin lưu trữ 4 giờ, hoạt động trong 25 năm (đến năm 2045) sẽ cung cấp đủ nhu cầu năng lượng ước tính của Campuchia với tổng mức đầu tư là 31 tỷ USD.
Thực trạng giá điện cao ở Campuchia
Campuchia là quốc gia kém phát triển và khát năng lượng nhất ở Đông Nam Á. Giá điện ở nước này cao nhất (1) trong khu vực, từ 0,15 đến 0,18 USD/kWh. Thậm chí ở một số vùng sâu vùng xa thì giá điện lên tới 0,50 đến 1,00 USD/kWh (2). Trong khi đó, giá điện ở Thái Lan chỉ từ 0,105 đến 0,143 USD/kWh, còn ở Việt Nam là 0,072 đến 0,126 USD/kWh.
Thủy điện ở Campuchia không hề rẻ
Quy hoạch Điện đến năm 2030 của Campuchia bao gồm một số nhà máy điện than mới và điện khí mới cùng với 2 dự án thủy điện khổng lồ trên dòng chính sông Mekong – thủy điện sông Stung Treng (3) (980 MW) và sông Sambor (4) (2.600 MW). Hai dự án thủy điện này đang vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ người dân địa phương cũng như từ Việt Nam.
Nhiều báo cáo của Tổ chức Mạng lưới sông ngòi quốc tế cho rằng : Campuchia sẽ phạm phải một sai lầm đầu tư đắt đỏ với hệ quả bi thảm nếu xây đập Sambor. Ngư nghiệp ở Campuchia đang đảm bảo an ninh lương thực của hàng triệu ngư dân đang sinh sống và đóng góp tới hơn 15% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (5) của quốc gia này.
Viện Di sản Thiên nhiên (Natural Heritage Institute - NHI), một viện nghiên cứu quốc tế có trụ sở tại Hoa Kỳ, đã nghiên cứu đánh giá dự án Đập Sambor và khuyến cáo Chính phủ Campuchia nên hoãn bất cứ hợp đồng nào về Đập Sambor, thay vào đó là đưa ra những phương án thay thế tốt hơn. NHI chỉ ra rằng :
- Trong tổng sản lượng thủy sản ở mức ổn định của Campuchia và Việt Nam là 1,2 triệu tấn/năm thì có tới 38% loài cá di cư – với 70% trong số này sẽ bị ảnh hưởng vì bãi đẻ trứng của chúng là ở trên sông Sambor, và số cá này sẽ bị giảm 100% vì việc di cư không thể diễn ra. Với mức thu nhập cơ bản cho ngư dân là 1,50 USD/kg thì thiệt hại kinh tế sẽ là 479 triệu USD/năm.
- Căn cứ vào sự khác nhau về năng suất của các vựa lúa ở tỉnh An Giang, giữa những vựa lúa nhận và không nhận lượng phù sa bồi đắp 2,5 cm/năm, tổng giá trị của nguồn phù sa từ dòng Sambor ước tính là 120 triệu USD/năm. Với khả năng giữ lại 62% lượng phù sa này thì hồ chứa Sambor sẽ làm giảm giá trị này tới 74 triệu USD/năm.
Hai dự án thủy điện này sẽ giam giữ lại 3,8 nghìn m3 khối nước tại các hồ chứa và ngập chiếm vĩnh viễn 831 nghìn m2 diện tích đất của lưu vực. Hai đập Sambor và Stung Treng sẽ gây tổn thất lớn tới sinh kế của người dân nơi đây mà không gì có thể bù đắp được. Thay vào đó, những gì mà hai con đập này mang lại cho người dân là nguồn điện đắt đỏ cùng với những tác hại về sau.
Báo cáo của NHI có thể đã thay đổi hoàn toàn tầm nhìn của Campuchia về thủy điện. Campuchia đã ký một Thỏa thuận Mua điện (6) trong 30 năm ở mức giá 7,7 xu/kWh (7) với Công ty Khoáng sản và Năng lượng Sekong và Công ty TNHH Nhiệt điện Xekong của Lào. Nguồn điện từ hai công ty này được sản xuất từ việc đốt than và là một dự án cần ít nhất 4 năm để xây dựng.
Nghiên cứu này giúp vào mục đích gì cho Campuchia ?
Vào tháng 7 năm 2019, Tổng Giám đốc hãng năng lượng Electricité Du Cambodge (EDC) nói rằng ông không muốn thấy hai dự án thủy điện Sambor và Stung Treng có trong quy hoạch phát triển năng lượng trong tương lai của Campuchia (8). Tuy nhiên ông không đề cập đến phương án thay thế nào để đáp ứng nhu cầu năng lượng của nước này. Rõ ràng Campuchia rất cần một nguồn năng lượng thay thế, và điều này đã hối thúc tác giả của bài báo này phác thảo và khảo sát tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật cho một hệ thống điện mặt trời nổi (FSS) trên Biển Hồ. Và coi đây là giải pháp thay thế cho hai dự án thủy điện nói trên và có thể cho cả một số nhà máy điện than và điện khí đang nằm trong quy hoạch điện Campuchia hiện nay (tóm tắt ở Bảng 1 dưới đây).
Bảng 1. Quy hoạch Năng lượng Campuchia (9)
Kế hoạch Phát triển Điện lượng tích lũy (điều chỉnh kế hoạch hiện tại) | ||||
Thứ tự | Loại | Công suất (MW) | Năm | Tổng cộng năm 2030 (MW) |
1 | Điện than/điện khí | -1.317 | 2021 – 2030/10 năm | 1.056 |
2 | Thủy điện | +3.526 | 2021 – 2030/10 năm | 5.127 |
Tại sao lại chọn Biển Hồ (hồ Tonle Sap) cho hệ thống điện mặt trời nổi ?
Biển Hồ mang đến những ưu điểm cho một nhà máy điện mặt trời nổi như sau :
1. Biển Hồ là một hồ lớn, nằm tại mặt tiền trung tâm và nơi công cộng gần thủ đô Phnom Penh của Campuchia, nơi tập trung 90% nhu cầu điện của nước này.
2. Biển Hồ đón nhận bức xạ mặt trời lớn nhất trong vùng đồng bằng sông Mekong (10).
3. Hệ thống điện mặt trời nổi sản xuất một lượng điện lớn hơn từ 11% (11) đến 16% (12) so với hệ đặt trên mặt đất.
4. Vị trí này ở gần mạng lưới điện quốc gia 230 kV nên chi phí kết nối vào lưới điện này sẽ tương đối thấp (Hình 1).
Vị trí dự án và Điện mặt trời nổi
Mô hình Nhà máy Điện mặt trời nổi : khả năng và kết quả
Để đáp ứng nhu cầu điện cho Campuchia, dự án này có những thiết kế kỹ thuật và kinh tế như sau :
Bấm vào đây để biết phương pháp luận
Dự án Điện mặt trời nổi trên Biển Hồ (Hồ Tonle Sap) | |
Sản lượng điện trong 25 năm, GWh | 533.597 |
Vốn đầu tư, tỷ USD | 31,04 |
Chi phí vận hành và bảo dưỡng cố định, tỷ USD | 3,71 |
Chi phí thay pin, tỷ USD | 6,51 |
Tổng chi phí, tỷ USD | 41,26 |
LCOE, USD/kWh | 0,077 |
LCOE, USD/MWh | 77,32 |
Tiết kiệm cho vùng ven sông, tỷ USD/năm | 0,599 |
Tổng cộng, tỷ USD | 14,975 |
Chi phí cơ bản, tỷ USD | 26,28 |
LCOE, USD/kWh | 0,049 |
LCOE, USD/MWh | 49,25 |
1. Dự án FSS đề xuất này được xây dựng theo nhiều pha trong vòng 25 năm ở trên mặt nước Biển Hồ. Tổng công suất là 28,4 GW, với 88 GWh lưu trữ, sản lượng 508 tWh trong 25 năm.
2. Diện tích bề mặt che phủ của toàn bộ dự án là 330 km2, tổng diện tích cần dùng là 400 km2 và chiếm khoảng 15% và 2,4% diện tích bề mặt nước Biển Hồ tương ứng vào mùa khô và mùa mưa. Với mức độ che phủ mặt nước Biển Hồ tương đối thấp như thế này thì tác động của dự án lên đời sống thủy sinh sẽ không đáng kể. Nó thậm chí còn có lợi cho Biển Hồ bằng việc giảm sự sinh trưởng của tảo và giảm thất thoát O2.
3. Dự án FSS chỉ cần 400 km2 diện tích mặt nước hồ nhưng giúp giữ lại 831 km2 diện tích đất cho hai hồ chứa Sambor và Stung Treng nếu được xây dựng. FSS sẽ giúp duy trì giá trị 15 tỷ USD của nền kinh tế ngư nghiệp trên đất liền (khi tránh được thiệt hại).
4. Chỉ số LCOE 7,73 xu/kWh của FSS chỉ nhỉnh hơn một chút so với mức giá 7,7 xu/kWh mà Campuchia sẽ phải trả khi mua điện từ nhà máy điện than Xekong của Lào. Tuy nhiên, chỉ số LCOE thực tế của FSS cho Campuchia chỉ ở mức 4,93 xu/kWh bởi vì dân cư ven sông sẽ không phải chịu thiệt hại do dự án thủy điện gây ra.
5. Việt Nam đã tuyên bố sẽ mua 70% lượng điện từ dự án thủy điện Sambor (13) mà có thể sẽ không được xây dựng. Chính phủ Việt Nam sẽ gặp khó khăn đối với quy hoạch năng lượng của chính mình khi mà giá cả các nguồn năng lượng tái tạo đang giảm xuống cho phép nước này thỏa mãn nhu cầu năng lượng một cách kinh tế hơn và với chi phí ngoại biên giảm mạnh.
6. Về cơ hội việc làm trong vòng 28 năm cho mỗi MWp (14), dự án này sẽ tạo ra 500.000 việc làm trong nhiều năm cho ngư dân Campuchia
7. Về tầm quan trọng về mặt sinh thái của dòng chảy tự nhiên cũng như sinh kế của 30 triệu người dân vùng Mekong, câu hỏi tiếp theo là liệu chính phủ Campuchia và Việt Nam có hoãn lại các kế hoạch xây dựng dự án thủy điện và nhiên liệu hóa thạch, và chính thức khảo cứu tính khả thi của điện mặt trời nổi như mô tả trong báo cáo này ?
Dựa trên báo cáo phân tích khả thi này, dự án “Mặt trời trên Biển Hồ” có thể cứu dòng Mekong cho Campuchia và Việt Nam. Điện mặt trời đòi hỏi một mạng lưới truyền tải thông minh được đặt đúng chỗ và đúng thời điểm nhằm cân bằng nhu cầu luôn thay đổi. Tuy nhiên các nhà máy điện mặt trời có thể xây dựng sẵn sàng cung cấp điện chỉ mất vài tháng, và có thể xây dựng từng giai đoạn dựa theo nhu cầu, một ưu điểm mà không có bất cứ nguồn năng lượng nào có được.
Phạm Phan Long, P.E
Quỹ Sinh thái Việt (VEF)
Biên dịch và tóm tắt : Giải pháp vì Môi trường
---------------------
Phụ lục : Các thông số đầu vào Dự án Điện mặt trời nổi
Nghiên cứu này sử dụng những thông số đầu vào dưới đây :
1. Tiềm năng sản lượng điện mặt trời được ước tính dựa trên Bản đồ Điện mặt trời Toàn cầu của Ngân hàng Thế giới (15) và được trình bày ở Hình 5. Sản lượng quang điện (“PVOUT”) là 1567 kWh/kWp/năm, Bức xạ Ngang Toàn cầu, GHI 2032 kWh/m2/năm.
Bảng 2. Chỉ số LCOE cho dự án này là 7,73 xu/kWh và 4,93 xu/kWh nếu tránh được tổn thất
2. Diện tích mặt nước Biển Hồ cần thiết phụ thuộc vào hiệu suất pin mặt trời. Mô hình Bản đồ Điện mặt trời Toàn cầu dựa trên loại pin Silicon tinh thể c-Silicon với hiệu suất 17%. Giá trị OPTA là 20 độ. Khoảng 20% diện tích tăng thêm được sử dụng cho việc tiếp cận dịch vụ cấp điện.
3. Vòng đời cho dự án này cơ bản là khoảng 25 năm.
4. Báo cáo này sử dụng chỉ số giảm tấm thu điện mặt trời 0,848%/năm và đến 78,8%/năm (17) sau 25 năm.
5. Chi phí vốn cho việc lưu trữ điện ở mức 375 USD/kWh cho năm 2020 giảm dần tới 110 USD/kWh (Phòng Thí nghiệm Năng lượng Tái tạo Quốc gia (18) báo cáo rằng chi phí lưu trữ là 380 USD/kWh).
6. Thời lượng lưu trữ của pin được thiết kế là 2 giờ, 3 giờ và 4 giờ khi chạy đủ tải để cung cấp khả năng phân phối.
7. Pin được thay thế sau 12 năm sử dụng.
8. Chi phí Vận hành & Bảo dưỡng cố định là 10 triệu USD/GW/năm (19).
9. Chỉ số vốn là 17% dù mức 20% là điều khả thi.
10. Dự án được chia làm 25 pha trong 25 năm.
11. Điện lượng sẽ được sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu phát triển dự kiến của Campuchia.
12. Lưu ý rằng LCOE không bao gồm các vấn đề về tài chính, chiết khấu, thay thế trong tương lai, hay chi phí thải bỏ. Mỗi yếu tố này sẽ cần phải được tính đến trong một phân tích tổng thể.
Bảng kết quả tính toán
Bảng 3. Kết quả tính toán năng lượng và chi phí
--------------------
(1) https://aecnewstoday.com/2019/cambodia-electricity-to-stay-higher-than-neighbours-as-eba-jitters-emerge/
(2) https://energypedia.info/wiki/Cambodia_Energy_Situation
(3) https://en.m.wikipedia.org/wiki/Stung_Treng_Dam
(4) https://en.m.wikipedia.org/wiki/Sambor_Dam
(5) https://www.internationalrivers.org/campaigns/sambor-dam
(6) https://www.phnompenhpost.com/business/kingdom-okays-2400mw-power-purchase-laos
(7) https://www.khmertimeskh.com/50642313/cambodia-and-laos-to-sign-2400-megawatt-power-deal-today/
(8) https://www.phnompenhpost.com/opinion/good-news-mekong
(9) http://www.eria.org/uploads/media/CAMBODIA_BEP_Fullreport_1.pdf
(11) https://res.mdpi.com/d_attachment/applsci/applsci-09-00395/article_deploy/applsci-09-00395.pdf
(12) "Although floating panels are more expensive to install, they are up to 16 percent more efficient because the water’s cooling effect helps reduce thermal losses and extend their life."
https://www.weforum.org/agenda/2019/02/in-land-scarce-southeast-asia-solar-panels-float-on-water/
(13) https://en.wikipedia.org/wiki/Sambor_Dam
(14) http://stalix.com/Solar%20Energy%20Job%20Creation.pdf
(15) https://globalsolaratlas.info/
(16) https://globalsolaratlas.info/?c=12.570648,104.787598,8&s=12.640338,104.353638
(17) https://businessfeed.sunpower.com/articles/what-to-know-about-commercial-solar-panel-degradation
(18) https://wattsupwiththat.com/2019/07/16/nrel-energy-storage-system-cost-benchmark/
Báo chí Thái Lan, Việt Nam và hải ngoại đều đăng tin lưu vực Mekong hạn hán bị nặng nề nhất của thế kỷ, mực nước xuống từ Trung Quốc (Trung Quốc) trong tháng này bỗng xuống thấp chỉ còn một nửa kỷ lục thấp có trước, các tổ chức dân sự ở Thái cho rằng hạn hán là do các đập thủy điện của Trung Quốc trên Vân Nam đã cắt hãm nước.
Biển Hồ cạn nước do dòng Mekong bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu và các đập trên thượng nguồn.
Dư luận cáo buộc Trung Quốc như thế là hợp lý, nhất là từ quan điểm Thái Lan, vì Đông Bắc Thái Lan là vùng nằm ngay sát biên giới với Trung Quốc ngay dưới chân chuỗi đập Vân Nam, nên họ phải hứng chịu tác động trực tiếp từ các đập thủy điện Vân Nam, Trung Quốc. Trung Quốc vẫn hứa hẹn lợi ích của chuỗi đập Vân Nam, như giúp hạ lưu giảm lũ lụt và tránh hạn hán, nhưng thực tế các đập Trung Quốc đã không hề mang lại các lợi ích đó.
Vào trận hạn hán năm 2016, Trung Quốc đã bất ngờ gián đoạn cung cấp lưu lượng quan trắc tại trạm Cảnh Hồng trên Vân Nam cho tổ chức hợp tác quốc tế Ủy ban sông Mekong (Mekong River Commission-MRC) và các nước hạ lưu. Năm đó, Trung Quốc cắt giảm mực nước chảy xuống Chiang Sean xuống dưới mức thấp kỷ lục, gây khốn đốn cho Đồng bằng sông Cửu Long, khi đó Viet Ecology Foundation đã phải báo động với tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam, họ đã khẩn cấp gởi đoàn xe nước xuống cứu trợ ; cho mãi đến cuối mùa khô năm đó Trung Quốc mới tăng lưu lượng nước lại bình thường nhưng quá muộn.
Và chỉ mới vừa đây, vào mùa hạn tháng 7/2019, Trung Quốc lại bất ngờ cắt lưu lượng sông, lấy cớ vì phải bảo trì mạng tải điện, chỉ chảy còn một nửa lưu lượng kỷ lục thấp nhất trước đó. Trung Quốc bị báo chí tố cáo, và để xoa dịu dư luận, Trung Quốc mới vừa tuyên bố sẽ cung cấp cho MRC các thông tin hàng ngày về mực nước sông và lượng mưa Vân Nam. Thực tế cho thấy từ khi có các đập Trung Quốc, hạ lưu sông Mekong đã bị nhiều trận hạn hán khắc nghiệt hơn và thường xuyên hơn trong khi Trung Quốc không thay đổi chính sách thủy điện, sau 8 dự án, vẫn tiếp tục quy hoạch xây thêm 20 đập khác và tài trợ các dự án thủy điện trên dòng chính Mekong trên đất Lào.
Các NGO Thái Lan đã phản đối dự án Xayaburi của Lào và nộp đơn kiện tập đoàn điện lực Thái EGAT từ năm 2012 nhưng rất tiếc họ thất bại. Tổ chức quốc tế Mekong River Commission, MRC ông Phạm Tuấn Phan, CEO tại hội thảo 2017 đã công khai phủ nhận tác hại của các dự án thủy điện và góp tiếng nói vận động cho Lào thông qua dự án Pak Beng. Việt Nam đã không quyết kiệt phản đối Lào và Phạm Tuấn Phan, Việt Nam im lặng có lẽ đã có thỏa hiệp để nhận chia phần thực hiện dự án Luang Prabang. Quyền lợi, sinh kế và môi trường của dân cư đồng bằng Tonle Sap và Cửu Long coi như đã bị hai nhà cầm quyền Cambodia và Việt Nam hy sinh trong các cuộc họp duyệt xét dự án của Lào của MRC.
Trung Quốc và Lào bác bỏ cáo buộc hạn hán do thủy điện gây ra mà cho rằng hạn hán là vì có ít mưa trên lưu vực.
Mưa ít dần trên lưu vực là có thật nhưng hạn hán sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do vận hành các hồ chứa thủy điện, chúng có khả năng gây ra hạn hán cả khi có mưa. Nước và phù sa là máu và dưỡng khí của hệ sinh thái lưu vực. Trung Quốc cất giữ 40 tỉ mét khối hay 53% vũ lượng hàng năm của lưu vực sông Lancang Trung Quốc, và Lào cất giữ 30 tỉ mét khối hay 18% vũ lượng hàng năm của lưu vực sông Mekong trên đất Lào để các hồ thủy điện của họ có thể hoạt động. Lượng nước hồ nói trên rất lớn nên mỗi hồ chứa phải tích tụ qua nhiều mùa mưa liền, và lần lượt lấy đầy hết 8 dự án Vân Nam cũng kéo dài suốt nhiều thập niên qua. Và rồi Trung Quốc còn 20 dự án thủy điện khác nữa, chưa kể vào những năm ít mưa, tích trữ nước gây hạn hán càng thêm kinh khủng.
Trung Quốc và còn cả Lào nữa, họ đã cùng cắt giữ nước sông Mekong, họ không chờ mùa khô mà họ giữ lấy nước sông vào suốt mùa mưa, đến nỗi khiến Biển Hồ Tonle Sap hàng năm không còn mực nước dâng theo flood pulse, mất đi mùa nước nổi, rồi sang đến mùa khô, Biển Hồ không có số nước thặng dư đó để chảy xuôi về giúp cho Đồng bằng sông Cửu Long chống mặn. Trung Quốc và cả Lào trên thực tế đã không hề bù giúp tăng lưu lượng nước cho Cambodia và Việt Nam vào mùa khô, dù lý thuyết và tuyên truyền họ vẫn nguỵ biện cho thủy điện là phải xả nước để chạy tua bin, điều mà nông ngư dân hạ lưu không thể tin vì họ không hề thấy.
Tổ chức International Rivers tại Thái Lan kêu gọi chính phủ các quốc gia trong khu vực phải nỗ lực kiểm soát việc khai thác sông Mekong.
Lời kêu gọi này đã có các NGO các nước Mekong và quốc tế kiến nghị nhiều lần từ lâu, 65 triệu dân cư Mekong đã trở thành nạn nhân của cơn điên thủy điện và sự xoay chuyển địa chính trị do Trung Quốc khởi xướng và chỉ đạo. Không những thế, họ lại đang sống trên một lưu vực phải hứng chịu tổn thương nhất vì biến đổi khí hậu toàn cầu, một tình trạng không phải do họ gây ra. Vào tháng 11, 2015 dân cư Mekong và 10 tổ chức phi chính phủ đã kết hợp thành lập United Mekong Communities Network và đệ trình các chính phủ Mekong một kiến nghị chưa từng có trong lịch sử : "Các Chính phủ Mekong : Hãy lắng nghe tiếng Dân !" Nhưng tiếc thay kiến nghị của họ đã bị bỏ ngoài tai.
Tóm tắt quan điểm từ hạ lưu
Không phải chỉ có hạn hán, không phải chỉ có Trung Quốc, tất cả các đập thủy điện Trung Quốc và Lào còn giam giữ phù sa, ngăn cản di ngư, gây sói lở ven bờ, cho xâm mặn sâu vào thềm lục địa và soi mòn duyên hải. Thủy điện không phải là năng lượng tái tạo không sạch vì khí thải vô hình do rữa mục từ lòng hồ vùng ngập nhả ra nhiều ngang với điện than. Tổ chức NGO độc lập OXFAM đã có báo cáo về kinh tế cho chuỗi đập hạ lưu Mekong cho rằng không có lợi mà lưu vực sẽ gây tổn thất, tổng cộng trên 7 tỉ USD.
Không tính tổn thất xã hội và môi trường, chi phí xây dựng sản xuất thủy điện Mekong hiện đã tốn kém nhất thế giới, các đập của Lào sẽ có chi phí đắt gấp đôi năng lượng mặt trời và gấp ba năng lượng gió. Chính phủ Lào đang dẫn dắt Lào đầu tư vào những dự án lỗi thời, ngược xu hướng thời đại, dân tộc Lào sẽ gánh chịu công nợ và thiệt hại sớm, khi Thái Lan và Việt Nam không nhập cảng thủy điện Lào vì đắt và còn thất thoát vì đường tải xa xôi.
Thật vậy, Thái Lan đã công bố phải xét lại quy hoạch năng lượng và trì hoãn khế ước mua điện Pak Beng của Lào.
Cambodia đã có thể làm điện từ nắng trên Biển Hồ, Việt Nam từ gió trên duyên hải Trung Nam Việt, đó là những nguồn năng lượng tái tạo, sạch và vô tận sẵn có ngay trên lãnh địa mình.
Chính phủ Lào với 6 triệu dân không thể vì lợi nhuận thủy điện mà bất chấp thiệt hại của 26 triệu dân cư đồng bằng sông Tonle Sap Cambodia và sông Cửu Long Việt Nam. Dân Cambodia và Việt Nam không cần dựa vào thủy điện của Trung Quốc hay Lào, nhà cầm quyền Cambodia và Việt Nam cần liên kết chống lại Lào và Trung Quốc, lập quy hoạch dựa vào tiết kiệm, phát triển năng lượng sạch, giá rẻ, giảm ô nhiễm và sự lệ thuộc vào nhiên liệu nhập cảng, nhất là không hy sinh quyền lợi nông ngư dân và sức khoẻ dân mình.
July 23, 2019
Kỹ sư Phạm Phan Long, PE
Viet Ecology Foundation
Nguồn : VOA, 25/07/2019
Tham khảo :
[2] https://www.bangkokpost.com/opinion/opinion/1715595/dam-disaster-on-the-way
[3] https://www.business-humanrights.org/en/xayaburi-dam-lawsuit-re-laos-thailand
Giới thiệu
Ô nhiễm không khí là một trong nhưng vấn nạn môi trường lớn nhất ở Việt Nam. Tuy nhiên, công chúng có vẻ chưa nhận thức đầy đủ về tác hại của ô nhiễm không khí đến sức khỏe, dù họ rất quan tâm, do thiếu thông tin định lượng. Chỉ số Phẩm chất Không khí (Air Quality Index -- AQI), như tên gọi, là một chỉ số phản ảnh phẩm chất không khí trong môi trường, được các nhà khoa học môi trường trên thế giới sử dụng để đánh giá về mức độ ô nhiễm không khí. Một cách để hiểu AQI là qua định lượng ô nhiễm không khí với lượng thuốc lá tiêu thụ, số tuổi thọ sụt giảm và số người tử vong hàng năm. Bài viết này sẽ giải thích ý nghĩa của AQI, và chỉ ra tác hại của ô nhiễm không khí lên sức khỏe công chúng đặc biệt tại Hà Nội và Sài Gòn.
Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân
Người viết dùng các phép đối chiếu trình bày trên Viet Ecology Foundationvà dữ kiện quan trắc phẩm lượng không khí tiêu biểu của Đại Sứ quán Hoa Kỳ tính ra, trung bình 16 triệu dân số Hà Nội và Sài Gòn hàng ngày thở bụi khói tương đương với hút 26,5 triệu điếu thuốc, họ mất gần 18 triệu năm quãng đời người. Trung bình họ thọ 76 tuổi, ô nhiễm bụi khói có thế xem như sát thủ thầm lặng cướp đi 236.000 mạng người ở hai đô thị này.
Mẹ và con đều đeo khẩu trang ở Việt Nam (ảnh Lê Phát Quới)
Vấn đề ô nhiễm không khí Hà Nội và bài học Bắc Kinh
Nhiều thập niên qua, các thành phố lớn Trung Quốc đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi ô nhiễm không khí. Mỗi năm có đến 1,6 triệu người Hoa tử vong vì hít thở bụi khói. Đến năm 2014 Chính phủThủ tướng Lý Khắc Cường phát động kế hoạch đầu tư 120 tỉ USD vào công cuộc chống bụi khói, tương đương với công cuộc chống nghèo đói. Và sau bốn năm họ đã đạt được những thành quả tích cực bước đầu, với bụi khói trong các thành phố lớn đã đã giảm 1/3 và Trung Quốc nay đã dẫn đầu thế giới về công nghệ và công suất năng lượng tái tạo. Trong khi đó, ô nhiễm không khí ở Hà Nội tăng dần và đang ở mức độ nguy hiểm. Ngày 5 tháng 10, 2016, chỉ số ô nhiễm không khí Hà Nội nhất thời đã vượt cao hơn cả Thành Đô và Bắc Kinh, và khi đó Hà Nội bị xếp là thành phố ô nhiễm không khí thứ hai toàn cầu, chỉ sau Ardialia Bazar, Ấn Độ. Nồng độ trung bình năm PM 2.5 của Hà Nội đã tăng lên 42 µg/m3 đã gần bắt kịp trung bình năm của 338 đô thị Trung Quốc, họ đã hạ xuống 47 µg/m3.
Bụi khói phát nguồn từ đâu ?
Theo báo cáo tình trạng môi trường không khí năm 2010 của Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, Bộ Giao thông Thông Vận tải, bụi khói thải ra từ nhiều nhất là từ công nghiệp trong đó có nhiệt điện (40%), dân dụng than dầu khí (33%) và giao thông vận tải 22% [4]. Công nghiệp vì có nhiệt điện là thủ phạm đã phát tán ô nhiễm nhiều nhất ; trong tương lại nếu Quy hoạch Điện VII không cắt giảm 40 GW dự án điện than mới, khí thải nhiệt điện than sẽ tăng gấp 5 lần.
Tỷ trọng tiêu thụ năng lượng 2010 (Viện Năng lượng, Bộ Công thương)
Cảnh tắc đường ở Hà Nội
Bụi khói PM 2.5 nguy hiểm ra sao ?
Ô nhiễm không khí là một sát thủ thầm lặng và toàn diện, silent mass killer vì không chừa bỏ một nạn nhân nào. Không phải tìm mới hút vào người như thuốc lá, bụi khói xâm nhập buồng phổi suốt 24 giờ không ai từ chối không hít thở được. Bụi khói nguy hiểm vì hầu như các khẩu trang không lọc ra được dù thường có quảng cáo N95. Loại 3M N95 được National Institute for Occupational Safety and Health (NIOSH) của Hoa Kỳ chứng nhận là đã có thử nhiệm và xác nhận có hiệu quả.
Ô nhiễm bụi khói trong không khí được đo lường theo nồng độ và phân loại theo kích thước. Loại mịn nhất có ký hiệu khoa học là PM 2.5 nhỏ dưới 2,5 μg/m3, bằng 3% đường kính sợi tóc. Bụi mịn trong bài này người viết gọi là bụi khói vì nhỏ nhẹ như khói và lơ lửng lâu trong không khí. Bụi khói PM2.5 phải dùng kính hiển vi điện tử, electron microscope mới nhìn thấy được. Vì quá nhỏ bụi khói PM2.5 theo hơi thở đi sâu vào phổi, thậm chí vào cả tim mạch. Bụi khói khó lắng tan đi một khi phát tán ra không khí. Theo thí nghiệm của Sample và Latif báo cáo năm 2014 trên Oxford University Press, khói thuốc lá trong nhà phải 50 phút sau mới lắng giảm 50% và 160 phút sau mới đạt được tiêu chuẩn an toàn.
Theo báo cáo của Pope et al, Brigham Young University trên Journal of American Medical Asociation, khi nồng độ bụi khói PM2.5 trong không khí tăng thêm 10 microgram/m3, độ rủi ro của tất cả các bệnh tăng theo lên 4%, riêng bệnh tim 6% và ung thư phổi 8%.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Lê Việt Phú, Fullbright University, hàng năm Việt Nam có khoảng 40.000 chết do ô nhiễm không khí với thiệt hại kinh tế 12 tỉ USD, và đến năm 2035, số người chết vì ô nhiễm sẽ tăng lên 100.000.
Số người chết yểu vì ô nhiễm không khí (Nguồn : ES&T)
Theo báo cáo của Tiến sĩ Shannon Korpiz và cộng sự tại Havard University, trên Environmental Science (dựa theo Quy hoạch Điện VII hiện nay) Việt Nam sẽ có số tử vong vì ô nhiễm bụi khói điện than nhiều hơn gấp đôi Trung Quốc dù dân số Trung Quốc nhiều hơn Việt Nam 15 lần. Như thế, người dân Việt Nam sẽ gánh độ rủi ro từ điện than 30 lần cao hơn dân Trung Quốc.
AQI, Air Quality Index là gì ?
AQI, Chỉ số Phẩm chất Không khí (Air Quality Index -- AQI), là một chỉ số khoa học cho phẩm chất không khí. AQI là hệ thống tiêu chuẩn quy chiếu do US EPA thiết lập từ 1999 để tất cả các cơ quan môi trường Hoa Kỳ áp dụng và sau lan rộng ra thế giới. Hệ thống AQI dựa vào hai thang điểm chủ chốt, AQI 100 của mỗi chất ngang với nồng độ Tiêu chuẩn Không khí Bình thường, NAAQS (National Ambient Air Quality Standard) và AQI 500 ngang với nồng độ Tiêu chuẩn Nguy hại Cao, SHL (Significant Harm Level). Khi dùng AQI thảo luận cần ghi nhận cơ sở của chúng dựa vào tiêu chuẩn Hoa Kỳ theo Hình 5 sau đây.
Các chỉ số quy chiếu cho AQI của các loại ô nhiễm không khí.
Từ đó, các chất ô nhiễm khác nhau có thể quy về cùng một hệ thống. AQI như thế không phải phẩm lượng ô nhiễm đo trực tiếp được mà là ảo số tính ra từ nồng độ, NAAQ và SHL riêng của mỗi chất ô nhiễm.
Tính toán và ý nghiã AQI như thế khá phức tạp và xa lạ với cư dân Việt Nam, do đó việc tìm cách đối chiếu AQI sang những đơn vị dễ hiểu hơn qua định lượng ô nhiễm không khí với lượng thuốc lá tiêu thụ, số tuổi thọ sụt giảm và số người tử vong hàng năm là mục tiêu của bài này.
Bảng đối chiếu các chỉ số phẩm lượng không khí
Người viết thiết lập ra Bảng Đối chiếu sau đây cho Chỉ số Bụi khói Không khí AQI PM 2.5 ra số điếu thuốc hút tương đương vào phổi hàng ngày, số năm sụt giảm tuổi thọ và số tử vong, theo phép tính của US EPA, nghiên cứu thống kê của Berkeley Earth và số liệu của University of Chicago (phương giải thích trong Phụ Lục Viet Ecology Foundation).
Tuy cư dân mang khẩu trang khi đi trên đường phố, họ có lẽ không ngờ khẩu trang tuy giúp lọc bụi nhưng bui khói mịn 2,5 micrometer PM2.5 vẫn xâm nhập vào buồng phổi họ được.
Bảng đối chiếu các chỉ số ô nhiễm bụi khói PM 2.5
Từ bảng đối chiếu trên ta có thể khảo sát thống kê quan trắc ô nhiễm cho bất cứ thành phố nào nếu có khối thống kê đủ lớn và ý nghĩa. Bảng ngang đối chiếu sang số điếu thuốc lá và bảng dọc thêm mức giảm tuổi thọ và tử vong.
Khảo sát tình trạng và tác động bụi khói Hà Nội và Sài Gòn 2016 -2017
Chỉ số AQI cho ta phẩm chất không khí theo khoa học nhưng chúng xa lạ và khó hiểu đối với cư dân sống ở Hà Nội và Sài Gòn, họ muốn biết qua các định lượng dễ hiểu như rủi ro tương đương với hút bao nhiêu điếu thuốc lá, tuổi thọ mất bao nhiêu năm và hàng năm thiệt mạng mất bao nhiêu người.
Không nhưng thế, AQI chỉ cung cấp cho họ các thông tin cấp thời trung bình giờ nên AQI có giá trị ngắn hạn và không phản ảnh tác động dài hạn tích lũy tự nhiên của ô nhiễm không khí. Do đó, người viết đã tính nồng độ PM 2.5 trung bình trong hai năm 2016 và 2017 từ dữ kiện quan trắc từng giờ của Đại sứ quán Hoa Kỳ cung cấp, và dựa theo đối chiếu trên để đánh giá tác động bụi khói dài hạn trên cư dân cho Hà Nội Sài Gòn với kết quả sau :
1. Hà Nội : Trung bình trong hai năm 2016 và 2017, cư dân Hà Nội thở bụi khí PM2.5 ở nồng độ 44 μg/m3 (AQI PM2.5=122), tương đương mỗi người bất kể lớn nhỏ khỏe mạnh hay bệnh tật đều đã hút vào phổi hai điếu thuốc/ngày (730 điếu/năm), họ mất sớm hai năm tuổi thọ và có 7478 người thiệt mạng hàng năm vì bụi khói.
2. Sài Gòn : Trung bình trong hai năm 2016 và 2017, cư dân Sai Gòn thở bụi khí PM2.5 ở nồng độ 28 μg/m3 (AQI PM2.5=85), tương đương mỗi người bất kể lớn nhỏ khỏe mạnh hay bệnh tật đã hút vào phổi 1,27 điếu thuốc/ngày (465 điếu/năm), họ mất sớm 4 tháng tuổi thọ và có 4757 người thiệt mạng hàng năm vì bụi khói.
Như thế bụi khói mịn PM 2.5 đang át hại thầm lặng cư dân nhiều cách, sớm cướp mất đi 4 tháng (Sài Gòn) đến hai năm (Hà Nội) tuổi thọ hay 15 triệu năm (man-year) quãng đời của dân sống ở Hà Nội và 2,7 triệu năm quãng đời dân sống ở Sài Gòn. Người Việt trung bình thọ 76 tuổi, ô nhiễm bụi khói xem như thủ phạm gây ra 236.000 nhân mạng ở hai đô thị này.
Lưu ý : Kết quả trên tính ra trên khối số liệu trung bình giờ suốt trong hai năm 2016 và 2017, từ hai trạm quan trắc không khí của Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội và Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn do chính họ cung cấp. Phương pháp đối chiếu là ước tính ở cấp một (first order estimate) nên giá trị kết quả kể trên chỉ nên xem là tượng trưng, độ tin cậy còn phải kiểm soát vì trong bài này mỗi đô thị chỉ dựa vào được số liệu của một trạm quan trắc mà thôi.
Trong những ngày cuối tuần trong mùa Tết vừa qua, AQI PM 2.5 Hà Nội đã dao động trong khoảng 174 đến 250. Các bạn thử nghĩ xem, trung bình mỗi người dân ở Hà Nội đã thở vào phổi 8 đến 18 điếu thuốc, một cái Tết Bắc Kinh đến thế nào ?
Kết luận
Tại hai đô thị lớn nhất ở Việt Nam, bụi khói PM 2.5, dựa vào dữ liệu hai trạm quan trắc của Hoa Kỳ tại Việt Nam như tiêu biểu cho cả thành phố Hài Nội và Sài Gòn đối chiếu ra, trong hai năm qua, ta có thể ước lượng bụi khói đã gây ra 13,000 tử vong hàng năm, âm thầm cướp sớm 18 triệu năm tuổi thọ của cư dân mỗi thế hệ, tương đương với 236.000 nhân mạng Hà Nội và Sài Gòn. Tuy cần có thêm dữ kiện quan trắc ở nhiều trạm nữa để kiểm chứng, ta phải xem ô nhiễm không khí là một sát thủ đang công khai tấn công đồng loạt vào buồng phổi tất cả cư dân.
Các nhà khoa học khoa học tin cậy trong và ngoài nước đã báo cáo, hàng năm tử vong sớm trên cả nước vì ô nhiễm không khí đã lên đến 40.000 người và gây ta thiệt hại GDP kinh tế trên 12 tỉ USD, nếu không đối phó ngay từ giờ, tử vong và tổn thất kinh tế sẽ tăng nhanh trong hai thập niên tới. Riêng ô nhiễm từ điện than, người Việt Nam sẽ gánh chịu 30 lần nhiều rủi ro hơn cả người Trung Quốc. Vì vậy, Việt Nam cần tuyên chiến với ô nhiễm bụi khói ngay bây giờ không thể đợi chờ được nữa.
Phạm Phan Long, PE
Viet Ecology Foundation
Nguồn : BBC, 29/03/2018
Ngày 28, tháng 2, 2018
Dẫn nhập
Tăng thuế vào xăng ai phải gánh ?
Giữ nguyên thuế cho than ai hưởng lợi ?
Và những nghị quyết không thi hành ai chịu trách nhiệm ?
Việt Nam đã có Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 (2014) với những quy định "ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý phát thải khí nhà kính, phát triển năng lượng tái tạo, sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường, hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu"nhưng quy hoạch điện và thuế môi trường hoàn toàn đi ngược các quy định kể trên.
Hình 1. Biểu đồ quy hoạch điện VII chưa điều chỉnh (dựa vào ADB). Courtesy of Phạm Phan Long
Tuy Nghị quyết bảo vệ môi trường 41-Nghị quyết/TW (2004) đề ra những mục tiêu và quan điểm "bảo đảm sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, công nghệ hiện đại" nhưng thực tế luật thuế bảo vệ môi trường (Luật số : 57/2010/QH12) đánh thuế vào xăng/dân 153 lần nặng hơn vào than/chủ nhiệt điện. Nhiệt điện than là công nghệ lỗi thời, thải ô nhiễm hủy hoại môi trường và có tác hại sức khỏe cư dân nhiều nhất.
Ngoài ra Nghị quyết phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long trước biến đổi khí hậu 120/Nghị quyết-CP (2017) đề ra "tầm nhìn dài hạn, phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên" và "phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái tự nhiên, phát triển năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ rừng và bờ biển" nhưng Quy hoạch Điện VII không điều chỉnh theo, vẫn bám chặt vào nhiệt điện than như hệ thống lãnh đạo bị khống chế bởi một lời nguyền.
Thảo luận
Bộ Tài chánh lại đề nghị tăng thuế bảo vệ môi trường từ 3.000 đồng lên 4.000 đồng/lít xăng (thay vì lên đến 8.000 đồng/lít) nhưng vẫn giữ nguyên thuế ở mức 30 đồng/kg cho than. Nếu dựa vào cùng lượng khí thải ra từ hai nguồn nhiên liệu này để so sánh, người tiêu thụ xăng hiện trả 115 lần và sắp phải trả 153 lần nhiều hơn nhiệt điện than (1).
Nếu điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường cho nhiệt điện than dựa vào khí thải CO2 như xăng, nhiệt điện than sẽ phải trả 4608 đồng/kg than, tương đương 2072 đồng/kWh điện năng.
Chi phí thực sự cho điện than do đó phải kể là 2.271 VND (giá điện EVN công tơ trả bằng thẻ) + 2.072 VND (thuế bảo vệ môi trường) = 4.343 VND/kWh.
hưng chưa hết, dân cư (hay xã hội) đang âm thầm phải trả thêm vào chi phí ngoại vi, external cost dưới hình thức tiền thuốc men, giảm tuổi thọ, ô nhiễm môi sinh, biến đổi khí hậu vào khoảng 1.589 VND/kW, do người viết đã tường trình.
Tổng chi phí do đó là : 4.343 VND +1.294 VND = 5.637 VND/kWh, hay 25 cents USD/kWh.
Dân thực thụ phải trả 150% chồng trên tiền trả cho EVN có lẽ không ngờ ? Làm sao nhà nước giải thích cho dân giá điện thực thụ đó, khi các nước như Canada, Chile, Hoa Kỳ v.v. có thể mua năng lượng tái tạo xanh và sạch với chi phí bình quân dưới 5 cents USD/kWh.
Đề nghị tăng thuế bảo vệ môi trường vào xăng lần này của Bộ Tài chánh tuy đã hạ từ 8.000 đồng xuống 4.000 đồng/lít xăng vẫn là ưu đãi nhiệt điện than không thể lý giải ; 90 triệu dân không thể chấp nhận cưu mang điện than và gánh chịu ô nhiễm như thế nữa.
Nghị quyết bảo vệ môi trường 41-Nghị quyết/TW (2004) dường như không ai đọc
Nếu đọc Nghị quyết 41 ta sẽ thấy cách đánh thuế bảo vệ môi trường xăng và than từ không tuân theo một quan điểm hay mục tiêu nào trong Nghị quyết này cả.
Kiểm điểm năm quan điểm trong Nghị quyết 41
1. Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại ; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân ; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Nhiệt điện than đi ngược xu hướng nhân loại, nhiên liệu than phần lớn phải nhập cảng từ bên ngoài sẽ đặt an ninh năng lượng quốc gia vào tình huống bấp bênh và an toàn sức khoẻ dân cư sống dưới đe doạ của khói bụi than.
2. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
Nhiệt điện than bẩn, công nghệ cận tới hạn lỗi thời và là than là nguồn năng lượng kém hiệu quả kinh tế nhất, đáng lý phải xoá bỏ than khỏi quy hoạch điện từ Nghị quyết 41. Nhưng than vẫn chiếm lĩnh phần rất lớn trong Quy hoạch Điện VII theo Hình 1, ngay khi điều chỉnh rồi vẫn cho xây thêm 42 GW nhiệt điện than (thay vì 62 GW) trong khi Trung Quốc chuyển hướng từ nay sẽ không xây thêm một nhà máy nhiệt điện than nào theo Hình 2.
3. Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với tự nhiên của cha ông ta.
Điều khoản này viết rất hay, nhưng xem kỹ văn bản nghĩa vụ này là của tất cả xã hội nhưng không phải của… nhà nước.
4. Bảo vệ môi trường phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên ; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế ; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống.
Quy hoạch Điện VII không hạn chế ô nguồn ô nhiễm điện than mà kết hợp đầu tư, huy động nguồn lực đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế (nhất là Trung Quốc) ; kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống xã hội tăng công suất điện than và ô nhiễm lên 400%.
5. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Nhà nước nếu thật tình cần trân trọng lắng nghe khuyến cáo của các tổ chức xã hội dân sự độc lập, ngân hàng ADB, WWF-OXFAM, các NGO trí thức chuyên gia độc lập và nhất là dân cư chung quanh các trung tâm nhiệt điện.
Kiểm điểm ba mục tiêu của Nghị quyết 41
1. Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
2. Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường.
3. Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên.
Toàn bộ cả ba mục tiêu cũng như năm quan điểm trên đều bị Bộ Công thương gạt bỏ khỏi Quy hoạch Điện VII và luật thuế bảo vệ môi trường Bộ Tài chánh đánh ngược lại.
Nghị quyết 120-CP ký năm 2017 chưa thực hiện
Quy hoạch Điện VII phần lớn dùng than và luật thuế bảo vệ môi trường đánh thuế bảo vệ môi trường nhiều nhất vào xăng ít nhất vào than, hoàn toàn đi ngược với Nghị quyết 120, nhất là hai điều khoản có tính bức phá cấp tiến nhất sau đây :
Điều 3c : Việc chuyển đổi mô hình phát triển phải dựa trên hệ sinh thái, đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa, con người và các quy luật tự nhiên ; kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với tri thức, kinh nghiệm truyền thống, đảm bảo tính ổn định và sinh kế của người dân, trong đó người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt ; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
Điều 4c : Phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái tự nhiên. Phát triển năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ rừng và bờ biển.
Kết luận và giải pháp
- Tăng thuế bảo vệ môi trường vào xăng ai phải gánh ?
Thuế bảo vệ môi trường đã giúp ngụy tạo cho điện than ở giá 2.271 VND/kWh, thực ra dân phải trả đến 5.647 VND/kWh hay 150% nhiều hơn vì thuế và ô nhiễm.
- Giữ nguyên thuế bảo vệ môi trường cho than ai hưởng lợi ?
Nhiệt điện than hưởng lợi, năng lượng tái tạo rõ ràng không được chào đón vào Việt Nam. Quy hoạch Điện VII xếp cho họ ngồi tại manh chiếu dưới cùng với thủy điện so với tấm chiếu trên to gấp năm lần để dành biệt đãi điện than. Giới đầu tư vào năng lượng tái tạo mất tin tưởng đầu tư vào một thị trường kỳ thị họ như vậy, và nếu họ cần có bảo đảm và sẽ đánh lãi xuất cao dự phòng rủi ro vào các dự án ở Việt Nam.
(Chú thích : Giá bán vào lưới điện, FiT cho năng lượng tái tạo tuy đã nâng lên 7,8 cents đến 9,3 cents USD/kWh nhưng vẫn không thể cạnh tranh với điện than trong quy hoạch hiện thời).
- Những nghị quyết không thi hành ai chịu trách nhiệm ?
Các bộ công thương, tài nguyên môi trường và các tập đoàn EVN, Vinacomin có quyền lực quyết định nên có trách nhiệm tìm nguồn điện tối ưu kinh tế và môi sinh đáp ứng nhu cầu quốc gia.
Xã hội dân sự cần lên tiếng yêu cầu nhà nước điều chỉnh mức thuế và tháo gỡ lời nguyền điện than ra cho cả nước.
Lời giải vốn nằm sẵn trong các luật đã có nêu trên và sau đây là những phương án không xa lạ, có thể trích ra từ những khuyến cáo quy hoạch trong nước và quốc tế :
Quốc hội luật hóa các nghị quyết và điều chỉnh dần luật thuế bảo vệ môi trường dù tăng giá điện nhưng giảm thuế xăng.
1. Tiết kiệm tiêu thụ điện năng có thể giảm nhu cầu 15% là ưu tiên cao nhất.
2. Chuyển điện than sang nhiệt điện khí tất cả nhà máy đã có theo độ khả thi từng trường hợp như Hoa Kỳ.
3. Ngưng đóng hồ sơ đang có không xét dự án nhiệt điện than nào trừ khi chuyển sang nhiệt điện khí.
4. Không duyệt xét thêm nhiệt điện than nào chưa xây như Trung Quốc.
5. Tăng đầu tư vào năng lượng tái tạo lên tối đa ít nhất ngang hàng Trung Quốc.
Thực hiện cần có những bảo đảm cốt yếu sau :
Phải có đánh giá tác động môi trường chiến lược tích hợp cho toàn bộ trung tâm nhiệt điện không chỉ làm độc lập cho từng dự án.
1. Nhiệt điện than chiến lược phải do chuyên gia độc lập thực hiện có bảo đảm trách nhiệm nếu sai lầm.
2. Tham vấn công khai với dân cư và trí thức.
Đề nghị tăng thêm thuế xăng lần này của Bộ Tài chánh sẽ tiếp tục ưu đãi nhiệt điện than phải bị bác bỏ. 90 triệu dân không thể chấp nhận cưu mang điện than và gánh chịu ô nhiễm như thế nữa.
Phạm Phan Long
(Viet Ecology Foundation)
Nguồn : RFA, 01/03/2018
Ghi nhận
Người viết trân trọng cám ơn những thân hữu đã giúp duyệt xét, thảo luận, tu bổ bài khảo luận này và chia sẻ mối quan tâm chung.
Tài liệu tham khảo :
[1] Thuế bảo vệ môi trường 1
[3] Chi phí ngoại vi
[5] Quy hoạch Điện VII điều chỉnh
[6] FiT-in Tariff
[7] ADB ALTERNATIVES FOR POWER GENERATION IN THE GREATER MEKONG SUB-REGION
[9] Tăng ô nhiễm điện than Việt Nam
[10] Nghị quyết bảo vệ môi trường 41-Nghị quyết/TW
[11] Nghị quyết BV ĐBSCL 120/Nghị quyết-CP
(1) Phụ lục về tính toán cho con số 153 :
So sánh thuế bảo vệ môi trường xăng và than
Chú thích :TS Nguyễn Đức Thắng nhận định thuế môi trường đúng ra cần đánh vào các ô nhiễm khác không chỉ CO2. Nếu tính thêm thuế cho CH4, N2O, thuỷ ngân, SO2, NOx, tỉ lệ 153 có lẽ sẽ còn cao hơn nữa.
Petro Việt Nam thiếu vốn hoàn tất nhiệt điện than Long Phú 1
US Ex-Im Bank không nên tiếp sức cho Long Phú 1 vì dự án này tốn kém nhất, xả thải ô nhiễm cao, có hại nhất cho sức khoẻ và môi sinh của 20 triệu dân cư đồng bằng sông Cửu Long và còn làm suy giảm uy tín Hoa Kỳ trên thế giới.
Ex-Im Bank của Hoa Kỳ sẽ cứu xét và quyết định có bảo đảm cho công ty General Electric (GE) cung cấp thiết bị cho dự án Long Phú và Việt Nam vay để nhập cảng hàng từ HK không. Trung tâm nhiệt điện than Long Phú tại Sóc Trăng gồm có ba dự án, với tổng công suất 4320 MW, Long Phú 1 (2) 600 MW, Long Phú 2 (2) 660 MW và Long Phú 3 (3) 600 MW [1]. Khi hoàn tất trung tâm nhiệt điện này Long Phú cưu mang số công suất tương đương với hai nhà máy điện hạch nhân.
Theo bản tin ngày 28 tháng 1, 2018, của New York Times [2] : Dự án Long Phú 1 có công suất đã được khởi công do Petro Việt Nam làm chủ và ngân hàng Nga VEB tài trợ. VN hiện không đủ vốn hoàn tất Long Phú 1 và bị British Ex-Im Bank từ chối cho vay nên Việt Nam đang yêu cầu US Ex-Im Bank bước vào yểm trợ.
Nhiệt điện than là nguồn năng lượng có chi phí cao nhất/kWh
Theo báo cáo mới nhất vào tháng 11, 2017 của tổ chức có thẩm quyền Lazard [3], chi phí quy dẫn, Levelized Cost of Energy củ a nhiệt điện than 6 - 14,3 xu /kWh, LCOE cho điện mặt trời và điện gió chỉ 3 – 6 xu/kWh theo Bảng so sánh chi phí LCOE trích dẫn báo cáo của Lazard với chú giải tiếng Việt của người viết dưới đây. Chi phí quy dẫn, LCOE bao gồm chi phí đầu tư xây dựng, nhiên liệu, hoạt động và bảo trì.
Nhiệt điện than là nguồn ô nhiễm nặng nề nhất đè trên xã hội
Tính toán LCOE chưa kể chi phí ngoại vi cho xã hội như bệnh tật cho thai nhi, mất sớm vì ô nhiễm và thuốc men dân cư trong vùng phải trả cả đời vì phải hít thở ô nhiễm thải ra với từng kWh điện than sản xuất được. LCOE cũng chưa kể hậu quả cho môi trường và biến đổi khí hậu. Theo nghiên cứu của GS Shannon N. Koplitz và cộng sự từ trường Havard đăng trên Environmental Science & Technology, Việt Nam và Nam Dương sẽ có số người mất sớm vì ô nhiễm từ nhiệt điện than cao nhất trong vùng Đông Nam Á [4].
Dân bị đánh thuế xăng để bảo vệ môi trường 115 lần cao hơn điện than
Thuế bảo vệ môi trường đánh vào xăng dân chúng tiêu thụ là 3000 VNĐ/lít, hay 3900 VNĐ/kg. Xăng phát thải 3 kg CO2/kg, như vậy dân phải trả 1260 VNĐ/kg CO2 khi tiêu thụ xăng.
Thuế bảo vệ môi trường đánh vào than là 30 VNĐ/kg. Than phát thải 2,73 kg CO2/kg, như vậy than trả 11 VNĐ/kg CO2 cho than.
Như thế, dân chúng đang gián tiếp bị trừng phạt nặng nề, họ phải trả thuế bảo vệ môi trường cho xăng 1260/11=115 lần nặng hơn so với than. Nếu điều chỉnh lại để nhiệt điện than đóng thuế ngang hàng xăng, điện than phải trả 1554 VNĐ/kWh hay 6 xu/kWh. Chính sách ưu đãi nhiệt điện than cho họ tránh trách nhiệm, phá hoại môi trường và âm thầm bóc lột thuế 90 triệu dân cư là một bất công xã hội không thể giải thích nổi.
Hoa Kỳ không nên đồng lõa với Trung Quốc theo đuổi điện than Việt Nam và tự hủy uy tín quốc tế.
Nếu US Ex-Im Bank chấp thuận trợ giúp dự án này Hoa Kỳ giúp ngân hàng Nga VEB thoát khỏi bế tắc, Hoa Kỳ có thể sẽ vi phạm cam kết quốc tế năm 2014 của Liên Hiệp Quốc trừng phạt kinh tế cá nhân, doanh nhiệp và các lãnh đạo Nga và Ukraine sau khi Nga ngang nhiên xua quân chiếm đóng Ukraine. Tham gia vào Long Phú 1, Hoa Kỳ sẽ không có uy tín để tố cáo Nga và Trung Quốc đang lén lút giúp Kim Yong Un né tránh sự trừng phạt tương tự của Liên Hiệp Quốc. Hoa Kỳ đang cần các nước hợp tác để áp lực Triều Tiên ngừng chương trình hỏa tiễn hạch nhân. Hoa Kỳ không thể để chọn mối lợi đầu tư kinh tế nhỏ như Long Phú để cho an ninh toàn cầu và chiến lược quốc phòng Hoa Kỳ bị bấp bênh.Khi Hoa Kỳ hợp tác với Nga, theo chân Trung Quốc đầu tư cho ô nhiễm tràn vào Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ bỏ mất vị trí vương đạo dẫn dắt thế giới mà thành đồng lõa với một Trung Quốc bá đạo ở Châu Á.
Việt Nam cần thay đổi quy hoạch năng lượng
Các dự án năng lượng tái tạo đang chờ sự thay đổi nhận thức cùa lãnh đạo, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn phát biểu trên Tiếp Thị Thế Giới [5] : "Năng lượ ng tái tạo chỉ đói chính sách. Nhận thức về việc bảo vệ môi trường sẽ khiến thế giới thay đổi rất nhiều trong tương lai. Hiện nay, nhiều nước quan niệm GDP không tăng, con người không chết ; nhưng môi trường mà chết, xã hội sẽ nhiễu loạn".
Với bước đột phá của tỉnh Bạc Liêu và chính phủ, Việt Nam đã loại bỏ dự án nhiệt điện Cái Cùng 1200 MW khỏi Quy hoạch Năng lượng VII để thay bằng năng lượng gió. General Electric thực ra không cần tham dự vào Long Phú vì GE đã ký kết dự án 800 MW điện gió 5tỉ USD cũng ngay tại Sóc Trăng [6]. Hai nhà máy của First Solar tại Saigon và JA Solar tại Bắc Giang, VN sẽ thành lò sản suất pin solar lớn nhất cho toàn Đông Nam Á. Cổ đông GE nên yêu cầu GE xét lại đầu tư đầy trắc trở vào Long Phú và có hại cho GE như thế.
Trở về với Hoa Kỳ, công dân Hoa Kỳ gốc Việt không thể để Ex-Im Bank tài trợ cho dự án Long Phú 1 vì đó không phải là tối ưu bền vững nhất mà ngược lại, ít lợi nhất về kinh tế, tồi tệ nhất về môi trường Việt Nam có hại cho uy tín quốc tế của Hoa Kỳ. Công dân Hoa Kỳ gốc Việt càng không để Đồng Bằng Sông Cửu Long thành sân khấu cho các thế lực quốc tế đến kiếm lợi nhuận mà không quan tâm đến quyền lợi dân cư và môi trường sống vốn rất mong manh của đồng bào mình.
California, ngày 29, tháng 1, 2018
Phạm Phan Long, P.E.
(Viet Ecology Foundation)
Nguồn : VOA, 30/01/2018
Tham khảo :
[1] https://www.sourcewatch.org/index.php/Long_Phu_Power_Centre
[2] https://www.nytimes.com/2018/01/26/business/exim-bank-vietnam-russia-coal.html
[3] https://www.lazard.com/perspective/levelized-cost-of-energy-2017/
[4] http://pubs.acs.org/doi/pdfplus/10.1021/acs.est.6b03731
[6] https://www.windpowerengineering.com/business-news-projects/ge-support-800-mw-wind-project-vietnam/