Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Chính phủ Dương Văn Minh bị bắt buộc phải đầu hàng, cũng có nghĩa là Phong trào Phật giáo Dấn thân phải đầu hàng, bởi vì họ đã cùng với các nhóm thuộc Thành phần thứ Ba khác như nhóm các chức sắc Công giáo cấp tiến (tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền, các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần…), nhóm các nghị sĩ, dân biểu đối lập Vũ Văn Mẫu, Bùi Tường Huân, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Trần Văn Tuyên… đại diện cho đa số nhân dân miền Nam hậu thuẫn chính phủ ấy.

phapnan1

Ngày 31/3/1975 : Nhà lãnh đạo Phật giáo quyền lực nhất Nam Việt Nam, Thích Trí Quang (bìa trái) biểu tình đòi Tổng thống Thiệu từ chức. Trí Quang dẫn đầu một cuộc biểu tình của các nhà sư, giáo sĩ và cư sĩ. Thích Trí Quang được cho là đã góp phần cho việc lật đổ cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963

Bi kịch nằm ở chỗ, những người đã từng dấn thân, chống hai chế độ độc tài gia đình trị (Ngô Đình Diệm) và quân phiệt trị (Nguyễn Văn Thiệu), chống cuộc chiến tranh của Mỹ, kêu gọi hòa bình và hòa giải, hòa hợp dân tộc, lại thay cho "Mỹ – Ngụy" cúi đầu, dong tay đầu hàng trước xe tăng và họng súng của "quân giải phóng" trưa 30/4/1975. Bởi vì nếu không làm như thế Sài Gòn sẽ đổ nát và hàng chục ngàn người của cả hai phía chết chóc, thương tật trong cuộc xung đột cuối cùng với quyết tâm được đúc kết bằng khẩu hiệu "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào" của Đảng cộng sản.

Bi kịch còn lớn hơn, một khi nắm được chính quyền, Đảng cộng sản tiến hành các cuộc cải tạo đối với tất cả các thành phần quần chúng (không cộng sản) trong gần 14 triệu nhân dân miền Nam. Họ quên rằng, trong cương lĩnh của Mặt Trận Giải Phóng năm 1960, trong tuyên ngôn của Liên minh các Dân tộc – Dân chủ và Hòa bình năm 1968, trong tuyên bố của Chính phủ lâm thời Cộng Hòa miền Nam, kể cả trong tuyên truyền của đài phát thanh Hà Nội trước đó và sau này, họ không ngừng rêu rao khẩu hiệu Hòa Bình – Dân Chủ, Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc.

Nhân dân miền Nam, ngoài trừ một thiểu số cộng sản, đa phần nếu không "ngụy quân" thì "ngụy quyền", nếu không tư sản thì trí thức, nếu không nông dân thì thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, nếu không Phật giáo thì Công giáo, Cao Đài, Hào Hảo, Tin Lành… Tất cả đều phải bị cải tạo để đất nước "tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội".

Như thế là hàng trăm ngàn người bị bắt đi tù, hàng triệu người bị cưỡng bách lao động cải tạo – học tập tẩy não, hàng triệu người đi kinh tế mới, hàng triệu người mất nhà, mất đất, mất xưởng, mất tiệm buôn, mất công ăn việc làm, vợ chồng, con cái lê la đầu đường xó chợ, hàng mấy triệu người vượt biên… Lại chết chóc, tra tấn, tù đày, đói khổ, bệnh tật. Hết bạo động chiến tranh thì bạo động cách mạng. Thực tế là một cuộc chiến tranh khác. Đảng cộng sản tuyên chiến với tất cả mọi tầng lớp nhân dân bằng bạo quyền toàn trị.

Cũng như chức sắc các tôn giáo khác (Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành…), các thiền sư lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang) cùng cộng đồng tu sĩ, Phật tử hiện diện trong biển khổ của nhân dân, nhận ra trách nhiệm của mình trong cuộc đấu tranh vô vọng trước guồng máy bạo quyền.

Đối với Đảng cộng sản, Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, đều mang mầm mống phản động. Sau 1975, một tờ rơi phát tán từ Ủy ban Mặt trận các cấp ghi lại lời của giáo chủ Các Mác : "Tôn giáo là lương tâm của một thế giới không có lương tâm (thế giới tư bản chủ nghĩa – cộng sản), là tiếng kêu bi thương trong một xã hội đầy rẫy bất công và áp bức, là thuốc phiện của nhân dân".

Các đảng viên cộng sản chú trọng đến mệnh đề cuối cùng của câu trích dẫn trên : "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đã là "thuốc phiện của nhân dân" thì bài trừ là tất nhiên. Năm 1930, trong Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, Đảng cộng sản đã nêu khẩu hiệu ba không : không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo. Trong các thời kỳ vận động cách mạng và tiến hành chiến tranh về sau, một mặt cộng sản kêu gọi lòng "yêu nước", "đoàn kết lương giáo", một mặt họ ngấm ngầm bài trừ tôn giáo dưới chiêu bài tự do tôn giáo với sách lược tôn giáo vận.

Về mặt tổ chức : Trước năm 1975, Tôn giáo vận thuộc trách nhiệm Ban Dân vận trung ương (của Đảng cộng sản). Sau năm 1975 do tình hình phức tạp của miền Nam, Tôn giáo vận vừa trực thuộc Ban Dân vận, vừa trực thuộc Ban Bí thư trung ương đảng, đều do ủy viên Bộ Chính trị phụ trách.

Trước khi công cụ hóa Giáo hội Phật giáo (1981), Đảng cộng sản cử Trần Quốc Hoàn, một ủy viên bộ chính trị đã làm bộ trưởng Công an 35 năm, làm trưởng Ban Dân vận. Về mặt chính quyền, Đảng cộng sản còn tổ chức một ban (tương đương một bộ) gọi là Ban Tôn giáo chính phủ. Chức năng của nó là thay mặt Đảng và Chính phủ làm công tác "vận động tôn giáo". Họ lợi dụng lòng yêu nước và sử dụng chiêu bài "yêu nước" để ràng buộc, khống chế các đối tượng tôn giáo với khẩu hiệu : "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội". Khẩu hiệu này ngấm ngầm nội dung răn đe đầy tính chất bạo động : "Không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước". Mà không yêu nước là phản động, là Việt gian bán nước, là tàn dư phong kiến, Mỹ – Ngụy, là phản động mới, là chuyển hóa, chuyển biến hòa bình, đáng bị tiêu diệt.

Ở đây xin mở một ngoặc đơn để làm rõ nội dung nhóm từ "phản động mới". Phản động mới tất nhiên không phải là phản động cũ. Phản động cũ là "phong kiến, thực dân – đế quốc, Mỹ – Ngụy và tàn dư của chúng". Phản động mới phát sinh từ trong lòng chế độ mới xã hội chủ nghĩa.

Phản động mới bao gồm những người viễn mơ lý tưởng cộng sản đã và đang thức tỉnh, hoặc những người kháng chiến không cộng sản, hoặc những người đấu tranh vì mục tiêu Tự do, Dân chủ, Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc trong xã hội miền Nam trước 1975. Phản động mới đặt vấn đề với chế độ, chất vấn chế độ trước đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, trước những tệ nạn xã hội : tham ô nhũng lạm, những vi phạm nhân quyền, tự do, dân chủ…

Ở miền Bắc sau 1954, nhóm Nhân văn - Giai phẩm… là phản động mới. Ở miền Nam sau 1975, nhóm Câu lạc bộ kháng chiến của Nguyễn Hộ, Trần Văn Giàu, Trần Văn Trà…, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, nhóm Phật giáo đấu tranh Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu…, nhóm Công giáo cấp tiến Chân Tín – Nguyễn Ngọc Lan…, nhóm nghị sĩ dân biểu đối lập Bùi Tường Huân, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Trần Văn Tuyên, Kiều Mộng Thu… là phản động mới.

Đối với Phật giáo, Đảng cộng sản có cái nhìn đặc biệt. Ngoài nhóm Thích Tâm Châu chống Cộng công khai, ủng hộ cuộc chiến tranh của Mỹ, ủng hộ chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã chạy ra nước ngoài ; ngoài nhóm "Phật giáo yêu nước" do Đảng khai sinh để làm công cụ, đa phần các nhóm Phật giáo còn lại, đặc biệt Giáo hội Phật giáo Ấn Quang (còn gọị là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất) là một thế lực đáng gờm.

Họ nổi tiếng thế giới qua các cuộc đấu tranh trong các đô thị miền Nam từ năm 1963 đến năm 1975, họ có uy tín trong đa số Phật tử và quần chúng, họ có khả năng vận động quần chúng đấu tranh vì các mục tiêu dân chủ, nhân quyền và lành mạnh hóa xã hội, họ "cực kỳ nguy hiểm" trong chế độ mới, đặc biệt các nhân vật âm thầm, dị ứng với ý thức hệ cộng sản như Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Nữ Trí Hải… Đặc biệt hơn nữa là Thích Trí Quang, theo nhận định của một số lãnh tụ đảng như Trần Bạch Đằng, là "CIA chiến lược".

Do vậy, từ sau khi bắt buộc chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng, kết thúc chiến tranh, thiết lập chế độ quân quản, tiến hành các cuộc cải tạo, áp đặt chế độ toàn trị trên cả hai miền đất nước, Đảng cộng sản đã sử dụng bộ máy công an, bộ máy hành chánh, bộ máy dân vận mặt trận, nhằm trấn áp tiêu diệt các "mầm mống phản động mới", vô hiệu hóa giáo hội Ấn Quang và giáo hội các tôn giáo khác, giải tán các tổ chức quần chúng Phật tử, quốc hữu hóa các cơ sở giáo dục xã hội của các giáo hội ấy, hình thành một giáo hội Phật giáo mới làm công cụ cho Đảng hoạt động trong khuôn khổ Mặt trận Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng cộng sản.

Công an, cán bộ dân vận Mặt trận và Ban tôn giáo chính phủ không khó để lên danh sách, phân loại mức độ "phản động" trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo Ấn Quang để tìm ra biện pháp thích đáng cho từng đối tượng. Bởi từ trong các thời kỳ đấu tranh trước (trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa) cũng như hiện tại (trong chế độ cộng sản) họ công khai lập trường Tự do, Dân chủ, Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc.

Trong thời chiến, cộng sản cổ vũ các cuộc đấu tranh của Phật giáo vì các mục tiêu ấy cốt để làm rối loạn xã hội và hàng ngũ đối phương, làm tuyên truyền thế giới và kích thích tinh thần chiến đấu "Giải phóng miền Nam" của bộ đội cụ Hồ. Nhưng nay chiến tranh đã chấm dứt, Đảng cộng sản không muốn có bất cứ một trở ngại nào trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tự do, Dân chủ, Nhân quyền – theo nhận thức của cộng sản là những sản phẩm của chế độ tư bản phản động, là tàn dư của Mỹ – Ngụy cần loại trừ.

Những lãnh tụ của Phật giáo Ấn Quang không bị bắt đi cải tạo trong các trại tập trung như "Ngụy quân – Ngụy quyền", nhưng họ cần bị kiểm soát chặt chẽ, cần bị tướt đọat hết mọi phương tiện, cần cách ly các cộng sự và quần chúng. Trong trường hợp này, cá nhân nào ngoan cố sẽ bị trừng trị thích đáng bởi đòn phép công an : chỉ định cư trú, nhà tù và cả cái chết.

phapnan2

Hòa thượng Thích Quảng Độ, cùng các vị tăng ni, hòa thượng khác, bị bắt và đưa ra tòa tại Tòa án nhân dân thành Hồ hồi tháng 8/1995. Nguồn : Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng

Đòn phép đầu tiên chế độ cộng sản dành cho các chức sắc tôn giáo nói chung, các lãnh tụ Ấn Quang và các chùa Phật giáo khắp miền Nam nói riêng (ngoại trừ các chùa thuộc Phật giáo quốc doanh), là chế độ quản lý hộ khẩu, tổ dân phố, đồn công an và bọn chỉ điểm được cài đặt khắp nơi.

Công an toàn quyền quyết định ai có tên trong hộ khẩu, ai không, theo hai tiêu chí : an ninh và thời gian cư trú. Vì hai tiêu chí này mà hàng chục ngàn tu sĩ bị đuổi khỏi các chùa họ đang tu hành, hàng trăm chùa thuộc Phật giáo Ấn Quang bị quốc doanh hóa, hay đóng cửa.

Trong chiến tranh, cửa chùa rộng mở cho những thanh niên trốn quân dịch, những binh lính đào ngũ, những tu sĩ và Phật tử đấu tranh trốn thoát khỏi các cuộc truy lùng của bạo lực Việt Nam Cộng Hòa, kể cả những "anh em cộng sản" giả dạng nạn nhân chiến tranh vào chùa đội lốt thầy tu.

Chùa lớn là một đơn vị dân cư đặc biệt do một tổ công an đặc nhiệm đảm trách. Chùa nhỏ do một công an đảm trách hay nằm trong tổ dân phố. Công an chìm và bọn chỉ điểm được cài sẵn trong chùa hay trong các hộ dân cư liên cận. Công an chìm, chỉ điểm viên, công an đặc nhiệm, công an khu vực, công an phường, công an quận huyện, công an tỉnh, thành phố và cả công an bộ là một hệ thống chuyên chính kiểm soát, giám sát chặt chẽ nhân – hộ khẩu trong các hộ dân cư, đặc biệt các chùa, nhà thờ, thánh thất, tu viện… là "nơi mai phục, tụ họp bởi bọn phản động cũ, phản động mới".

Bất kể ngày đêm, công an và tổ dân phố toàn quyền khám xét để truy lùng "người cư trú bất hợp pháp" (người không có tên trong hộ khẩu) tại bất cứ hộ dân cư nào. Những nhân – hộ khẩu hợp pháp muốn đi đâu, bao lâu, làm gì phải khai báo, nếu không, tức thì mất hộ khẩu. (Mà mất hộ khẩu là "hậu khổ"). Công an vào tận giường các nữ tu để kiểm tra hộ khẩu lúc một, hai giờ sáng là chuyện diễn ra bình thường trong những năm đầu "giải phóng".

Mục tiêu công tác tôn giáo vận của Đảng cộng sản sau chiến tranh là hạn chế đến tối thiểu các hoạt động tôn giáo ở miền Nam, đồng thời vô hiệu hóa các giáo hội truyền thống và hình thành các giáo hội quốc doanh làm công cụ tuyên truyền cho cuộc cách mạng long trời lở đất được dẫn dắt bởi triết học Mác – Lê, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thành tựu 20 năm tôn giáo vận ở miền Bắc sẽ là mẫu mực noi theo và cũng là bài học cho các cán bộ đảng viên chuyên trách tôn giáo vận ở miền Nam.

Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ tôn giáo vận thuộc Ban dân vận thành ủy cộng sản Hồ Chí Minh, mô tả tình cảnh tôn giáo trên miền Bắc trong một chuyến tham quan trước năm 1980 như sau :

"Hầu hết các chùa, nhà thờ ở miền Bắc mà tôi đã đến thăm đều rêu phong tàn tạ. Các nhà sư (sư ông, sư bà) lẩm cẩm sợ sệt, một báo các cụ, hai báo các cụ. Các linh mục, giám mục đóng kín cửa lạc hậu với thời cuộc. Phật tử gần như không còn gì nữa, chỉ ẩn hiện dưới dạng mê tín, cúng bái linh tinh và rất e dè trước khách lạ. Tín đồ Thiên Chúa giáo thì khổ cực, hằn sâu trong mắt họ những nét u uất thâm nghiêm, nhưng rực lửa và sẵn sàng bốc cháy khi có mồi. Đó là mối nguy lớn, chứ không phải thành công của tôn giáo vận".

(Đỗ Trung Hiếu, hồi ký "Thống Nhất Phật giáo", Uyên Nguyên tháng 11/2018).

Đỗ Trung Hiếu, dù là đảng viên cộng sản, nhưng gốc gác Phật giáo, sâu nặng tâm thức nhân bản, nên mô tả và nhận định thực tế tình cảnh tôn giáo miền Bắc như thế là chính xác. Nhưng người cộng sản chính danh chắc chắn có cái nhìn ngược lại. Nếu không, họ đã không mưu đồ thực hiện các thủ đoạn và biện pháp quản lý tôn giáo (các giáo hội và giáo dân) gian ác, khắc nghiệt như cảm nhận từ kinh nghiệm đau thương của những nạn nhân trong cuộc. Trên đại thể, Đảng cộng sản đã đem kinh nghiệm mà họ cho là thành công trên miền Bắc áp đặt tại miền Nam trong công tác tôn giáo vận, nói riêng và quản lý con người, nói chung.

Để đạt mục tiêu ấy, chỉ riêng đối với Phật giáo Ấn Quang, ngoài các thủ đoạn và biện pháp chia rẽ kềm kẹp con người, phân liệt và vô hiệu hóa giáo hội, Đảng cộng sản còn tước đoạt và giới hạn đến tối thiểu các điều kiện sinh hoạt của các cấp giáo hội như đổi tiền, cải tạo kinh tế đối với các tầng lớp Phật tử. Một khi các tầng lớp Phật tử khánh kiệt thì lấy ai đóng góp để nuôi sống giáo hội, lấy phương tiện đâu để giáo hội tiến hành các hoạt động Phật sự ? Bần cùng, vô sản hóa nhân dân là phương cách tiêu diệt tôn giáo hữu hiệu nhất.

Phật giáo Ấn Quang đến năm 1976 đã lâm vào tình cảnh khốn cùng. Chùa thành phố, chùa nông thôn đều thiếu đói trầm trọng. Đất ruộng chùa nông thôn phải giao nộp cho hợp tác xã. Chùa thành phố, sau hai lần đổi tiền, không có tiền mua gạo sắn khoai, rau muối, hương đèn, áo quần giày dép ! Đây không phải tình cảnh tôn giáo trên miền Bắc trước 1975 sao ?

Để đạt mục tiêu ấy, đối với Phật giáo Ấn Quang, Đảng cộng sản còn :

– Giải tán Trung tâm Thích Quảng Đức, Tổng vụ Thanh niên, các đoàn Sinh viên Phật tử, Thanh thiếu niên Phật tử, Hướng đạo Phật tử ở thành phố, tỉnh lị, và các Gia đình Phật tử, các Khuôn hội, Niệm Phật đường ở nông thôn.

– Giải tán và tước đoạt tài sản cô nhi viện Quách Thị Trang tại Sài Gòn và hàng chục cô nhi viện và cơ sở xã hội ở các tỉnh.

– Giải tán, tước đoạt tài sản Viện Đại học Vạn Hạnh và 163 trường trung tiểu học Bồ Đề trên khắp các tỉnh thành miền Nam. Thư viện Đại học Vạn Hạnh rất lớn chứa hàng chục ngàn đầu sách, bao gồm các thứ tiếng : Việt, Anh, Pháp, Đức, Hán, Pali, Sancrit, và hàng trăm tủ sách tại các trường Bồ Đề đều bị đốt thành tro bụi. Hàng ngàn thầy cô giáo mất việc vì không đáp ứng yêu cầu chính trị để được Đảng "lưu dung" (lưu lại mà dung tha, lưu lại mà sử dụng).

– Thư viện và kho tài liệu đồ sộ tại chùa Ấn Quang bị tịch thu và đốt thành tro buị.

– Giải tán, tước đoạt tài sản nhà xuất bản Lá Bối, tạp chí Tư Tưởng, tạp chí Liên Hoa…, đốt hàng chục ngàn đầu sách và tạp chí triết, văn, sử "đồi trụy, phản động".

– Giải tán Phật học viện Nha trang và các cơ sở đào tạo tăng ni cao đẳng, trung cấp ở nhiều tỉnh thành khác. Thư viện của Phật học viện cũng bị đốt.

Điều vô cùng bạo ngược chưa có chế độ nào làm trước năm 1975 là can thiệp vào nội dung, chương trình truyền giảng Phật pháp và cách thức tổ chức các cuộc lễ tại các chùa. Theo đó, trụ trì các chùa tùy theo tầm vóc mà được mời tới Ủy ban Mặt trận từ xã phường, quận huyện, đến tỉnh thành để "được đề nghị" kết hợp Phật pháp với các bài giảng chính trị về "sự nghiệp cách mạng của Bác, Đảng quang vinh", về "chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng vô địch muôn năm", về các cuộc chiến tranh thần thánh, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng bọn "tay sai Ngụy quân – Ngụy quyền". Đây là giọt nước tràn ly, là giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng.

Biết đấu tranh trong chế độ cộng sản là lấy trứng chọi đá, là hành động tuyệt vọng, nhưng rồi vẫn cứ đấu tranh. Những cuộc đấu tranh tuyệt vọng này của các thành viên Phật giáo Ấn Quang tạm chia thành hai thời đoạn : Trước và sau năm 1981 – thời điểm Phật giáo Ấn Quang bị đè bẹp, và Phật giáo Quốc doanh – Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Đảng cộng sản khai sinh.

Giáo hội Phật giáo Ấn Quang từ sau tháng 5/1975 gần như bị tê liệt hoàn toàn. Các lãnh tụ lừng danh một thời như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ… vẫn còn đó, nhưng không phát động được phong trào đấu tranh mà họ nung nấu vì những lý do như đã trình bày trên. Từ tháng 5/1975 đến tháng 11/1981 (thời điểm thành lập giáo hội quốc doanh), theo ghi nhận chưa đầy đủ, tại miền Nam (từ Quảng Trị-Huế đến Cà Mau) đã xảy ra các sự cố sau đây :

Bi kịch - thảm cảnh chùa Dược Sư

Chùa Dược Sư tọa lạc tại một địa điểm phía nam cách Cần Thơ khoảng 30 km. Chùa được xây dựng vào thời điểm hưng phấn nhất của Phật giáo Việt Nam : Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lần đầu tiên được thành lập sau hơn 30 năm vận động. Nhiều chùa như thế được xây dựng trên khắp miền Nam sau thời điểm đó. Trước khi có chùa, Phật tử địa phương sinh hoạt Phật sự tại tư gia, Khuôn hội, hay Niệm Phật đường. Sau khi được biết Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, Phật tử và Giáo hội nhiều địa phương do nhu cầu tín ngưỡng quyết định làm chùa và đề nghị Giáo hội trung ương cử tăng sĩ về làng. Đại đức Thích Huệ Hiền đến trụ trì chùa Dược Sư trong dịp này.

Đại đức Thích Huệ Hiền được đào tạo tại Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, đã kinh qua tù tội vì tham gia đấu tranh cho Tự do và Bình đẳng tôn giáo thời Đệ nhất Cộng Hòa. Chẳng bao lâu chùa Dược Sư trở thành trung tâm tu hành, truyền bá Phật pháp thu hút sự chú ý và tin theo của Phật tử và nhân dân địa phương về con đường Đạo pháp và Dân tộc trước hiểm họa chiến tranh, chia rẽ Dân tộc, về cuộc đấu tranh vì các mục tiêu : Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc theo chủ trương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tháng 5/1975, liền sau khi chiến tranh chấm dứt, chùa Dược Sư tổ chức lễ cầu siêu cho tử sĩ của hai bên quốc gia và cộng sản với sự tham dự của đồng bào Phật tử và nhân dân địa phương. Lúc này chính quyền "Cách mạng" tạị địa phương vẫn còn sơ khai do người Mặt trận đảm trách, chưa bị Bắc hóa, nên lễ cầu siêu đã diễn ra suôn sẻ.

Nhưng càng về sau tình trạng Bắc hóa ngày một thêm phát triển, chùa bị đặt trong sự kiểm soát của công an ngày càng gắt gao : bị đấu tố phản động vì đã tổ chức lễ cầu siêu, bị kiểm tra an ninh, bị kiểm tra nhân hộ khẩu, bị bắt giao nộp tư điền và tham gia lao động cùng hợp tác xã, bị cấm treo cờ trong các cuộc lễ, bị buộc phải "ăn nói giống như mọi người" trong mọi sinh hoạt Phật sự (phải chửi bới Mỹ-Ngụy, phải ca ngợi công lao kháng chiến của "bác Hồ" và Đảng cộng sản, phải bày tỏ sự tuyệt đối tin tưởng và trung thành với cách mạng xã hội chủ nghĩa…), bị sỉ nhục là mê tín dị đoan, lười biếng lao động, bị cảnh cáo thường xuyên về "âm mưu tụ tập phản động chống phá cách mạng", bị bắt đi lính tất cả những tăng sĩ đang độ tuổi thanh niên.

Tóm lại, tình trạng chung ngoài xã hội và riêng trong chùa ngày một bế tắt, tuyệt vọng : bị thiếu đói, bị tẩy não, bị xúc phạm nhân quyền, bị cấm đoán và can thiệp nghiêm trọng các quyền tự do, đặc biệt tự do tôn giáo ; nhà sư trụ trì Thích Huệ Hiền và 11 tăng, ni chùa Dược Sư quyết định cùng nhau tự thiêu vào ngày 2/11/1975.

Trong cuộc đấu tranh đòi Tự do và Bình đẳng tôn giáo năm 1963, bắt đầu từ hòa thượng Thích Quảng Đức, ở miền Nam đã diễn ra 8 cuộc tự thiêu. Hầu hết đều tự thiêu cá thể. Lúc bấy giờ báo chí thế giới tập trung ở Sài Gòn khá đông. Ngay từ cuộc tự thiêu đầu tiên của hòa thượng Thích Quảng Đức, các phương tiện truyền thông không phân biệt cộng sản hay tư bản đều đưa tin. Người dân Mỹ và thế giới bày tỏ sự xúc động, phẫn nộ, phản đối nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Thế giới cộng sản càng tố cáo quyết liệt hơn và cổ vũ mạnh mẽ các cuộc đấu tranh của Phật giáo đồ.

Từ sau biến cố tháng 5/1975, chính quyền cộng sản trục xuất hết "các phóng viên ngoại quốc không đáng tin cậy", thiết lập guồng máy toàn trị, thực thi chế độ quân quản, ngăn sông cấm chợ, nên vụ tự thiêu tập thể của 12 Tăng, Ni chùa Dược Sư hoàn toàn bị bưng bít : công an giấu xác, thu dọn tang chứng, chiếm cứ chùa, đe dọa, phong tỏa người dân quanh vùng (nội bất xuất-ngoại bất nhập). Mãi đến một tuần sau, thư tuyệt mệnh của Ngài Trụ trì Thích Huệ Hiền và Chư vị Tăng Ni bất khuất chùa Dược Sư mới đến được chùa Ấn Quang, nơi mà vòng vây và sự kèm kẹp, phong tỏa của công an chặt chẽ hơn bao giờ hết. Bức thư thông báo mục đích và tên tuổi 12 người tự thiêu. 

Về mục đích, nhà sư Thích Huệ Hiền "báo cáo tình trạng tuyệt vọng do Nhân quyền và quyền Tự do tôn giáo bị chà đạp, bị vi phạm nghiêm trọng hơn rất nhiều trong chế độ cũ". Bằng mọi biện pháp, chính quyền cộng sản muốn tránh một cuộc nổi dậy từ phía Phật giáo Ấn Quang. Về phía Phật giáo Ấn Quang, các vị lãnh đạo và Phật tử còn lại (đa phần đã bị đuổi khỏi chùa vì các biện pháp an ninh và hộ khẩu của công an) vô cùng bức xúc, nhưng không còn khả năng sức lực để thực hiện bất cứ một toan tính âm thầm nào : tự thiêu cá thể, tự thiêu tập thể, biểu tình, tuyệt thực…

Không có kế hoạch nào thực hiện được tại các chùa thuộc Phật giáo Ấn Quang cả vì công an chìm, mật vụ đội lốt sư tăng Phật tử đầy chùa, công an đặc nhiệm, công an phường, công an quận, công an thành, công an bộ và cả những cán bộ Tôn giáo vận, Mặt trận vào ra tấp nập, với không biết bao nhiêu mánh lới, thủ đoạn tuyên truyền, chia rẽ, hứa hẹn, hù dọa…

Chưa bao giờ Giáo hội Phật giáo Ấn Quang lúng túng, đau khổ và giằng xé như lúc này. Trong chế độ cũ, Phật giáo chủ trương, phát động các cuộc đấu tranh vì Tự do, Bình đẳng tôn giáo, Dân chủ, Hòa bình, Hòa giải – Hòa hợp Dân tộc. Tăng, ni, Phật tử và nhân dân hưởng ứng và đã hy sinh rất nhiều. Nay đã có Hòa bình, nhưng các mục tiêu khác thì không có gì cả ! Tự do, Dân chủ ? Không ! Hòa giải – Hòa hợp Dân tôc ? Không ! Cơm no áo ấm ? Không ! Hóa ra "Giáo hội Phật giáo đã làm tay sai cho chế độ cộng sản : Đưa Phật tử và nhân dân vào tròng ?". Dĩ nhiên sự thật không phải như thế, nhưng kết quả thì hoàn toàn như thế !

Làm gì và làm như thế nào trước tình cảnh khốn cùng này ? Sám hối và cầu nguyện ? Câu hỏi này giáo hội Ấn Quang đặt ra hàng triệu lần từ khi Đảng cộng sản thiết lập chế độ cai trị khắc nghiệt trên đất nước và dân tộc.

Trần Phương, trong bài "Miền Nam sau 30/4/1975 : Khi các nhà sư vỡ mộng ", viết theo nhật báo Chicago Tribune rằng "ba tuần sau thảm họa chùa Dược Sư, Hòa thượng Thích Trí Thủ…, đã gửi thư đến Chính phủ Lâm thời miền Nam để khiếu nại. Hòa thượng Trí Thủ nói rằng cán bộ cách mạng đã tịch thu chùa Dược Sư và cả thi thể các tăng ni. Bức thư được gửi cùng thư tuyệt mệnh của trụ trì Huệ Hiền, trong đó ghi lại tên tuổi 11 tăng ni và lý do tự thiêu là để yêu cầu chính phủ cách mạng "tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo"… "Qua vụ việc trên, chúng tôi hy vọng chính phủ cách mạng sẽ lưu tâm đến những gì đang diễn ra ở cấp cơ sở. Chúng tôi không muốn tin rằng vụ việc đáng tiếc trên cũng như nhiều vụ việc liên quan đến tự do tôn giáo khác phản ánh chính sách của Mặt trận Giải phóng Dân tộc và Chính phủ Cách mạng Lâm thời". "…đáng lẽ chúng tôi nên đến gặp ông để trình bày chi tiết và kín đáo hơn. Tuy nhiên, một cuộc họp như vậy có vẻ là bất khả thi, kể từ khi thống nhất chúng tôi đã xin gặp chính phủ ba lần để nói về quan điểm của giáo hội đối với vấn đề tôn giáo nhưng liên tiếp bị từ chối". "Tương tự như yêu cầu xin gặp chính phủ cách mạng, bức thư của Hòa thượng Thích Trí Thủ không được hồi đáp".

Trần Phương viết tiếp : "…Tháng 9/1976, Tổ chức Nhân quyền và Ân xá Quốc tế đã gửi thư đến Bộ Nội vụ Việt Nam để yêu cầu cung cấp thông tin (về vụ tự thiêu ở chùa Dược Sư). Khoảng sáu tháng sau, Bộ Nội vụ đã hồi đáp bức thư đó bằng một giải thích rất bất ngờ. Chính phủ cho rằng theo lời khai của các nhân chứng thì ông Phạm Văn Có (tên khai sinh của Đại đức Huệ Hiền) đã giết hai ni cô lần lược vào năm 1972 và năm 1974 sau khi ông ta làm hai người này mang thai...". "…Sau ngày giải phóng, ông Có vẫn tiếp tục nhiều hành động vô đạo đức" (…) "…vì sợ việc làm của mình bị lộ ra ngoài, ông Có đã quyết định tự sát, trước khi đốt chùa và tự thiêu mình, ông đã giết chết 11 người khác trong chùa, trong đó có hai thiếu niên".

Không thể ém nhẹm, bưng bít lâu dài, trước những phản ứng quốc tế và trước những bất mãn âm thầm nhưng quyết liệt của một số chức sắc Phật giáo Ấn Quang, chính quyền cộng sản đã "tổ chức một cuộc điều tra" với sự tham dự của đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Biên bản điều tra kết luận rằng : "Đại đức Huệ Hiền đã tự sát cùng 11 người khác vì các lý do sau : Sợ bị cách mạng trừng trị vì đã làm chỉ điểm cho Mỹ-Ngụy, không còn lương thực để sống vì trước đó được Mỹ-Ngụy chu cấp và sợ chuyện dâm ô với các ni cô bị bại lộ"… "Hòa thượng Thích Quảng Độ, lúc đó là Tổng thư ký Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, sau này trở thành Tăng thống thứ năm của Giáo hội, nói rằng ông và các vị hòa thượng Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang không chấp nhận lời giải thích của chính quyền".

Không chỉ có ba vị hòa thượng Thiện Minh, Huyền Quang, Quảng Độ "không chấp nhận lời giải thích của chính quyền", mà hầu hết chức sắc giáo hội Phật giáo Ấn Quang và Phật tử đều khẳng định rằng lời giải thích đó là vu khống trắng trợn, là nhục mạ đối với tăng ni chùa Dược Sư và với cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tuy nhiên, tùy theo mức độ dị ứng cộng sản nặng nhẹ khác nhau mà các vị lãnh đạo Ấn Quang thể hiện thái độ bất mãn mức độ khác nhau đối với chế độ.

Một số vị ôn hòa và mềm dẻo như các hòa thượng Thích Trí Thủ, Thích Minh Châu…, còn một chút hy vọng vào "công lao quá khứ" sẽ được Đảng cộng sản thừa nhận vai trò nòng cốt của một giáo hội mới trong một nước Việt Nam thống nhất sẽ đươc bầu cử sắp tới.

Một số khác đông hơn như các hòa thượng Thiện Minh, Huyền Quang, Quảng Độ, và các tăng ni trẻ như Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu, Thích Nữ Trí Hải… thì bày tỏ thái độ bất hợp tác quyết liệt. Thậm chí có vị (như Thiện Minh) thì "thà chết chứ không chịu sống mà không có Tự Do". Rất nhiều tăng sĩ, trí thức vượt biên. Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở nước ngoài tố cáo với dư luận thế giới : cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Đồng thời, thiền sư Nhất Hạnh cổ vũ cho một phát động phong trào Phật giáo đấu tranh trong nước.

Phật giáo Ấn Quang bị đàn áp

Sau thời gian dài chịu đựng các cuộc cải tạo, thảm kịch chùa Dược Sư xảy ra đã xoáy vào tâm thức Phật giáo Ấn Quang những mũi khoan đau nhức không cứu chữa được.

Ngày 6 tháng 4 năm 1977, khoảng vài trăm tăng, ni, Phật tử tập họp tại chùa Ấn Quang để thảo luận về "một thái độ ứng xử, một kế hoạch đối phó với chế độ". Cuộc hội thảo đang tiến hành thì công an ập vào bố ráp. Đàn áp thô bạo đã diễn ra. Vài chục sư tăng và trí thức Phật tử, đứng đầu là các thượng tọa Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sĩ, Thanh Thế, Thuyền Ấn, Thông Huệ…, bị bắt.

Từ đó chùa Ấn Quang bị phong tỏa ngày đêm, Phật tử chỉ được đến chùa một tháng 2 lần, đầu hoặc giữa tháng, để cầu nguyện trước bàn thờ Phật. Không còn có những buổi giảng dạy Phật pháp như thông lệ trước đó. Các chùa khác thuộc giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên khắp miền Nam đều lâm vào tình trạng tương tự. Phong tỏa, kèm kẹp, kiểm tra nhân hộ khẩu, bắt tăng sĩ trẻ vào lính, bắt bất cứ ai tình nghi chính trị vào tù. Hành hạ, tra tấn, giết chóc tàn bạo hơn rất nhiều trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều chùa bị đập phá, đóng cửa. Thêm nhiều vụ tự thiêu cá thể.

Theo Trần Phương trong bài đã dẫn : "Trong hai năm 1977-1978, ở miền Nam có thêm 18 tăng ni khác tự thiêu". Thêm nhiều vụ vượt biên.

(Cũng theo Trần Phương, "Khoảng sáu tháng sau cuộc bố ráp vào chùa Ấn Quang. Hòa thượng Thích Mãn Giác, Ủy viên trung ương trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã vượt biên đến Paris (Pháp) để tố cáo các cuộc đàn áp đạo Phật đang diễn ra rất trầm trọng tại miền Nam").

Cuộc đấu tranh của thiền sư Thích Thiện Minh

Từ sau khi bị công an đuổi khỏi trụ sở Tổng vụ Thanh niên (trung tâm Thích Quảng Đức), trong gần ba năm (từ tháng 5/1975 đến tháng 3/1978), trong điều kiện không có chùa, bị cách ly tăng thân và Phật tử, không có hộ khẩu, không có sổ gạo, bị theo dõi, kềm kẹp, dọa nạt, răn đe, sỉ nhục, kể cả dụ dỗ, mua chuộc, Thích Thiện Minh vẫn kiên trì chịu đựng, đấu tranh với chính mình, đấu tranh với cái ác để giữ tư cách và sứ mệnh của người tu hành vì Đạo pháp và Dân tộc.

phapnan3

Hòa thượng Thích Thiện Minh (1921-1978). Nguồn : Hoavouu.com

Những người ngoài cuộc không biết những gì ông trao đổi với tăng thân và Phật tử trong các cuộc giao tiếp "bất hợp pháp" mà ông tranh thủ được khi vắng bóng công an. Nhưng độc giả đời sau có thể nắm bắt được nội dung các cuộc giao tiếp ấy qua cuộc đối thoại sau đây giữa người sau này là Bộ trưởng công an Mai Chí Thọ và nhà sư Thích Thiện Minh trước khi ông bị bắt :

Mai Chí Thọ : "Có thể các thầy nói hàng ngàn người nghe, chúng tôi nói không ai nghe, nhưng chúng tôi có súng, có nhà lao, có quân đội. Tất cả chúng tôi có trong tay. Liệu các thầy có chống đối được không và chống đến bao giờ ?"

Thích Thiện Minh : "Tôi nghĩ rằng ông đã nói sai. Hơn ai hết ông biết rằng trong suốt thời gian đương đầu với Pháp và Mỹ, kẻ khác chứ không phải ông đã nói những câu tương tự như vậy. Lịch sử đã chứng minh rằng, súng đạn và nhà tù không phải là tất cả, lại càng không phải là yếu tố tất thắng. Một Ngô Đình Diệm với chín năm cai trị bằng mật vụ, một Tần Thủy Hoàng với chính sách bạo ngược đốt sách chôn học trò. Kết quả như thế nào ? Đúng, chúng tôi không có tất sắt trong tay, và các ông có tất cả. Nhưng chúng tôi biết bài học lịch sử". 

(Trần Phương, tài liệu đã dẫn).

Lời của tướng công an Mai Chí Thọ là lời đe dọa trắng trợn thể hiện lập trường sắt máu cuả Đảng cộng sản : Chỉ có súng đạn, nhà tù và tra tấn, chết chóc để thành tựu cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa và khẳng định quyền lực tuyệt đối của Đảng cộng sản.

Nhưng lời đáp trả của thiền sư Thích Thiện Minh trước sự đe dọa trắng trợn của ông Mai Chí Thọ lại là lời tuyên bố của kẻ sĩ đầy khí phách, thách đố trước bạo quyền.

Sau cuộc đối thoại chát chúa với tướng công an Mai Chí Thọ, Thích Thiện Minh bị bắt. Ông bị nhốt, thẩm vấn ở trụ sở nha cảnh sát chế độ cũ, ở trại Phan Đăng Lưu. Công an tiếp tục tra khảo ông cho đến chết ở trại giam Hàm Tân.

Một ngày cuối tháng 8/1978, hòa thượng Thích Trí Thủ được tin ông chết, đến Hàm Tân xin nhận xác. Công an không cho. Hòa thượng yêu cầu được tham dự lễ chôn cất ông. Công an bảo là không được. Hòa thượng xin được tụng cho ông một hồi kinh. Cũng không được. "Luật của trại giam như thế". Thiền sư Thích Trí Thủ chỉ được phép từ biệt khuôn mặt tím đen, méo mó của người đồng đạo, đồng hương (Triệu Phong, Quảng Trị) trong cái thùng gỗ dùng làm quan tài.

Tin thiền sư Thích Thiện Minh bị giết tại trại tù Hàm Tân lan truyền đến Huế, làm rúng động tâm thức Phật tử và cả người ngoại đạo như tôi. Cuối năm 1978, tôi có viêc đi Sài Gòn, ghé thăm hòa thượng Thích Trí Thủ tại chùa Già Lam, tiện thể để biết thêm tình hình Phật giáo Ấn Quang mà tôi rất quan tâm và cũng để biết rõ hơn về con người và cái chết của thiền sư Thích Thiện Minh mà tôi cho rằng còn nhiều điều mình chưa biết.

Trên khuôn mặt phương phi nhân hậu của nhà sư già, tôi đã diện kiến mấy lần trong năm 1974 (mời độc giả xem thêm hồi ký Không Lên Núi) vơi đi rất nhiều những nụ cười an lạc. Rất nhiều ưu tư, trăn trở ông không hề giấu giếm trong suốt buổi chuyện trò. Ông nói :

"Phật giáo nói riêng từ sau biến cố 1975 đã chuyển qua thời kỳ pháp nạn mới. Thời Việt Nam Cộng Hòa, các chế độ độc tài gia đình, quân phiệt trị còn có những kẽ hở trong cai trị và những lực cản như Mỹ, báo chí và dư luận thế giới một bên, một bên là miền Bắc và Mặt Trận, nên Phật giáo tuy bị đánh phá từ ngoài và chia rẽ từ bên trong, nhưng giáo hội Ấn Quang vẫn tồn tại và phát triển như là một lực lượng văn hóa – chính trị bày tỏ nguyện vọng hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc và nhân loại.

Ngày nay, Đảng cộng sản một mình một chợ, ngấm ngầm bảo rằng hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc chỉ là vấn đề của quá khứ, là thủ đoạn chính trị trong thời chiến, nay ‘Mỹ đã cút – Ngụy đã nhào, đất nước đã hòa bình, thống nhất, đồng bào các tôn giáo phải chung sức chung lòng cùng với Đảng cộng sản tiến hành cuộc cách mạng vô sản để đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội’.

Công tác tôn giáo vận của Đảng cộng sản từ sau biến cố 1975, thực chất là cải tạo tôn giáo. Một mặt, Đảng cộng sản thanh lọc hàng ngũ giáo phẩm theo hướng có lợi cho đường lối, sách lược của đảng. Một mặt, Đảng cộng sản giải tán các đoàn thể quần chúng tôn giáo. Mặt khác nữa, Đảng cộng sản quốc hữu hóa tất cả các cơ sở kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội của các giáo hội. Như thế, giáo hội Phật giáo Ấn Quang chỉ còn lại mấy ông già bị trói chân, trói tay. Thậm chí Đảng cộng sản còn muốn biến các ông già trong giáo hội thành cộng cụ để qua đó quy phục Phật tử tuân hành các mệnh lệnh kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự của đảng.

Thầy Thích Thiện Minh bị giết, lý do gần, vì đã nhất quyết chống đối sách lược tôn giáo vận ấy. Lý do sâu xa : Trước 1975, thầy đã công khai truyền bá tư tưởng về một mô hình ‘xã hội chủ nghĩa không cộng sản’. Trong số các đệ tử của thầy Thiện Minh có không ít người là cán bộ cộng sản nằm vùng, họ báo cáo lên trên. Như thế là Thích Thiện Minh đứng đầu sổ đen ‘những tên phản động chiến lược, mưu đồ đấu tranh tư tưởng với đảng thời hậu chiến’".

Tôi hỏi : Thưa Hòa thựơng, thế nào là Xã hội chủ nghĩa không cộng sản ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ chậm rãi :

"Xã hội chủ nghĩa không cộng sản là chế độ chính trị tam quyền phân lập, các chính trị gia ở các cơ quan công quyền được nhân dân tự do bầu chọn qua phổ thông đầu phiếu. Xã hội chủ nghĩa không cộng sản chủ trương quyền lợi và nghĩa vụ của những người cùng khổ hài hòa với các giai tầng xã hội khác. Người cùng khổ được chính quyền và các tổ chức xã hội hỗ trợ nâng cao văn hóa và các điều kiện sinh hoạt, thực tập các khả năng quản lý, làm chủ kinh tế, trách nhiệm xã hội. Con cháu họ có đầy đủ các điều kiện giáo dục để có khả năng cạnh tranh bình đẳng với con cháu các giai tầng khác. Xã hội chủ nghĩa không cộng sản không có đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, chủ trương gây căm thù qua các cuộc đấu tranh giai cấp nhằm triệt tiêu quyền tư hữu, lật đổ giai cấp Tư sản, đưa giai cấp Công nhân lên hàng thống soái. Các cơ quan công quyền trong chế độ Xã hội chủ nghĩa hành xử quyền hạn và trách nhiệm theo Hiến pháp và Luật pháp, đồng thời là trung tâm hòa giải mọi xung đột xã hội và kiến tạo môi trường sống nhân bản, hài hòa. Xã hội chủ nghĩa không cộng sản phối hợp và điều tiết hài hòa giữa Công quyền, Tư quyền (Nhân quyền, Dân quyền) và Hội đoàn quyền ; giữa Công hữu, Tư hữu và Hội – đoàn hữu ; giũa Công lợi, Tư lợi và Hội Đoàn lợi.

Mô hình chế độ Xã hội chủ nghĩa không cộng sản (còn có thể gọi là Xã hội chủ nghĩa Phật giáo) đã được giáo hội (Phật giáo Việt Nam Thống nhất) bảo trợ, bước đầu áp dụng trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành, thị xã thời chính phủ Phan Huy Quát (16/2 – 12/6/1964). Đáng tiếc là chính phủ Phan Huy Quát sụp đổ vị bị các thế lực chủ chiến tố cáo : thân Phật giáo, không kịp tổ chức bầu cử Quốc hội để kiến tạo chế độ Dân chủ – Xã hội, kiến tạo hòa bình theo dự kiến…".

Càng nghe hòa thượng Trí Thủ nói, tôi càng tò mò muốn biết nhiều hơn về vị thiền sư vừa mới tuẫn tiết. Tôi xin hòa thượng nói thêm về người bạn vong niên đồng hương, đồng đạo mà qua ngữ âm và cử chỉ, ông bày tỏ sự thương tiếc sâu nặng. Hòa thượng Thích Trí Thủ tiếp tục :

- Thiện Minh cùng quê Triệu Phong với mình, nhỏ hơn mình mười hai tuổi, vào chùa sau mình 17 năm. Thời ấy (đầu thế kỷ 20) nhiều trẻ em Triệu Phong đói, có em tìm đường vào chùa để kiếm cơm. Chùa không chỉ cho cơm mà chùa còn cho học Đạo (Phật pháp), học đời (các kiến thức văn hóa, lịch sử dân tộc, học thuật, tư tưởng phương Tây) và hun đúc thêm lòng yêu nước. Cả mình và Thiện Minh đều có duyên với Phật pháp, đều kiên trì, quyết đi hết con đường Đạo pháp và Dân tộc, không hề quay đầu lại.

- Thiện Minh thông minh, khỏe mạnh, tinh tấn, siêng năng, cần mẫn, 11 tuổi (1932) vào chùa Thuyền Tôn, trong vòng ba năm đã gây được niềm tin của tôn sư Giác Nhiên và tăng thân. Lúc bấy giờ trên cả ba miền đất nước, phong trào Chấn hưng Phật giáo phát khởi. Thiện Minh được khuyến khích thi tuyển vào lớp đào tạo tăng tài của trường An Nam Phật học. Trường An Nam Phật học được điều hành và giảng dạy bởi những giảng sư uyên thâm Phật pháp, đầy nhiệt huyết với tinh thần chấn hưng và lòng yêu nước : các thiền sư Giác Tiên, Phước Huệ, Trí Độ, Mật Thể, Mật Khế,… đặc biệt với bác sĩ Lê Đình Thám – một người say mê nghiên cứu, thực hành giáo lý đạo Phật và trong chừng mực nào đó, am hiểu tinh hoa nền văn minh phương Tây. Chính bác sĩ Lê Đình Thám đã mớm cho các học trò của mình những biểu biết ban đầu về chế độ dân chủ với mô hình tam quyền phân lập và các khái niệm Tự do, Dân chủ, Công bằng, Bác ái… An Nam Phật học đường đã đào tạo được những tăng sĩ ưu tú. Bốn người xuất sắc nhất là Trí Thuyên (đã bị Tây giết năm 1946), Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siêu.

- Cách mạng tháng 8 (1945) và kháng chiến chống Pháp nổ ra, hầu hết thầy-trò của phong trào Phật giáo Chấn hưng đều tham gia Cứu quốc. Huyền Quang ở Quảng Ngãi, Lê Đình Thám ở Liên khu 5, Trí Độ ở Liên khu 4, Trí Quang ở Quảng Bình, Mật Thể ở Thừa Thiên-Huế, Thiện Minh ở Quảng Trị… Tiếp xúc, chung đụng với kháng chiến cộng sản một vài năm, Huyền Quang, Trí Quang, Thiện Minh và nhiều người khác lục tục quay trở lại vùng Pháp và Quốc gia để tiếp tục công cuộc Chấn hưng. Còn những người khác : Trí Độ, Lê Đình Thám, Mật Thể… đi với cộng sản hết cuộc kháng chiến chống Pháp, sau năm 1954, ở lại miền Bắc.

- Thiện Minh và các tăng sĩ trẻ, sau khi từ bỏ kháng chiến, trở về Huế cùng với những người ở lại quyết định tiếp tục phục hoạt công cuộc Chấn hưng với đường hướng riêng : Đạo pháp và Dân tộc, đứng ngoài cuộc chiến tranh giữa Việt Minh – Cộng sản và xâm lược Pháp – Quốc gia (vua Bảo Đại làm quốc trưởng).

- Vào giữa năm 1947, hai thiền sư Mật Hiển, Mật Nguyện đã đề xuất ý kiến – thành lập Sơn môn Tăng già. Không lâu sau đó, Sơn môn Tăng già Thừa Thiên Huế ra đời. Giữa năm 1948, các tăng sĩ từ chiến khu về, đề nghị thành lập thêm tổ chức vòng ngoài : Hội Việt Nam Phật Học. Mọi người phấn khởi bắt tay vào việc. Như thế là khắp các tỉnh từ Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, đến Bình Định, đều hình thành được hai tổ chức "vòng trong vòng ngoài" là Sơn môn Tăng già và Hội Việt Nam Phật học. Trụ sở đầu não cấp "miền" (Trung) của hai tổ chức này đặt tại Huế. Thiện Minh được "Giáo hội miền Trung" cử vào Nha Trang xây dựng giáo hội tại địa phương này.

- Là người năng động, tràn đầy nhiệt huyết, có tài tổ chức, bất chấp khó khăn trở ngại, trong vòng sáu năm (1948 -1954), với sự tiếp sức hạn chế từ "trung ương miền Trung – Huế, Thiện Minh đã lặn lội khắp các tỉnh phía nam miền Trung : Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết và khắp các tỉnh Tây Nguyên từ Kon Tum, Gia Lai…, xuống đến Đồng Nai Thượng. Đâu đâu Thiện Minh cũng đã đặt xong nền móng giáo hội cấp tỉnh và một số Gia đình Phật tử, một số trường Bồ Đề, xây dựng được mấy chùa mới, mấy Khuôn hội, Niệm Phật đường.

- Ngoài khả năng tổ chức, Thiện Minh còn có tài thuyết phục các đồng sự, đối tác, người đối thoại và cả những ai bất đồng chính kiến.

- Giữa năm 1963, khi cuộc đấu tranh đòi tự do và bình đẳng tôn giáo trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa thời Ngô Đình Diệm đến hồi gay cấn, sau sự kiện thiền sư Thích Quảng Đức tự thiêu gây sững sốt và bất bình trong nước và thế giới, chính quyền Ngô Đình Diệm muốn làm giảm nhẹ dư luận, đề nghị Phật giáo thương thuyết. Phật giáo nắm lấy cơ hội. Tổng thống Diệm cử phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu Ủy ban liên bộ. Tham gia cùng Nguyễn Ngọc Thơ là hai ông Nguyễn Đình Thuần (bộ trưởng phủ tổng thống) và Bùi Văn Lương (bộ trưởng nội vụ). Phía Phật giáo, thiền sư Thích Tịnh Khiết, hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, cử thiền sư Thích Thiện Minh dẫn đầu Ủy ban liên phái, hai đoàn viên là thiền sư Thích Tâm Châu và thiền sư Thích Thiện Hoa. Cuộc hội đàm rất căng thẳng, diễn ra trong ba ngày, kết thúc bằng một Thông Cáo Chung với chữ ký của sáu nhà đàm phán và chữ ký xác nhận của hai nhà lãnh đạo cao nhất của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và tổng hội Phật giáo Việt Nam là tổng thống Ngô Đỉnh Diệm và hội chủ Thích Tịnh Khiết.

- Thông Cáo Chung là một thắng lợi đối với Phật giáo : 5 Nguyện vọng Phật giáo đưa ra từ đầu – một ngày sau cuộc đàn áp đẫm máu tại đài phát thanh Huế – được thỏa mãn gần hết. Do vậy, theo sự quyết đoán của cố vấn Ngô Đình Nhu, chính quyền lật lọng, xóa bỏ Thông Cáo Chung, tiếp tục các cuộc đàn áp ngày một khốc liệt hơn. Đêm 20/8, cảnh sát và lực lượng đặc nhiệm của chế độ Ngô Đình Diệm thực hiện kế hoạch Nước Lũ, tấn công vào tất cả các chùa và một số tư gia trên khắp các tỉnh thành miền Nam, đập phá, đánh đập, bắt đi 1400 tăng ni, nhân sĩ, trí thức, lãnh tụ sinh viên Phật tử. Như thế là đầu tàu Lực lượng đấu tranh của Phật giáo bị nhốt hết trong các trại giam (ngoại trừ trường hợp thiền sư Thích Trí Quang trốn thoát khỏi trại giam, tị nạn tại tòa đại sứ Hoa Kỳ), phong trào đấu tranh vì Tự do và Bình đẳng tôn giáo bị gián đoạn. Trước tình thế đó, Sinh viên, Trí thức, Đảng phái và Quân đội vào cuộc, quyết lật đổ chế độ. Ngày 1/11/1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị Quân đội (với sự đồng thuận của Mỹ) lật đổ. Phật giáo và đại bộ phận nhân dân miền Nam (ngoài Cần lao – Thiên chúa giáo) được giải thoát.

- Ngày 31/12/1963, các tông phái, các tập đoàn, hệ phái Phật giáo tổ chức đại hội tại chùa Xá Lợi để hình thành một giáo hội duy nhất lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đại hội đề ra đường hướng, cơ cấu giáo hội và soạn thảo Hiến chương. Cơ cấu giáo hội là một hệ thống bốn cấp : trung ương, miền, tỉnh (thành) và cơ sở (khuôn hội, niệm Phật đường với các đoàn thể quần chúng Phật tử). Giáo hội còn có một phòng Thông tin ở hải ngoại (Paris, do Võ Văn Ái phụ trách). Ở trung ương gồm hai viện Tăng thống và Hóa đạo. Đại lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết được cung thỉnh làm viện trưởng Viện Tăng thống. Hòa thượng Thích Tâm Châu được bầu làm viện trưởng Viện Hóa đạo. Thiền sư Thích Trí Quang được đề cử làm thư ký Viện Tăng thống. Thiền sư Thích Thiện Minh được đề cử phó viện trưởng Viện Hóa đạo, kiêm phụ trách Tổng vụ Thanh niên Phật tử…

- Trên cương vị người đứng đầu tổ chức Thanh niên, Sinh viên Phật tử toàn miền Nam, Thiện Minh đóng góp rất tích cực trong các phong trào Phật giáo Dấn thân từ 1964-1966 : chống quân phiệt Nguyễn Khánh, chống độc tài Trần Văn Hương, ủng hộ chính phủ Phan Huy Quát xây dựng Dân chủ, chống Mỹ – Thiệu – Kỳ tiến hành chiến tranh.

- Nhiều người tiếp xúc với Thiện Minh ngày càng nghe ông nói nhiều hơn về chủ nghĩa Xã hội không cộng sản. Phía Công giáo "chiến đấu" và Thiệu – Kỳ cho rằng ông hành động và nói năng chỉ có lợi cho cộng sản. Phía cộng sản cho rằng Thiện Minh muốn đấu tranh ý thức hệ với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, thách thức sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng. Thiện Minh là một tên phản động nguy hiểm trước mắt và lâu dài. Giữa năm 1966, Thích Thiện Minh bị mưu sát, nhưng chỉ bị thương nhẹ. Nhiều lời đồn đoán về kẻ chủ mưu, nhưng không có bằng chứng xác đáng để chỉ đích danh bất cứ ai.

- Sau vụ bị ám sát hụt, đặc biệt sau biến cố đẫm máu Tết Mậu thân ở Huế, Thiện Minh nhận định rằng, ‘sẽ không có chuyện hòa giải hòa hợp trong chế độ cộng sản ; nếu không thận trọng, chúng ta (Phật giáo) có thể vô tình tiếp tay cho một thứ bạo lực mà Việt Nam Cộng Hòa không sánh được’.

- Sau Hiệp định Paris, Thiện Minh khẳng định rằng, cộng sản sẽ thắng và sẽ không có gì hết ngoài bạo lực. Từ đó Thiện Minh ít lui tới chùa Ấn Quang. Năm 1974, giáo hội Ấn Quang tổ chức Lực lượng Hòa giải Dân tộc, tham gia hình thành chính phủ Dương Văn Minh ; Thiện Minh không chống đối, cũng không tham gia.

- Sau biến cố tháng 5/1975, Thiện Minh bị chính quyền cách mạng đuổi khỏi trụ sở Tổng vụ Thanh niên, lang thang khắp nơi, đến Già Lam nhưng không đến Ấn Quang. Vụ công an bố ráp chùa Ấn Quang ngày 6/4/1977, Thiện Minh không có mặt nên không bị bắt cùng các thiền sư Quảng Độ, Huyền Quang, Tuệ Sĩ…

- Thiện Minh chỉ bị bắt sau khi đối đáp thẳng thừng với bộ trưởng công an Mai Chí Thọ đầu tháng 3/1978…

- Được tin Thiện Minh bị bắt, mình chạy đôn chạy đáo, gõ khắp các cửa quyền lực, năn nỉ lạy lục đến sói đầu mà chẳng được gì. Cuối cùng Thiện minh bị giết chết trong tù (bốn tháng sau khi bị bắt), mình được công an thông báo đến thăm ở trại Hàm Tân và chỉ được phép nhìn qua khuôn mặt Thiện Minh tím bầm méo mó trong hòm.

- Là người tu hành, mình biết sống chết là lẽ thường tình, nhưng cái chết của 12 tăng ni chùa Dược Sư, cái chết của Thiện Minh cũng như những cái chết và tù đày khác dưới bạo lực cách mạng đã làm mình đau xót, giằng xé đến bất thường, có cả ăn năn sám hối. Phải chăng, giáo hội trong đó có mình đã ảo tưởng khi chủ trương hòa giải dân tộc với người cộng sản ?".

Đặt vấn đề như thế, nhưng rồi hòa thượng Thích Trí Thủ vẫn tiếp tục ảo tưởng và hợp tác với cộng sản để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam theo chủ trương và sách lược chính trị của đảng này. Phải chăng cuộc Dấn thân đầy ảo tưởng của Phật giáo Ấn Quang đến thời điểm cuối năm 1978, sau khi 12 tăng ni chùa Dược Sư tự thiêu và thiền sư Thiện Minh bị giết… vẫn chưa dừng lại được theo cái đà lăn của nó ?

Đặt vấn đề như thế vì đến thời điểm cuối năm 1981, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Đảng cộng sản khai sinh, không chỉ đa số Phật tử mà cả một số đảng viên còn giữ chút lương tri như Nguyễn Quang Huy (trưởng ban tôn giáo chính phủ), Đỗ Trung Hiếu (cán bộ tôn giáo vận thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh)…, cũng thừa nhận sự chân thành đúng đắn trong suy nghĩ về mục tiêu thống nhất Phật giáo trong tự do, nhân quyền của các vị thiền sư thuộc khối Ấn Quang, đặc biệt các vị đã có quá trình cộng tác với Việt Minh – cộng sản trong hai cuộc kháng chiến, như Thích Đôn Hậu, Thích Minh Châu, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Thủ…, có điều cái chút lương tri èo uột đó cuối cùng chỉ đủ sức lừa phỉnh các vị tu hành ngây ngô để đưa họ vào tròng làm công cụ rẻ tiền cho guồng máy gian manh toàn trị mà người đại diện trực tiếp, chính danh là các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trưởng Ban Dân vận Mặt trận, Bộ Công an thay nhau : Xuân Thủy, Nguyễn Văn Linh, Trần Quốc Hoàn.

Thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Khát vọng ngược chiều – Mạnh được yếu thua

Kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, Đảng cộng sản Việt Nam bày tỏ khát vọng độc tài toàn diện và tuyệt đối qua những cuộc cải tạo các bộ phận nhân dân miền Nam, trong đó có cộng đồng các tôn giáo. Đại hội lần thứ tư (IV) khẳng định, con đường đấu tranh cách mạng đưa đất nước đến thắng lợi Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Riêng đối với Phật giáo, công cuộc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được Đảng nâng lên tầm chiến lược (xem Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Đối với Phật giáo Ấn Quang, mặc dù rất bức xúc trước các cuộc cải tạo có tính chất khủng bố và bội tín của Đảng cộng sản, nhưng họ vẫn kiên trì mục tiêu thống nhất giáo hội trên bình diện cả nước nhằm truyền bá Phật pháp đến dân tộc và nhân loại. Khát vọng này không có vấn đề gì trong các chế độ Dân chủ Cộng hòa như Tích Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ, Úc, Tây Âu, Canada…, hay Quân chủ Lập hiến như Nhật Bản, Thái Lan, Nepal… ; tuy nhiên, đối với chế độ cộng sản là một thách thức nghiêm trọng.

Năm 1976, Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tổng thư ký Giáo hội Phât giáo Việt Nam thống nhất khối Ấn Quang, đại biểu quốc hội, gởi kiến nghị đến tổng bí thư Lê Duẩn, chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, chủ tịch quốc hội Trường Chinh và thủ tướng Phạm Văn Đồng về việc thống nhất Phật giáo. Hòa thượng nói rõ : 

"Khi đất nước bị xâm lược, tôi làm nghĩa vụ công dân (ông tham gia kháng chiến chống Pháp suýt bị giặc giết, may nhờ bà Từ Cung cứu. Trong chiến tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, ông lên chiến khu tham gia Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình với tư cách phó chủ tịch), nay đất nước độc lập, tôi trở lại chu toàn việc đạo, và trước hết là vận động cho công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam".

Theo hòa thượng Đôn Hậu, thống nhất là hợp nhất hai tổ chức : Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở miền Nam và Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở miền Bắc thành một tổ chức duy nhất có tên gọi là Giáo hội Phật giáo Viêt Nam. Giáo hội đó cam kết tuân thủ luật pháp quốc gia và đường lối chính trị mà đảng đề ra (khi thành lập Liên minh). Nhựng mọi việc thuộc về tôn giáo thì hàng giáo phẩm, tăng ni và đồng bào Phật tử quyết định (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu , tài liệu đã dẫn).

Kiến nghị của thiền sư Thích Đôn Hậu phản ảnh lập trường của giáo hội Phật giáo Ấn Quang bị Đảng cộng sản từ trên xuống dưới quy kết là xấu, nguy hiểm, phản động.

Trước tình thế đó, Đảng cộng sản, một mặt dùng bàn tay sắt giết chóc, tra tấn, tù đày và cải tạo, một mặt dùng bàn tay sắt bọc nhung – cán bộ Dân vận Mặt trận, trực tiếp là cán bộ Tôn giáo vận từ trung ương xuống địa phương nhằm đưa một số chức sắc già cả và nhẹ dạ của Phật giáo Ấn Quang vào tròng.

Thành lập Giáo hội Phật giáo Viêt Nam là một công tác chiến lược, nên Đảng cộng sản đã bỏ ra nhiều công sức, thời gian, của cải, tiền bạc.

Từ sau khi nước nhà thống nhất trên phương diện hành chánh (1976), Đảng cộng sản cử ông Xuân Thủy, bí thư Trung ương đảng, một nhà ngoại giao nổi tiếng lịch lãm tại hội nghị Paris, làm trưởng ban Dân vận – Mặt trận. Ông Xuân Thủy cũng phụ trách luôn Ban Tôn giáo chính phủ. Ông đã chọn người "lịch lãm" ở miền Bắc để sung vào Ban Tôn giáo, như Nguyễn Quang Huy chẳng hạn. Ông đã đi miền Nam nhiều lần để nghiên cứu tình hình các tôn giáo và tìm kiếm "nhân tài thạo nghề vận động tôn giáo ở các đô thị miền Nam", như Đỗ Trung Hiếu, Nguyễn Chính (nhà thơ Phan Duy Nhân) chẳng hạn.

Là nhà chính trị, ngoại giao lão luyện, nên ông Xuân Thủy khá "được lòng" các đối tượng công tác của ông. Ông cũng tạo được niềm tin và sự kính trọng tuyệt đối nơi hai người cán bộ xuất sắc mà ông đã chọn. Ông đưa Nguyễn Chính từ ban Dân vận Mặt trận Quảng Nam Đà Nẵng ra Hà Nội làm phó ban Tôn giáo (trực thuộc chính phủ), rồi quyền trưởng ban. Đỗ Trung Hiếu vừa là cán bộ tôn giáo vận của thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, vừa làm tham mưu cho ông Xuân Thủy và ban Tôn giáo chính phủ tại Hà Nội.

Qua sự tìm hiểu trực tiếp của chính mình, qua nghiền ngẫm kiến nghị của hòa thượng Thích Đôn Hậu, và cũng qua sự đóng góp ý kiến của hai người cán bộ đáng tin cậy Nguyễn Chính và Đỗ Trung Hiếu, ông Xuân Thủy có nhận định khá chính xác về các tổ chức Phật giáo nói chung, Phật giáo Ấn Quang nói riêng, về kiến nghị của hòa thượng Thích Đôn Hậu, và về công cuộc thống nhất Phật giáo như sau :

"Việc thống nhất Phật giáo Việt Nam theo tôi biết : Đảng ta chủ trương thống nhất Phật giáo của ta (Đảng cộng sản Việt Nam) với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang. Phật giáo của ta là các đoàn thể Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở miền Bắc và Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước ở miền Nam. Ở miền Bắc, Phật tử đã vào các đoàn thể quần chúng hết rồi, chỉ còn những cụ già đi lễ bái ở chùa ngày rằm, mùng một theo tục lệ cổ truyền. Sự tiêu biểu thật hiếm. Cụ Trí Độ đã luống tuổi, quanh đi quẩn lại vẫn cụ Phạm-Thế-Long, nhưng khả năng đức độ của cụ, ảnh hưởng trong nước và quốc tế hạn chế. Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước có khá hơn một tí. Cụ Minh – Nguyệt có thành tích ở tù 15 năm ở Côn Đảo, cụ Thiện-Hào có thành tích đi kháng chiến, nhưng điều Phật tử cần ở nhà sư, cả hai cụ đều hạn chế. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang là một tổ chức tôn giáo và tổ chức quần chúng có uy tín trên thế giới, nhiều nhà sư tài giỏi. Nếu thống nhất theo kiến nghị của cụ Đôn-Hậu, có nghĩa là giải thể Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước, sáp nhập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và chịu sự lãnh đạo của họ. Như thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phát triển ra toàn lãnh thổ Viêt Nam, chứ không chỉ ở miền Nam như trước năm 1975. Quan trọng là đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức áp lực chính trị thường trực đối với đảng và chính phủ Việt Nam. Thống nhất theo dự án của ban Tôn giáo chính phủ chưa ổn lắm, vì chung qui cũng đưa các cụ ở Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam và Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước xách cặp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mà thôi. Bởi vì các cụ ta đứng gần thượng tọa Thích Trí Quang sẽ bị hút vào tay áo tràng của thượng tọa hết… (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Nhận định như thế, nên ông Xuân Thủy chỉ đạo cho thuộc cấp thực hiện hai công tác cụ thể sau :

– Cố gắng tranh thủ cho được các hòa thượng Đôn Hậu, Trí Thủ và thượng tọa Trí Quang (đi theo đường lối của ta).

– Giải quyết cho được số cực đoan quá khích, đứng đầu là hai thượng tọa Huyền Quang, Quảng Độ, bằng biện pháp thuyết phục là thượng sách (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn, trang 7).

Có lẽ chỉ đạo này xảy ra sau khi Thiền sư Thiện Minh bị giết chết, tháng 8/1978. Nếu không, ông đã đứng đầu danh sách cần thuyết phục. Còn hai thiền sư Huyền Quang, Quảng Độ (bị bắt tháng từ 1977, sau hai năm ở tù, được thả ra, bị chỉ định cư trú ở Quảng Ngãi và Thái bình vì không để bị thuyết phục.

Tháng 4/1979, ông Xuân Thủy chỉ đạo tiếp về việc thống nhất Phật giáo Việt Nam gồm mấy điểm mấu chốt :

1/ Hệ thống tổ chức Phật giáo sắp tới theo hình tháp ngược và ở trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.

2/ Đạo Phật gắn với dân tộc. Nhưng thời đại ngày nay là thời đại xã hội chủ nghĩa nên phải gắn với xã hội chủ nghĩa.

3/ Nhân sự tiêu biểu là người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang, nhân sư hành động là người của ta (Đảng cộng sản Việt Nam) (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn, trang 13).

Đáng tiếc là kế hoạch ấy chưa thực hiện thì ông bị thôi chức trưởng ban Dân vận trung ương và bí thư Trung ương đảng vì đấu đá nội bộ (theo Đỗ Trung Hiếu : nhân vụ Hoàng Văn Hoan trốn sang Trung Quốc…).

Nguyễn Văn Linh, ủy viên Bộ Chính trị, được đảng cử làm trưởng ban Dân vận tiếp tục thúc đẩy công cuộc thống nhất Phật giáo.

Ngày 13/2/1980, Nguyễn Văn Linh triệu tập một cuộc họp gồm 20 vị đại diện các tổ chức Phật giáo trong cả nước để bàn về việc thống nhất. Phát biểu khai mạc, Nguyễn Văn Linh nói những lời đãi bôi đầy tính chất giả dối : "Nếu quý hòa thượng cho phép, tôi xin được gọi đạo Phật của chúng ta, và nếu quý hòa thượng không ngần ngại cũng có thể gọi Đảng của chúng ta" (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Những lời đãi bôi giả dối này cán bộ Dân vận Mặt trận quen dùng trong suốt hai cuộc chiến tranh khi đối diện với hiểm nguy gian khó, chưa nắm quyền lực, cần có sự đóng góp xương máu và chia sẻ cơm áo của nhân dân. Nhưng khi đã có quyền lực rồi thì đảng biến nhân dân thành đối tượng cải tạo : Cướp bóc, tù đày, giết chóc và tống xuất ra nước ngoài.

Hơn bất cứ ai tham gia cuộc họp, các vị thuộc Giáo hội Phật giáo Ấn Quang đã đối diện từng ngày trước quá nhiều hành động gian ác của cộng sản từ sau 30/4/1975 (như tôi đã mô tả chưa đầy đủ ở trên). Từ sau tháng 4/1975, đảng xin phép ai mà tiến hành cải tạo ? Đảng xin phép ai mà ngăn sông cấm chợ ? Đảng xin phép ai mà bán bãi vượt biên ? Đảng xin phép ai mà cấu kết với Liên Xô, tiến quân qua Cambuchia để rồi biến dân tộc, đất nước thành kẻ thù của thế giới ?… Có quá nhiều câu hỏi như thế dành cho Đảng cộng sản từ nhân dân và Phật giáo Ấn Quang. Đã như thế thì nhân dân và Phật giáo Ấn Quang không thể gọi Đảng cộng sản là "đảng của chúng ta" được.

Nói xong những lời đãi bôi gian dối thì ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh ra về, giao cho cấp phó của ông là Trần Bạch Đằng điều khiển cuộc họp. Trần Bạch Đằng từ trong chiến tranh đến nhiều năm sau 1975, công khai cáo buộc "Thích Trí Quang là CIA chiến lược". Trần Bạch Đằng cũng phản đối quyết liệt kiến nghị của hòa thượng Thích Đôn Hậu (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Thiền sư Thích Trí Quang, Thiền sư Thích Đôn Hậu là linh hồn, là nhà chiến lược, là trụ cột của Phật giáo Ấn Quang đến thời điểm này (1980). Mà Phật giáo Ấn Quang là giáo hội có tầm cỡ to lớn, tập trung nhiều nhân vật "phản động" nhất trong số các tổ chức Phật giáo lúc bấy giờ.

Đảng cộng sản cử Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng đứng ra chủ trì công tác chiến lược Thống nhất Phật giáo là dấu chỉ báo hiệu chẳng có gì hay ho ở phía trước. Sau hai ngày chủ trì cuộc họp, Trần Bạch Đằng nặn ra được một tổ chức mị dân là Ban vận động thống nhất Phật giáo, năn nỉ hòa thượng Thích Trí Thủ làm trưởng ban. Hòa thượng Thích Đôn Hậu từ chối tham gia, nhưng cuối cùng có tên trong danh sách với chức danh cố vấn cùng hòa thượng Thích Đức Nhuận là "nhân sự hành động của ta".

Hòa thượng Thích Đôn Hậu bày tỏ thái độ không bằng lòng. Các thiền sư kiên định lập trường Phật Pháp – Dân tộc, Tự do – Dân chủ, Nhân quyền và Nhân loại trong viện Hóa đạo như Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sĩ, Trí Siêu, sư cô Trí Hải…, và các thiền sư miền Trung phản đối quyết liệt.

phapnan4

Trần Quốc Hoàn (trái) và Xuân Thủy. Nguồn : Quân đội nhân dân

Lại có thay đổi từ trung ương. Nguyễn Văn Linh thôi ủy viên Bộ Chính trị và trưởng ban Dân vận, về làm bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Bạch Đằng thôi chức phó ban Dân Vận, về hưu. Trần Quốc Hoàn thôi bộ trưởng công an, vẫn là ủy viên Bộ Chính trị, bí thư trung ương đảng, về làm trưởng ban Dân vận trung ương, kiêm ban Tôn giáo chính phủ.

Trần Quốc Hoàn 30 năm làm bộ trưởng Công an, ngoài các thủ đoạn bạo động hiểm độc với những ai ông cho là kẻ thù nguy hiểm, ông còn lão luyện trong các mánh lới chính trị với các đối tượng cần tranh thủ. Ông lắng nghe ông Nguyễn Quang Huy ở Ban Tôn giáo Chính phủ sau khi ông này đi điều nghiên ở Sài Gòn về. Ông tỏ ra chăm chú lắng nghe Đỗ Trung Hiếu, chuyên gia tôn giáo vận của thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về tình hình Phật giáo tại miền Nam. Ông dễ dàng chấp nhận đề án thống nhất Phật giáo của "người cán bộ đảng viên sùng Phật" mà ông đã từng nghe tiếng khi còn ở Hà Nội.

Có điều, cũng như ông Xuân Thủy, người đồng nghiệp tiền nhiệm, ông Trần Quốc Hoàn thấy cần bảo vệ quyền lãnh đạo toàn diện tuyệt đối và lợi ích của đảng hơn "nguyện vọng tha thiết và chính đáng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và đồng bào Phật tử là một bộ phận của nhân dân trong vùng địch chiếm được giải phóng còn rất nhiều phức tạp". Do vậy, theo chỉ đạo của ông :

Một mặt, ban Dân vận trung ương, ban Tôn giáo chính phủ và bộ phận Tôn giáo thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện cho Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam "hoạt động tự do và tích cực với sự bảo vệ âm thầm của công an" nhằm giải tỏa các dồn nén của họ. Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam long trọng soạn thảo Hiến Chương với rất nhiều hy vọng, đề xuất nhân sự với sự "giúp đở" của Ban Tôn giáo Chính phủ và bộ phận Tôn giáo vận thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là hai ông Đỗ Trung Hiếu và Nguyễn Quang Huy.

Mặt khác, các thiền sư Huyền Quang, Quảng Độ bị lực lượng chuyên chính vô sản quản thúc tại Bình Định và Thái Bình (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Cuối cùng ông Trần Quốc Hoàn chỉ đạo cho thuộc cấp, đặc biệt hai cán bộ chủ chốt là Nguyễn Quang Huy và Đỗ Trung Hiếu thực hiện nghiêm chỉnh cương lĩnh ba điểm ông Xuân Thủy để lại :

1/ Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức theo hình tháp ngược và ở trong Mặt trận Tổ quốc.

2/ Đạo pháp gắn với Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.

3/ Nhân sự tiêu biểu là người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khối Ấn Quang, nhân sự hành động là người của ta.

Chúng ta diễn giải thêm về ba điểm chỉ đạo trên của ông Xuân Thủy :

1) Chỉ tổ chức các ban bệ và các chức danh ở trên, không có các tổ chức, đoàn thể Phật tử ở dưới. Như thế là Phật Ấn Quang không có quần chúng để tổ chức hội thảo, ra tuyên ngôn, gởi kiến nghị, tuyệt thực, tổ chức xuống đường đấu tranh như thời Việt Nam Cộng Hòa được nữa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đảng thành lập chỉ còn là một đoàn thể như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu Chiến binh… đặt dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc.

2) Gắn với xã hội chủ nghĩa là phải hội nhập Phật pháp với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải ủng hộ các cuộc cải tạo, cướp đoạt, tù đày, giết chóc… do Đảng cộng sản đề xướng, phát động và lãnh đạo. Tuyệt đối không được tự ý hành động từ bi hỉ xả (muốn thực hiện từ bi, hỉ xả phải xin phép đảng), càng không đấu tranh dân chủ, tự do, nhân quyền.

3) Các hòa thượng, thượng tọa khối Ấn Quang chỉ được đảng lựa chọn để sắp xếp vào các chức danh tiêu biểu, ngồi chơi xơi nước. Nhân sự hành động là các "nhà sư của Ta", là đảng viên cựu chiền binh hay công an đội lốt tăng ni vào chùa nhất nhất chấp hành mệnh lệnh của đảng.

Ông Xuân Thủy quả thật là một chính trị gia thâm hiểm, Đảng không cần ra lệnh, Chính phủ không cần ký quyết định giải thể, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, khối Ấn Quang mà Đảng cổ xúy đấu tranh trong thời chiến và ông bí thư trung ương đảng "ngưỡng mộ" trong hòa bình sẽ tiêu vong theo kế hoạch ba điểm của ông.

Ông Trần Quốc Hoàn còn nham hiểm hơn ông Xuân Thủy một bậc. Ông đã biến các hòa thượng, thượng tọa của Phật giáo già nua, nhẹ dạ và các cán bộ tôn giáo vận "sùng Phật" như Đỗ Trung Hiếu thành những con rối hăm hở đi xây dựng một giáo hội mà sau này người đời gọi một cách mỉa mai là "giáo hội quốc doanh", làm công cụ cho Đảng cộng sản mà cứ tưởng mình đã hành động đúng đắn có lợi cho Đạo pháp và Dân tộc.

phapnan5

Trần Quốc Hoàn (trái) và Xuân Thủy. Nguồn : UPI và Bảo tàng Công an nhân dân

Thời điểm dự kiến khai mạc hội nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào cuối năm 1981, nhưng từ đầu năm 1980, hai ông Nguyễn Quang Huy và Đỗ Trung Hiếu với sự chỉ đạo sít sao của ban Bí thư, ban Dân vận Trung ương, thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, và sự góp sức của công an, của các cơ quan chính quyền liên hệ từ trung ương xuống địa phương đã tất bật tiến hành các khâu chuẩn bị. Họ "giúp đỡ" Ba Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam (Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam) "hoàn chỉnh Hiến Chương" và điều đình cùng các nhóm Phật giáo sắp xếp nhân sự.

Để thấy rõ sự nghiêm trọng của vấn đề, mời độc giả đọc mấy dòng sau đây trong hồi ký của Đỗ Trung Hiếu :

"Nội dung (Hiến Chương) để Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam tự đề ra và quyết định. Ban Tôn giáo chính phủ và ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh theo dõi từng bước để giúp đỡ và phản ánh với ban Dân vận, cần thì báo cáo với ban Bí thư và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

"Tháng 8 năm 1981, Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam gởi dự thảo Hiến Chương cho ban Dân vận Trung ương và ban Tôn giáo chính phủ, sau một tuần đã có ý kiến bổ sung như sau :

– Lời nói đầu thêm đoạn…

– Chương II đến chương IV thêm "…và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa".

– Chương V điều 18 qui định hoạt động của Giáo hội gồm váo trong 6 ban một cách hình thức.

– Chương VI, từ điều 23 đến 26, 27 : tổ chức Giáo hội teo dần và cơ sở là Tự viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường, tức lấy chùa làm cơ sở chứ không phải lấy quần chúng Phật tử làm đơn vị cơ sở của tổ chức Giáo hội.

Như vậy tinh thần của cụ Xuân Thủy được thể hiện trong bản Hiến chương này… (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

– "Tôi cố xoay xở về nhân sự cho các bên đều vui lòng, rất vất vả. Ban Tôn giáo chính phủ giao tôi chịu trách nhiệm các tỉnh miền Nam. Anh Huy phụ trách các tỉnh miền Bắc và thường xuyên quan hệ với tôi để giải quyết các vấn đề khúc mắc. Ban Bí thư cho một nguyên tắc :

"Pháp chủ, chủ tịch, tổng thư ký Hội đồng trị sự, ban Tôn giáo chính phủ trình ban Bí thư duyệt.

– Các thành phần khác trong Hội đồng chứng minh và Hội đồng trị sự, anh Huy và tôi được quyền thông qua khỏi báo cáo.

"Đó là một cố gắng, chúng tôi tranh thủ Ban Bí thư và đã được quyết.

"…Nhân sự tiêu biểu đã xong. Nhân sự hành động, anh Huy đề cử thượng tọa Thanh Tứ và anh Trần Khánh Dư, tôi đề nghị thượng tọa Từ Hạnh và bà Nguyễn thị Thanh Quyên. Ban Bí thư thấy chưa đủ sức lèo lái Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đề nghị anh Huy và tôi tham gia. Cả hai chúng tôi đều từ chối…" (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Bị nhào nặn như thế nên Giáo hội Ấn Quang, nhất là Ôn Già Lam (từ của Đỗ Trung Hiếu) vô cùng bức xúc, phát biểu : "Thống nhất kiểu này tới cũng khó mà lui cũng khó". Tất cả đã bị vào tròng. Cái mà Nguyễn Văn Linh nói "Đảng của chúng ta" như thế đó !

Ngày 1/11/1981,140 đại biểu tề tựu đông đủ tại Hà Nội.

Ngày 4/11/1981 hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam khai mạc tại chùa Quán Sứ. Hội nghị thông qua Hiến Chương, mô hình tổ chức giáo hội, chức năng quyền hạng trách nhiệm của các cơ quan ; suy tôn, suy cử các chức sắc lãnh đạo từ chóp bu xuống dưới. Cơ cấu giáo hội gồm ba cấp : Trung ương, tỉnh và quận-huyện.

Ở trung ương gồm Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự. Dưới địa phương chỉ có Ban Trị sự.

Không có các tổ chức quần chúng Phật tử.

Đứng đầu Hội đồng Chứng minh là Pháp chủ. Hòa thượng Thích Đức Nhuận, phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (một tổ chức do đảng lãnh đạo, không có quần chúng Phật tử) được suy tôn làm pháp chủ tiên khởi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Đôn Hậu được ghi tên làm phó Pháp chủ đặc trách giới luật (ông không tham dự hội nghị này, ông chống từ đầu cho đến ngày viên tịch 23/4/1992, theo Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Đứng đầu Hội đồng Trị sự gọi là chủ tịch. Hòa thượng Thích Trí Thủ, nguyên viện trưởng Viện Hóa đạo của Phật giáo Ấn Quang được suy tôn vào chức vụ này. Phó chủ tịch Hôi đồng Trị sự là hòa thượng Thích Trí Tịnh, nguyên viện phó Viện Hóa đạo Ấn Quang.

Ngày 7/11/ 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra mắt trước báo chí và truyền thông trong và ngoài nước.

Tổ chức được Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một thắng lợi to lớn của đảng và chính quyền cộng sản.

"Thường vụ Thành ủy đánh giá việc thống nhất Phật giáo Việt Nam là một thành công kỳ diệu".

"… Ban Bí thư khen sự chỉ đạo nhạy bén, sát thực tế của Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dầu suốt thời gian sóng gió thường vụ Thành ủy im hơi lặng tiếng. Ban Tôn giáo mỗi người lên một bậc lương. Riêng anh Nguyễn Quang Huy lên hai bậc, lên Vụ trưởng vụ Tôn giáo ban Dân vận Trung ương, rồi Trưởng ban Tôn giáo chính phủ" (Hồi ký Đỗ Trung Hiếu, tài liệu đã dẫn).

Thống nhất Phật giáo, Đảng cộng sản không chỉ bày mưu tính kế, bỏ công sức, mà còn tiêu tốn của cải, tiền bạc : mua vé máy bay, sắp xếp nơi ăn chốn ở, xe cộ đi lại, tổ chức hội trường… từ A đến Z, đảng bao tuốt. Do vậy, dân gian gọi Giáo hội Phật giáo Việt Nam là giáo hội quốc doanh (như mậu dịch quốc doanh, nông trường quốc doanh…) chẳng có gì là xuyên tạc, bởi : "Ai chi tiền, người đó làm chủ".

Trong ý đồ hủy hoại tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, từ gốc rễ, đảng đưa công an, con buôn vào chùa giả dạng tăng ni thực hành ma đạo, nhanh chóng biến môi trường tu hành thanh tịnh thành chợ trời buôn Thần bán Phật ồn ào náo nhiệt, bày biện muôn hình vạn trạng mê tín dị đoan. Đảng còn hào phóng chọn rừng đẹp, cấp đất rộng, cấp tiền nhiều, cấp phép qua loa, cẩu thả cho sư quốc doanh xây chùa lớn, đúc tượng to, tổ chức Pháp thoại hoành tráng, làm "du lịch tâm linh".

Nhiều lãnh tụ đảng, quan lại tham nhũng và tư sản đỏ liên kết với sư tăng ma đạo, tiến hành bùa phép hối lộ Phật Thánh để giải trừ ác nghiệp, thăng quan tiến chức, củng cố quyền lực. Đảng đưa "Bác Hồ" vào ngồi chung với Phật, Thánh, Thần trong các chùa, đình và bàn thờ gia tiên, đưa học thuyết Mác-Lênin vào chương trình giảng dạy tại các Phật học viện. Như thế là "Từ Bi Hỉ Xả, Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc, Hòa Bình Nhân Loại" bị xiềng chung với "Căm Thù Giai Cấp – Đấu Tranh Cách Mạng, Ta Nhất Định Thắng, Địch Nhất Định Thua".

"Căm Thù Giai Cấp – Đấu Tranh Cách Mạng, Ta Nhất Định Thắng, Địch Nhất Định Thua" đồng nghĩa với cướp của giết người, công cụ hóa và hủy diệt phần còn lại của Dân tộc và Nhân loại.

Năm 1981 đánh dấu một giai đoạn Pháp Nạn mới chưa từng thấy trước 1975 trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất khối Ấn Quang bị giải thể không kèn không trống. Giáo hội Phật giáo Việt Nam lên ngôi với chữ ký xác nhận (ngày 29/12/1982) của bộ trưởng Đặng Thí thay mặt chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như thế là Giáo hội Phật giáo quốc doanh được công an bảo kê, được báo đài ngày đêm quảng cáo nghênh ngang truyền bá "Phật – pháp – Mác – Lênin", nghênh ngang chiếm chùa, dụ dỗ, răn đe, kèm kẹp, xua đuổi, bắt bớ, tù đày và giết hại những tăng ni không chịu khuất phục.

Hai thiền sư Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị theo dõi chặt chẽ hơn ở nơi chỉ bị định cư trú, Thiền sư Thích Đôn Hậu bị cô lập tại chùa Thiên Mụ, thiền sư Thích Trí Quang bị canh chừng nghiêm ngặt hơn tại chùa Ấn Quang, các tăng sĩ thế hệ sau như Thích Tuệ Sỹ sau hai năm ở tù được thả ra và Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) bị cắt hộ khẩu lang thang đói khổ khắp chốn, hết Sài Gòn đến Đồng Nai, Nha Trang và ngược lại, hết chùa này đến chùa nọ, hết nhà Phật tử này đến nhà Phật kia, không có nơi nào cưu mang họ được cả vì công an địa phương chờ sẵn để xua đuổi họ, như hoàn cảnh khốn cùng của thiền sư Thích Thiện Minh sáu năm trước.

phapnan6

Từ trái : Hòa Thượng Phước An, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Hòa thượng Thích Đức Nhuận và Thích Tuệ Sỹ. Ảnh : Uyên Nguyên

Phản ứng sinh tồn của các thiền sư bất phục chế độ ngày càng trở nên quyết liệt trong tuyệt vọng

1/ Một nhóm tăng, ni trung niên trí thức đi "làm rẫy". Từ "làm rẫy" là nguyên văn trong một lời nhắn của thiền sư Thích Nhất Hạnh gởi kèm theo gói tiền cứu trợ sau khi Giáo hội Phật giáo quốc doanh thành lập. Từ sau 1975, trước tình hình thiếu đói của các tăng thân trong nước, thiền sư Thích Nhất Hạnh đang ở nước ngoài thường gửi tiền và thuốc tây về cứu trợ. Tết 1981, ngoài tiền và thuốc như mọi năm, thiền sư Thích Nhất Hạnh còn gửi kèm một câu hỏi :

– Sao các tăng, ni trẻ không đi "làm rẫy" ?

Câu hỏi này không gợi ý các thiền sư bất phục chế độ đi kinh tế mới như các thành phần quần chúng khác, mà gợi ý "Đi Lập Chiến Khu". Huỳnh Văn Tòng, đệ tử của thiền sư Thích Trí Quang, bạn tôi, kể như thế khi tôi đến nhà hỏi anh về vụ Lê Mạnh Thát (Thích Trí Siêu), Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải… bị bắt. Anh bình luận thêm :

"Vài ba, năm bảy nhà sư nam nữ chân yếu tay mềm, thiếu đói mà đi lập chiến khu để chống lại Đảng cộng sản, là ông vua chiến khu suốt hai cuộc kháng chiến, đang làm chủ tuyệt đối tài nguyên quốc gia với hàng triệu đảng viên, hàng triệu bộ đội cụ Hồ và hàng triệu công an trang bị tận răng, là câu chuyện không tưởng, là huyền thoại đối với bất cư ai mới nghe qua.

Tuy nhiên cái không tưởng, cái huyền thoại ấy lại là "sự thật" trước tình hình đất nước và nhân dân ngày càng bị đẩy vào cuối đường hầm bế tắt và tuyệt vọng. Hơn bất cứ thành phần quần chúng nào, người trí thức, đặc biệt trí thức Phật giáo, biết rõ nguyên nhân của sự bế tắt và tuyệt vọng ấy : Đảng cộng sản phát triển tham – sân – si đến đỉnh điểm của các tầng cao, sâu và rộng. Có thể tóm tắt kết quả sách lược đối nội và đối ngoại của Đảng cộng sản từ sau 1975 vào hai điểm sau đây :

– Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đẩy đại bộ phận nhân dân miền Nam thành nạn nhân, công cụ hay kẻ thù, phí phạm tài nguyên quốc gia, khiến lòng người cả nước thêm ly tán, gieo rắc đói khổ khắp nơi, nhà tù rộng mở, tòa án và pháp trường vang vọng phán quyết án lệnh tử hình, đất nước trở thành ngục tù, người người trốn chạy.

– Cấu kết toàn diện với Liên Xô, nuôi thù với Mỹ, tiến công Campuchia, Đảng cộng sản biến đất nước thành kẻ thù của thế giới còn lại, nhân dân Việt Nam trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc từ phía Trung Cộng.

Trước tình hình ấy, ở Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh), hai "nhà tu hành trí thức trung niên" Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) tập họp lực lượng. Tham gia cùng hai ông là các nam nữ nhà tu hành cũng trung niên trí thức như Thích Nguyên Giác, Thích Như Minh, Thích nữ Huệ Khương, Thích nữ Trí Hải và vài chục nam nử Phật tử cùng trang lứa.

Ở đây xin mở một ngoặc đơn để làm rõ nhóm từ "nhà tu hành trí thức trung niên". Những vị này, đến thời điểm 1981, tuổi đời trên dưới 40, học tập, trưởng thành trong nền giáo dục – văn hóa Việt Nam Cộng Hòa và Tây phương. Họ nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, triết học, tôn giáo, văn học nghệ thuật Dân tộc, phương Đông và phương Tây bài bản và sâu rộng hơn các thiền sư thế hệ trước. Đồng thời họ tiếp thu Phật pháp qua các Tôn Sư tại chùa, tại Phật học viện, qua kinh sách Hán ngữ và các cổ ngữ Pali, Sancrit. Họ đồng thời là nhà tu hành, nhà thơ, nhà văn, học giả, giáo sư sử dụng thông thạo nhiều ngoại ngữ và cổ ngữ : Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Pali, Sancrit.

Bình sinh họ nghiêng về chế độ Dân chủ tam quyền phân lập và dị ứng với chế độ cộng sản toàn trị. Trước 1975, họ tham gia các phong trào đấu tranh vì các mục tiêu Tự do Bình đẳng tôn giáo, Nhân quyền, Dận chủ, Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc. Họ ý thức mạnh mẽ trách nhiệm, quyền hạn công dân và Trí thức trước vận mệnh Dân tộc và Nhân loại.

Sau biến cố1975, sau các cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa mà Trí thức là đối tượng hàng đầu, nhất là sau khi Giáo hội Quốc doanh được nhà nước cộng sản khai sinh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị đẩy lùi vào quá khứ ; những tăng, ni trung niên trí thức như Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích nữ Trí Hải…, chỉ còn một lựa chọn duy nhất là dấn thân vào cái chết trên chiến hào hoặc trên pháp trường để kích thích tinh thần đấu tranh của thanh niên và mọi tầng lớp quần chúng, đồng thời gây tiếng vang đến người Việt ở nước ngoài và dư luận quốc tế.

Sự chọn lựa, dấn thân trong vô vọng và bi tráng ấy chắc chắn sẽ có một kết cục thôi là họ bị bắt bởi vì mật vụ, công an chìm theo sát từng bước chân những người bất phục. Có thể họ sẽ bị đày đọa và giết chết trong ngục tù như thiền sư Thích Thiện Minh năm 1978. Chắc chắn hơn là họ sẽ bị Đảng cộng sản công khai tuyên bố những hình phạt nặng nề nhất nhằm răn đe, ngăn chặn những ý đồ, mưu toan nổi dậy âm ỉ trong nhân dân".

Nhận định của Huỳnh Văn Tòng khá thỏa đáng đối với tôi. Tuy nhiên, những thông tin anh cung cấp đối với tôi là chưa đầy đủ và cần kiểm chứng. Từ nhà anh, tôi đi thẳng tới chùa Già Lam với hy vọng hòa thượng Thích Trí Thủ sẽ cho tôi biết thêm điều gì ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ không để tôi ngồi chờ lâu như lần đầu tôi xin gặp (giữa năm 1974, khi đó ngài đang có khách). Chùa Già Lam, lần này (tháng 4/1984) cũng như lần trước (tháng 8/1978, tôi đến sau cái chết của thiền sư Thiện Minh), trông buồn rầu ảm đạm. Vị trụ trì còn buồn rầu, ảm đạm hơn. Tôi ái ngại nhìn ông, hỏi :

– Thưa, Thầy đang bệnh ?

– Ừ, mình đang bệnh, một căn bệnh không chữa được. Căn bệnh tiềm ẩn từ sau 1975, phát tán từ sau khi mình tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tức Giáo hội quốc doanh).

Hòa thượng Thích Trí Thủ nhìn tôi. Ông nói chậm, nói rõ từng tiếng. Ông còn như đang nhìn vào chính mình, đang tra vấn mình ? Phải chăng ông đang sám hối ? Tôi đâm hoảng khi nghĩ đến điều này. Khi một nhà tu hành chân chính sám hối công khai là vấn đề đã trở nên trầm trọng, là "căn bệnh không còn đường cứu chữa". Tôi cung kính :

– Thưa Thầy, lỗi do Đảng cộng sản, đâu phải tại Thầy ?

Ông tiếp tục nhìn tôi, và nhìn sâu hơn vào chính mình :

– Đành rằng, không có mình, Đảng cộng sản cũng sẽ làm như thế. Nhưng có mình (tham gia hình thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam), họ làm dễ hơn. Họ duy vật, vô thần, chống phá tôn giáo là tất nhiên. Còn mình, là người tu hành, lại tiếp tay với họ để hủy diệt tôn giáo và loại bỏ giáo hội của mình là một tội lỗi, dù lòng mình không như thế. Đó tại vì mình bất trí, nhẹ dạ, cả tin. Đến thời điểm này, 1984, mình mới hiểu tường tận về Đảng cộng sản mà mình đã từng kêu gọi Phật tử và mọi người hợp tác. Thì ra, họ không có gì cả, ngoài tham – sân – si. Tội của mình không nhỏ…

Tôi xin ngừng ở đây vài phút để tự tra vấn chính mình. Đến lúc này, khi ngồi viết những dòng này, tôi cảm thấy có cái gì đó trong tôi chưa được sáng tỏ và rõ ràng là mâu thuẫn : Tôi lên án, chê bai vai trò tay sai, công cụ của Giáo hội quốc doanh, nhưng tôi chưa hề kết tội hòa thượng Thích Trí Thủ là sư quốc doanh, là tay sai, công cụ của Đảng cộng sản, mặc dù ông là một trong hai chức sắc có vai vế cao nhất trong Giáo hội quốc doanh tay sai công cụ đó.

Tôi đã gặp hòa thượng Thích Trí Thủ năm lần, tại chùa Già Lam. Ba lần khoảng giữa năm 1974 với tư cách là người của Phong trào đô thị của Mặt trận Giải phóng để nghe ông nói về Lực lượng Hòa giải, về Ủy ban Cứu đói, về sự hỗ trợ cho cuộc biểu tình của ký giả đòi tự do báo chí mà Giáo hội Ấn Quang đang tiến hành. Lần thứ tư sau cái chết của thiền sư Thích Thiện Minh vào cuối năm 1988 với tư cách cá nhân, từng là công cụ của chế độ trong chiến tranh đã và đang ăn năn sám hối. Lần thứ năm này, vào tháng 4 năm 1984, để có thêm những thông tin về vụ các tăng, ni trí thức Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Tuệ Sỹ, Thích Nữ Trí Hải… bị bắt.

Tôi biết về hòa thượng Thích Trí Thủ nhiều hơn qua những lần trò chuyện với thiền sư Thích Đức Tâm, đệ tử tâm phúc của ông, và qua những câu chuyện tình cờ nghe được từ những người bạn Phật tử ở Huế như Phan Đạm Hiệp, Tôn Thất Kỳ, Phạm Thị Xuân Quế… Tôi còn biết thêm về ông sau khi đọc Hồi ký của Đỗ Trung Hiếu (tài liệu đã dẫn). Tất cả đều để lại trong tâm trí tôi sự tôn kính và thương cảm đối với ông.

Theo tôi, ông là nhà tu hành chân chính, thật thà, trung hậu. Ông yêu Quê hương Đất nước và thực hành Phật pháp trong bối cảnh chiến tranh tàn khốc với ngoại nhân và xâu xé Dân tộc. Đi với cộng sản, ông như người cứu hộ lên nhầm thuyền (của bọn cường khấu) giữa biển trời mù mịt sóng to bão lớn. Ông tự nhận mình "bất trí" và ông đã sám hối vì sự "bất trí" này.

Trong vòng 30 năm giữa thế kỷ 20 (từ 1945 đến 1975) hàng chục triệu người Việt Nam đã "bất trí" tin theo sự hứa hẹn "Độc lập - Tự do – Hạnh phúc", đã hăng hái "Thi đua – Đoàn kết – Yêu nước, Hòa giải – Hòa hơp Dân tộc" dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, không ngại hy sinh gian khổ, liều chết tham gia hai cuộc kháng chiến "thần thánh" chống Pháp, chống Mỹ. Đến khi "kháng chiến thắng thắng lợi" thì Đảng cộng sản trói chặt mọi người trong câu khẩu hiệu : "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội". Và một câu khẩu hiệu khác đầy tính chất lật lọng, phản trắc, răn đe, bạo động : "Không yêu chủ nghĩa xã hội là khộng yêu nước". Mà không yêu nước theo quan điểm, chỉ thị và quyền lực toàn trị của Đảng cộng sản thì chỉ có bắt bớ, tra tấn, tù đày và chết chóc…

Trở lại chùa Già Lam với cuộc thăm viếng gián đoạn của tôi.

Tôi thưa với hòa thượng Thích Trí Thủ rằng pháp nạn của Phật giáo cũng là tổn thất và nỗi đau của tất cả các cộng đồng Dân tộc. Nhân dân cần biết sự thật với cuộc "nổi dậy" của các tăng, ni, Phật tử bị đàn áp. Đấu tranh cho tự do tôn giáo vào thời buổi này trên đất nước này cũng là đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Xây dựng đất nước, là trách nhiệm trường kỳ của mọi người. Xin thầy cho tôi biết cảm nhận của thầy về những lời đồn đoán rằng chùa Ấn Quang, chùa Già Lam là xuất phát điểm của một chiến khu ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ nhìn tôi với đôi mắt hiền từ và bao dung. Ông nói :

"Những lời đồn đoán như thế là không có căn cứ. Nếu chùa Ấn Quang và chùa Già Lam chủ trương thành lập chiến khu thì đâu còn có chỗ cho anh ngồi ở đây hôm nay ? Tất cả đã trở thành bình địa rồi. Chúng ta đang sống trong chế độ cộng sản. Trong bất cứ chế độ nào, Phật giáo vẫn chủ trương bất bạo động. Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, không có pháp môn nào khuyến khích bạo động cả".

Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã đưa ra câu hỏi ngớ ngẫn. Nhưng rồi tôi vẫn tiếp tục chất vấn ông : Thưa thầy, vậy thì các vị tăng, ni Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải… bị bắt, vì lý do gì ?

Hòa thượng Thích Trí Thủ quay trở người một chút. Trong tích tắc, ông lấy lại tự chủ, nói :

"Hơn mười ngày qua mình cũng tự hỏi và hỏi quanh như anh. Mình đã đi khắp các cơ quan có thẩm quyền, lạy sói đầu (mệnh đề này ông lặp lại, lần trước ông đã nói với tôi trong vụ Thiện Minh), xin bảo lãnh cho họ (Chu Sơn : Các tăng ni Phật tử nổi dậy), nhưng rồi đều bị từ chối. Mãi đến ngày hôm qua, thứ Hai, mình được mời ra trụ sở Ủy ban Mặt trận thành phố để nghe một cuộn băng ghi lại lời nói, nội dung các cuộc họp của một tổ chưc Phật tử hô hào lật đổ chế độ, mình nhận ra giọng nói của mấy người thân quen. Lần trước, năm 1988, như anh đã biết, mình không cứu được Thiện Minh. Lần này, mình cũng không cứu được Trí Siêu, Tuệ Sỹ, Trí Hải… Từ sau khi ở trụ sở Ủy ban Mặt trận về, mình không ngừng tự chất vấn : Mình ở trong giáo hội làm gì mà không cứu ai được cả ? Người tu hành đã từng dấn thân (trong các cuộc đấu tranh kêu đòi Tự do, Dân chủ trước 1975) mà không cứu được ai thì cũng không cứu được mình".

Tôi rời chùa Già Lam mà lòng nặng trĩu. Một tuần sau, tôi bàng hoàng nghe Huỳnh Văn Tòng báo tin, hòa thượng Thích Trí Thủ đã qua đời tại bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện Vì Dân do chế độ cũ để lại). Tôi theo Tòng lên bệnh viện Thống Nhất, và đã tháp tùng trong đoàn rước linh cữu của ông về chùa Già Lam.

(Trước tôi và Tòng mấy bước là ông Nguyễn Hộ, một người cao lớn, trưởng ban Dân vận Mặt trận thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Mấy tháng sau, ông Nguyễn Hộ rời bỏ ngôi biệt thự to đẹp tại trung tâm thành phố ra vùng căn cứ kháng chiến xưa, sống trong căn lều tuềnh toàng tự dựng lấy cạnh bờ sông để nhìn nước chảy bèo trôi. Có người nói ông Nguyễn Hộ đi lập chiến khu. Huỳnh Văn Tòng nói ông từ bỏ vai trò và những đặc quyền đặc lợi cán bộ cao cấp trong Đảng cộng sản để ăn năn sám hối trọn đời…).

Tôi tham dự trọn vẹn tang lễ vị hòa thượng mà tôi kính trọng. Trong suốt thời gian ấy, tôi luôn nghĩ về tình cảnh khắc nghiệt mà những người bất phục chế độ đang chịu đựng trong tù. Tôi rùng mình nghĩ đến sự đày đọa và cái chết thảm khốc của thiền sư bất khuất Thích Thiện Minh. Tôi theo dõi quá trình tù tội của họ. Rất nhiều nhân vật và tổ chức đấu tranh Nhân quyền quốc tế lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do.

Tháng 9 năm 1988, chính quyền cộng sản đưa vụ "chống đảng, lập chiến khu" ra tòa. Hai án tử hình dành cho Thích Trí Siêu – Lê Mạnh Thát và Nguyên Chứng Thích Tuệ Sỹ, án 4 năm tù giam dành cho Thích Nữ Trí Hải…

45 ngày sau, không biết vì lý do gì, án tử hình của hai vị thiền sư Tuệ Sỹ, Trí Siêu giảm xuống còn 20 năm tù giam, án 4 năm tù giam của ni sư Trí Hải được xóa trắng do một phiên tòa khác.

10 năm sau, năm 1998, Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ được trả tự do.

Thích Trí Siêu ra tù, hợp tác với chế độ, tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh), nhận chức giáo sư, phó viện trưởng viện Phật học Thành phố Hồ Chí Minh.

Thích Tuệ Sỹ ra tù, tham gia cùng các hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đấu tranh theo chủ trương của hòa thượng Thích Đôn Hậu.

phap0

Các vị nhân sĩ trí thức trong Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam : Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Tiến sĩ Lê Văn Hảo và bà Nguyễn Đình Chi. Ảnh tư liệu NĐX chụp 1968.

2/ Các hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ cùng hàng vạn tăng ni Phật tử tham gia cuộc đấu tranh kêu đòi phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, kêu đòi Tự do, Dân chủ, Nhân quyền.

Để hiểu rõ hơn về cuộc đấu tranh này, tôi xin tóm lược tiểu truyện của ba vị hòa thượng theo các tài liệu : Thích Đôn Hậu (Bách khoa toàn thư mở Wikpedia), Tiểu sử và Công hạnh của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (gdptvietnam.org), Sơ lược Tiểu sử Đại Trưởng lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (1928-2020), Chặng đường dài đấu tranh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (từ năm 1975 đến nay).

Các tiểu truyện này, tôi tập trung vào những hành động đấu tranh và những khổ nạn mà ba vị đã nếm trải trong chế độ cộng sản. Những thành tựu tôn giáo và văn hóa to lớn rất đáng trân trọng, không là nội dung trong bài viết nhỏ này.

Hòa thượng Thích Đôn Hậu

Sinh năm 1905 tại làng Xuân An, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, tên khai sinh là Diệp Trương Thuần, con ông Diệp Văn Kỷ và bà Nguyễn Thị Cựu.

Ông Diệp Văn Kỷ là một thầy thuốc nổi tiếng, sử dụng thành thạo Hán Nôm và hâm mộ đạo Phật. Bà Nguyễn Thị Cựu mất sớm khi con trai Diệp Trương Thuần mới 9 tuổi. Vợ chết, ông Diệp Văn Kỷ xây chùa, học Phật, tu tập, về sau xuất gia làm trụ trì chùa Long An, rồi chùa Tịnh Quang ở Quảng Trị.

Ông mời thầy dạy chữ Nho cho con trai trong vòng 10 năm với hy vọng cậu sẽ thành đạt trên con đường Phật pháp. Diệp Trương Thuần khỏe mạnh, to cao, có ngoại hình tuấn tú, chẳng những không trở ngại gì, mà còn hoan hỉ trước đường hướng xuất gia do cha gợi mở.

Năm 1924, khi 19 tuổi, Diệp Trương Thuần vào chùa Tây Thiên, Huế, xin xuất gia với tổ sư Tâm Tịnh. Là một tăng sĩ có học vấn cao, Phật pháp và lao tác chuyên cần, phẩm hạnh tốt, giới luật nghiêm túc, Thích Đôn Hậu nhanh chóng gây được niềm tin và sự yêu quý của sư tổ và tăng thân. Chỉ một năm sau ngày xuất gia, 1925, ông đã được thụ đại giới Cụ Túc tại giới đàn Từ Hiếu do Bổn sư làm đàn chủ.

Theo sách Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX – Tập I, do Thích Đồng Bổn chủ biên, sau khi Bổn sư viên tịch, ông tới học Phật với sư huynh Giác Tiên ở chùa Hồng Khê. Theo Nguyễn Lang (trong Việt Nam Phật giáo Sử Luận), thiền sư Đôn Hậu còn học Phật với các đại sư Huệ Pháp, Viên Thành, Hồng Khê và Phước Huệ. Ông bắt đầu và hoàn tất chương trình tiểu học và đại học tại chùa Thập Tháp (1 năm ở Bình Định) và tại chùa Tây Thiên (Huế, những năm còn lại (1927- 1936).

Từ 1932, ông đã được mời làm giảng sư hội An Nam Phật Học. Năm 1836, ông được mời làm giáo sư cho Phật học đường và luật sư cho Sơn Môn Thừa Thiên. Năm 1945, ông được ủy nhiệm trụ trì chùa Linh Mụ và làm hội trưởng Hội An Nam Phật Học. Năm 1946, ông làm chủ tịch Phật giáo Liên Hiệp Trung Bộ (Phật giáo cứu quốc – Chu Sơn).

Đến năm 1947, ông bị quân đội Pháp bắt giữ và tra tấn trong nhiều tuần lễ, nếu không nhờ bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại can thiệp, thì ông đã bị quân Pháp đưa ra xử bắn.

Năm 1951, Sơn môn Tăng già Trung phần mời ông giữ chức giám luật. Năm 1952, khi Giáo hội Tăng già Toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, ông cũng được mời giữ trách vụ giám luật.

Ông làm chủ nhiệm tạp chí Liên Hoa từ 1959 đến 1966. Năm 1963, ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm giam giữ vì tham gia tích cực vào phong trào chống chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ này.

Năm 1964, ông nhận chức Chánh Đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Van Hạnh. Năm 1975, ông được thỉnh vào Hội đồng Trưởng lão của Giáo hội và làm Chánh Thư ký cho Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

(Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử lược, trang 972-973).

***

Đoạn tiểu truyện trên đây, Nguyễn Lang (thiền sư Thích Nhất Hạnh) viết với hình thức biên niên, nên độc giả dễ dàng nhận ra rằng, tác giả cố tình không nhắc đến một giai đoạn rất quan trọng trong đời của hòa thượng Thích Đôn Hậu – giai đoạn ông công khai đứng về phía cộng sản miền Bắc chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khi đó, sách Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX – Tập I, Thích Đồng Bổn chủ biên, viết rõ về Thích Đôn Hậu giai đoạn này như sau :

"Từ năm 1968, Ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Ngài vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, Ngài càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Đạo ích Đời.

– Tháng 1/1968 : Phó Chủ tịch Liên minh Các lực lượng Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Tháng 6/1968 : Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam.

– Năm 1970, đi tham quan văn hóa, tôn giáo ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Đại hội thành lập tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình" (nguyên văn).

Những thông tin trích dẫn trên đây là sự thật lịch sử. Có điều cái sự thật lịch sử đó lại được bình luận theo sách lược tuyên truyền của tất cả các loa cộng sản, rằng là hòa thượng Thích Đôn Hậu đã hành động "lợi Đạo ích Đời" trong giai đoạn ông đi về phía Đảng cộng sản.

Xin mở ngoặc đơn để nêu một câu hỏi đặt ra cho nhóm chủ biên Thích Đồng Bổn là "Đạo" nào và "Đời" nào ở đây ? Phải chăng "Đạo" là Đạo cộng sản, là ý thức hệ Mác – Lênin và "Đời" là đất nước và xã hội tại những lãnh thổ do các Đảng cộng sản Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc… cai trị toàn diện và tuyệt đối ?

Theo tôi (Chu Sơn), "Đạo" và "Đời" ấy nhất thiết không phải là đạo và đời của nhân dân Việt Nam, bao gồm các cộng đồng Phật tử, giáo dân Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo và cả những người vô thần không cộng sản… Bởi vì Đảng cộng sản từ khi mới thành lập (1930), cho đến thời điểm "định hướng xã hội chủ nghĩa" này (2021), vẫn chủ trương duy vật, vô thần, vô đạo (vô tôn giáo).

Đề nghị độc giả đọc lại từ đầu bài viết này để cùng tôi thấu rõ nhóm từ cực kỳ lưu manh gian trá của Đảng cộng sản : "Lợi Đạo ích Đời".

***

Trở lại câu chuyện tác giả Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) "cố tình không nhắc đến" một đoạn đời rất quan trọng của hòa thượng Thích Đôn Hậu, tôi nêu ra ở trên.

Trong sách Việt Nam Phật giáo sử lược, Nguyễn Lang dành nguyên một chương (chương XXXVI) để viết về Thế Đứng và Con Đường của Phật giáo Việt Nam từ sau 1954 ở miền Nam. Thế Đứng và Con Đường đó là Độc lập và Trung lập trong cuộc chiến tranh giữa hai thế giới tư bản – cộng sản và hai quốc gia "miền Nam", "miền Bắc" trên lãnh thổ Việt Nam.

Theo Nguyễn Lang, sự chọn lựa Thế Đứng và Con Đường ấy thể hiện đúng đắn bản chất Trung Đạo của Phật pháp. Bất cứ ai đi lệch Thế Đứng và Con Đường ấy không còn là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (khối Ấn Quang) nữa.

Điều này Nguyễn Lang không nói ra, cũng như trong tiểu mục "Thiền sư Đôn Hậu", ông cố tình không nhắc tới chuyện hòa thượng Thích Đôn Hậu từ năm 1968, công khai đứng về phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và thế giới cộng sản, nhằm đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa dưới chiêu bài Liên minh Các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình.

Đây là vấn đề tế nhị. Đương nhiên, Thiền sư Đôn Hậu không biết gì và cũng không có trách nhiệm trực tiếp về cuộc tắm máu Tết Mậu Thân tại Huế – nơi ông vừa tạm xa để đón quân Giải phóng về. Và năm 1972, ông cũng không biết gì về đạn pháo của "quân ta" đã làm nên "Đại Lộ Kinh Hoàng" trong "Mùa Hè Đỏ Lửa" với hàng ngàn thân xác dân Quảng Trị và bắc Thừa Thiên, đa phần là những người già, phụ nữ, trẻ em tung tóe máu xương da thịt trên đường chạy về phía nam lánh nạn.

Tuy nhiên, không chỉ những người chống Phật giáo, mà những Phật tử trung thực, kể cả thiền sư Đôn Hậu, sau năm 1975, về lại Huế, đã ăn năn, sám hối vì đã "bất trí" (từ của hòa thượng Thích Trí Thủ) tin những lời đường mật của cộng sản : Dân tộc, Dân chủ, Hòa bình.

Tôi có căn cớ để chứng minh khẳng định của mình : Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã dành trọn những năm cuối cuộc đời tu hành, cho đến hơi thở cuối cùng, để làm người bất phục, làm "tên phản động mới", kêu đòi Tư do, Dân chủ, Nhân quyền trong chế độ cộng sản toàn trị. Đây là hành động sám hối cụ thể rất đáng trân trọng và ca ngợi.

Theo tài liệu Chặng Đường Dài Đấu Tranh Của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất  của Phan V. Anh, tôi ghi chép các sự kiện :

– Năm 1978, thời điểm phát triển đến đỉnh điểm tình trạng khủng bố đàn áp của chính quyền cộng sản đối với giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, hòa thượng Thích Đôn Hậu, với tư cách cá nhân, tuyên bố từ nhiệm chức danh đại biểu Quốc hội và thành viên chủ tịch đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (ông được bầu trước đó, năm 1976). Cùng thời điểm này, với tư cách chánh thư ký Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ông gởi kháng thư đến nhà cầm quyền Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phản đối việc bắt bớ giam cầm trái phép các chức sắc cao cấp của Giáo hội, tố cáo việc sát hại Thiền sư Thích Thiện Minh, đòi trả tự do cho các Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ…

– Năm 1980, trong buổi họp do Nguyễn Văn Linh, bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh chủ trì tại cơ quan Mặt trận Tổ quốc thành phố, hòa thượng Thích Đôn Hậu với tư cách chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, phản đối ý đồ công cụ hóa giáo hội trong việc thành lập Ban Vận động Thống nhất Phật giáo của Đảng cộng sản.

– Năm 1981, nhà nước cộng sản tổ chức đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hòa thượng Thích Đôn Hậu không tham dự. Nhưng sau đó tên ông được công bố là thành viên cao cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam với chức danh đệ nhất phó pháp chủ kiêm giám luật. Bằng một văn thư ông phản đối việc làm không chính đáng của Đảng cộng sản và từ chối bất cứ chức danh nào trong giáo hội do nhà nước sắp đặt. Ông khẳng định Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn tồn tại hợp pháp, và ông với tư cách chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống có trách nhiệm đấu tranh bảo vệ nó.

– Năm 1982, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gởi văn thư đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam phản đối việc thành lập Hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam chiếm trụ sở trung ương Hội đồng Lưỡng viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang.

– Năm 1984, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gởi văn thư phản đối Đảng cộng sản đã bắt bớ, giam cầm các tăng ni Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, Thích nữ Trí Hải, Thích Nguyên Giác…

– Năm 1985, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gửi văn thư đến bộ trưởng công an Mai Chí Thọ, yêu cầu trả tự do cho các tăng sỹ Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Nguyên Giác…

– Năm 1991, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, gởi thông điệp đến các tổ chức Phật giáo cùng Phật tử ở nước ngoài, đề nghị thành lập một giáo hội hợp nhất lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại, phối hợp hành động cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong nước, đấu tranh bảo vệ sự tồn tại và phát triển Giáo hội, đấu tranh cho Tự do Tôn giáo và Nhân quyền. Phật tử và các tổ chức Phật giáo hải ngoại nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của hòa thượng.

– Ngày 15/11/1991, hòa thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký thường trực Viện Tăng thống, gởi Di thư đến Phật tử và các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong và ngoài nước lời kêu gọi cuối cùng : Trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng phải bảo vệ chánh pháp, bảo vệ và phát triển Giáo hội. Hòa thượng Thích Đôn Hậu khẳng định Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là Giáo hội duy nhất truyền thừa của Phật giáo Dân tộc có lịch sử 2000 năm. Ngài trao quyền điều hành Giáo hội cho các hòa thượng Thích Huyền Quang (được ngài chỉ định giữ chức viện trưởng Viện Hóa đạo), Thích Pháp Tri và Thích Quảng Độ với nhiệm vụ trước mắt là tổ chức Đại hội VIII và đặc biệt lưu tâm đến Giáo hội ở hải ngoại.

– Ngày 23/4/1992 hòa thượng Thích Đôn Hậu qua đời tại chùa Linh Mụ. Ông vừa tắt thở thì cán bộ cộng sản bao gồm Mặt trận, công an, ban Tôn giáo chính phủ tràn vào tuyên bố sẽ làm chủ tang lễ và tang lễ sẽ cử hành theo nghi thức và chế độ chính sách dành cho cán bộ cao cấp có công với cách mạng. Điều này trái với lời căn dặn của hòa thượng nhiều ngày trước lúc lâm chung : Giáo hội sẽ tổ chức tang lễ cho ông thật đơn giản, trang nghiêm, đạo vị, miễn tất cả các nghi thức tang lễ thịnh hành như điếu văn kêu khóc bi ai, tuyên dương công trạng tài đức tốt, trái với tinh thần vô ngã, vô tướng của Phật pháp.

Một cuộc đấu tranh căng thẳng diễn ra giữa đệ tử của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu là các tăng sĩ Thích Nhật Liên, Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng… với cán bộ cộng sản để giành quyền tổ chức tang lễ. Cuộc đấu tranh căng thẳng đến độ khi tập thể tăng sĩ chùa Linh Mụ tuyên bố, nếu nhà nước cộng sản lấn tới, họ sẽ đồng loạt tuyệt thực trước linh cữu của Tôn sư. Trước thái độ quyết liêt của các tăng sĩ chùa Linh Mụ, chính quyền cộng sản nhượng bộ.

Đồng thời, một cuộc cuộc đấu tranh khác đã diễn ra khi hòa thượng Thích Huyền Quang xin phép chính quyền Quảng Ngãi đi Huế dự đám tang cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, chính quyền từ chối. Hòa thượng Huyền Quang tuyên bố tuyệt thực cho đến chết, chính quyền đành cho đi. Hòa thượng Huyền Quang đi Huế, làm chủ tang lễ vị thiền sư bất khuất, tiếp nhận vai trò lãnh đạo giáo hội theo sự ủy thác của Ngài. Cuộc đấu tranh bảo tồn và phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chuyển thế hệ.

Cuộc đấu tranh của các sư tăng đệ tử hòa thượng Thích Đôn Hậu :

Ngày 6/1/1983, có 56 hòa thượng, thượng tọa, đại đức và sư tăng ở 17 chùa tại Huế, ký kiến nghị số 1 gởi Ban tôn giáo chính phủ phản đối nhà nước can thiệp vào nội bộ Phật giáo. Kiến nghị tố cáo đích danh các cán bộ đội lốt người tu hành trong ban lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến nghị kêu gọi Đảng cộng sản tôn trọng hiến pháp 1946, tôn trọng tự do tín ngưỡng.

Ngày 12/4/1993, thượng tọa Thích Long Trí dẫn đầu ba đoàn xe chở tăng ni, Phật tử từ Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng đi Huế dự lễ giỗ đầu cố hòa thượng Thích Đôn Hậu. Đoàn xe bị công an ngăn chặn trên đeo Hải Vân. Các tăng ni Phật tử xuống xe tràn ra lòng đường ngồi trong tư thế kiết già, tuyên bố sẽ tuyệt thực cho đến chết… Công an đành cho đi. Cũng trong ngày, một ni cô 16 tuổi ở Quảng Ngãi tự thiêu để cúng dường Tam Bảo.

Ngày 21/5/1993, một nam Phật tử khoảng 50 tuổi đã tự thiêu lúc 9 giờ sáng trước ngôi bảo tháp cố hòa thượng Thích Đôn Hậu trong khuôn viên chùa Linh Mụ. Công an canh gác chùa Linh Mụ đã bao vây khủng bố cướp xác và các vật dụng tùy thân (túi xách, tâm thư, giấy tờ) của đương sự và ảnh chụp của du khách).

Sau vụ tự thiêu này, đài phát thanh Huế loan báo : "Một thanh niên nghiện ngập, mắc bệnh si-đa, quá thất vọng cuộc đời nên đã tự thiêu chết". Các sư tăng chùa Linh Mụ thiết lập một bàn vong trước bảo tháp với bảng ghi : "Một Phật tử đã vị pháp thiêu thân lúc 9 giờ sáng ngày 21/5/1993". Công an lập tức dẹp bàn vong này.

Ngày 22/5/1993, đại đức Thích Trí Tựu gởi thư khiếu nại đến Ủy ban nhân dân tỉnh đòi trả lại xác Phật tử tự thiêu cùng xách tay và giấy tờ tùy thân của ông để chùa Linh Mụ lo tang lễ.

Ngày 24/5/1993, buổi sáng, công an đến chùa Linh Mụ "mời" đại đức Thích Trí Tựu tới trụ sở Ủy ban nhân dân để "trao đổi". "Cuộc mời" thực tế là "cuộc bắt". Đến gần trưa, các sư tăng, Phật tử chùa Linh Mụ và các chùa thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thừa Thiên – Huế, khoảng 4.000 người, kéo đến Ủy ban nhân dân tỉnh làm cuộc biểu tình giải vây cho đại đức Thích Trí Tựu. 20 vị sư tăng ngồi tuyệt thực trên đường Lê Lợi, trước Ủy ban Nhân dân. Đại đức Thích Trí Tựu được giải thoát về chùa Linh Mụ.

(Tôi, Chu Sơn, tình cờ chứng kiến cuộc biểu tình này và cũng tình cờ gặp một người bạn, Nguyễn Chính – thi sĩ Phan Duy Nhân, đang làm phó Ban Tôn giáo Chính phủ, từ Hà Nội vào để "giải quyết cuộc khủng hoảng". Nguyễn Chính nói nguyên văn : "Bộ công an gởi vào một tiểu đoàn chó nghiệp vụ. Tôi mong là không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra…". Đúng như Nguyễn Chính nói, ngày đó, 24/5/1993, không có gì đáng tiếc xảy ra, không có đàn áp, chó nghiệp vụ không xuất hiện cắn xé người biểu tình trên đường phố Huế, Thích Trí Tựu được giải thoát, cuộc khủng hoảng tạm thời lắng xuống. Đó là công lao của phó Ban Tôn Giáo Nguyễn Chính).

Ngày 27/5/1993 đại đức Thích Trí Tựu gởi một thỉnh nguyện thư tới thủ tướng chính phủ và chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Thỉnh nguyện thư gồm 3 điểm :

1/ Yêu cầu chính quyền chấm dứt tình trạng khủng bố, bắt bớ giam cầm hay quản chế trái phép các thành phần đấu tranh bất bạo động.

2/ Trả lại tự do cho các trí thức, những tù nhân lương tâm.

3/ Trả lại toàn bộ các cơ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã bị chánh quyền cưỡng đoạt từ sau năm 1975.

Ngày 5/6/1993, xe tăng bao vây chùa Linh Mụ, công an vào chùa với lệnh bắt giam đại đức Thích Trí Tựu. Đại đức Thích Trí Tựu, giám tự chùa Linh Mụ bị chửi rủa, bị vật té xuống đất, bị lột y tăng, thay bằng áo quần tù nhân, bị còng tay, bị tống lên xe bịt bùng chở thẳng đến nhà tù Thừa Phủ, không qua xét xử. Cùng thời điểm đó, ở Quảng Trị, đại đức Thích Hải Tạng trụ trì chùa Long An và đại đức Thích Hải Thịnh cũng ở trong tình trạng tương tự.

Ngày 18/11/1993, qua một phiên tòa không có luật sư bào chữa, các đại đức Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng mỗi người bị kết án 4 năm tù ; các đại đức Thích Hải Thịnh, Thích Hải Chánh mỗi người bị kết án 3 năm tù ; 6 Phật tử bị kết án từ 6 tháng đến 3 năm tù.

Vụ đồng bào Phật tử Huế xuống đường và những vụ đàn áp, bắt bớ, tra tấn, tù đày diễn ra trước và sau đó tại Thừa Thiên – Huế – Quảng Trị, gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế, trong Phật giáo Quốc Doanh và Phật giáo Quốc Lủi.

Tại Quảng Ngãi, hòa thượng Thích Huyền Quang ra một Tuyên ngôn tố cáo Đảng cộng sản Việt Nam là nguyên nhân của đói nghèo, là lực cản trên con đường phát triển của Đất nước, Dân tộc. Ông kêu gọi Đảng cộng sản bỏ điều 4 Hiến pháp (đảng cai trị toàn diện và tuyệt đối), trả lại các quyền Tự do, Dân chủ cho Nhân dân. 

Hòa thượng Thích Huyền Quang

Tên thật là Lê Đình Nhàn, con ông Lê Vy và bà Ngô Thị Tư, sinh năm 1920 tại làng An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

phapnan8

Hòa thượng Thích Huyền Quang

Năm 1935, thiếu niên Lê Đình Nhàn xuất gia học Phật với lão sư Chơn Hạ Đạo. Lão sư qua đời, ông tới chùa Bích Liên học Phật với sư tăng Chơn Hạ Giám, được tôn sư đặt tên là Thích Huyền Quang.

Năm 1938, tăng sĩ Thích Huyền Quang theo học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh.

Đầu năm 1945, ông ra Huế theo học trường An Nam Phật Học. Thời cuộc biến đổi : chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, thực dân Pháp quay trở lại, Đảng cộng sản thành lập chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chủ trương chống pháp.

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, phụ trách phó chủ tịch hội Phật giáo cứu quốc Liên khu 5.

Năm 1951, ông bị chính quyền cộng sản bắt giam trong vòng 4 năm vì chủ trương tự do tôn giáo trong vùng kháng chiến.

Năm 1955, trong vùng kiểm soát của chính quyền Quốc Gia (Bảo Đại – Ngô Đình Diệm), ông tham gia quản giáo tại Phật học đường Long Sơn, Nha Trang. Năm 1958, ông tham gia thành lập tu viện Nguyễn Thiều và Phật học viện Nguyễn Thiều.

Năm 1963, ông giữ chức vụ phó hội trưởng Hội Phật học Trung phần.

Năm 1963, ông tham gia cuộc đấu tranh kêu đòi bình đẳng và tự do tôn giáo, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt.

Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, ông được cử giữ chức thư ký Viện Hóa đạo kiêm tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.

Từ năm 1964 đến năm 1966, ông tham gia các phong trào Phật giáo đấu tranh chống độc tài quân phiệt, chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc ; cùng với Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, ông chủ trương xây dựng đất nước theo mô hình "Chủ nghĩa xã hội không cộng sản" hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội Phật giáo.

Từ năm 1975 đến tháng 4/1977, trong chế độ cộng sản, thiền sư Thích Huyền Quang cảm thấy đau khổ, tuyệt vọng và bất phục trước các cuộc cải tạo và cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản.

Tháng 4/1977, trong một cuộc họp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang, thiền sư Thích Huyền Quang bị bắt cùng các thiền sư Thích Quảng Độ, Thích Thuyền Ấn, Thích Thông Bửu… bị giam ở số 4 Phan Đăng Lưu. Sau 18 tháng tù, ông bị kết án 2 năm tù. Sau 2 năm tù, ông được tha với lệnh quản chế tại chỗ.

Cuối năm 1981, nhà nước cộng sản thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thiền sư Huyền Quang phản đối quyết liệt. Ông bị chỉ định cư trú tại chùa Hội Phước tỉnh Nghĩa Bình, bị cấm "hành nghề tôn giáo".

Năm 1992, Hòa thượng Thích Đôn Hậu qua đời, ông tranh đấu quyết liệt với chính quyền cộng sản Quảng Ngãi mới được đi Huế dự đám táng vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Qua di huấn của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, ông được trao quyền lãnh đạo Viện Hóa đạo, kiêm thường trực viện Tăng thống.

Năm 1992 (ngày 25/6), tại Quảng Ngãi, ông gởi kháng thư đến các cơ quan hữu trách của chính quyền, phản đối tình trạng đàn áp, khủng bố đối với tăng sĩ và Phật tử, tố cáo ý đồ tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của Đảng cộng sản.

Trong nhiều tháng liền, ông gởi thư đến nhà cầm quyền tố cáo những sai lầm nghiêm trọng của Đảng cộng sản trong việc quản lý đất nước, đàn áp nhân dân, vi phạm các quyền tự do dân chủ. Đồng thời, ông kêu gọi tăng ni, Phật tử, trong tinh thần bất bạo động, cương quyết đấu tranh bảo vệ chánh pháp, bảo vệ và củng cố Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ngày 2/11/1993, hòa thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên bố, tố cáo Đảng cộng sản là nguyên nhân của đói nghèo, là lực cản trên con đường phát triển của Dân tộc. Ông đòi viết lại Hiến pháp, xóa bỏ điều 4 – xóa bỏ độc tài toàn trị của Đảng cộng sản.

Ngày 5/11/1994, Hòa thượng Thích Huyền Quang, viện trưởng Viện Hóa đạo, xử lý thường vụ Viện Tăng thống bị cưỡng bức thay đổi địa bàn quản chế : Từ chùa Hội Phước – thị xã Quảng Ngãi đến chùa Quang Phước – thuộc huyện miền núi Nghĩa Hành. Sự thay đổi này nhằm hạn chế đến tối thiểu sự giao tiếp giữa vị hòa thượng đấu tranh với cộng đồng Phật tử và quần chúng nhân dân đang thiếu đói cơm áo, công lý và tự do, nhân quyền.

Ngày 21/4/2000, nhân mùa Đảng cộng sản huênh hoang kỷ niệm 25 năm chiến thắng, hòa thượng Thích Huyền Quang gửi thư đến các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước, yêu cầu thực thi "Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống", đề nghị lấy ngày 30.4 làm Ngày Sám hối và Chúc sinh Toàn quốc.

Tháng 2/2003, hòa thượng Thích Huyền Quang được nhà nước cho ra chữa bệnh tại Hà Nội, nhân dịp này ông diện kiến thủ tường Phan Văn Khải, yêu cầu chính phủ hủy bỏ các hành động can thiệp vào nội bộ Phật giáo, công nhận tính chất hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, trả tự do cho các tăng ni, Phật tử bị bắt. Thủ tướng Phan Văn Khải không đáp ứng được các yêu cầu của ông.

Hòa thượng Thích Huyền Quang từ Hà Nội về, chính quyền cộng sản chuyển địa bàn cư trú của ông từ chùa Quang Phước, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi vào tu viện Nguyễn Thiều, tỉnh Bình Định. Tu viện Nguyễn Thiều gần nơi thị tứ hơn nhưng sự kềm kẹp của công an cộng sản càng siết chặt hơn.

Cuối tháng 9/2003, một cuộc tập hợp được tổ chức âm thầm tại tu viện Nguyễn Thiều, hòa thượng Thích Quảng Độ dẫn một nhóm tăng ni, Phật tử đồng sự từ Sài Gòn ra, các nhóm tăng ni, Phật tử khác từ các tỉnh miền Trung tới. Cuộc tập họp được gọi là Đại hội Bất Thường nhằm mục đích củng cố, phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Đại hội Bất thường đã tôn cử hòa thượng Huyền Quang vào chức vụ viện trưởng Viện Tăng thống và hòa thượng Quảng Độ vào chức vụ viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đại hội tiến hành tới đó thì công an ập vào giải tán. Các tăng ni bị buộc trở lại nơi xuất phát. Từ đó, hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ và các tăng sĩ bất phục bị kiểm soát chặt chẽ hơn.

Ngày 5 tháng 7 năm 2008, hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời tại tu viện Nguyễn Thiều. Từ đó, hòa thượng Thích Quảng Độ thay ngài chủ trì công cuộc đấu tranh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đương đầu với chế độ cộng sản.

Hòa thượng Thích Quảng Độ

"Hòa thượng Thích Quảng Độ tên khai sinh là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928 tại xã Nam Thanh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình làm nghề nông, theo Nho học và đời đời sùng tín Phật pháp. Thân phụ ông là cụ Đặng Phúc Thiều, tự là Minh Viễn, thân mẫu là cụ bà Đào Thị Huân, pháp danh là Diệu Hương".

(Trích nguyên văn Sơ lược Tiểu sử Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ… do Văn phòng Thường trực Hội đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan biên soạn).

Năm 1934, thiếu niên Đặng Phúc Tuệ theo học trường làng, đến năm 1942 xuất gia tại chùa Linh Quang, tỉnh Hà Đông, do lão tăng Thích Đức Hải trụ trì, sư phụ đặt tên Phật là Thích Quảng Độ. Sau đó tiểu tăng Thích Quảng Độ được bổn sư gởi tới tu học tại chùa Quán Sứ – Hà Nội.

Năm 1952, Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại miền Bắc tổ chức cho thanh niên tăng Thích Quảng Độ du học tại Phật học viện Pirivena – Tích Lan.

Kết thúc chương trình tu học tại Tích Lan, tăng sĩ Thích Quảng Độ du khảo các di tích và trung tâm Phật giáo tại Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Tây Tạng.

Năm 1958, ông trở về Sài Gòn làm giảng viên tại các Phật học đường, tiếp tục nghiên cứu Phật pháp, nghiên cứu lịch sử, văn hóa và văn học dân tộc, dịch kinh, viết sách.

Năm 1963, ông tham gia phong trào Phật giáo đấu tranh kêu đòi chính phủ Ngô Đình Diệm tôn trọng tự do và bình đẳng tôn giáo. Ông bị bắt trong chiến dịch Nước Lũ (ngày 20/8/1963) và được giải thoát cùng với 2000 tăng ni và Phật tử khác, sau cuộc đảo chính do các tướng lãnh cầm đầu (ngày 1/11/1963).

Ra tù, đại đức Thích Quảng Độ do tình hình sức khỏe kiệt quệ (bị tra tấn trong tù), ông không thể tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, cũng không thể tham gia các cuộc đấu tranh do giáo hội phát động từ năm 1964 đến 1966.

Năm 1966, Giáo hội tổ chức đưa ông đi điều trị tại Nhật Bản. Lành bệnh, phục hồi sức khỏe, Giáo hội gợi ý và tạo điều kiện cho ông du khảo tình hình Phật giáo tại Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan và Miến Điện. Về nước, ông làm giảng sư, giáo sư tại Phật học viện Từ Nghiêm, Phật học viện Dược Sư, Đại học Van Hạnh, Đại học Hòa Hảo.

Năm 1972, thượng tọa Thích Quảng Độ được đề cử làm phát ngôn viên, kiêm thanh tra Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Năm 1973, ông được cử làm thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Năm 1974, thượng tòa Thích Quảng Độ tham gia Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bảo trợ.

Từ sau 1975, thiền sư Thích Quảng Độ đau khổ trước sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Ông cho rằng Đảng cộng sản đã bỏ qua cơ hội ngàn vàng để thực hiện Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc.

Năm 1976, ông qui kết trách nhiệm cho Đảng cộng sản về sự kiện 12 tăng, ni chùa Dược Sư tự thiêu. Ông nhấn mạnh rằng sự kiện tự thiêu tập thể này là phản ứng tuyệt vọng trước các sách lược và hành động sai trái và tội ác của chế độ.

Tháng 4/1977, trong một cuộc họp của khoảng 200 tăng, ni và Phật tử tại chùa Ấn Quang để tìm giải pháp thích ứng trước nguy cơ tôn giáo bị cấm cách, giáo hội bị đàn áp, đất nước dân tộc bị suy tàn bởi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sách lược ngoại giao thể hiện bản chất tham sân si ngoại hạng của Đảng cộng sản, thiền sư Thích Quảng Độ, Thiền sư Thích Huyền Quang và 5 vị tỳ kheo khác bị công an ập vào trấn áp và bắt giam. Tháng 12/1978, được thả sau một phiên tòa xử trắng án. Thực tế, phiên tòa là kết quả của áp lực từ chính giới và truyền thông châu Âu sau chuyến công du đầu tiên của thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Đầu năm 1982, do phản đối trước việc Đảng cộng sản tổ chức đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, công cụ của chế độ, hòa thượng Thích Quảng Độ cùng với hòa thượng Thích Huyền Quang bị chính quyền cộng sản chỉ định cư trú tại quê nhà. Hòa thượng Huyền Quang bị áp giải đi Quảng Ngãi. Hòa thượng Quảng Độ (cùng mẹ) bị áp giải đi Thái Bình.

(Thái Bình là quê nhà xưa cũ, hòa thượng Quảng Độ đã rời xa tròn nửa thế kỷ, gia đình, xóm giềng chẳng còn mấy ai thân thuộc, chùa Phật đã trở nên điêu tàn sau chừng ấy thời gian trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lại bị cấm "hành nghề tôn giáo" và bị công an theo dõi, kềm kẹp nghiêm ngặt, ông chẳng biết làm gì ngoài việc dịch kinh, viết sách trong bối cảnh Đảng cộng sản "tự chuyển biến, tự chuyển hóa" : Chính quyền Công Nông chuyển dần qua Tư sản Đỏ, kinh tế chỉ huy – ngăn sông cấm chợ, ồ ạt chuyển qua kinh tế thị trường – chợ búa đến trụ sở đảng trung ương, ngoại giao từ độc kết Liên Xô chuyển qua "thế giới đại đồng" với kẻ cựu thù Đế quốc xâm lược Tư bản Mỹ và đương kim bành trướng hung ác Trung cộng. Trước tình thế đó, thiền sư Quảng Độ tự ý rời bỏ Thái Bình, về lại miền Nam quê hương tranh đấu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất…).

Hòa thượng Thích Quảng Độ về lại Sài Gòn vào khoảng giữa năm 1992. Lang thang thiếu đói khá lâu mới tìm được chỗ ở là Thanh Minh Thiền viện ở số 90 Trần huy Liệu, phường 25, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh do thiền sư Thích Thanh Minh trụ trì. Chắc là thiền sư Thích Thanh Minh thành tâm chia sẻ những mục tiêu và khát vọng đấu tranh của ông mới gồng mình che chở cho một nhân vật nguy hiểm như vậy trong mắt của chính quyền cộng sản.

Ba mục tiêu hòa thượng Quảng Độ đề ra vào thời điểm này : Một là kêu đòi chính quyền cộng sản tôn trọng quyền hoạt động tôn giáo hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ; hai là đấu tranh kêu đòi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền ; ba là tham gia các hoạt động xã hội, đóng góp ý kiến cùng chính quyền trong những vấn đề xây dựng, bảo vệ đất nước.

Hòa thượng Thích Quảng Độ âm thầm tập họp lực lượng. Ông quy tụ những tăng, ni bất phục chế độ ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Ông tìm cách thiết lập mối quan hệ với Quảng Ngãi và Bình Định, nơi hòa thượng Thích Huyền Quang, vị lãnh đạo mới của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được ủy nhiệm bởi cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, đang bị quản thúc. Ông cũng tìm cách thiết lập mối quan hệ với các thiền sư đang sôi sục đấu tranh Bảo Vệ Chánh Pháp theo Di chúc của Ngài Thích Đôn Hậu tại Huế, Quảng Trị, Quảng Nam. Ông thiết lập mối quan hệ với Phòng thông tin hải ngoại thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Pháp và các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Úc và Mỹ.

Ngày 9/8/1994 hòa thượng Thích Quảng Độ, chánh thư ký viện Hóa Đạo trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất gởi thư cho tổng bí thư Đảng cộng sản Đỗ Mười để phản đối lệnh quốc tang cho Kim Nhật Thành, lãnh tụ Đảng cộng sản Triều Tiên. Theo thiền sư Quảng Độ, nhân dân Việt Nam không để tang cho lãnh tụ độc tài đàn áp nhân dân Triều Tiên.

Ông khẳng định rằng nếu nhân dân Việt Nam để tang thì để tang cho hàng chục ngàn người bị giết chết trong Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, 5.000 người bị giết trong Tết Mậu Thân ở Huế, hàng chục ngàn người bị chết trong các trại cải tạo sĩ quan và công chức Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975, hàng trăm ngàn người bị chết trong các cuộc vượt biên trên biển hay trên đất liền trong nhiều năm liền Đảng cộng sản tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Qua kháng thư này, thiền sư Thích Quảng Độ chứng tỏ ông không chỉ là một nhà tu hành đấu tranh cho tự do tôn giáo và sự tồn vong của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, ông đã trở thành nhân vật đấu tranh vì các mục tiêu to lớn hơn là Dân chủ, Nhân quyền và Xã hội dân sự trên bình diện cả nước.

Kèm theo kháng thư này, thiền sư Thích Quảng Độ còn gởi đến tổng bí thư Đỗ Mười một bản nhận định tổng quát về những sai trái mà Đảng cộng sản Việt Nam mắc phải từ sau năm 1975 đối với đất nước, dân tộc và các tôn giáo, trong đó có Phật giáo.

Ngày 10/10/1994, hòa thượng Thích Quảng Độ khai dựng bảng "Văn Phòng Viện Hóa đạo Lưu Vong" tại Thanh Minh Thiền Viện số 90 Trần Huy Liệu, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh (văn phòng chính của viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đặt tại chùa Ấn Quang đã bị giáo hội Phật giáo quốc doanh chiếm dụng từ năm 1991). Nhân dịp này, thiền sư Quảng Độ gởi thư cho các tăng ni ngoài Phật giáo quốc doanh trên toàn quốc, đề nghị dựng bảng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa và tu viện do mình trụ trì.

Ngày 24/10/1994. hòa thượng Thích Quảng Độ và nhóm các vị tăng thân thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận nhóm họp tại Thanh Minh Thiền Viện, để bàn thảo chương trình cứu trợ đồng bào bị lũ lụt ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Thượng tọa Thích Long Trí được cử đi tiền trạm nhằm quan sát tình hình cụ thể để Giáo hội có kế hoạch cứu trợ thích ứng. Thượng tọa bị công an chận bắt trên đường đi, đem về giam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Công an lục soát Thanh Minh Thiền Viện, lục soát các chùa có tăng thân tham gia công cuộc cứu trợ ; công an ngăn chặn các xe chở hàng cứu trợ và lấy đi tất cả của cải Giáo hội quyên góp được. Một số tăng, ni, Phật tử bị bắt như đại đức Thích Trí Lực, các thượng tọa Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, các Phật tử Phạm Văn Xua, Nguyễn Thị Em…

Ngày 1/12/1994, hòa thượng Thích Quảng Độ bị công an vào Thanh Minh Thiền Viện bắt, đưa ra miền bắc, giam tại trại tù B14, bị đưa ra tòa ngày 15/8/1995 cùng với 6 tù nhân phản đối chế độ khác. Hòa thượng Thích Quảng Độ bị kết án 5 năm tù.

phapnan9

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

Ngày 30/8/1998, hòa thượng Thích Quảng Độ được trả tự do, nghe đâu nhờ sự can thiệp của chính phủ Mỹ và các tổ chức Bảo vệ Nhân quyền trên thế giới.

Nhân dịp này, hòa thượng Thích Quảng Độ được chính quyền cộng sản và tòa đại sứ Mỹ đề nghị sang cư trú tại Hoa Kỳ. Ông đã từ chối vì lý do : "Ở lại với quần chúng Phật tử". Hòa thượng Thích Quảng Độ trở lại Sài Gòn, tiếp tục cư trú tại Thanh Minh Thiền Viện, tiếp tục thực hiện "Quyền Công Dân" trước sự kiểm soát nghiêm ngặt của công an.

Ngày 19/3/1999, hòa thượng Thích Quảng Độ đi Quảng Ngãi thăm hòa thượng Thích Huyền Quang (sau 18 năm cách biệt). Cùng thời điểm, từ Quảng Trị, đại đức Thích Hải Tạng cũng đến Quảng Ngãi thăm vị hòa thượng đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Công an giải tán cuộc họp mặt tình cờ này. Hai vị khách bị công an áp tải về nơi xuất phát. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn bị chính quyền cộng sản đặt ngoài vòng pháp luật.

Ngày 21/2/2001, hòa thượng Thích Quảng Độ công bố Lời kêu gọi Dân chủ cho Việt Nam nhân danh Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ngày 9/4/2002, hòa thượng Thích Quảng Độ (cùng hòa thượng Thích Huyền Quang, linh mục Nguyễn Văn Lý) được Tổ chức People in Need, Cộng hòa Séc, trao giải thưởng Homo Homini. Cả ba vị được vinh danh là "những người bảo vệ nhân quyền, tự do dân chủ và tự do tôn giáo ở Việt Nam".

Ngày 22/9/2003, Đại hội Bất Thường gồm đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất các địa phương khai mạc tại tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, nhằm mục đích củng cố và phát triển giáo hội. Tại Đại hội này, hòa thượng Thích Huyền Quang được tôn cử chính thức viện trưởng Viện Tăng thống, hòa thượng Thích Quảng Độ được tôn cử chính thức viện trưởng Viện Hóa đạo. Trong khi Đại hội đang tiếp diễn thì công an ập vào trấn áp, giải tán. Hòa thượng Thích Quảng Độ bị công an áp tải trở lại Thành phố Hồ Chí Minh để tiếp tục quản chế.

Tháng 9/2006, hòa thượng Thích Quảng Độ được trao giải Thorolf Rafto, Na Uy, vì "đã dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ cộng sản Việt Nam". Ông cho biết, sẽ không rời Việt Nam để tới Na Uy nhận giải vì ngại chính quyền sẽ không cho trở về Việt Nam nữa, buộc ông phải sống lưu vong. Ông ủy thác cho ông Võ Văn Ái, giám đốc Phòng Thông tin hải ngoại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhận giải thay ông. Ông không muốn xa lìa nhân dân và quần chúng Phật tử.

Tháng 7/2007, hòa thượng Thích Quảng Độ tham gia cứu trợ những người dân đang khiếu kiện đòi lại đất tại Thành phố Hồ Chí Minh và kêu gọi "chấm dứt cái nạn độc quyền cai trị tại Việt Nam". Ngày 23/8, ông cử thượng tọa Thích Không Tánh mang tiền ra miền Bắc cứu trợ những người khiếu kiện. Cùng ngày, cả hại vị thiền sư đều bị công an bắt vì cho rằng "đã hoạt động phá rối trật tư trị an". Đảng cộng sản đã huy động nhiều cơ quan và phương tiện truyền thông như báo Nhân Dân, báo Tiền Phong, báo Tuổi Trẻ Online tố cáo ông, nào là "lợi dụng tôn giáo mưu đồ chính trị, kích động phản loạn, gây rối…".

Năm 2008, hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời, để lại chúc thư, cử hòa thượng Thích Quảng Độ thay ông làm đệ ngũ tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Trên cương vị và chức danh mới, dưới mắt chính quyền cộng sản, hòa thượng Thích Quảng Độ càng "nguy hiểm" hơn, công an càng kiểm soát nghiêm ngặt hơn, Phật tử không còn ai lui tới, Thanh Minh Thiền Viện vắng vẻ như chùa Bà Đanh. Áp lực từ phía công an, cộng thêm áp lực từ tình hình thực tế thiếu đói của cộng đồng tu viện, hòa thượng trụ trì Thích Thanh Minh đề nghị hòa thượng Thích Quảng Độ rời đi. Đó là ngày 15/9/2018.

Rời Thanh Minh Thiền Viện, thiền sư Thích Quảng Độ lang thang hết chùa này đến chùa nọ, trước áp lực của công an, không chùa nào chứa chấp ông cả. Ngày 5/11/2018, ông lên tàu về quê Thái Bình. Thái Bình cũng không ở được. Ngày 18/11/2018, ông vào lại Thành phố Hồ Chí Minh, tạm trú tại chùa Từ Hiếu, quận 8.

Ngày 22/2/2019, thiền sư Quảng Độ qua đời ở tuổi 92. Theo di ngôn, đám tang của Ngài sẽ được hòa thượng Thích Nguyên Lý và các Sư Tăng chùa Từ Hiếu cử hành đơn giản. Không vòng hoa. Không điếu văn. Không trướng liễn. Không để quá 3 ngày. Ngài muốn được thiêu để trở về với cát bụi.

Trớ trêu là cát bụi cũng không được ngủ yên. Phật giáo Quốc doanh ào ào kéo tới can thiệp vào tang lễ, nhưng mục đích chính là can thiệp vào việc đề cử chức danh tăng thống. Không có thông tin nào được kiểm chứng về ý chỉ của Đức đệ ngũ tăng thống Thích Quảng Độ về vấn đề quan trọng này.

Thiền sư Thích Tuệ Sĩ đã xuất hiện bên cạnh đệ tứ tăng thống Thích Huyền Quang từ năm 2003, bên cạnh đệ ngũ tăng thống Thích Quảng Độ từ sau năm 2008 với chức danh phó tăng thống, nhưng năm 2019 này, không thấy ông tham dự tang lễ vị tăng thống quá cố. Phải chăng sức khỏe và tâm nguyện của thiền sư thi sĩ không thích hợp với vai trò vị trí này ?

Tre tàn mà măng không mọc là thực trạng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ! Đây là mục tiêu và thủ đoạn của Đảng cộng sản.

Hòa thượng Thích Không Tánh

Hòa thượng Thích Không Tánh tên khai sinh là Phan Ngọc An, sinh 1943, cùng thế hệ, cùng được giáo dục, đào tạo trong nhà trường dân chủ và nhân bản Việt Nam Cộng Hòa và các học viện Phật giáo trước thời điểm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, như các sư tăng Thích Huệ Hiền, Thích Huệ Thâu, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Hải…

Từ sau năm 1975, trong chế độ cộng sản, ông là một sư tăng bất khuất, một con người hành động vì những giá trị tự do, nhân quyền, dân chủ, và xã hội dân sự. Đời ông là một chuỗi liên tiếp những nghĩa cử, khổ nạn và hoạt động thiện nguyện.

Năm 1976, Thích Không Tánh gởi thư cho thủ tướng chính phủ cộng sản ở Hà Nội để phản đối chủ trương của chế độ bắt những tăng sĩ trẻ thi hành nghĩa vụ quân sự. Đảng cộng sản đang trong thời kỳ thiết lâp guồng máy toàn trị không chấp nhận một con người ngang tàng như thế. Ông bị bắt và trải qua 10 năm tù (1976 – 1986) trong các trại cải tạo.

Ra tù, ông về chùa cũ Liên Trì ở phường An Khánh, quận Thủ Đức. Lúc bấy giờ Liên Trì còn là chùa vô danh và Thủ Thiêm chưa phải là khu đất vàng, khêu gợi sự thèm khát của các lãnh tụ cách mạng vô sản. Chùa Liên Trì chưa gây chú ý cho nhiều người ngoại trừ nhóm công an đặc nhiệm. Bởi vì trong cái chùa không mấy khang trang to đẹp này có một sư tăng bất phục chế độ làm trù trì.

Thượng tọa Thích Không Tánh lần hồi biến ngôi chùa vô danh của mình trở thành nơi giao tiếp, hội họp của những người cùng chí hướng, bất kể tôn giáo và tầng lớp xã hội nào. Ông tìm cách liên hệ với các đệ tử của thượng tọa Thích Huyền Quang ở Quảng Ngãi, Bình Định và các nhóm tăng thân, Phật tử khắp các tỉnh thành miền Nam. Sau khi hòa thượng Thích Quảng Độ từ Thái Bình về tạm trú tại Thanh Minh thiền viện, ông trở thành người cộng tác đắc lực cho nhà lãnh đạo thứ hai của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tháng 10/1992, thượng tọa Thích Không Tánh bị bắt, bị kết án 5 năm tù vì tội lưu hành các tài liệu có nội dung chống phá nhà nước như kháng thư của hòa thượng viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thích Huyền Quang gởi cho các lãnh tụ và cơ quan quyền lực của Đảng cộng sản, và thư từ liên lạc giữa giáo hội trung ương gởi đến các giáo hội địa phương trong và ngoài nước.

Được trả tự do trước thời hạn, thượng tọa Thích Không Tánh tiếp tục các hoạt động nhân quyền, tự do tôn giáo và xã hội dân sự. Tận dụng các khoảng thời gian tự do và khả năng vận động, thượng tọa Thích Không Tánh đã tiến hành các công cuộc từ thiện, như tặng quà cho các bệnh nhân ung bướu, các bệnh nhân phong cùi, các thương bệnh binh gốc Việt Nam Cộng Hòa, các gia đình thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương, các gia đình dân oan, đặc biệt là dân oan ở Thủ Thiêm.

Tháng 11/1994, thượng tọa Thích Không Tánh bị công an thành phố Hồ Chí Minh bắt vì tội quyên góp và phân phát phẩm vật cứu trợ các nạn nhân bão lụt miền Tây.

Tháng 8/1995, thượng tọa Thích Không Tánh cùng thượng tọa Thích Quảng Độ bị tòa án thành phố Hồ Chí Minh xử mỗi người 5 năm tù, vì tội "phá hoại chính sách đoàn kết của Đảng cộng sản và lợi dụng quyền tự do dân chủ phá hoại ích lợi nhà nước".

Sau 5 năm ở tù, thượng tọa Thích Không Tánh về chùa cùng thời điểm Việt Nam tham gia Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc. Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng trong bài "Tại sao nhà cầm quyền quyết tâm cưỡng chế và giải tỏa chùa Liên Trì" đã viết như sau :

"Các tổ chức xã hội dân sự độc lập phát triển thì chùa Liên Trì là nơi họp mặt của các tổ chức Xã hội dân sự. Những tổ chức Xã hội dân sự họp tại đây để sáng lập và thành lập các hội đoàn độc lập nhằm phản biện xã hội, cải thiện nhân quyền, dân quyền. Hòa thượng Thích Không Tánh cũng là sáng lập viên của Hội cựu tù nhân lương tâm, Hội đồng Liên tôn Việt Nam.

Từ những việc làm nhân đạo, giúp đỡ các tổ chức Xã hội dân sự, đấu tranh cho tự do nhân quyền nói trên, hòa thượng Thích Không Tánh chùa Liên Trì đã bị nhà cầm quyền xem như thành phần đối kháng và họ đã quyết tâm cưỡng chế và giải tỏa chùa để họ bỏ đi cái gai này. Theo thông tin loan truyền trên mạng, hòa thượng Thích Không Tánh cho biết, mặc dù không có lệnh cưỡng chế nhưng chính quyền phường An Khánh và chính quyền quận 2 đã họp kín, quyết định ngày 23/6/2016 tới họ sẽ cưỡng chế và phá dỡ chùa".

Chùa Liên Trì bị san bằng trong tháng 9/2016. Hòa thượng Thích Không Tánh khẳng định chùa và quí thầy không chấp nhận cơ sở do chính quyền dựng sẵn ở Cát Lái để đền bồi cho chùa. Linh mục Đinh Hữu Thoại, thuộc Phòng Công Lý và Hòa Bình, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, cho là việc san bằng này vì lý do chính trị.

phapnan10

Thượng tọa Thích Không Tánh ngồi tại đống đổ nát của ngôi chùa Liên Trì sau khi ngô chùa bị phá bỏ. Ảnh : Quảng Đức

Lý do chính trị đầu tiên và cuối cùng để chùa Liên Trì bị san bằng là vị trụ trì của nó. Hòa thượng Thích Không Tánh, chẳng còn chốn dung thân ; các nhóm phản biện xã hội, các thành phần đối kháng chế độ, các tổ chức Xã hội dân sự không còn địa điểm để hội họp, và các cơ quan truyền thông, tổ chức nhân quyền quốc tế không biết hòa thượng Thích Không Tánh ở đâu để phỏng vấn, đưa tin. Đảng cộng sản đã vô hiệu hóa sự tồn tại của hòa thượng Thích Không Tánh qua việc san bằng xóa bỏ chùa Liên Trì. Thủ đoạn này áp dụng vào hai năm sau, năm 2018, khi hòa thượng Thích Quảng Độ bị tống xuất khỏi Thanh Minh Thiền Viện.

Theo các thông tin trên mạng, hòa thượng Thích Không Tánh có tham dự đám tang hòa thượng Thích Quảng Độ, năm 2019. Ông không tuyên bố gì, cũng không có động thái nào thể hiện ý chí bất khuất như trước đây.

Hai nhân vật năng nổ nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đến thời điểm này, một người thì chuyển hóa thành cát bụi, người còn lại, tuổi tác đã bào mòn ý chí đấu tranh. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất xem như cáo chung.

***

Khi MA CHƯỚNG HOÀNH HÀNH TRONG CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN thì PHÁP NẠN không thể nào tránh được, tôn giáo bị cấm cách là lẽ đương nhiên. Chắc là Đảng cộng sản Việt Nam thở phào nhẹ nhõm vì đã tiêu diệt được cái vật cản lớn nhất trên con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Một thông tin đáng mừng cho Đảng cộng sản là con số tín đồ Phật giáo ngày một giảm. Cuộc tổng điều tra dân số do chính quyền tổ chức năm 2009, xác định số tín đồ Phật giáo trong cả nước năm 2009 là 6,7 triệu người. Cuộc tổng điều tra dân số cũng do chính quyền tổ chức năm 2019 xác định số tín đồ Phật giáo là 4,6 triệu người.

Thái Thanh, tác giả bài viết ngày 18/2/2021 "Thống kê số tín đồ Phật giáo : Nhà nước nói giảm, giáo hội hụt hẫng", đăng trên Luật Khoa, còn cho biết là : Theo báo Giác Ngộ, các thông tin của nhà nước đã làm một số nhà sư "bị sốc toàn tập", tín đồ thì "hụt hẫng và bật khóc". Tín đồ Phật giáo nói riêng, tín đồ các tôn giáo nói chung, bật khóc và Đảng cộng sản thì sảng khoái cười. Bởi vì Đảng cộng sản chủ trương "vô tôn giáo" từ Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 và bài trừ tôn giáo từ sau năm 1975.

Trong số những tín đồ bật khóc, có nhiều người biết rằng, tại miền Nam, năm 1963, khi Phật giáo phát động cuộc đấu tranh đòi bình đẳng và tự do tôn giáo trong chế độ Ngô Đình Diệm thì con số đồng đạo của họ từ 9 đến 11 triệu, chiếm tỷ lệ từ 70% đến 80% (theo điều tra của CIA, Thái Thanh, tài liệu đã dẫn). Từ 70% đến 80% tổng dân số trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa rớt xuống 4,78% tổng dân số trong chế độ cộng sản, bật khóc thôi. Chắc là họ sẽ khóc to khi nhìn lại mô hình Giáo hội quốc doanh được tổ chức theo hình tháp ngược, có ban bệ, chức sắc ở trên mà không có Phật tử ở dưới. Tôn giáo mà không có giáo đồ thì tiêu vong rồi, còn gì nữa ?

Mô hình tháp ngược nếu để nó đứng tự nhiên trong không gian thì nó sụp đổ tức thì. Giáo hội Phật giáo Việt Nam quả thật là Giáo hội nhà nước, Giáo hội quốc doanh, Giáo hội công cụ, sẽ giải tán khi Đảng cộng sản thấy cần buông tay.

Vấn đề đặt ra cho các triết gia, các nhà văn hóa là dân tộc, đất nước (và cả nhân loại, thế giới) có cần tôn giáo không ? Tiêu diệt nó có phải là tội ác không ?

***

Tôi kể một câu chuyện nhỏ để kết thúc bài viết có nhiều chi tiết tự sự này :

Anh bạn tôi, cha mẹ đặt tên là Phan Chánh Dinh. Chánh Dinh là thi sĩ từ buổi thiếu thời. Yêu đương và khắc khoải siêu hình, anh làm thơ, ký tên là Phan Duy Nhân. Theo cộng sản và làm cán bộ Mặt trận, anh sửa tên thơ là Thiết Sử, tên họ là Nguyễn Chính cho gần gũi với giai cấp công nông và thể hiện ý chí chiến đấu.

phapnan11

Phan Duy Nhân – Nguyễn Chánh Dinh – Nguyễn Chính khi còn trẻ. Ảnh : Báo Thanh Niên

Anh Nguyễn Chính đi kháng chiến, ở tù Côn Đảo, sau "giải phóng" làm cán bộ đến chức phó ban Dân vận Mặt trận tại tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng. Năm 1982, Nguyễn Chính được ông Xuân Thủy, bí thư trung ương Đảng cộng sản chọn làm "nhân tài" chuyển ra Hà Nội làm phó ban Tôn giáo chính phủ.

Sau nhiều năm công tác, Nguyễn Chính tiếp xúc nhiều với các vị chức sắc và nhân vật trong Công giáo, Phật giáo… mà Đảng cộng sản cho là trùm phản động như Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, Thượng tọa Thích Trí Quang để vận động họ "gắn liền Tôn giáo với Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội".

Thế rồi, chuyển biến chuyển hóa ra sao mà đảng viên – cán bộ tôn giáo vận Nguyễn Chính qui y Phật, được hòa thượng Thích Trí Quang nhận làm đệ tử. Ngưỡng mộ, tri ân và thương cảm, đệ tử Nguyễn Chính – Phan Duy Nhân đã làm thơ kính tặng Tôn sư Thích Trí Quang như sau : 

Tràn đầy mà rỗng lặng

Biển vô lượng thủy triều

Đường về tâm bất động

Tuyệt chiêu mà vô chiêu

Đã thương đời vạn dặm

Vân du vượt núi đèo

Thôi hòa lòng với bụi

Thanh tịnh vầng trăng treo.

(Hành thiền – Nguyễn Chính PDN – Báo Thanh Niên thứ năm, ngày 5/12/2002).

Hòa thượng Thích Trí Quang là linh hồn, là trụ cột lớn nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã tiêu vong trong chế độ cộng sản như tôi trình bày ở trên. Vậy thì đảng viên Nguyễn Chính PDN mong cầu được gì nơi một lãnh tụ giáo hội đấu tranh thất bại ? Phải chăng anh nhận ra Phật pháp qua vị Thiền Sư anh đã theo lệnh đảng đi vận động làm sư quốc doanh ?

Chúng ta biết rất rõ trước khi trở thành đảng viên, Nguyễn Chính đã khẳng định mình là một Con Người – DUY NHÂN. Đã là Con Người, tất nhiên, không thể không Từ Bi, Bác Ái.

Chu Sơn

Nguồn : Tiếng Dân, 15/06/2021

Published in Tư liệu
lundi, 05 juillet 2021 16:02

Phật giáo Việt Nam sẽ hồi sinh ?

Hai tuần trước, Tiếng Dân có đăng loạt bài nhiều kỳ : "Pháp nạn – Ma chướng trong chế độ cộng sản", của ông Chu Sơn, một cựu "cán binh cộng sản". Loạt bài này, ông cung cấp những tư liệu, với nhiều chi tiết về những gì xung quanh "phong trào" Phật giáo Việt Nam từ năm 1954 đến nay, một dòng chảy từ cuồng nộ cho đến thời lụi tàn của nó hôm nay, điều mà ông gọi là Pháp nạn.

Có hai điều rút ra sau khi tôi đọc xong loạt bài này. Thứ nhất, hiểu rõ được thân phận của thiền sư Thích Trí Quang, và thế đứng giữa hai dòng nước của Phật giáo Việt Nam.

phatgiao1

Hòa thượng Thích Trí Quang (21/12/1923 – 8/11/2019)

Giải oan cho một thiền sư

Hòa thượng Thích Trí Quang là một nhân vật đặc biệt của lịch sử Việt Nam hiện đại. Ông là thủ lãnh của phong trào phản chiến Phật giáo, chống bức hại Phật giáo từ thời chính phủ Ngô Đình Diệm, cho đến khi bị chính quyền cộng sản quản thúc vài năm sau 1975.

Hòa thượng Trí Quang từng làm hao tốn bao mút mực của giới báo chí Âu – Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Sau năm 1975, người ta không nghe đến ông nữa. Từ đó, dấy lên những đồn đoán rằng, ông là "cộng sản nằm vùng", nhẹ hơn là "bị cộng sản giật dây"… làm sụp đổ miền Nam Việt Nam.

Tư liệu của ông Chu Sơn, dẫn lời Trần Bạch Đằng, một tay cách mạng cộng sản lão thành, cho thấy rằng những lời đồn đoán đó đều sai. Trần Bạch Đằng cho rằng, hòa thượng Trí Quang là người được gián điệp Mỹ gầy dựng nên (sic) và có thái độ rất hằn học với hòa thượng.

Ứng xử của những nhà lãnh đạo cộng sản sau năm 1975, theo tài liệu của ông Chu Sơn, cho thấy, họ sợ vai trò của hòa thượng đối với chế độ toàn trị của họ như thế nào. Tư liệu của ông Chu Sơn khẳng định quan điểm của một viên tướng Việt Nam Cộng Hòa là ông Đỗ Mậu. Trong hồi ký của mình, ông Đỗ Mậu khẳng định những đồn đoán rằng, Thích Trí Quang làm tay sai cho cộng sản là sai.

Khoảng năm 2000, hòa thượng Trí Quang có viết một quyển hồi ký. Đọc quyển hồi ký ấy, người đọc tinh ý sẽ thấy rằng, hòa thượng Trí Quang không hề mơ hồ về những người cộng sản, mà ông đã biết rõ về họ từ những ngày đầu tiên tham gia kháng chiến chống Pháp.

Xâu chuỗi lại những sự kiện, những thông tin mà chúng ta có ngày càng nhiều, với một khoảng thời gian lùi lại hơn nửa thế kỷ, có thể thấy rằng, Thích Trí Quang mong muốn xây dựng một miền Nam không cộng sản và lành mạnh, không độc tài. Chỉ có như vậy mới mong chống lại được cộng sản ở Việt Nam.

Cố gắng của ông bất thành, nó chỉ đạt được mong muốn nhỏ bé của nhà sư xuyên suốt quyển hồi ký của ông, giải thích những hành động của mình là để nói với hậu thế rằng, nước Việt "từng" có Phật giáo, "để còn có một chút này", theo nguyên văn lời ông.

Giữa hai dòng nước

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt sống ở Mỹ có viết rằng, người cầm bút nào bị cả hai phe đối nghịch chỉ trích, mắng chửi, thì đó là dấu hiệu người ấy đã đi đúng đường. Người cầm bút đúng đắn nên đứng giữa hai giòng nước.

Phật giáo Việt Nam từ sau năm 1954 đến lúc những hòa thượng tên tuổi cuối cùng của giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất viên tịch, cũng đứng giữa hai dòng nước. Có những nhà sư bị tù đày từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa, sang chế độ Việt Nam cộng sản.

Nhưng con đường giữa hai dòng nước của Nguyễn Thanh Việt có vẻ ngày càng khởi sắc hơn trong thể chế dân chủ.

Phật giáo Việt Nam xem như tàn lụi. Pháp nạn bắt đầu bằng dụ số 10 thời Ngô Đình Diệm, và đến những năm đầu của thế kỷ 21 thì Phật giáo tại Việt Nam xem như kết thúc, bằng những thủ đoạn của nhà nước cộng sản.

Cái gọi là Phật giáo ở Việt Nam hiện nay gói gọn trong bốn chữ "Phật to Chùa lớn". Phật giáo Việt Nam chỉ còn có hình hài, và bên trong của nó là một loại mê tín dị đoan, nhũng lạm của tầng lớp sư sãi. Phật giáo quốc doanh xem như thống lĩnh toàn bộ chùa chiền trên cả nước, trong đó, không ít điện thờ Phật có cả tượng Hồ Chí Minh.

Những người được gọi là "truyền thừa" của giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng không khá gì hơn. Sau khi các vị Trí Quang, Huyền Quang và Quảng Độ viên tịch, gương mặt được xem là đại diện cho phong trào Phật giáo phản kháng cộng sản như thượng tọa Thích Không Tánh, lại là một người tin vào thuyết âm mưu QAnon bên Mỹ, liên tục phát biểu chỉ trích cuộc bầu cử năm 2020 ở Mỹ là gian lận. Thích Không Tánh không phải là một biệt lệ trong tầng lớp sư sãi ở Việt Nam hiện nay.

Có cả những Thích Không Tánh tại hải ngoại và tình trạng Phật to chùa lớn cũng không tránh khỏi cộng đồng người Việt hải ngoại, nơi đáng lẽ phải là thành trì cuối cùng của dòng suối Phật giáo dân tộc hơn ngàn năm qua.

Sinh, trụ, dị, diệt, bốn giai đoạn của sự sống theo quan niệm của Phật giáo, có lẽ cũng ứng vào chính Phật giáo Việt Nam hay chăng ?

Vô thần hay hữu thần và sự hồi sinh

Có người bảo rằng, sự tàn lụi của Phật giáo Việt Nam hiện nay là chiến thắng của học thuyết cộng sản vô thần. Tôi không nghĩ như thế.

cộng sản thật ra chỉ là một đứa con lạc loài của truyền thống Do Thái Ki Tô từ phương Tây. Nó đã thất bại ở phương Tây và cái gọi là cộng sản ở Đông Á, trong đó có Việt Nam, thật sự chỉ là sự lai tạp giữa hai hệ thống áp bức : Một là di sản của phong kiến hủ nho Đông Á và hai là hệ thống công an trị phản động nổi lên ở phương Tây đầu thế kỷ 10, phát xít ở Đức và toàn trị theo mô hình Lenin ở Nga.

Hệ thống lai tạp ở Đông Á hiện nay không có một định chế tinh thần nào, nên khó mà gọi nó là vô thần hay hữu thần. Đó là về hệ thống, còn về con người thì đa số những người cầm quyền mang tên cộng sản ở Việt Nam hiện nay, là những kẻ đầy mê tín dị đoan.

Phật giáo, nhìn từ một góc cạnh triết học không phải là một tôn giáo hữu thần, quan niệm không có thượng đế.

Ở Việt Nam, Phật giáo không chỉ bị đàn áp mới đây, mà từ ngàn năm trước, các nhà sư thời Lê Long Đỉnh từng bị róc mía trên đầu. Phật giáo thịnh lên ở thời Lý – Trần, với nhiều vị quốc sư và có lẽ cái mầm suy vi cũng bắt đầu từ đó, khi tôn giáo triết học này bắt đầu dính líu nhiều vào chính trị, cũng tương tự Phật giáo Tây Tạng, nơi thần quyền và thế quyền xoắn xít với nhau, gây ra những vụ bê bối, tạo nhiều di hại về sau (vụ giấu nhẹm cái chết của một vị Lạt Ma nhiều quyền lực, chẳng hạn).

Đầu bài viết này, tôi viết chữ "phong trào" Phật giáo trong ngoặc kép, vì đã là phong trào thì phải có lúc lụi tàn.

Tôi không cho rằng Phật giáo ở Việt Nam là một phong trào. Nó có thể sinh, trụ, dị, diệt, nhưng trong cái dòng vô thủy vô chung của vũ trụ, nó lại sẽ hồi sinh. Phật giáo đã từng hồi sinh ở Tây Tạng vào thế kỷ 11, ở Việt Nam với những cố gắng chấn hưng Phật giáo tại miền Trung thời Pháp thuộc.

Cái yếu điểm của Phật giáo là nó không có một cơ cấu giáo hội chặt chẽ như các tôn giáo khác, nhưng đó cũng sẽ là một thế mạnh của nó, với những mầm Phật giáo ở khắp nơi, không chịu một sự áp chế tinh thần Chùa to Phật lớn nào, sẽ hồi sinh.

Jackhammer Nguyễn

Nguồn : Tiếng Dân, 01/07/2021

Published in Diễn đàn

Vở diễn ‘Yêu Bác’

Mạnh Kim, VOA, 21/05/2019

Hàng năm, sắp đến sinh nht H Chí Minh, báo chí li nhn nhp các bài viết v "hc tp và làm vic theo tm gương "Bác". Năm nay không khí còn "d di" hơn vì Tuyên giáo yêu cu đy mnh chiến dch tuyên truyn nhân "50 năm thc hin di chúc Bác H". Hàng trăm tờ báo đã đng lot đăng nhng bài viết na ná nhau, ca tng "Bác" vi cùng mt ging, tôn vinh "Bác" vi cùng mt ngôn ng. Nó như mt v kch khng l vi cách din quen thuc cùng dàn din viên quen thuc.

yeu1

Thượng ta Thích Thanh Quyết, cũng là đi biu Quc hi Vit Nam, gii thiu bc tranh "Đo pháp và dân tc" ti mt bui l mng ngày sinh ca Đc Pht ti Hc vin Pht giáo Sóc Sơn, Hà Ni, hôm 10/5. (nh chp màn hình VTC)

Tại l "biu dương các tp th, cá nhân thc hin tt hc tp và làm theo tư tưởng, đo đc, phong cách H Chí Minh năm 2018-2019" vào ngày 14/5/2019, Bí thư Thành phố Hồ Chí Minh Nguyn Thin Nhân "nhn nh" : "Nhng lúc khó, cc, lúc không hài lòng vi công vic, hãy nghĩ tới Bác" (Tuổi Tr 14/5/2019). Cùng ngày, Đảng y Khi Dân-Chính-Đng Thành phố Hồ Chí Minh cũng t chc "L tuyên dương đin hình hc tp và làm theo tư tưởng, đo đc, phong cách H Chí Minh" và trao tng Huy hiu Đng cho các đng viên. Phát biu ti bui l, ông Dương Công Khanh, Bí thư Đng y Khi Dân-Chính-Đng Thành phố Hồ Chí Minh, nói rng cuc đi H Chí Minh là "mt cuc đi trong sáng, cao đp ca mt người cng sn vĩ đi ; Người là biu tượng cho nhng giá tr tt đp nht ca dân tc ta, mà ni bt hơn là lòng yêu nước, thương dân". Ông Khanh "gi gm" thêm : "Đ xng đáng vi Bác hơn na, mi cá nhân phi thường xuyên t soi ri đ nhn thc mt cách đy đ trách nhim ca mình vi mc tiêu, lý tưởng mà Đng, Bác H và nhân dân ta đã la chn" (Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 14/5/2019).

Theo Hướng dn s 90-HD/BTGTW ngày 10/4/2019 ca Ban Tuyên giáo Trung ương, gn như không cơ quan đoàn th nào không "hình thc hóa" chiến dch tuyên truyn này. B Giáo dục và đào tạo t chc cuc thi "Tui tr hc tp và làm theo li Bác năm 2019", với ba nhóm đối tượng : 1/ Hc sinh ph thông (k c hc viên các trung tâm giáo dc thường xuyên) ; 2/ Công dân Vit Nam đang theo hc ti các đi hc, hc vin, trường đi hc, cao đng sư phm và hc sinh trung cp sư phm trong và ngoài nước ; 3/ Cán b quản lý giáo dc, ging viên, giáo viên tr, đoàn viên, thanh niên, lưu hc sinh Vit Nam, nhng người quan tâm và d thi (dưới 35 tui)... Chiến dch còn được "đa phương hóa", t các khu vc min Trung Tây Nguyên, tnh thành, qun-huyn-phường-xã…, đến "khối đng y công an, quân đi…" và thm chí "khi doanh nghip". "Huy đng c h thng chính tr vào cuc" là cm t miêu t ngn gn và chính xác hot đng tuyên truyn này.

Mặc dù tp chí Đng Cng sn (dangcongsan.vn) ngày 17/4/2019 viết rng chiến dch này thể hin s "sáng to t cách làm" và "la chn nhng đt phá đ thc hin theo Di chúc ca Ch tch H Chí Minh" nhưng kiên nhn đc hàng chc, thm chí c trăm bài viết, liên quan ni dung tuyên truyn cũng s không thy bt kỳ "sáng to" hoc "đt phá" nào. Ngôn ngữ ca tng "Bác" cùn mòn đến sáo rng. Nó quen thuc đến mc đc câu trước, người ta có th đoán được ý câu sau. Hàng chc năm qua, viết mãi mt đ tài như thế thì còn gì đ viết. Nói mãi mt điu như thế thì còn gì đ nói. Ca tng mãi mt người như thế thì còn gì đ ca tng. "Luc" mãi mt v kch cũ mèm như thế thì còn gì đ "sáng to" trong "cách nghĩ và cách làm" ! Thế nhưng hu du "Bác" vn lp đi lp li không biết ngượng. Người ta vn neo vào "Bác", bám vào "Bác", li dng hình nh "Bác", và nói không ngoa, thậm chí "trc li" t vic khai thác "Bác". Mi chiến dch tuyên truyn hàng năm như vy ngn bao nhiêu tin thuế ca dân ? Nó được phân b và chi xài như thế nào ? Chng có cuc "tng kết" màn trình din "hc tp và làm theo" nào có nêu ra minh bạch ngun ngân sách "dành cho" "Bác".

Một thc tế không th không nhn thy : sô din v "Bác" càng "hoành tráng" thì nó càng mâu thun vi thc trng. Hình nh "Bác" càng được c tình nâng lên thì tư cách đng viên càng lún thp. Đo đc "Bác" càng được tô v "sáng ngi" thì đo đc đng viên càng ti m. "Hc tp và làm theo" ngày càng là mt sáo ng rng tuếch mà bn thân đng viên sau khi d các cuc thi "noi gương "Bác" có th s cười thm v mc đ "thuc bài" ca nhau đ "tr n" Tuyên giáo. Vở din này, do đó, không ch din trên sân khu qun chúng. Nó còn là v din ca đng viên vi Đng. V din này không ch "gt bà con". Đám din viên còn gt nhau, bp nhau, xem ai din tt và ai làm đo din tt. "Nhng lúc khó, cc, lúc không hài lòng với công vic, hãy nghĩ ti Bác" – phát biu này ca Nguyn Thin Nhân có l nhn được nhiu tiếng cười thm nht trong hàng ngũ đng viên.

Có lẽ không ch người dân, mà chính đng viên, cũng nhìn thy rng s phát trin kinh tế đt nước, s hưng thịnh quốc gia, s tiến b xã hi…, chng liên quan gì đến "Bác". Các cuc phát đng "hc tp và làm theo", thm chí ngay c khi đng viên có thc tâm "làm theo", không my may đóng góp vào t l tăng trưởng GDP. Các chương trình mi vn đu tư nước ngoài hoặc kêu gọi s đóng góp ca cng đng kiu bào cũng chng liên quan đến "Bác". Mc đ hin đi hóa, công nghip hóa, "4.0 hóa", "rng hóa"… ca tương lai quc gia không dính dáng gì đến hình nh mt lãnh t quá c. S phát trin ca thế gii ngày nay, k c trong lịch s, cho thy không đt nước nào xây dng và kiến thiết "da trên nn tng" ca ngi gi di và sáo rng mt lãnh t, cho dù ch đng trong quá kh ca ông ta như thế nào. Đòn by đưa đt nước đi đến phú cường là chính sách đúng đn, là th chế thuận lòng người, là nn chính tr trong sch được dân tin. Hãy thôi ly "Bác" làm "đim ta". V din "yêu Bác" nhàm chán đã đến lúc cn phi h màn.

Mạnh Kim

Nguồn : VOA, 21/05/2019

*****************

Phật giáo Việt Nam biến đổi nhanh nhưng đang phát triển hay suy thoái ?

Nguyễn Lễ, Gửi tới BBC, 20/05/2019

Phật Đản năm nay ở trong nước làm lớn thật lớn.

Ở hải ngoại không có điều kiện làm lớn như vậy. Trước đó một tuần, Phật tử người Việt khắp vùng đông bắc Hoa Kỳ tề tựu lại một ngôi chùa nhỏ ở Maryland rồi đi xe hoa rước Phật đến một hội trường thuê trong trường học để làm Lễ Phật đản chung.

phat1

Phật Đản năm nay ở trong nước làm lớn thật lớn.

Người Mỹ thì đến các trung tâm Phật giáo ở thủ đô Washington D.C. dự buổi thiền quán tưởng niệm Đức Phật.

Cũng dễ hiểu là vì năm nay là lần thứ ba Phật đản ở Việt Nam được nâng lên thành Đại lễ Tam hợp Liên hiệp Quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã đem sức dốc núi từ chỗ không có gì dựng lên một cảnh chùa hùng vĩ giữa trời mây non nước của tỉnh Hà Nam để tiếp đón các phái đoàn quốc tế bằng tất cả tấm lòng trọng thị của người Việt.

Được dốc sức chuẩn bị như thế là vì Lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc bên cạnh ý nghĩa tôn vinh Đức Phật còn là cơ hội thể hiện hình ảnh đất nước, con người và chính quyền Việt Nam. Nhưng đối với mỗi người Phật tử, Lễ Phật đản dù lớn hay nhỏ trước hết vẫn là cảm giác thuần khiết của sự an lạc, hoan hỉ vì tưởng nhớ ngày Đấng Từ phụ ra đời.

phat2

Với ý nghĩa đó, Lễ Phật đản năm nay dù lớn nhưng cảm giác của người Phật tử không còn tròn vẹn như những năm trước.

Phật giáo vừa trải qua cơn rúng động với tai tiếng nối tiếp tai tiếng.

Hết hóa vàng, dâng sao giải hạn đến thỉnh vong báo oán, từ hòm công đức 'không minh bạch' cho đến xây chùa to để 'buôn thần bán thánh'. Đến nỗi có người đã nói về sự suy đồi của Phật giáo và đòi phải chấn hưng. Thậm chí còn có lời mạt sát Tam bảo.

Tuy nhiên, nói chấn hưng Phật giáo là chấn hưng cái gì ? Chấn hưng làm sao ? Chứ nói khơi khơi như vậy khiến cho các Phật tử hoang mang quá. Giáo hội chẳng phải đã nói các hiện tượng kể trên không có trong giáo lý nhà Phật đó sao ?

Có lật hết ngàn trang vạn quyển kinh văn Phật giáo cũng không thấy có chỗ nào nói về thỉnh vong, đốt vàng hay giải hạn hết. Vậy thì làm sao bãi bỏ một cái không có cho được ?

Từ tín ngưỡng dân gian…

Mặc dù nói không có trong giáo lý nhà Phật nhưng rành rành nhà chùa có làm, và các hiện tượng nói trên không chỉ bó hẹp trong nhà chùa mà còn nhan nhản trong đời sống quảng đại của người Việt. Vậy thì, muốn chấn hưng thì phải bỏ tận gốc những tập quán, tín ngưỡng đó chứ ?

Trước hết, thật lòng mà nói tôi cũng đốt vàng bạc vì từ nhỏ đã thấy ông bà, cha mẹ đốt giấy tiền mỗi khi tang ma hay giỗ quẩy rồi đến lượt mình tôi cũng làm theo.

Đành rằng chết là hết vì đã rã xác tan hình, còn theo nhà Phật vong linh phải luân hồi trả nghiệp thì còn đâu mà tiêu xài vàng bạc cõi trần gửi cho, đó là chưa kể đốt mọi thứ thành tro bụi thì lãng phí biết bao nhiêu. Biết là vậy nhưng đến ngày giỗ mà không đốt giấy tiền tôi lại thấy thiếu. Hơn nữa, vì thương ông bà mình đã quá vãng chẳng thà làm để được an lòng còn hơn là không làm, dù chỉ là một chút cho có lệ.

Cũng thành thật mà nói là tôi cũng từng được cúng sao mặc dù không tin tưởng. Năm đó tôi gặp nạn liên tục trong mấy ngày Tết nên khi được người thân cúng cho tôi cũng không có gì phản đối. Trông chờ vào thần thánh nào đó là phi lý và trái luật nhân quả của nhà Phật, nhưng suy cho cùng những người dâng sao cũng chỉ mong được hóa giải nạn tai.

Trong lúc bấn loạn có thêm chút cảm giác bình an dù sao vẫn tốt hơn. Và nếu nói mê tín thì xây nhà, tang ma, cưới hỏi, vốn là những việc ai cũng mong được bình an, đừng chọn ngày lành tháng tốt gì hết, cứ đụng ngày nào làm ngày đó có được không ?

…đến chùa Ba Vàng

Còn việc thỉnh vong báo ứng nhân quả của chùa Ba Vàng ở Quảng Ninh, vốn là đỉnh điểm tai tiếng của Phật giáo, cũng mang đầy màu sắc dân gian nhưng có pha lẫn Phật giáo. Màu sắc dân gian là niềm tin vào linh hồn, còn giáo lý nhà Phật là nhân quả, nghiệp lực và cúng dường.

phat3

Những lời 'giảng' của bà Phạm Thị Yến chùa Ba Vàng nói rằng Cao Mỹ Duyên, cô gái giao gà bị hãm hiếp, sát hại là do "ác nghiệp từ tiền kiếp" đã gây bức xúc lớn trong dư luận

Trước hết, những ai nói vong linh là mê tín thì liệu có dám dọn vào ở trong một căn nhà vừa có người chết oan do bị sát hại hay hỏa hoạn không ? Thử hỏi xung quanh xem có bao nhiêu người tin rằng ông bà mình dù chết đi nhưng linh hồn vẫn còn đâu đó và sẽ về sum họp vào ngày giỗ, Tết ?

Tại sao người Việt hàng ngàn năm nay vẫn duy trì tục lệ xá tội vong nhân mà trong Nam gọi là cúng cô hồn ?

Tại sao người dân xây am thờ dọc các quốc lộ để an ủi vong linh các vụ tai nạn ?

Mà đâu chỉ người Việt Nam. Trên thế giới có tôn giáo nào không tin là có thế giới sau khi chết ?

Khác với dâng sao hay hóa vàng vốn thuần túy là tín ngưỡng dân gian, câu chuyện chùa Ba Vàng còn lồng ghép các yếu tố giáo lý của nhà Phật.

Để giải nghiệp, chùa Ba Vàng cho rằng cần cúng dường cho chùa để hồi hướng cho vong linh nhưng vào cửa chùa mà đòi tiền bạc thì quá phản cảm.

Cái gốc của cúng dường là tâm hướng thiện. Hơn nữa, đó cũng để học cách cho đi để nhận lại.

Lên chùa nghe kinh, thính pháp, tu tập, học điều hay lẽ phải, được đãi cơm chay ai mà không cảm thấy cần đóng góp trở lại để tạo phước duyên cho người khác cũng được lợi lạc ? Cho nên, cúng dường tự thân nó không có lỗi mà lỗi ở chỗ nó bị lợi dụng.

Sự việc ở chùa Ba Vàng đúng là có dấu hiệu lợi dụng Phật giáo để trục lợi, nhưng vẫn còn đó những chỗ chưa rõ. Làm sao bác sĩ một bệnh viện lớn lại khuyên bệnh nhân đến chùa Ba Vàng ?

Rồi số tiền được cho là hàng ngàn tỉ bị chiếm đoạt đã đi đâu về đâu ?

phat4

Lễ cầu siêu cho cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang được tổ chức tại Việt Nam Quốc tự, Thành phố Hồ Chí Minh, hồi 9/2018

Sau khi báo chí phanh phui sao không thấy có nạn nhân nào đòi tiền lại ?

Và nếu là để kiếm chác từ tiền cúng dường thì vị trụ trì phải nói là 'Càng giàu càng phải cúng dường' chứ sao lại nói là 'càng nghèo' ?

Đạo Việt Nam ?

Ở đây chắc sẽ có người thắc mắc là bàn về 'chấn hưng Phật giáo' sao lại đi sâu vào tín ngưỡng dân gian, hai phạm trù đó gần như hòa lẫn làm một khó phân biệt được.

Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã linh động, mềm dẻo để tùy nghi, tiếp biến những yếu tố văn hóa, tâm linh của người Việt, chứ không ở thế đi giáo hóa bản địa. Phật tử Việt Nam cũng thờ cúng ông bà, đốt vàng mã, xá tội vong nhân, dâng sao giải hạn, trong nhà có thờ thêm ông Công ông Táo (hay trong nam là Thần Tài, Thổ Địa).

Các chùa miền Bắc ngoài Phật còn thờ bà Chúa, Thánh mẫu, ban Cô, ban Cậu và những bậc tiên hiền, anh hùng dân tộc có công với nước. Nhiều chùa trở thành nơi phục vụ tín ngưỡng dân gian, từ tụng kinh ma chay cho đến coi ngày coi tháng.

Giáo lý nhà Phật đã ăn sâu vào tâm lý dân tộc hơn là chúng ta nhận ra. Nhiều người chưa từng quy y tam bảo, chưa từng học Phật nhưng gặp chuyện vẫn niệm Phật, ngày Tết vẫn đi chùa, tin vào nhân quả và khi chết vẫn được tung kinh siêu độ.

Có thể nói Phật giáo tuy xuất phát từ nơi khác nhưng khi được trao cho dân tộc Việt Nam, người Việt đã biến nó hoàn toàn thành của mình, không còn lệ thuộc gì vào nơi sinh ra nó nữa.

Người Phật tử vì thế không bị giằng xé giữa đất nước và tín ngưỡng nên hòa thành một khối với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc suốt mấy ngàn năm.

Thời kỳ hưng thịnh nhất của dân tộc cũng là thời kỳ đỉnh cao của Phật giáo khi triết lý từ bi của nhà Phật thấm nhuần vào đạo trị quốc của nhà vua. Có vị vua kiệt xuất xuất gia làm sư (Trần Nhân Tông) và có nhà sư lỗi lạc vào triều giúp vua (thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt…). Vị vua khai quốc nhà Lý sinh ra ở cửa Thiền còn vị vua khai quốc nhà Trần viết sách luận về Thiền (Khóa hư lục).

Tuy nhiên, tiếp biến quá mức thì có thể dẫn đến hoán chuyển hoàn toàn. Ở nhà đốt vàng mã thì được chứ đến chùa cũng hóa vàng thì Trời Phật nào nhận cho ? Dâng sao khác nào phỉ báng luật nhân quả ?

Nhà chùa thờ Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… thì không ai nói nhưng thờ Hồ Chí Minh sẽ làm tổn thương tình cảm một số người.

Với lại, đạo pháp đi với dân tộc thì nhuần nhuyễn, nhưng gắn thêm 'chủ nghĩa xã hội' thì không thuận tai vì Phật giáo chủ trương giải phóng tư tưởng, sửa mình, từ bi, không cố chấp - chỏi hoàn toàn với tin tưởng tuyệt đối, đấu tranh giai cấp, bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Chấn sao mới hưng ?

Cũng may, Phật giáo chính tông - tức là theo sát lời dạy của Đức Phật là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo để tìm sự an lạc, giải thoát - đang ngày càng lan tỏa, nhất là ở các chùa miền Nam.

Khai phóng chứ không áp đặt, không bắt tin mà phải hành, không dạy cầu mà phải tự tạo, không chấp 'có' cũng chẳng chấp 'không', thấy trong bát nước có hằng hà sa số sinh vật, nhìn chúng sinh là 'vạn vật hữu tình', trong vũ trụ có tam thiên đại thiên thế giới, hiếu đạo phải đến bảy đời…,

Phật giáo chính tông đang phát triển song song với Phật giáo dân gian tạo thành hai nền Phật giáo. Chánh tín càng lan tỏa thì càng có thể cân bằng và trung hòa mê tín.

Mê tín thì phải bỏ nhưng cũng không thể dẹp hết tín ngưỡng dân gian cho được vì nó đã thành một phần máu thịt của dân tộc.

Cấm hóa vàng, cấm giải hạn thử xem có dẹp được không ? Phê phán ô nhiễm thế nào cũng không ngăn người Ấn tắm sông Hằng.

Mấy chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa', trong đó có chủ trương triệt hạ tôn giáo, mà xã hội Việt Nam giờ còn tâm linh hơn trước. Cán bộ, đảng viên cộng sản vốn phải quán triệt vô thần mà giờ đây cũng cúng bái, lễ lạy không thua gì thường dân.

Tuy nhiên, Giáo hội Phật giáo cũng không thể nhắm mắt bịt tay trước những đòi hỏi chấn hưng mà có đòi hỏi rất bức thiết, nhất là trong thời đại ngày nay.

Phật giáo Việt Nam vốn có truyền thống nhập thế, khác với chủ trương xuất thế của Đức Phật, cho nên đời xưa mới có các bậc Quốc sư ra giúp vua trị nước.

Nhưng nay tu hành nếu chỉ toàn họp hành, hội nghị, tiếp khách thì còn thời gian đâu mà tham thiền nhập định, thời gian đâu để tinh tấn tu tập nữa ?

Cửa thiền lâu nay rất dễ bị kẻ xấu len lỏi vào trục lợi.

Dẫu biết là con đường thoát khổ tự nguyện nên Phật giáo không chủ trương tổ chức chặt chẽ để ràng buộc tín đồ, nhưng chính vì thế đã lọt nhiều kẽ hở. Đã xảy ra không ít trường hợp trụ trì trộm chuông bán tượng hay hòa thượng chơi bời hút chích.

Có tướng cướp 'buông hạ đồ đao' thành sư thì cũng có sư hành xử như tướng cướp.

Có những kẻ xem đi tu là một 'nghề' mà vào đó họ tu ăn, tu ngủ, tu hưởng thụ.

Siết chặt kỷ cương, tuyển lựa kỹ càng và sàng lọc cẩn thận là điều Giáo hội nhất thiết phải làm để trả lại sự thanh tịnh cho chốn Thiền môn và giữ gìn uy tín cho Phật giáo.

Thêm nữa, cúng dường trong hoàn cảnh xưa, nay cũng khác.

Thời Phật tại thế, cúng dường chỉ là vật thực, thau, bồn, đèn, đuốc, nhang, dầu. Bây giờ thời đại kim tiền, người tu hành quá gần gũi mùi tiền công đức thì làm sao mà Giới, Định, Tuệ cho được ?

Xây chùa lớn cũng giúp cộng đồng Phật giáo phấn khởi vì có thêm chỗ nương theo Phật, Pháp, Tăng và tiếp nối 'tứ đại khí' của cha ông, chưa nói lượng khách hành hương đến còn có thể giúp cải thiện thu nhập của dân địa phương.

Có điều nó cũng đặt ra gánh nặng rất lớn về duy tu, quản lý. Nhưng nhà tu hành thì làm sao quản lý theo kiểu kinh doanh cho được ? Tôi thấy chùa Phật Quang Sơn, Đài Loan, vốn cũng hết sức hùng vĩ, có mô hình hoạt động rất hay mà Phật giáo Việt Nam có thể tham khảo.

Thấy lỗi mình và biết sửa lỗi mới là làm đúng lời dạy của Đức Phật. Có như vậy, Phật giáo Việt Nam mới vững vàng tiếp nối truyền thống gần 2.000 năm đồng hành cùng dân tộc.

Nguyễn Lễ

Nguồn : BBC, 20/05/2019

Tác giả là thạc sĩ ngành Quan hệ Quốc tế tại Đại học California, San Diego và từng là thực tập sinh tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Washington D.C.

Published in Diễn đàn

Một thời Phật học rực rỡ

Mạnh Kim, VOA, 27/03/2019

Khó có thể quên nhng tên tui khng l Thích Minh Châu, Kim Định, Vũ Văn Mu, Tôn Tht Thin, Bu Lch, Nguyn Xuân Li, Ngô Trng Anh, Phm Công Thin, Tu Sĩ, Lê Mnh Thát, Dương Thiu Tng, Lê Tôn Nghiêm, Ngô Trng Anh, Vũ Khc Khoan, Bu Lch, Tôn Tht Thin… H là nhng người nh nhàng đt tng viên gạch nng chch góp phn dng lên tòa lâu đài tư tưởng vĩ đi ca Pht hc, trên nn tng triết lý "Duy Tu Th Nghip" (tm hiu : ly vic phát trin trí tu làm căn bn). Tiếc thay, tòa lâu đài dang d đã b đánh sp sau năm 1975.

phat1

Một di tích khc g ti chùa Vĩnh Nghiêm. Hình minh ha.

Thập niên 1960 và nửa đu nhng năm 1970 là s bùng n ca sách triết hc và Pht hc ti min Nam. Trong Văn học min Nam tng quan, ông Võ Phiến thut : "Tp chí Giữ Thơm Quê M(xuất bn t tháng 7/1965), tp chí Vạn Hnh (xuất bn t tháng 1/1970), Vin Đi hc Vn Hnh, Nhà xuất bn Lá Bi (ra đi tháng 10/1964), by nhiêu cơ s văn hóa qui t văn ngh sĩ, trí thc đ phát huy nh hưởng văn hóa Pht giáo. nh hưởng y rng rãi và mnh m… Ngoài ra nhiu nhà xut bn khác cùng đua nhau in sách v Pht, v Thin ca nhng Suzuki, Krishnamurti, sách dịch Chí tôn ca (Bhagavad Gita)… Hương thin ta rng và thm sâu vào thi ca"…

Bằng chng rõ nht ca s phát trin rc r nn Pht hc ti min Nam trước 1975 là s ra đi Vin Đi hc Vn Hnh. Thành lp năm 1964, Vn Hnh là đại hc Pht giáo đu tiên ti Vit Nam. T sĩ s niên khóa đu vi 700 sinh viên, đến năm 1975, Vn Hnh đã có gn 14.000 sinh viên. Đóng góp ca Vn Hnh không ch vi Pht hc. Đi hc này còn có phân khoa Văn hc, Khoa hc Nhân văn, Khoa hc Xã hi, Giáo dục, Ngôn ng… Ch sau vài năm thành lp, Vn Hnh đã ni như cn, tr thành hi viên Hip hi Đi hc Đông Nam Á ln Hip hi Khoa Hc Xã Hi Đông Nam Á. Vn Hnh quy t gn như đy đ tinh hoa trí tu thuc hàng thâm sâu và uyên bác nht ca nn hc thuật khai phóng min Nam, trong đó có ông Phm Công Thin, người được thy Vin trưởng Thích Minh Châu giao nhim v son tt c chương trình ging dy cho tt c phân khoa Vin Đi hc Vn Hnh t năm 1966-1968. Ông Phm Công Thin sinh năm 1941. Khi viết cuốTiểu lun v B Đ Đt Ma và về làm vic cho Vn Hnh năm 1964, ông Phm Công Thin ch mi 23 tui và chưa tng tt nghip bt c trường đi hc nào. Vn Hnh không ch ging dy. Đây là nơi khai sinh ra tp chí  Tưởng. Gọi là "tp chí" nhưng n phẩm này là tp sách kho cu nng ký c nghĩa bóng ln đen. Có quyn dày đến gn 500 trang !

Lấy "Duy Tu Th Nghip" làm kim ch nam, Vin Đi hc Vn Hnh ln tp chí  Tưởng đã thắp lên ngn đuc khai phóng cho nn hc thut nước nhà. n bn tháng 3/1973, chủ đ c Tưởng là "Hướng v Quc hc" ; n bn tháng 8/1969 là "S đc bit v xã hi hc và chính tr hc" ; n bn tháng 6/1973 là "Giáo dc cho ngày nay và ngày mai" (vi các tác gi Thích Nguyên Hng, Vũ Đc Bng, Nguyn Văn Trường, Đoàn Viết Hoạt, Phan Hồng Lc, Lê Kim Ngân)…

Ngọn đuc Vn Hnh nói riêng và Pht hc nói chung đã tt pht sau 1975. Tu Sĩ, Lê Mnh Thát, Thích n Trí Hi b tù. Vn Hnh b xóa s. Pht hc không rơi vào "h thm tư tưởng" mà lt sâu xung h trm luân. Cn nhc li, chỉ 5 năm sau khi thành lp, Vin trưởng Vn Hnh, thy Thích Minh Châu, đã có th t hào k : "Đi Hc Vn Hnh tuy mi năm tui, nhưng đã ghi được mt vài tiến b đáng k… Mc dù hãy còn nh bé, Đi Hc Vn Hnh c gng bao gm tt c nhng phm vi hot động ca mt trường đi hc kiu mu. Thư vin Đi hc chiếm gn trn lu 3 và 4 ca tòa nhà. Đó là mt trong s nhng thư vin ln và ti tân nht Vit Nam… Phòng tham kho rt hãnh din có nhiu b sách bách khoa và t đin ca nhiu ngôn ng, gm c Sanskrit, Pali, Anh, Pháp, Đức, Nht, Trung Hoa… Tt c Tam Tng Kinh đin quan trng ca Pht giáo đu có đây : Sanskrit, Pali, Trung Hoa, Nht Bn, Miến Đin, Thái Lan (thư vin mi thnh thêm b Tam Tng Đi Hàn). Sách phân loi theo hai phân b. Phân bộ Pht Hc và Phân B Thế Hc. Toàn b sách ca Thư vin bây gi có khong trên 20.000 cun…" (dn theo tài liu lưu tr ca Ban tu thư Vn Hnh).

y thế, trong bài viết trên trang cá nhân ngày 16-12-2018, nhà nghiên cu Nguyn Lương Hi Khôi (hc triết tại Nht) thut : "Thư vin Đi hc Vn Hnh có hàng vn cun phim quay li bn gc các cun sách c ca các nn văn minh trong lch s… Nhng cun phim đó được lưu tr trong các thùng bng nha tt, rt dày. Sau 1975, chiến s ta thc hin ch trương vô sn hóa trí thc, tích cc tăng gia sn xut trong trường đi hc, bèn dn tt c phim vào mt s ít thùng nha, s thùng còn li thì đ nước vào... nuôi cá. Nhng thùng nuôi cá vn đt cnh thùng cha phim trong thư vin nên ch sau vài tháng, tt c các cuộn phim đu b mc, đành phi vt b"...

"Hơn 10 năm trước, tôi (Nguyn Lương Hi Khôi) bt đu làm vic ti trường đi hc đã tiếp qun Đi hc Vn Hnh, xin được giy phép vào đc kho sách ngoi văn trước 1975… hai mng sách tiếng Anh và tiếng Nht, thuộc các lĩnh vc triết hc, văn hóa, văn hc, lch s..., Vn Hnh đã cp nht nhng dòng tư tưởng nóng hi nht đương thi... Min Bc không ch gii phóng min Nam khi nhng văn bn c ca văn minh nhân loi hay nhng trước tác nóng hi nht trên thế giới na thế k trước, min Bc chúng ta đã gii phóng h khi mt nn đi hc được xây dng trên ý nim t do. Trong s sách Thư vin Vn Hnh còn sót li, có mt loi sách đc bit, do trường xut bn, in nhng bài phát biu ca các din gi được mi đến nói chuyện và tranh lun vi ging viên, sinh viên ca trường. Đc nhng cun sách đó, bn s nhn ra Đi hc Vn Hnh đương thi ging như mt din đàn khng l ca xã hi dân s, nơi tt c các xu hướng tư tưởng khác nhau đu được ct lên tiếng nói ca mình, từ chng cng sn đến chng Hoa Kỳ, ng h min Bc đến ng h Vit Nam Cng hòa... Tt c đu có mt không gian bình đng đ gii thích vì sao h suy nghĩ và hành đng như vy. Lúc đó tôi đã t hi, gia Sài Gòn thi đó thì có nhng tiếng nói chng li h thng cng sn là đương nhiên, nhưng ti sao chế đ Vit Nam Cng hòa li đ cho Đi hc Vn Hnh (và đương nhiên không ch Vn Hnh) tr thành nơi nhng người chng li mình có th phát biu tư tưởng ? Câu tr li nm Hiến pháp 1967 ca h : Đi hc là tự tr"…

nhng trang cui tp chí  Tưởng, số 5, ngày 1/10/1969, có phn "Tin tc Vn Hnh". Đc li thy ghi :

"Thượng ta Thích Minh Châu, Vin trưởng Vin Đi hc Vn Hnh, đã kết thúc cuc thăm viếng và d hi ngh quc tế ti 6 nước : Hoa Kỳ, M Tây Cơ, Áo quc, Pháp, Anh, Đc đã tr v Sài Gòn vào lúc 12g40 ngày 18 tháng 9 năm 1969 trên chuyến máy bay ca hãng Pan Am. Ngoài vic d Hi ngh v "Hướng nghip giáo dc" ti M Tây Cơ và Hi ngh v "vai trò ca Đi hc trong vic mưu cu hòa bình" ti Vienne, Áo quc, Thượng ta còn ghé Hoa Kỳ thăm sinh viên ca Vin hin đang du hc ti M quc, ghé Luân Đôn thăm các trường Đi hc Anh quc trong mt tun l do li mi ca B Ngoi giao Anh, ghé Đc và Pháp đ thăm các cơ s giáo dc và mi Giáo sư về dy ti Vin…

Tại Anh quc, Trường Giáo dc và Khoa hc Á Phi (Deparment of Education and Science School of Oriental and Africa Studies) đã xin đt s liên lc vi Thư vin Vn Hnh. B Phát trin Hi ngoi ha cp Vn Hnh 5 hc bng và tng Thư vin 1 ngàn bảng Anh đ mua sách ti Anh. Đi hc Oxford ha s cp hc bng cho sinh viên Vn Hnh. Cơ quan Oxfam ha giúp thêm cho 2 Cô nhi vin Pht giáo vay s tin t 2 triu đến 3 triu đ lp cơ s sinh li t túc (lò mì, máy nước đá…) giúp trang b vt dụng cho mt s ký nhi vin, và giúp thành lp mt trường Trung hc K thut cho h thng B đ… Ti Đc, Thượng ta đã đi thăm vùng Bayern, Vin Đi hc Munich, Goethe Institut, Trung tâm Chính tr hc Ludwigstr, Thư vin quc gia, Đi hc Rumfordstr, mt trung tâm nguyên tử lc. Vin Đi hc Munich đã tha thun đt s liên h vi Vin Đi hc Vn Hnh (Vin Đi hc Munich s mi Đi đc Khoa trưởng Văn khoa và Giáo sư Khoa trưởng Khoa hc Xã hi sang thăm Vin Đi hc này trong vòng 1 tháng đ tho lun việc đt s liên h gia 2 Vin)".

Cách đây 50 năm, nền Pht hc Vit Nam đã phát trin đến mc đó ; 50 năm sau nhng gì Vin Đi hc Vn Hnh tng làm được, Hc vin Pht giáo Vit Nam ngày nay "là cơ s giáo dc đi hc và nghiên cu khoa hc ca Pht giáo, thuộc h thng giáo dc quc dân ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Giáo hi Pht giáo Vit Nam thành lp theo quyết đnh ca UBND Thành phố Hồ Chí Minh, s 160/QĐ-UB ngày 17/10/1983". "Pht hc xã hội chủ nghĩa" phi được "ri chiếu" thêm "ánh sáng ca Đng". Cn nhc li, trong thông báo tuyển sinh thc sĩ Pht hc khóa II (2017-2019), Hc vin Pht giáo Vit Nam đã nêu rõ yêu cu : đi tượng d thi là c nhân Pht hc và trong các môn d thi có "Triết hc Pht giáo và Mác-Lênin" ! 50 năm trước, Vin Đi hc Vn Hnh không ch đóng góp cho nn học thut khai phóng và t do ca nước nhà mà còn xây dng được uy tín cho Pht giáo Vit Nam. 50 năm sau, Hc vin Pht giáo ca Cng Hòa Xã hi Ch Nghĩa Vit Nam đã làm được gì và Pht giáo Vit Nam đã b biến tướng thành gì ?

Có ai còn nhớ li thng thiết ca thy Thích Minh Châu trong li m đu s ra mt ca tp chí  Tưởng (tháng 8/1967) :

"Chúng tôi chỉ mun l đ báo nguy vi tt c chúng ta rng không phi li nói là quan trng, không phi im lng là quan trng, mà cũng không phi hành đng là quan trọng, cũng không phi vô vi th đng là quan trng. Ch có mt điu duy nht quan trng, ch có mt điu quan trng ti thượng là mi người phi dám nhìn thng b mt thc ca chính mình, t hi rng mình có lường gt mình bng nhng đường li tinh vi ; mỗi người phi t hi rng mình có thc s t do trong tư tưởng ; mi người phi t hi rng mình có thc s gii phóng khi tt c s s hãi trong ý thc và vô thc ; mi người phi t hi rng mình có thc s tiêu tr hết mi tham vng, dù là tham vng tâm linh"….

Mạnh Kim

Nguồn : VOA, 27/03/2019

******************

Giáo hội Phật giáo Việt Nam có biện pháp đối với vụ chùa Ba Vàng

Diễm Thi, RFA, 26/03/2019

Chiều ngày 26/3, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đề xuất tạm đình chỉ tất cả các chức vụ trong giáo hội của trụ trì chùa Ba Vàng, Đại đức Thích Trúc Thái Minh, với lý do ‘vi phạm hiến chương, làm tổn thương đến thanh danh của Giáo hội, tăng đoàn.’

phat2

Chùa Ba Vàng - Photo : facebook chuabavang

Thượng tọa Thích Nhật Từ, trụ trì chùa Giác Ngộ, một chùa trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhận định việc làm này của Giáo hội là kịp thời. Ông phân tích :

"Tôi cho rằng cách xử lý của mảng truyền thông về vụ chùa Ba Vàng là kịp thời. Hôm 20/3 báo Lao Động phổ biến tin gây xôn xao dư luận thì giới Phật tử Việt Nam tỉnh Quảng Ninh ra công văn xác định đó là tà pháp. Đến ngày 21/3 thì Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã ra công văn xác nhận việc này sai với triết lý nhà Phật và yêu cầu đình chỉ.

Chiều 26/3, Hội đồng trị sự Phật giáo Việt Nam đã họp hai tiếng rưỡi. Sở dĩ đến hôm nay mới họp vì Giáo hội cũng chờ kết quả kiểm tra ban đầu của UBND thành phố Uông Bí. Sau khi có kết quả kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền Giáo hội mới có tiếng nói cuối cùng, vì vấn đề báo chí quan tâm, thứ nhất là phương pháp thỉnh vong, quy định giá cả có phải của Phật giáo hay không, thứ hai là có dấu hiệu vi phạm pháp luật hay không. Những cái đó là về phía luật pháp, nên phía Giáo hội phải chờ có kết quả mới đề xuất hình thức kỷ luật được".

Hòa thượng Thích Không Tánh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, giáo hội không được sự công nhận của Nhà nước thì cho rằng đây chỉ là xoa dịu dân :

"Trước dư luận quần chúng thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng là hệ thống đảng ra quyết định tạm đình chỉ để xoa dịu dân thôi, chứ việc lớn như vậy mà chỉ đình chỉ một vị trụ trì, rồi có thể vị này lại qua chùa khác như từng xảy ra với các quan chức chính quyền thôi. Tôi nghĩ Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải thay đổi vì sự việc chùa Ba Vàng xảy ra có trách nhiệm rất lớn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam".

Những việc làm của chùa Ba Vàng đã xảy ra từ nhiều năm trước. Hai năm trước Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh đã có văn bản báo cáo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Quảng Ninh, đề nghị ngăn chặn hoạt động mê tín dị đoan diễn ra tại chùa Ba Vàng, nhưng ý kiến của Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh rơi vào im lặng. Phó Giáo sư Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình từ Hà Nội nhận định :

"Tôi dám chắc là họ lên tiếng vì họ thấy có phần trách nhiệm thôi và thấy nó đổ bể đến nơi rồi, chứ xung quanh câu chuyện đó thì có những lợi ích, và vì lợi ích thì họ không mở được miệng".

Thầy Thích Tâm Vượng, Phó ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc thì lên tiếng rằng Giáo hội có làm việc với bên chính quyền nhưng chính quyền không phản hồi :

"Những việc làm không minh bạch theo giáo lý Phật giáo khiến quần chúng nhân dân phẫn nộ nên trước mắt thì căn cứ theo luật tín ngưỡng tôn giáo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam kết hợp với chính quyền để giải quyết nhưng chính quyền không có ý kiến phản hồi gì".

Theo nhận định của nhiều người trên mạng xã hội thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải chịu trách nhiệm lớn trong vụ chùa Ba Vàng, ngôi chùa thuộc sự quản lý của Giáo hội. Nhưng theo một số người thì vấn đề không đơn giản. Giáo sư Trịnh Hòa Bình nhận xét :

"Chính quan điểm của các vị chức sắc bên Giáo hội Phật giáo họ cũng đã nói họ không chủ trương như thế và cũng khuyến cáo không cho các thành viên trong Giáo hội làm điều đó. Còn giữa lời nói với việc làm, với sự chỉ đạo của các bậc lãnh đạo cao cấp của họ có thể vẫn còn khoảng cách, nhưng rõ ràng quan điểm của họ là những việc này không phải việc bên Giáo hội".

phat3

Bên trong khuôn viên chùa Ba Vàng. Photo : fb chuabavang

Trong văn bản số 066 của Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam ban hành chiều 26/3, Giáo hội cũng thừa nhận trách nhiệm của mình. Vậy Giáo hội Phật giáo Việt Nam có cần phải chấn chỉnh, thay đổi gì không, Thượng tọa Thích Nhật Từ nêu ý kiến :

"Tôi nghĩ việc điều chỉnh chắc chắn phải có, cho nên trong công văn ban hành vào lúc 5 giờ chiều ngày 26/3, trong mục 3 có ghi rất rõ là ’Ban thường trực Hội đồng trị sư Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh nhận thấy đã buông lỏng trong công tác quản lý tăng sự tại chùa Ba Vàng’. Tức họ thừa nhận nghiêm túc và công khai sự buông lỏng quản lý. Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ninh báo cáo vụ việc lên Giáo hội Trung ương nhưng Giáo hội lại không xử lý nên mới xảy ra sự việc trên. Họ có tinh thần cầu thị và tiếp thu nghiêm túc sự việc trên".

Thầy Thích Tâm Vượng giải thích rằng tất cả các vị trụ trì đều là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nên trong vụ chùa Ba Vàng, kỷ luật thầy trụ trì chùa tức là đã có sự chấn chỉnh giáo hội. Ông khẳng định :

"Tất nhiên phải chấn chỉnh chứ, vì tất cả các vị trụ trì đều là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhưng nó cũng có nhiều vấn đề lắm. Đâu phải chỉ trong Giáo hội đâu, đôi khi có những quan hệ này khác cản trở…".

Về việc kỷ luật vị sư trụ trì chùa Ba Vàng, Thượng tọa Thích Nhật Từ cho rằng giải pháp tạm thời hiện nay cũng là giải pháp thích đáng để những nơi có những hoạt động sinh hoạt Phật pháp chưa phù hợp với triết lý Phật giáo hiểu. Ông nói thêm rằng có lẽ ngày 27/3 mới có quyết định cuối cùng.

Chùa Ba Vàng không phải là ngôi chùa duy nhất có những sai phạm được cho là sai với giáo lý nhà Phật. Những ngày đầu Xuân 2019, báo chí trong nước ghi nhận hàng vạn người dân tràn kín lòng đường trước chùa Phúc Khánh, Hà Nội để tham dự lễ dâng sao giải hạn.

Thông tin chính thức cho thấy Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện tăng, ni, Phật tử Việt Nam. Giáo hội này được thành lập sau Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức tại Chùa Quán Sứ, Hà Nội vào ngày 7 tháng 11 năm 1981 nhằm thống nhất tất cả sinh hoạt Phật giáo của tăng ni, phật tử Việt Nam. Đây là Giáo hội Phật giáo duy nhất được Nhà nước công nhận.

Diễm Thi

Nguồn : RFA, 26/03/2019

*********************

Khẩu nghiệp

Mặc Lâm, VOA, 26/03/2019

phat4

Nguyên thứ trưởng ngoi giao Nguyn Thanh Sơn. (Hình trích t trang YouTube Nguyen Tuan Anh)

Sau khi gỡ b nhiu bài viết trong chuyên mc "thnh oan gia trái ch", website chùa Ba Vàng không vào được vì "đang trong quá trình nâng cp", tuy nhiên cũng trong cùng mt ngày, mt video clip trên trang Youtube xut hin mt người đăng đàn bênh vc cho Chùa Ba Vàng.

Nếu là mt Pht t hay mt tu sĩ thì đây là mt vic hay, đáng suy gm nhưng người lên tiếng là mt nguyên lãnh đo cao cp ca h thng quyn lc Vit Nam : Nguyên Th trưởng Ngoi giao Nguyn Thanh Sơn, Ch nhim y ban v người Vit Nam nước ngoài, tng nổi tiếng khi Vit kiu chng li chuyến thăm ca Ch tch Trương Tn Sang ti M ông Sơn đã tuyên b "h đi biu tình vì vn còn hn thù và mun có tin thù lao".

Hiếm khi có mt cán b cp cao như ông Sơn đăng đàn bênh vc cho mt scandal như Chùa Ba Vàng mà các bài báo, hình ảnh, video clip cùng nhiu nhân chng đã chng li ngôi chùa này mt cách quyết lit, chưa tng xy ra ti Vit Nam.

Mở đu bài nói chuyn, ông Nguyn Thanh Sơn đi thng vào vn đ, ông cho rng báo Lao Đng khi đăng ti lot bài Chùa Ba Vàng là "vội vàng khi v vic chưa chín mui". Tuy nhiên ông Sơn không cho biết khi nào thì v này mi được gi là chín mui trong khi phóng viên t báo đã âm thm làm vic trong hơn hai tháng, nhng ghi nhn ti ch có hình nh, âm thanh, phng vn… tất c nhng vic làm này đi vi gii báo chí là theo đúng nhng đòi hi ca ngành. Nhóm phóng viên đã cn thn trong tng chi tiết, người đc không tìm ra bt c mt chng c ngy to nào đ câu view hay đánh phá cá nhân ca v sư tr trì là Đi đc Thích Trúc Thái Minh, vì vậy phê bình t báo "vi vàng khi v vic chưa chín mui" mà không đưa ra lun chng cho thy thái đ thiên lch ca ông cu đi s đi vi Chùa Ba Vàng.

Ông Nguyễn Thanh Sơn khng đnh rng "Chùa Ba vàng rt hiu qu trong vic hi tụ được hàng ngàn người trong đó có nhng trí thc, k sư, bác sĩ nếu mà nói thy (Thích Trúc Thái Minh) la là vô lý".

Tín hữu ca chùa Ba Vàng lên ti vài ngàn người là có tht, ging như mi ngôi chùa hoành tráng khác ti Min Bc như Bái Đính, hay Phúc Khánh, Yên Tử… lúc nào s thin nam tín n cũng đến tham quan, cu nguyn hay cúng bái rt đông. Tuy nhiên ly s đông Pht t hành hương, tham quan đ nói rng h ng h vic làm ca sư sãi trong chùa Ba Vàng là ngy bin.

Ba Vàng đang bị dư lun c nước lên án vì đã "treo đầu dê bán tht chó". Nhân danh ca Pht đ kinh doanh lòng tin ca tín hu khi công khai thuyết ging và t chc l "oan gia trái ch", thnh vong v, gii oán hn t kiếp trước vi con người. Mà mi ln xin thnh vong gii oán người xin phải tr mt s tin ln.

Trong cái đám đông mà ông Sơn nêu lên y có mt bác sĩ tng làm chng cho vic cha bnh ca tr trì chùa Ba Vàng v thuyết "oan gia trái ch". Đó là bác sĩ Nguyn Hng Phong, làm vic ti Khoa Nhi, bnh vin Bch Mai. Mi đây Bác sĩ Phong đã nhận li và nói : "Tôi chân thành xin li người dân, Ban Giám đc Bnh vin Bch Mai, thy dy, đng nghip trong ngành y vì phát ngôn ca tôi đã gây hiu nhm, làm nh hưởng đến uy tín toàn ngành".

Ông Nguyễn Thanh Sơn nhn mnh ti vic có nhiều nhà tu lên tiếng chng li vic làm sai trái ca tr trì chùa Ba Vàng và ông cho rng "Thi kỳ mt pháp là thi kỳ mà tăng nói xu tăng". Ông Sơn cũng đưa ra hình nh ca Đi hi Vesak, k nim Pht đn sinh, Pht thành đo và Pht Niết bàn, hàng năm đã làm hãnh diện cho Pht giáo Vit Nam không nên vì mt vic nh như v Ba Vàng mà làm mt cm tình ca Pht giáo quc tế.

Trong lời nói ca ông Sơn, người ta thy có th ông mun ám ch ti mt cao tăng là Thượng ta Thích Nht T vì v này là người lên tiếng sm nht, mnh m, thuyết phc và đy đ bin lun nhm t giác tr trì chùa Ba Vàng trên các kênh thông tin đi chúng.

Nếu cho rng tăng nói xu tăng là mt pháp thì có l ông Sơn đã lch lc khi áp dng kiến thc Pht hc, mà ông t cho là sơ đng của mình, vào câu chuyn này. Là mt lãnh đo cp trung ương, t nhn là mt Pht t thun thành nếu ông không biết các hot đng ca Thượng ta Thích Nht T đi vi Pht giáo Vit Nam thì tht đáng tiếc cho ông, mt nhà ngoi giao tm c ca Vit Nam đi vi văn hóa nước nhà.

Thượng ta Thích Nht T là Trưởng khoa Triết hc Pht giáo, Phó vin trưởng Hc vin Pht giáo Vit Nam thành ph H Chí Minh. Thành viên Ban biên tp Đi Tng kinh Vit Nam, Giám đc hi Đo Pht Ngày Nay. Bng y chc v, Thượng tọa không th h đ khi cho rng thuyết "Oan gia trái ch" là tà thuyết, và vì vy, ngược li vi cáo buc ca ông Sơn, thái đ can đm vch trn âm mưu xo quyt ca nhng người đi lt tu hành là thái đ hong pháp cn biu dương trong tình hình Pht giáo sa sút hiện nay.

Ông Sơn kêu gi "ém" nhng điu không tt đp vì sp ti là đi hi Vesak được t chc ti Vit Nam. Ông quên mt chính Thượng ta Thích Nht T là linh hn ca Vesak khi mang v Vit Nam. Thượng ta tng nhn danh hiu "Lãnh đo xut sc Pht giáo thế gii", The World Buddhist Outstanding Leader Award, do ch tch Hi đng Tăng vương Thái Lan trao tng do nhng đóng góp to ln cho s bang giao Pht giáo quc tế qua các Đi l Vesak Liên Hp Quc t năm 2006, 2008, 2014 đến nay.

Trong tư cách đó, nếu im lng trước nhng cái xu, cái mt pháp ca Pht giáo Vit Nam như ông Sơn đ ngh thì không xng đáng là mt chân tu. Nhà tu không th như người cng sn, che giu mi li lm đ dư lun v tay ri sau đó li lm tiếp tc phát sinh, tiếp tc cng hưởng.

Ông cựu đi s còn nói "Chính ph đã quan tâm ti các tôn giáo và Chùa Ba Vàng rt ln rt tráng l có công ca người tr trì vì vy chúng ta không th đánh mt cái uy tín ca Chùa Ba Vàng nói riêng và Pht giáo Vit Nam nói chung. Công lao của nhng người xây dng lên nó chúng ta không vi quy chp vì nó có chuyn này chuyn khác".

Bản thân mt ngôi cha ni tiếng hay không hình thành t nhiu yếu t. Yếu t lch s, kiến trúc cng vi danh tiếng ca người tr trì làm cho s ni tiếng ca nó trường tn. Ni tiếng vì to ln, hoành tráng s không th tn ti khi mà người tr trì trong đó thiếu s thành tâm nhưng dư lòng di trá.

Những vic làm trái giáo lý nhà Pht ln pháp lut mà Đi đc Thích Trúc Thái Minh đã làm khiến người ta lên án và nhiều cơ quan nhà nước đã vào cuc điu tra, trong đó UBND tnh Qung Ninh, B Văn hóa, y ban Tôn giáo chính ph, Giáo hi Pht giáo Vit Nam… là câu tr li hay nht mà ông Sơn c tình b qua. Ông ch thy cái "tráng l" và kêu gi người pht t hãy ôm cái tráng lệ y đ hãnh din vi thế gii, còn lòng thin tâm trước cái xu cái ác thì hãy im lng vì… "đi cuc".

Mặc Lâm

Nguồn : VOA, 26/03/2019

****************

Vô thần tốt hay không tốt, luật nhân quả có hay không ?

Đoàn Bảo Châu, BBC, 26/03/2019

Có bạn phê phán rằng tôi có vẻ vô thần và điều ấy là không tốt, con người vô thần sẽ có xu hướng làm điều xấu bởi không tin ở luật nhân quả. Nói về điều này sẽ dài dòng một chút, nhưng cũng nên nói.

phat5

Một Phật tử Việt Nam (hình minh họa)

Tôi tôn trọng tất cả những tôn giáo dạy con người sống có lễ nghĩa, có trước sau, theo một trật tự hợp với tính thiện của con người. Khi xã hội làm được vậy, ấy là một xã hội có đạo.

Tôi không tin ở kiếp trước, kiếp sau, đơn giản là bởi kiến thức, suy nghĩ lô-gic và trải nghiệm của tôi là vậy và điều ấy không phải là một cái tội.

Người ta sống tốt không phải vì cái suy nghĩ là mình làm điều tốt để kiếp sau mình được hưởng phúc. Ta làm điều tốt bởi điều ấy khiến cái bản thể hướng thiện của ta cảm thấy thế là đúng và do vậy mà lòng ta vui.

Làm điều tốt để mưu cầu điều tốt hay ích lợi đến với mình trong tương lai, điều ấy không sai nhưng làm thấp đi một chút tính cao thượng trong tâm người, nó có hơi hướng giống như một sự đầu tư sinh lợi, một sự tính toán kinh tế.

Nếu bản thể của ta là chân, thiện, mỹ thì khi ta làm những điều chân, thiện, mĩ, lòng ta vui, ta cảm thấy cuộc sống của ta có ý nghĩa và ta có lòng tự hào, không cần sự khen ngợi từ bên ngoài. Người đời khen hôm nay, chê ngày mai, nhưng nếu ta có được cái nhận thức tự tại, ta sẽ an bình và vững vàng, không phụ thuộc khen chê của người, điều mà giống như làn gió luôn thay đổi.

Phật là người trần mắt thịt, sở dĩ Phật được tôn kính bởi trí tuệ của người quá siêu việt, giáo lý cuả Ngài quá sâu sắc, xuyên suốt, giải thích thấu đáo mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, mối quan hệ xã hội và quan trọng nhất là trong tâm người. Phật không có phép thần thông biến hoá, chỉ có bọn lợi dụng Phật để kiếm lợi mới có giả vờ mình có phép thần thông biến hoá để lừa đảo.

Nhờ thiền định tu luyện mà Phật có được khai ngộ sáng láng, chính vì vậy mà ngài bảo tính phật có trong mỗi người. Tính phật chính là những gì nhân bản nhất, thiện nhất, chân nhất của con người. Không xa lạ, không cao vời mà gần gũi trong mỗi bản thể, chỉ có điều có chịu nhìn vào tâm mình để mà tu luyện, để khai mở không hay thôi.

Giờ nói về luật nhân quả.

Luật nhân quả không xa xôi. Tôi không tin ở kiếp trước, kiếp sau không có nghĩa là tôi không tin ở luật nhân quả.

Bạn nhìn thấy một con vật đang đau đớn, bạn nói một câu nói thương xót, ánh mắt từ bi, cử chỉ chăm sóc dịu dàng... những điều ấy tác động đến chính con bạn. Sự lặp lại nhiều lần sẽ khiến nó thành đứa trẻ có lòng bi, có lòng thương yêu con vật và tất nhiên là thương yêu con người. Nó lớn lên sẽ sống yêu thương và chan hoà. Ấy là bạn đã gây nhân và đạt quả tốt.

Một quan chức quen đấu đá, thấy đồng chí đối thủ của mình ngã bệnh chết, buông lời hỉ hả, đứa con sẽ học được sự ác độc.

Một kẻ giầu có bởi BOT bẩn, bởi tiền cướp được nên coi thường đồng tiền, nhìn người chỉ nhìn vào tiền, trí tuệ tăm tối, buông lời khinh mạn người nghèo. Những đứa con của kẻ ấy lớn lên trong vàng bạc lấp lánh nhưng tâm hồn ô trọc, không thể hiểu được những gì đẹp đẽ của con người.

Một chính trị gia mánh khoé, chuyên nịnh trên nạt dưới, hèn với giặc, ác với dân, cả đời quay cuồng trong quyền tiền không thể dạy con một câu về tình thương yêu, về sự chân thành, về cái đẹp trong văn học nghệ thuật hay cái đẹp nói chung của cuộc sống con người. Mà nếu có mở mồm dạy thì chính hắn ta cũng tự hiểu là mình đang nói dối, sẽ ngượng mồm.

Cái thằng tấn công tình dục cô gái trong thang máy là hệ quả của một sự giáo dục như vậy. 8 năm trước, nó cũng đã chỉ biết dựa vào quan hệ để giải quyết vấn đề. Sự ngu xuẩn không dễ thay đổi. Từ nhỏ nó học được bài học bẩn nên nó thành một con người bẩn. Đến cái nụ hôn, một cái đẹp mà nó cũng chỉ biết hành xử bẩn để đạt được.

phat6

Ảnh tượng Phật chụp dịp lễ Phật Đản ở Hà Nội

Đấy là nhân xấu gây quả xấu.

Đấy chính là nhân quả, rất gần gũi dễ hiểu chứ không hề xa xôi.

Là con người, hãy tin ở tính thiện của con người. Tôn giáo có mặt tốt nhưng trong lịch sử nhân loại, chính mâu thuẫn tôn giáo đã gây ra đổ máu và bao đau khổ. Người đời theo tôn giáo này, chê tôn giáo kia, vậy là mâu thuẫn, nhỏ nhen hạn hẹp, do vậy mà không mang được lợi ích an bình cho xã hội.

Tin hay không tin ở tôn giáo không phải là vấn đề. Vấn đề đáng nói là tính chân, thiện, mĩ của con người.

Người cộng sản thời kì đầu đả phá tôn giáo, phá bỏ chùa chiền, thờ ông bà còn bị quy chụp là mê tín dị đoan. Giờ thì lại mê tín quá mức, quan chức xì xụp vái lậy, xoắn xuýt thầy bà. Đấy là do văn hoá sống nông cạn, không tin vào con người nên lúc thế này, lúc thế khác. Cả đời chỉ coi quyền lực, vị trí là quan trọng, bao thời gian chỉ lo đấu đá, lúc nào đọc sách, lúc nào suy ngẫm và thiền định đâu để hiểu sâu sắc những điều ấy.

Họ thực ra là những con người yếu kém về văn hoá, yếu đuối về tâm hồn, chính vì vậy mà họ hay sai lạc. Sai lạc nên không nhất quán, hay thay đổi, gió chiều nào che chiều nấy.

Tôi tôn trọng tôn giáo, trân trọng những giáo lý đẹp đẽ nhưng không hề tin một cách mê muội. Hơn hết là tôi tin ở con người, tôi tin ở chính tôi.

Mỗi kiếp người có một sứ mạng thiêng liêng và nếu ta tin ở điều ấy, ta sẽ làm được những điều tốt đẹp đáng kể.

Đoàn Bảo Châu

Nguồn : BBC, 26/03/2019

********************

Vụ chùa Ba Vàng có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự

Nguyễn Trang Nhung, RFA, 26/03/2019

Sáng ngày 26/3, UBND Thành phố Uông Bí, Quảng Ninh đã tổ chức hội nghị thông tin báo chí về sự việc tại chùa Ba Vàng, nơi thuyết giảng về nhân quả, vong nhập, báo oán, giải nghiệp để thu tiền dưới hình thức công đức.

phat7

Ông Nguyễn Mạnh Hà trả lời tại cuộc gặp gỡ báo chí sáng 26/3. Ảnh : Minh Cương

Tại hội nghị, chủ tịch UBND Thành phố Uông Bí – ông Nguyễn Mạnh Hà – cho biết đã giao cho UBND phường Quang Trung ra quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về nếp sống văn hóa của bà Yến, cụ thể là hành vi lợi dụng hoạt động thỉnh vong, gọi hồn để hành nghề mê tín dị đoan, căn cứ vào điểm a, khoản 2, Điều 15 Nghị định 158/2013 [1].

Mức phạt dành cho bà Yến là 5 triệu đồng, là mức phạt cao nhất của quy định này, do có tình tiết tăng nặng là vi phạm nhiều lần. Cùng với đó, theo quyết định xử phạt, bà Yến phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong thời hạn 10 ngày [2].

Theo ông Hà, công an thành phố đã thông báo không chấp nhận bà Yến tiếp tục hành nghề mê tín dị đoan tại chùa Ba Vàng [3].

Đây mới chỉ là bước xử lý ban đầu đối với sự việc. Ông Nguyễn Mạnh Hà còn cho biết chính quyền sẽ xử lý các hành vi vi phạm tiếp theo sau khi làm rõ. Ngoài ra, đối với xử lý hình sự thì còn chờ công an điều tra [4].

Hành vi của bà Yến có dấu hiệu cấu thành tội hành nghề mê tín, dị đoan theo Điều 320 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là một trong các tội xâm phạm trật tự công cộng. Hành vi khách quan của tội này là "dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác" như một nghề nhằm mục đích trục lợi. 

Với thông tin mà báo chí đã công bố, có thể nghi vấn rằng bà Yến đã dùng ít nhất là hình thức đồng bóng trong hoạt động thỉnh vong, gọi hồn của mình để kiếm tiền sinh sống. Nếu nghi vấn này được khẳng định qua hoạt động điều tra của công an, bà Yến có khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này với hình phạt từ 3 đến 10 năm tù, theo điểm c ("gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội"), khoản 2, Điều 320. Nếu hành vi rơi vào cả trường hợp của điểm b ("thu lợi bất chính 200 triệu đồng trở lên"), thì hình phạt sẽ cao hơn mức tối thiểu.

Bên cạnh đó, hành vi của bà Yến còn có dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là một trong các tội xâm phạm sở hữu. Hành vi khách quan của tội này là "bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác". 

Nếu bà Yến được chứng minh là đưa thông tin giả, mà bà biết là giả, và mong muốn những người khác tin là thật, từ đó chiếm đoạt tài sản của họ, thì bà phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này với hình phạt tối thiểu là cải tạo không giam giữ đến ba năm và cao nhất là phạt tù chung thân, tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi, ví dụ, nếu phạm tội có tổ chức, thì sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm, theo điểm a, khoản 2, Điều 174.

Trong cả hai trường hợp của hai tội trên, người phạm tội có thể bị phạt tiền (theo khoản 3, Điều 320 và khoản 5, Điều 174). Riêng trong trường hợp của tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có thể chịu thêm chế tài khác như tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản (theo khoản 5, Điều 174).

Hẳn nhiên, ngoài bà Yến, nhà sư Thích Trúc Thái Minh – trụ trì chùa Ba Vàng – cũng có các dấu hiệu của các tội kể trên, chẳng hạn, với tư cách là người tổ chức các hoạt động thỉnh vong, gọi hồn, nên nếu được chứng minh phạm tội, cũng phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng.

Nguyễn Trang Nhung

Nguồn : RFA, 26/03/2019 (NguyenTrangNhung's blog)

Chú thích :

[1] Vụ 'thỉnh vong' ở chùa Ba Vàng : Phạt 5 triệu và bà Yến đi đâu ?

[2] Vụ cúng "oan gia trái chủ" tại chùa Ba Vàng : Bà Phạm Thị Yến bị phạt 5 triệu đồng

[3] Vụ chùa Ba Vàng : Xử phạt hành chính 5 triệu đồng bà Phạm Thị Yến

[4] Như [1]

***********************

Mạt pháp : Công ty cổ phần kinh doanh Phật giáo Việt Nam

JB Nguyễn Hữu Vinh, 25/03/2019

Kể từ khi cộng sản cướp được chính quyền và tay mình, với một chủ nghĩa vô thần mang tên Mác – Lenin được coi là sợi chỉ đỏ, làm nền tảng tư tưởng xã hội, Việt Nam đã có nhiều thay đổi.

phat8

Chùa Ba Vàng, nơi Đại đức Thích Trúc Thái Minh bày trò "thỉnh vong" moi tiền người dân mê tín, nhẹ dạ. (Hình : tintuconline.vn)

Quá trình "tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng mang tên : "Cách mạng về quan hệ sản xuất", "Cách mạng về khoa học và kỹ thuật" và "Cách mạng về tư tưởng văn hóa", Cộng sản đã biến đất nước thành một cuộc thí nghiệm vĩ đại cho chủ thuyết cộng sản. Để rồi cho đến nay, dù không chịu thừa nhận, thì trên thực tế, cái gọi là "3 cuộc cách mạng" nói trên đã hoàn toàn thất bại.

Trước hết là cuộc Cách mạng về quan hệ sản xuất với chủ đích xóa bỏ mọi tính chất tư hữu trong xã hội, xây dựng một nền kinh tế kế hoạch tập trung. Cướp đoạt bằng "Cải cách ruộng đất", xóa bỏ mối quan hệ xã hội kiểu phong kiến lạc hậu.. Thì sau khi cướp ruộng đất chia cho dân cày, cộng sản trở lại cướp ruộng đất của người dân vào tay quan chức cộng sản để thay cho các địa chủ thời xưa. Sau khi hô hào cả xã hội đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh… thì ngày nay, cộng sản lại hình thành các tập đoàn sân sau của quan chức, những tư bản đỏ ra đời… thay cho những tư bản ngày xưa.

Điều khác biệt ở đây, chỉ là ở chỗ : những địa chủ mới, những tư bản đỏ ngày nay được hình thành bởi tính chất cướp bóc vô luân và vô luật, trên sự đau khổ và cùng quẫn của người dân một cách trắng trợn chứ không được hình thành từ khả năng và tư chất cũng như những tài nghệ của mình như trước đây.

Tiếp đến, cuộc Cách mạng về khoa học và kỹ thuật được coi là then chốt, là quan trọng, được ưu tiên… thì ngày nay, cả đất nước gần 100 triệu dân, mà nền sản xuất công nghiệp chưa làm nổi một chiếc ốc vít đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Riêng cuộc Cách mạng về khoa học và kỹ thuật thì có nhiều chuyển biến rõ nét và thành quả, hay nói đúng hơn là hậu quả của nó hết sức dễ dàng nhận thấy trong đời sống xã hội.

Với tính chất vô thần, với quan niệm "vật chất quyết định ý thức", ngay từ đầu, người cộng sản đã Chủ trương tiêu diệt tôn giáo, thay đổi tư tưởng con người bằng mọi cách, mọi hình thức có thể, nhằm tạo ra cái gọi là "Con người mới xã hội chủ nghĩa".

Thành quả để lại là một lớp "Con người mới xã hội chủ nghĩa" lãnh đạo đất nước, đưa xã hội trở thành xã hội vô luân, vô đạo đức và nô lệ. Những hành vi không tính người được khuyến khích phát triển, lấy bạo lực làm đầu và dối trá làm phương tiện sống mà tiến thân. Mâu thuẫn xã hội đẩy lên cao và sự phân biệt con người, miệt thị tôn giáo cách ngang nhiên, trắng trợn trong xã hội là chuyện bình thường.

Chủ trương đó, được thực hiện qua nhiều thời kỳ bằng nhiều phương thức khác nhau. Trước hết là đập bỏ, tiêu diệt mọi cơ sở vật chất của tôn giáo. Xóa bỏ các trường đào tạo tu sĩ, chặt đứt mọi liên lạc của tôn giáo với thế giới bên ngooài.

Hàng loạt đền, chùa, miếu mạo bị đập nát, tượng Phật bị chẻ làm củi đun, chùa chiền được tháo ra làm chuồng trâu, chuồng lợn, nhà thờ thánh thất biến thành nhà kho, tu viện biến thành nơi kinh doanh, nhảy múa… Theo một nhà nghiên cứu, riêng Tỉnh Nghệ An có đến 500 ngôi chùa, thì đã bị đập phá gần như hoàn toàn, số còn lại là 28 chùa trong điều kiện có cũng như không. Cũng theo các số liệu được công bố, Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện vẫn còn 2.500 nơi thờ tự bị nhà nước cộng sản chiếm, cướp, chia chác và biến tướng không chịu trả lại.

Hệ thống đào tạo, giáo dục và tuyên truyền bằng mọi cách tạo những mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân để bài xích, phân biệt và khủng bố tôn giáo cách trắng trợn. Những người theo con đường tu hành bị bắt bớ bỏ tù hàng loạt và đày ải chết trong các trại giam. Những giáo dân bị phân biệt trong mọi lĩnh vực xã hội, trong công việc, trong cuộc sống, họ bị coi là công dân hạng hai, với đủ mọi thứ xấu xa, lạc hậu và phản động mà hệ thống tuyên truyền cộng sản có thể nghĩ ra được.

Tôn giáo có đông tín đồ nhất Việt Nam là Phật giáo cũng được cộng sản "quan tâm" tiêu diệt hàng đầu và đã hết sức thành công.

Sau một thời gian, cái chủ thuyết vô thần không thể tiêu diệt được niềm tin tôn giáo của người dân vốn đã từ ngàn đời nay tồn tại, tuy vẫn "kiên định" chủ trương tiêu diệt tôn giáo, nhưng Cộng sản thi hành một chính sách khác hơn. Đó là khuynh loát, phá hoại từ phía trong, từ đầu não của Phật giáo, phá hoại từ cốt lõi, từ giáo lý, từ căn nguyên của Phật giáo Việt Nam.

Và đại nạn Phật giáo đã bước vào giai đoạn đỉnh điểm khủng khiếp nhất trong lịch sử Việt Nam. 

Bắt đầu từ việc buộc giải tán các hệ phái khác nhau để nhập lại một giỏ gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam với phương hướng hành động là "Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội" dưới sự quản lý của đảng cộng sản vô thần. Người dân gọi đây là Phật giáo Quốc doanh.

Thế rồi hàng ngũ sư sãi mậu dịch được đào tạo bởi các trường công an. Công an được "biệt phái" sang làm nhiệm vụ chính trị với nghề sư sãi, cái mõ và bộ cà sa là vũ khí, người dân u mê là đối tượng tác chiến. Những tay công an có vợ con ở tỉnh này, địa phương này được bố trí làm sư ở địa phương khác, tỉnh khác. Hàng tuần, hàng tháng có thể về thăm vợ con và đủ mọi trò ngược đời sống tu hành.

Điều hết sức hài hước, là một tôn giáo từ lâu đời, được lãnh đạo, dẫn dắt bởi một đàn sư sãi là đảng viên Cộng sản vô thần. Thậm chí có những tên còn đến 50 tuổi đảng và cấp bậc cao ngất trong lực lượng công an.

Để có thể "bằng chị, bằng em" với các đồng chí của mình trong hệ thống tham nhũng, kiếm chác ở mọi mặt trận và "Ăn của dân không chừa một thứ gì", các sĩ quan an ninh hành nghề sư sãi mặc sức bịa đặt các món mê tín, dị đoan và lừa đảo để hành nghề hốt bạc. Nào là nhà chùa cúng sao, giải hạn, xem ngày xem tháng, rồi gọi vong báo oán, vay nợ đầu năm, phát ấn Đền Trần… Hầu hết những trò mê muội này đều đi ngược lại và phá nát hệ thống Giáo lý nhà Phật, dẫn đưa người dân đi vào cõi u mê và đe dọa cuộc sống của họ bằng cách bịa đặt, dọa dẫm họ phải nôn ra bằng hết những đồng tiền mồ hôi, nước mắt của họ..

Thực chất, cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc biến Phật giáo thành một Tổng Công ty cổ phần Kinh doanh Phật giáo mà quan chức là cổ đông, nghề kinh doanh chính là lừa đảo.

Mới đây, chuyện "dâng sớ cầu an" lừa đảo, thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm của Thích Thanh Quyết, một cán bộ an ninh có cỡ, nổi tiếng bằng những câu nói ngu xuẩn trên cái gọi là Quốc hội bị báo chí tố cáo chưa xong, thì vụ Chùa Ba Vàng của Thích Trúc Thái Minh "thỉnh vong báo oán" đã gây nên sự phẫn nộ khủng khiếp. Báo chí được bật đèn xanh vào trận chiến.

Có điều, những vụ việc đó cũng là chuyện tất yếu trong nội bộ đảng Cộng sản khi phe nhóm đang tàn sát lẫn nhau hiện nay. Tất cả chỉ vì quyền lợi, vì lợi ích phe nhóm, hoàn toàn không vì bất cứ điều gì để đem đến một sự làm sạch sẽ hệ thống Phật giáo Quốc doanh hiện tại.

Bởi, trên hết và nguồn gốc sự suy đồi của Phật giáo Việt Nam hiện nay, là Đảng Cộng sản vô thần, tổ chức đã khuynh loát hệ thống này đến tận chân tơ kẽ tóc.

Và như lời Thái Bá Tân một dịch giả, một nhà thơ đã viết :

Đúng là thời mạt pháp.

Sư toàn người an ninh.

Muốn dẹp hết chùa bẩn,

Phải dẹp chùa Ba Đình.

Ngày 25/3/2019

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Nguồn : RFA, 25/03/2019 (nguyenhuuvinh's blog)

Published in Diễn đàn

Chùa của ai và tăng của ai ?

Thiên Hạ Luận, VOA, 25/03/2019

Hàng loạt đng tác ca B Văn hóa thể thao và du lịch, B Ni v, chính quyn tnh Qung Ninh, chính quyn thành ph Uông Bí, công an thành ph Uông Bí và Trung ương Giáo hi Pht giáo Vit Nam, không đ đ dp ngn la phn n ca công chúng về các hat đng liên quan ti chùa Ba Vàng và Đi đc Thích Trúc Thái Minh,…

matphap1

Thích Trúc Thái Minh trong buổi "live stream" tối 21/03/2019 (nh chp màn hình)

Trên mạng xã hi, bên cnh nhng ch trích v chuyn "gi vong, cúng oan gia trái ch" đã xut hin t cáo ca mt s Pht t. Chng hn Trương Nam Thi – người có bà m tham gia tu tp vi Đi đc Thích Trúc Thái Minh, phc v ti chùa Ba Vàng trong mười năm qua - kêu gọi nhà sư này hãy phóng thích m ca mình.

Sau một thi gian dài làm công qu ti chùa Ba Vàng, m Trương Nam Thi b đt qu và điu duy nht mà nhà sư chuyên "ct vong, gii hn, tr tà" đ loi b tt c bt đc ý, ri ro, bnh tt trong cõi nhân sinh đã làm là đưa bà vào am, nm ung nước, ch lúc v min cc lc...

Trương Nam Thi và anh ch em ca mình va đau đn, va phn n vì bt lc, không th cu m ca h ra khi s mù lòa v nhn thc, gi đã hóa thành u mê. Thi cnh báo, nhng gì mà trụ trì chùa Ba Vàng đã làm ch khiến chúng sinh lun qun trong s hãi, ri phát r, cung cung trong đo điên mà thôi (1).

Tương t, Đng Như Quỳnh đưa lên facebook mt phiếu đăng ký "Thnh hương linh oan gia trái ch" ca Pht t tên Trn Quc Hường. Ông Hường – người đau t đu đến chân, tê mt bên tay – được chùa Ba Vàng "chn đoán" là do… 15 kiếp trước, khi làm quan huyn, "Tín ch" Trn Quc Hường ra lnh, x chém mt thanh niên 23 tui.

Phải đến bây gi, thanh niên 23 tui b chém vì ăn trm, hiếp dâm mi thành "hương linh" đ báo oán do… oan. Ông Hường mi b báo ng do tng… nhn hi l, giết sai người, được hướng dn gii nn bng cách np 950 triu "cúng dường không nương ta Đi tăng", cùng vi 29 triu khác đ "cúng dường nương ta Đi tăng, tu tập, b thí" (2).

Cũng phải đến bây gi, sau khi clip thuyết ging, cô gái – nn nhân mt v cướp, hiếp, giết xy ra cách nay hai tháng tnh Đin Biên – ung mng không phi do cái ác sinh sôi, ny n, mà vì phi tr "nghip" trong tin kiếp (sát hại chúng sinh dã man, xâm hại trinh tiết người khác), được phát tán, công chúng mi sôi sùng sc.

Những lý gii kèm khuyến d kiu như : Đau xương khp là do bn kiếp trước hay giết mèo nên kiếp này b vong mèo báo oán cn tu tp 49 ngày, kèm np ba triu tin công đc. B ung thư vú là vì 42 kiếp trước không chăm sóc em gái và làm nhiu điu ác như cướp đt nên gi phi gánh, mun khi ung thư vú phi np 7,1 triu gii vong. Ri kinh doanh ế m vì 36 kiếp trước to ác nghip, nay vong phá, mun suông s phải cúng dường 6,8 triu đng… làm thiên h, đc bit là nhiu Pht t sng s (3) !

Không chỉ có thường dân khng đnh Pht giáo không phi là như thế, trên facebook dường như ca mt nhà sư có pháp danh là Thích Nht T, lp đi, lp li li kêu gi "chung tay dẹp tan ‘tà pháp thnh oan gia trái ch’ ca thày Thích Trúc Thái Minh, không đ đo Pht b v lây bi s truyn bá mê tín ‘vong báo oán ca chùa Ba Vàng" (4).

Qua hệ thng truyn thông chính thc, Đi đc Thích Đo Hin, Phó Ban Tr s Giáo hi Pht giáo tỉnh Qung Ninh, phân trn rng, t chc này tng yêu cu chùa Ba Vàng chm dt truyn bá "vong báo oán". K c gi văn bn cho Tnh ủy Qung Ninh và chính quyn thành ph Uông Bí đ ngh x lý ngay vic truyn bá "vong báo oán" (5).

Đại đc Thích Đo Hiển nói thêm, tr trì chùa Ba Vàng đã tng quỳ trước Thượng ta Thích Thanh Quyết (Trưởng Ban Tr s Pht giáo Vit Nam tnh Qung Ninh) sám hi nhiu ln nhưng ri đâu li vào đy, li phát sinh chuyn khác. Nếu hôm nay, gii quyết không tt, ngày mai sẽ phải chy theo x lý vic khác ca tr trì chùa Ba Vàng.

Phó Ban Trị s Giáo hi Pht giáo tnh Qung Ninh than rng, c vài ngày, tr trì chùa Ba Vàng li nghĩ ra mt cách khác người, ông không rõ đó có phi là cách thu hút tín đ, qun chúng hay không... Đồng thi nhn mnh, mong mun "x lý trit đ" vn đ chùa Ba Vàng không phi do Ban Tr s ganh t hay ni b mt đoàn kết (6).

Có một đim đáng chú ý là dù khng đnh "gi vong, thu tin" trái vi giáo lý đo Pht nhưng đi din Ban Tr s Giáo hi Pht giáo tnh Qung Ninh không xem đó là chuyn ca Giáo hi Pht giáo Vit Nam. Đi đc Thích Đo Hin xem đây là trách nhm ca… nhà nước, cn ly pháp lut ca nhà nước làm chun mc trong… x lý !

Chẳng l ti Vit Nam, c chùa ln tăng không phi ca Pht mà là ca… nhà nước ? Cũng có th. Nếu chùa ln tăng không phi ca nhà nước thì làm sao tr trì chùa Ba Vàng có th phá hàng chc ngàn mét vuông đt rng biến công th thành nơi ta lc ca chùa Ba Vàng, mt đi t trên núi "có chính đin ln nht Đông Dương" (7).

Nếu Giáo hi Pht giáo Vit Nam là mt thc th thc s đc lp, nâng đ - giám sát nhau v vic thc thi giáo lut, truyn bá Pht pháp theo đúng tinh thn Pht giáo chc tr trì chùa Ba Vàng không dám thách thc Giáo hi ti mc đã được hàng giáo phẩm cp cao hơn khuyến cáo nhưng vn t chc tiếp tc tán phát rng rãi quan đim : Thu tin cúng oan gia trái ch là theo yêu cu ca… vong (8). Càng nghèo càng phi cúng dường đ thoát nghèo (9)…

***

Từ s kin chùa Ba Vàng, facebook Nguyn Ngc Chu, một Tiến sĩ, nhn đnh, Vit Nam hin có hàng trăm chùa "Ba Vàng". Có nhiu chùa "Ba Vàng" hơn xa chùa Ba Vàng Uông Bí như các chùa Bãi Đính, Tam Chúc hoc sp mc lên na H Núi Cc, nhng nơi gi nguyên khí linh thiêng ca đt nước. Chính cơ chế ca chúng ta đã đ ra mt xã hi làm chùa chin biến tướng. Chính cơ chế ca chúng ta đã đ ra xã hi nuôi dưỡng nhng ông ch các chùa "Ba Vàng". T đp phá chùa chin – vn mt cc, đến xây các chùa "nht thế gii" như bây gi - là mt cc khác. chế không cho chúng ta bước đu đn theo mt chiu mà dt chúng ta nhy t cc t sang cc hu.

Ông Chu cho rằng, nhng người lc vào mê tín không phi do li ca h, h là nn nhân ca mt xã hi sinh dưỡng mê tín, cho nên cũng là tín ngưỡng nhưng c quốc gia khác mê tín di đoan, buôn thn bán thánh không tr thành đi ha như Vit Nam ?

Tại sao nhiu người dân li tin vào nhng chuyn mang màu sc mê tín d đoan như bây gi ? Câu tr li tht đơn gin là h không còn ch gi gm nim tin : Tin vào đâu khi chính những người có chc quyn cũng đi chùa xin chc quyn ? Tin vào đâu khi nhng k có tin b tin xây chùa chin, khuyến khích h đi chùa cy nh thn thánh ? Tin vào đâu khi các tr trì khuyên h cy nh thánh thn ? Tin vào đâu khi k có quyn thay đen đổi trng ? Tin vào đâu khi k có tin mua trng thay đen ? Tin vào đâu khi quan tòa không bo v l phi ? Tin vào đâu khi mi vic phi da vào tin ? Tin vào đâu khi k có ch bt tai cúi đu ?... nên h phi cy vào thn thánh và c ma qủy !

Theo ông Chu, khi mê tín lộng hành là ch nghĩa đi vào ca mt. Mê tín lng hành có li ca k biết ch. Đ xã hi mt lòng tin có li ca k biết ch. Thành ra "nhng người trót hc, hãy mnh m lên" (10).

Cũng với tâm trng như thế, Nguyn Văn Tiến Hùng h thng hàng loạt s kin khác : Mt Khá "Bnh", 26 tui, ch hc hết lp 7, chuyên đòi n thuê, đánh đm, chi bi... theo phong cách du đãng, tng vào ra tù, ra khám vài ln, nói năng như nh nước miếng vào các chun mc nhưng đang có hàng triu người theo dõi trên Facebook và You Tube. Vừa ri Khá "Bnh" xut hin Yên Bái, đám tr còn đeo khăn quàng đ xúm vào chiêm ngưỡng như được din kiến mt "người hùng". Con s đăng ký theo dõi kênh riêng ca Khá "Bnh" trên You Tube đã vượt mc hai triu và tiếp tc gia tăng, đa số là nhng cá nhân sinh sau 2003…

Rồi mt Phúc "XO", ni như cn vì đeo 13 ký vàng trên người, vì s hu nhng chiếc xe hơi và mô tô m vàng. Không ch l, Tết, nhng bui chiu mà Phúc "XO" lau chùi xe ti mt đa đim sát siêu th Thiên Hòa, gn cầu Tham Lương qun 12, Thành phố Hồ Chí Minh là đon đường này li kt vì thiên h xúm vào chp hình, quay phim. Có vài chc, thm chí c trăm You Tuber theo sát Phúc "XO" đ quay phim, phng vn vì Phúc "XO" luôn sn sàng k v ca ci, v cách ăn nên, làm ra nếu rành về phong thy, nh vy, có th tính vàng theo… ký ! Nay ti s kin chùa Ba Vàng, khai thác lut nhân – qu đ giao hoang mang, khuyến d cúng chuyn nghip và đ "vong" đnh giá…

Hùng trăn trở vì ba ví d ông nêu tuy nh nhưng rõ ràng có liên quan vi nhau. Đó là cả cng đng đang b dn dt. Dn dt được đám đông đng nghĩa vi s hu sc mnh ca đám đông. Công ngh - công c đ tác đng đến cng đng thì min phí nhưng đnh hướng, to ra cng đng ca riêng mình thì phi có đnh hướng v nhu cu, mc đích sử dng. Đám đông t tp quanh Khá "Bnh", Phúc "XO" hay chùa Ba Vàng là mt phn xã hi. Ti sao xã hi li ny sinh ra nhng cá nhân lao theo nhng phát biu ngông cung, thói khoe khoang ca ci hoc m mm trong s hãi nhng thế lc vô hình ? Cn phải tự hi : Chuyn gì đang xy ra ? Vong nào đang dn dt mi người ?

Thiên Hạ Luận

Nguồn : VOA, 25/03/2019

Chú thích :

(1) https://www.facebook.com/truongnamthi/posts/792818274413107

(2) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=260098984944572&set=a.103598363927969&type=3&theater

(3) https://www.facebook.com/hoang.linh.7146/posts/2035429083244278

(4) https://www.facebook.com/ThichNhatTu/posts/2384014438289173

(5) https://vnexpress.net/thoi-su/chua-ba-vang-thu-tien-theo-yeu-cau-cua-vong-3898146.html

(6) http://soha.vn/pho-ban-pg-quang-ninh-tru-tri-chua-ba-vang-quy-sam-hoi-truoc-thuong-toa-thich-thanh-quyet-nhieu-lan-xong-dau-lai-vao-day-20190322120556382.htm

(7) https://tuoitre.vn/chua-ba-vang-10-nam-bien-thanh-nguy-nga-rong-hang-chuc-ngan-met-vuong-20190321101531503.htm

(8) https://vnexpress.net/thoi-su/chua-ba-vang-thu-tien-theo-yeu-cau-cua-vong-3898146.html

(9) https://nld.com.vn/thoi-su/tru-tri-chua-ba-vang-cang-ngheo-cang-phai-cung-duong-de-thoat-ngheo-20190322093655616.htm

(10) https://www.facebook.com/chu.nguyenngoc/posts/1576123132521111

*******************

Chùa Ba Vàng, mạt Pháp hay mạt Quốc ?

Viết từ Sài Gòn, RFA, 24/03/2019

Một xã hội mà ở đó, các thầy tu mượn áo tu để làm chuyện xằng bậy của yêu ma quỉ quái, giới quan lại mượn ghế lãnh đạo để để lộng quyền bất chính, nhất định xã hội đó phải trong thời mạt quốc.

matphap2

Ngày 22/03/2019, cơ quan công an sẽ tiến hành triệu tập bà Phạm Thị Yến, người truyền bá vong báo oán, xúc phạm người khác xảy ra tại chùa Ba Vàng. Cụ thể, bà Yến đã lấy vụ nữ sinh giao gà Cao Thị Mỹ D., bị hãm hiếp rồi sát hại xảy ra tại Điện Biên để hù doạ người khác. 

Chữ Mạt Quốc cần được nhấn mạnh ở đây thay vì nói rằng Phật Pháp bây giờ thời Mạt Pháp. Nói đạo Phật đang thời mạt Pháp là sai lầm và không hiểu gì về chữ Pháp.

Bởi lẽ, Pháp là một khái niệm siêu hình, nó không thuộc về duy lý hay phân tích, Pháp cũng không thể ký thác hay ẩn mình trong một sinh mệnh phàm phu tục tử nào đó với bộ áo khoác nhà tu.

Nói như vậy để thấy rằng câu chuyện ở chùa Ba Vàng mà mấy hôm nay đang trở thành đề tài nóng trên các trang mạng xã hội, thậm chí trên các trang báo quốc tế và không ít trang nhìn nhận đó như một sự củng cố niềm tin về Mạt Pháp.

Trên thực tế, Pháp chỉ tồn tại khi các giá trị đạo đức, phẩm hạnh và tâm linh còn trong trẻo, không vẩn đục. Một khi đạo đức đen tối, phẩm hạnh u ám và tâm linh vẩn đục thì Pháp nào xuất hiện hay tồn tại ở đó được mà luận đến chuyện Mạt hay Thịnh ?!

Một quốc gia mà các thầy chùa múa may quay cuồng, đám quan lại xun xoe, toa rập với đám thầy chùa để diễn kịch mị dân, kiếm tiền và thao túng quyền lực, điều đó chỉ cho thấy rằng quốc gia đó đang mạt vận và điều này chẳng liên quan gì đến Pháp, bởi sự nhiệm màu chưa bao giờ xuất hiện ở quốc gia đó.

Một quốc gia may mắn, trước nhất phải nói rằng đó là quốc gia không nằm trong nhóm "vô đạo". Bởi nhờ không vô đạo mà con người biết sợ những gì ngược với đạo đức, ngược với phẩm hạnh và ngược với tiếng nói tâm linh sâu thẳm.

Thời Việt Nam Cộng sản xã hội chủ nghĩa, nói xa hơn một chút, thời Việt Nam Cộng Hòa, dường như Pháp Phật vẫn chưa chạm đến quốc gia này, hay nói cách khác là Việt Nam không có may mắn hay mảnh đất tâm hồn của số đông, rất đông người Việt không đủ trù phú để hạt mầm Phật Pháp nảy nở.

Bằng chứng của vấn đề này là từ những năm 1963, đã có nhiều kẻ khoác áo tu hoạt động nằm vùng và tạo ra những chiến tuyến nảy lửa với nhà cầm quyền Việt Nam Cộng Hòa trên danh nghĩa "tranh đấu Phật giáo" nhưng thực chất, đó là một kiểu vận động chánh trị được khoác áo tôn giáo.

Và, khi chế độ cộng sản lên nắm quyền trên cả hai miền đất nước, những cái cây "tranh đấu Phật giáo" lại đâm thêm cành nhánh, đơm bông, kết trái và mọc thêm hàng ngàn, thậm chí hàng triệu cây con để cho đến lúc này, chúng đã hoàn toàn trưởng thành và thể hiện sức mạnh của một thứ sứ mệnh mượn danh tôn giáo để gây cảm tình chính trị, để bóc lột kinh tế.

Chưa bao giờ đáng sợ và tởm lợm hơn bây giờ, khi các đại đức, tỳ kheo chỉ ngót nghét ba mươi, bốn mươi tuổi nhưng xưng "thầy – con" với người già bảy mươi, tám mươi tuổi một cách không ngượng miệng.

Tôi từng chứng kiến một tỳ kheo chưa đầy ba mươi, gọi một Phật tử già 80 tuổi, bằng tuổi bà của anh ta trong lúc mời trà tôi một cách phách lối chưa từng thấy. "Tư… ! Lên thầy bảo ! Con pha cho thầy thêm một bình trà ngon !". Bà cụ lật đật miệng dạ chân chạy để pha trà cho ‘thầy". Lúc này tôi mới hiểu, cái người bị gọi "Tư…" nghe đầy gầm ghè của "thầy" là một bà cụ chân yếu tay run ! Tôi cũng hết muốn uống trà với "thầy".

Kể ra một chuyện nhỏ như vậy để thấy rằng hầu như hiếm có, thậm chí là không có người tu nào có thể chạm đến Phật Pháp, bởi ngay từ đầu, người ta đã chấp thủ và tự đặt mình vào vị trí "thầy" của cuộc đời cho dù chỉ mới lóp ngóp bước lên vị trí tỳ kheo (đại đức) mà nguyên gốc của nó là kẻ đi theo chân thầy để phục vụ cuộc đời. Ở đây, không có kẻ đi theo chân thầy để phục vụ đời mà chỉ có kẻ ngồi phốc lên vị trí ấy để đời phục vụ.

Nói cho cùng, đến thời điểm này, làm gì có Phật Pháp ở các chùa, các thầy với đủ các chiêu trò nhươn sao, giải hạn, đuổi vong, đổi vong, ốp đồng, ngoại cảm… ? !

Mà một khi không chạm được Phật Pháp thì làm gì có Mạt Pháp với Thịnh Pháp ?!

Tại sao người ta dùng chữ Mạt Pháp ở đây ? Và ai dùng ?

Xin thưa, đó là cách nói lấp liếm, lấy vải thưa che mắt thánh của những kẻ cơ hội, những kẻ buôn thần bán thánh vẫn cố gieo rắc vào người mù mờ luận điệu rằng Phật Pháp vẫn đang phát triển bởi các chư tăng ở các chùa, chỉ có một vài tên phá đám, một vài tên cơ hội làm hôi hám chốn thiền môn và điều ấy như một chỉ dấu về sự mạt pháp.

Khi ngày càng lòi ra nhiều gương mặt ăn chơi sa đọa, trác tán, nhiều kẻ lừa đảo nhân danh tôn giáo, nhân danh Phật giáo thì người ta lại cho rằng đó là Mạt Pháp.

Nhưng trên thực tế, ở một đất nước mà quan tham cấu kết với sư hổ mang để làm những điều tệ hại, đê tiện thì chắc chắn quốc gia đó chưa bao giờ chạm tới sự huyền nhiệm của Phật Pháp. Đặc biệt, những kẻ tuy mang chức sắc lớn trong giáo hội, cộng đoàn nhưng nhân cách méo mó, tư cách xoàng xỉnh thì chắc chắn một điều là những kẻ này không có bất kì thứ tư cách nào để nói đến tâm linh hay Phật Pháp.

Một quốc gia tràn đầy những kẻ khoác áo nhà Phật nhưng lại tham lam và lợi dụng vào sự cuồng tín của nhân dân để đẩy nhân dân đến chỗ mê lầm và mượn danh đạo pháp để giáo huấn chính trị, lái con người đến chỗ vong thân, vong nô thì quốc gia đó không đủ tư cách để bàn về khái niệm Phật Pháp hay Mạt Pháp. Bởi nó đang trong thời Mạt Quốc.

Một khi rơi vào thời Mạt Quốc thì giới quan lại thỏa sức bóc lột, giới khoác áo tu cũng thỏa sức bắt tay với quan lại để bóc lột người dân bằng cách hủ hóa, mê tín hóa và ngu dân hóa, đẩy đám đông đi từ mê tín đến cuồng tín và mê lầm.

Đáng buồn là chúng ta đang ở vào thời kì ấy, cái thời kì mà chúng ta không đủ tư cách để bàn hay nhận hai chữ Mạt Pháp. Bởi chúng ta đang rời vào thời kì Mạt Quốc. Nếu không tỉnh ngộ, giữa Mạt Quốc và Vong Quốc chỉ cách nhau chưa tày gang ! Bởi Mạt Quốc là tiền đề của Vong Quốc.

Viết từ Sài Gòn

Nguồn : RFA, 25/03/2019 (VietTuSaiGon's blog)

Published in Diễn đàn

Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi : hình sự hay dân sự ?

Thảo Vy, VNTB, 24/03/2019

Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, tại Điều 5.5, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi. Việc trục lợi này liệu có thể xử lý về mặt hình sự để gia tăng tính răn đe ?

phat1

"Chùa lớn nên bị ganh ghét, ngoại đạo ác hại"

Đó là câu chuyện chùa Ba Vàng nhận tiền cắt duyên nghiệp để chữa bệnh cho phật tử, thuyết giảng chuyện bị vong nhập… Trong buổi pháp thoại được truyền hình trực tiếp trên trang web, trang youtube và mạng xã hội facebook của chùa vào tối hôm 21/03, Đại đức Thích Trúc Thái Minh, trụ trì chùa Ba Vàng, nói rằng "Chùa lớn nên bị ghen ghét".

Họ đang choảng nhau !

Luật sư Nguyễn Thanh Bình nói rằng ông đang cảm nhận là hình như các đại gia bất động sản tâm linh giữa "Bái Đính - Tam Chúc" với "Yên Tử - Ba Vàng" đang bắt đầu choảng nhau. 

"Thật ra hoạt động tâm linh của các vùng đều như nhau thôi. Nhưng trong cuộc chiến này, cuộc chiến giành dòng người u mê cuồng tín, phe nào mạnh, nhiều tiền thì phe đó thắng. Trong cuộc chiến ấy, công cụ và phương tiện cho các bên chiến đấu cơ bản, chủ yếu là giới truyền thông. Nhiều nhà báo sẽ gia nhập đám tay sai đầy mưu mẹo cho các đại gia bất động sản tâm linh. Bà con chú ý theo dõi nhé, hấp dẫn lắm đây !". Luật sư Nguyễn Thanh Bình cảnh báo.

Nhà báo chuyên về biên khảo du lịch, ông Phạm Hoài Nhân kể rằng cho đến nay, vẫn chưa có câu trả lời chính xác chùa Ba Vàng được khai sơn từ khi nào. Theo nội dung khắc trên cây hương đá trước cửa chùa, thì chùa xưa được dựng vào năm Ất Dậu, triều vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (tức năm 1706). Tuy nhiên, căn cứ vào những dấu tích di chỉ được các nhà khảo cổ thêm, thì ngôi chùa còn có thể được xây dựng từ sớm hơn, tức là vào thời Trần thế kỷ thứ 13.

Theo năm tháng, chùa xưa chỉ còn là phế tích, để phát huy giá trị văn hóa lịch sử ngôi chùa liên tiếp được đầu tư tôn tạo. Ban đầu chùa được xây dựng bằng gỗ và sau đó năm 1993 chùa được trùng tu lại bằng xi măng. Hiện vật đáng chú ý nhất của chùa Ba Vàng còn sót lại tới hôm nay là một số di vật bằng đá, bao gồm 1 bia đá cao 0,52 m, rộng 0,38 m, dày 0,12 m, 2 con rùa đá và 1 cây hương bằng đá cao 1,2 m 4 mặt, mỗi mặt rộng 0,22 m. Theo dòng chảy thời gian, chữ Hán trên bia đá và cây hương đá đã mòn, rất khó đọc. Trên cây hương bằng đá, chỉ còn lại một số chữ lớn giáp đầu bia : Thành Đẳng Sơn, Bảo Quang tự, Thiên đài trụ, nghĩa là trụ đài đá chùa Bảo Quang, núi Thành Đẳng.

Theo một tài liệu riêng của người viết, thì từ phế tích như kể trên, Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử một đệ tử là Đại đức Thích Trúc Thái Minh, thế danh Vũ Minh Hiếu sinh năm 1967 tại làng Sen, thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh về gầy dựng lại chùa Ba Vàng. 

Tuy nhiên người đứng đàng sau dự án này lại là Thượng tọa Thích Thanh Quyết, Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự, Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Trưởng Ban trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Ninh. Trong buổi lễ động thổ xây dựng chùa Ba Vàng vào ngày 11/07/2010 còn có sự hiện diện của một chức sắc đến từ Trung Quốc được giới thiệu là Hòa thượng Chi-chộp.

Sau 3 năm xây dựng, chùa đã hoàn thiện một số hạng mục như : Ngôi Đại Hùng bảo điện rộng 4.500m2, Lầu Chuông rộng 112m2, Lầu Trống rộng 112m2, hành lang La Hán rộng 200m2, nhà bảo tàng rộng 700m2, thư viện rộng 700m2, khu nhà tăng rộng 1.600m2, thiền đường rộng 960m2, cổng đá, cổng tam quan trung, cổng tam quan nội và một số công trình phụ.

Ngày 9/3/2014, chùa Ba Vàng tổ chức đại lễ khánh thành và nhận bằng kỷ lục "Ngôi chùa trên núi có chính điện lớn nhất Đông Dương".

Tháng 12/2014, trụ trì Thích Trúc Thái Minh bảo vệ thành công luận án "Ngôi chùa có chính điện lớn nhất Đông Dương" trước hội đồng giáo sư Đại học Kỷ lục thế giới thuộc tổ chức có tên Viện Hàn Lâm Khoa Học Sáng Tạo Thế Giới, trụ sở đặt tại thành phố Faridabad, New Dehli, Ấn Độ.

Đại gia xây chùa

Các nhà nghiên cứu và cả những phật tử chân tu đã cảnh báo, việc chính của chùa không phải là đua chen những kỷ lục về xây dựng mà là giáo hóa tâm linh, hoằng dương Phật pháp. Những chùa đua chen xây dựng to lớn chỉ làm tâm linh bị u mê hơn.

"Siêu dự án" tâm linh Tràng An – Bái Đính (Ninh Bình, doanh nghiệp Xuân Trường) với hàng loạt các kỷ lục hay ngôi chùa mới xây dựng được cho là lớn nhất thế giới bên cạnh ngôi cổ tự Tam Chúc (huyện Kim Bảng, Hà Nam). Theo thông tin công bố thì doanh nghiệp đã rót 11.000 tỷ đồng, mục tiêu là xây dựng ngôi chùa lớn nhất thế giới bên trong một khu du lịch rộng 5.100 héc ta. Điều quan trọng nhất và cũng tạo ra nhiều vấn đề bất thường nhất được dư luận đặc biệt quan tâm, chính là diện tích đất phục vụ dự án đều tính ở con số hàng ngàn héc ta đất.

Đơn cử, hệ thống dịch vụ tại Bái Đính là một vòng khép kín, và Xuân Trường là doanh nghiệp thâu tóm mọi chi phí, lượt khách... tại đây. Đáng quan tâm hơn là chưa ai trả lời được nguồn tiền công đức sẽ đi đâu về đâu ?

Người viết ủng hộ các công ty tư nhân, các hội đoàn xã hội dân sự đầu tư xây dựng chùa chiền, tự viện. Đơn cử ở khu đô thị mới Thủ Thiêm, nếu như chính quyền đã có quyết định cuối cùng sau gần 20 năm tranh cãi, là giữ lại Nhà thờ Thủ Thiêm, các cơ sở của Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, thì tại sao không đồng ý khôi phục lại chùa Liên Trì do Hòa thượng Thích Không Tánh là Viện chủ ?

Một bài học ai cũng thấy, khu Phú Mỹ Hưng dân cư rộng lớn mới xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh, dường như không có một ngôi chùa nào được xây dựng bên trong. Người dân mua những căn hộ trong đó được đáp ứng đủ mọi thứ, siêu thị, trường học, bệnh viện, nhà trẻ…, trừ sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh. Muốn đi chùa, thì chỉ có thể đến một số ngôi chùa nhỏ ngoài khu dân cư, xa hơn trong những khu vực hình thành đã lâu trong quận 7.

Người mua bất động sản cư trú ở đó có nơi thăm viếng lễ bái vào ngày rằm, mùng Một, ngày Tết, tạo thành một điểm di dưỡng tinh thần. Chùa kết hợp với cảnh quan vườn cây hay sông nước lại càng có tác dụng nâng cao giá trị của cảnh quan, tức là nâng cao giá trị của bất động sản, cũng là nâng cao phẩm chất đời sống tinh thần của cư dân.

Rất tiếc là tất cả giá trị nhân bản nói trên đã không hiện diện ở các "siêu dự án tâm linh" tại miền Bắc.

Trở lại việc chùa Ba Vàng : phạt hành chính hay xử lý hình sự ?

Chùa Ba Vàng không chỉ thuyết giảng về duyên - nghiệp mà còn thu tiền để cắt duyên nghiệp, hóa giải duyên nghiệp từ kiếp trước để trị bệnh. Điều này được Giáo hội Phật giáo Việt Nam xác nhận là không đúng với giáo lý nhà Phật. Bởi, Phật phổ độ chúng sinh. Vậy nên Phật sẽ chẳng lấy tiền của những người mắc bệnh hiểm nghèo khi sử dụng Phật pháp để an ủi cho phần tinh thần của họ.

Việc cho rằng cắt duyên nghiệp để trị được mọi bệnh tật, có dấu hiệu của việc gian dối đối với người khác và thu lời, là một trong những dấu hiệu của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Bộ luật hình sự 2015.

Tuy nhiên cái khó ở đây là sẽ không dễ tìm được ai là bị hại. Những người đến nộp tiền để được giải nghiệp chữa bệnh mà không cho rằng mình bị lừa, không cho rằng mình bị thiệt hại, không bị sử dụng hành vi gian dối, thì pháp luật hình sự cũng khó xử lý được trách nhiệm của những người thu tiền của người bệnh.

Có lẽ do biết rõ những điểm lách ấy của pháp luật hình sự, đồng thời từ sự chống lưng của ai đó nên mới có việc trong buổi pháp thoại được truyền hình trực tiếp trên trang web, trang youtube và mạng xã hội facebook của chùa vào tối hôm 21-3, Đại đức Thích Trúc Thái Minh lớn tiếng nói rằng "Chùa lớn nên bị ghen ghét" (!?).  

Thay lời kết

Bên lề vụ việc, cựu tổng thư ký báo Thanh Niên, nhà báo Hoàng Hải Vân kể : "Trước đây, mỗi khi được giao đất, doanh nghiệp nhận đất phải nộp cho cá nhân người đứng đầu địa phương một khoản tiền từ 8-10% giá trị lô đất tùy vị trí. Ông này từng nói thẳng với một nhà báo : "Tau không lấy tiền đó thì lấy gì chung cho mấy thằng ở trên", tất nhiên là ông nói mồm không bằng không chứng. Sau đó, có lẽ thấy việc này dễ bị lộ nên ông đã dùng cái chùa kia để rửa tiền. 

Chùa thì do ông cấp đất xây dựng, sư trụ trì là người ông sắp xếp đưa vào. Doanh nghiệp thay vì mang tiền phần trăm đến cho ông thì mang vào cúng chùa. Trụ trì được dùng một ít tiền đó để xây chùa đúc Phật, còn phần lớn chuyển lại cho ông. Ví dụ doanh nghiệp cúng vào chùa 10 tỷ thì phần chùa 1 tỷ còn phần ông 9 tỷ. Ông lấy tiền ra bất cứ lúc nào ông cần, để hối lộ các bộ, ngành ở trung ương và dùng riêng cho cá nhân ông…".

Thảo Vy

Nguồn : VNTB, 24/03/2019

*****************

"Trời Phật độ trì đất Việt Nam"

Nguyễn Hiền, VNTB, 24/03/2019

Nếu "Trời Phật" là lực lượng tồn tại có thực, thì chắc hẳn đã không để cho Việt Nam tròn 1 thế kỷ máu chảy đầu rơi. Mảnh đất hình chữ S đúng nghĩa trở thành mồ chôn lớn nhất của hàng triệu con người Việt.

phat2

Chùa Ba Vàng, Quảng Ninh.

Khi Pháp đặt chân vào Việt Nam, và 61 năm tồn tại vùng đất này, gắn với hàng trăm cuộc đàn áp lớn nhỏ khởi nghĩa của các tầng lớp Việt Nam.

Khi Pháp rời đi, Nhật tìm đến và gián tiếp gây ra nạn đói khiến 2 triệu người chết.

Khi Nhật rời đi, Mỹ tìm đến và gián tiếp đưa ra cuộc chiến Bắc – Nam kéo dài 20 năm.

Nếu "Trời Phật" là lực lượng tồn tại có thực, thì chắc hẳn đã không để cho Việt Nam tròn 1 thế kỷ máu chảy đầu rơi. Mảnh đất hình chữ S đúng nghĩa trở thành mồ chôn lớn nhất của hàng triệu con người Việt.

Khi đất nước thống nhất một mối về mặt địa lý, sự chia tách ý thức hệ khiến hàng triệu người chết ở biển, trong tù, vùng kinh tế mới,…

Nếu "Trời Phật" là lực tồn tại có thực, thì có lẽ, Việt Nam kiếp trước đã làm điều gì đó rất tàn ác, để thời cận hiện đại, phải "trả nghiệp" bằng chiến tranh và cơ chế.

Ngôi chùa Ba Vàng "trục vong, xá tội" bị báo chí lên tiếng, và chỉ ra nhiều sai phạm, từ gieo rắc mê tín dị đoan để trục lợi cho đến xâm lấn đất rừng. Nhưng ngày mà Chùa này tiến hành họp báo, thì vẫn có hàng trăm con người chắp tay trước ngực để lắng nghe vị "trụ trì" Chùa thuyết giảng, phản pháo báo chí.

Hàng trăm con người đó, có cả những con người có học thức cao, ví như vị bác sĩ trẻ ở bệnh viện Bạch Mai.

Không ai ngăn cản niềm tin tín ngưỡng con người, nhưng có vẻ, người dân Việt Nam đang rơi vào vòng xoáy của sự ngu si, nơi họ bị đầu độc bằng rượu bia, nền giải trí khoét sâu vào mông-vú, và một sự cuồng loạn về kiếp trước – kiếp sau.

Nếu nhà văn Vũ Trọng Phụng sống lại, ông sẽ có đủ chất liệu hiện thực xã hội để tiếp tục viết những "Chín đầu một lúc", "Hội nghị đùa nhả" ; "kỹ nghệ lấy tây" ; "dân biểu và dân biểu" ; "Lục xì" ; "làm đĩ" ;"Con người điêu trá"... như ông đã từng viết về xã hội đầu thế kỷ XX.

Xã hội Việt Nam, sau khi trải qua thời kỳ chiến tranh – loạn ly, đã trở về nguyên bản của thế kỷ trước. Vẫn có kẻ bóc lột nhân danh "nhân dân", và vẫn tồn tại những "nhân dân" có ý thức con cừu, ý thức của sự nô dịch.

Khi cả đám dân bị lôi cuốn vào chuyện tình "cô giáo và học trò", hay câu chuyện "Chùa Vàng" thì xăng tăng giá và BOT đã được vũ trang hóa trở lại. Người dân mong muốn sự yên thân kiếp này, trả nợ kiếp trước – những thứ tồn tại đầy hư ảo, thay vì kiến tạo một kiếp này tốt hơn, và hỗ trợ cho kiếp của con cháu trở nên đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Trong một quán café tại tại Thành phố Nam Định, một vài người trung niên bàn sôi nổi về việc, BOT Mỹ Lộc mở cửa thu phí trở lại. Một người đàn ông rít điếu thuốc và chửi thề, người khác thì trầm ngâm, một mụ đàn bà buông thõng câu than thở : Úi giời ! Thôi thì thời nó thế, kiếp trước dân ta ăn ở ác đức nên kiếp này đành chịu thôi.

"Đành chịu thôi", quan điểm của mụ đàn bà là một trong nhiều quan điểm hình thành vòng kim cô, buộc chặt người dân vào thế đã rồi, buộc phải chấp nhận, và nếu phản kháng, thì đó cũng chỉ là những lời chửi bới không đầu không cuối. Họ không nhận ra rằng, chính họ là thực thể tại nên chính "số kiếp" của họ. 

Những con người cách mạng thời kỳ trước, những con người dân hiến cả tuổi thanh xuân để "cướp chính quyền" nay đang bị chính những người trong chính quyền cướp lại. Một cán bộ thuộc văn phòng Thanh Tra Chính phủ "lừa" một bà mẹ liệt sĩ trong giúp đỡ tranh chấp đất đai chỉ là câu chuyện nhỏ trong hàng trăm ngàn câu chuyện "cướp" diễn ra tại đất nước này. 

Những người như bà mẹ liệt sĩ Lê Thị Tích gánh chịu hôm nay là hệ quả của một thời mù quáng, và quả thực không hiếm những trường hợp sau cách mạng thành công đã "sáng mắt, sáng lòng hơn". Do đó, nếu nhìn rộng ra, một xã hội đầy rẫy những bất công chỉ có thể giải quyết bằng những con người dám đấu tranh, thay vì xì sụp váy lạy một thực thể vô hình, hoặc dựa vào thực thể vô hình đó để tự tạo ra vòng an toàn xoay quanh mình.

Thế nhưng, những hình ảnh lầm lũi, những con người mê muội trong thời cuộc vẫn tồn tại như một thứ ung nhọt lớn nhất trong xã hội này. Họ cười những con người đấu tranh, họ cho rằng đó là "sự vô bổ", họ phê những người đấu tranh là "ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng". Nhưng họ biết đâu rằng, chính những con người đấu tranh đó mới là những hiện thân thực tế của "Trời Phật", và họ đang cứu độ cái xã hội này, tương lai xã hội này. Nơi mà sự "an toàn cá nhân", lầm lũi chịu đựng, sự ngu dốt về niềm tin đã trở thành xu hướng thời đại.

Không có "Trời Phật" nào đủ sức để độ trì hay đoái thương dân tộc này, trừ khi chính những cá nhân trong dân tộc đó ngộ ra được quyền làm người của mình. Còn không, thì họ xứng đáng để nhận lấy bụi mịn, thực phẩm bẩn, giá xăng tăng cao, hàng loạt thứ thuế phí, và nằm hành lang khi khám chữa bệnh,…

Chùa Vàng thực chất là sự thu nhỏ của cơ chế hiện tại, và hàng trăm ngàn con người đang theo triết lý Chùa Vàng thực chất là hàng triệu con người đang lầm lũi bị tước đoạt và bóc lột, để nhóm nhỏ người là quan chức và thân hữu quan chức giàu lên.

Nhưng có lẽ, họ xứng đáng bị vậy. Bởi, GS. Ngô Bảo Châu đã đúng, khi khẳng định, "bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do." Mất tư cách tự do, vị trí con người, thì họ không xứng đáng để hưởng tự do và cuộc sống con người. Và dân tộc "dốt" về ý thức làm người, sẽ tạo nên một quốc gia yếu cho chính lợi quyền người dân. 

Nguyễn Hiền

Nguồn : VNTB, 24/03/2019

******************

Sự đốn mạt của Phật giáo quốc doanh : cần một cuộc chỉnh đốn ?

Hoa Nghi, VNTB, 22/03/2019

Khi các quốc gia tiên tiến khác đang khám phá vũ trụ, đặt chân lên vùng tối trái đất, thám hiểm Sao Hỏa… thì tại Việt Nam, vẫn tất bật các dự án bán và chia đất của các đại gia có tiền và quyền, và sự vươn lên của một nền Phật giáo đang mất dần thuộc tính hướng thiện của nó.

phat3

Dâng sao giải hạn ở Hà Nội.

Nhiều chùa to được xây dựng, nhiều Phật to được dựng lên, hàng nghìn người xếp hàng, khúm núm, tay phì phạch, miệng phì phò "Nam mô A di đà Phật" để mong giải hạn sao Thái Bạch ở chùa Phúc Khánh với giá 150 nghìn đồng. Chùa Ba Vàng, nơi thêu dệt những mẩu chuyện mê tín dị đoan, đến mức lấy hậu quả của sự quản lý yếu kém của xã hội hiện tại (làm tội phạm phát sinh) để coi đó là tiền kiếp, các bệnh tật con người phải gánh chịu cũng là "khẩu nghiệp", và kết quả người nào muốn hết phải nộp tiền triệu vào chùa. 

Cả xã hội Việt Nam đang quay cuồng với thứ Phật giáo không những đồi bại mà còn đi đến tận cùng của sự khốn nạn, nơi lòng tin và hướng thiện của người dân bị lợi dụng để lợi nhuận hóa. 

Một cuộc chỉnh đốn Phật giáo là điều cần thiết

Chúng ta cần một cuộc chỉnh đốn Phật giáo, một trong những tôn giáo đang làm chủ mặt trận buôn thần bán thánh tại Việt Nam, bằng việc tái thực hiện lại những chính sách như thời Hồ Quý Ly và thời vua Minh Mạng đã từng thực hiện. Bởi thực trạng chùa đang trở thành nơi lợi nhuận hóa, trốn thuế, nơi để hưởng thụ nhiều hơn tu đạo và phổ độ chính sinh. 

Đối với thời Hồ Quý Ly, áp dụng chính sách sa thải Tăng đạo, buộc hoàn tục những người chưa trên 50. Những ai thông hiểu kinh giáo thì buộc phải thi, thi đỗ thì sẽ trở thành sư, không thi đỗ thì phải hoàn tục.

Việc quản lý đội ngũ tăng sĩ là yếu tố quyết định nhất trong chấn chỉnh tình trạng hổ lốn Phật giáo hiện nay, bởi không chỉ thời Hồ Quý Ly, mà đến thời nhà Nguyễn (cụ thể thời Minh Mạng), một tăng sĩ muốn được cấp độ diệp thì phải được Bộ lễ sát hạch và ghi nhận là bậc chân tu. 

Thế nhưng, hiện nay, việc quản lý tăng sĩ, đạo đức tăng sĩ đã được chú trọng hay chưa, hay chỉ đơn thuần là biến đức tin người dân trở thành một đức tin mù quáng, cam phận với những rủi ro và áp bức thời cuộc, và tự gieo trong mỗi người tin Phật pháp là "vong oan, tiền kiếp". Phật giáo từ một tôn giáo mà Đức Phật mong muốn con người thực hành giáo lý để tìm sự bình an, hạnh phúc thông qua sự giác ngộ thì nay đã trở thành một con đường để tự bày biện ra những thứ trói buộc quanh mình. 

Phật giáo Việt Nam hiện nay đang trở thành một phiên bản mẫu của Phật giáo Trung Quốc, bởi cả hai đã và đang trở thành một công cụ kiếm tiền. Ở Trung Quốc, những nhà sư làm chính trị hoặc trở thành công cụ chính trị không hề thiếu, đổi lại, anh ta trở thành một nhà sư cộng sản siêu giàu, dựa trên sự lơ là quản lý của chính quyền, sự bành trướng của mê tín và tệ kinh doanh trong chùa, gắn với niềm tin mù quáng của người dân.

Những niềm tin mù quáng như thế này cần phải được loại bỏ bằng một cuộc vận động lớn trong xã hội, nơi mà cuộc cách mạng công nghệ thông tin với số người dùng internet của Việt Nam đã chiếm hơn ½ dân số. Nhưng ngay cả khi dư luận xã hội phê phán, thì quản lý nhà nước không thể đứng ngoài cuộc, do vậy, triệt để siết chặt các hoạt động mê tín – dị đoan tại chùa là điều nên làm, trong đó tiến hành kỷ luật hoặc trục suất và buộc hoàn tục những tăng ni có hành vi truyền bá những giá trị không phù hợp với triết lý đạo phật, cố ý lạm dụng tâm lý của người dân để trục lợi.

Không thể để tình trạng CEO (một thuật ngữ về người quản trị kinh doanh) xuất hiện trong chùa như tại Trung Quốc, không thể tiếp tục nhân nhượng tình trạng phát triển du lịch tâm linh một cách ồ ạt như hiện nay làm cho nền tảng Phật giáo nguyên thủy bị suy độ.

Tại sao Phật giáo lại được ưu ái ?

Câu hỏi được đặt ra là tại sao Phật giáo lại được ưu ái đến như vậy, đến mức suy thoái về cả giáo lý và đạo đức, nhưng Nhà nước không thể làm mạnh ?. Giống như Trung Quốc, trong các tôn giáo tại Việt Nam, Phật giáo được coi là có truyền thống lành tính và dễ dàng chiêu dụ như cách mà hệ thống Nhà nước thời phong kiến được tiến hành (thời Lý, Phật giáo trở thành Quốc giáo), trong khi Nhà nước vẫn coi các thành viên Kito giáo, hay sự mở rộng Kito giáo là một cơ hội để thâm nhập và gây bất ổn nền an ninh quốc gia. Và thực tế, bài học về vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc chống lại chính quyền Cộng sản Đông Âu đã khẳng định những nỗi sợ này. Và trong những năm gần đây, các vấn đề liên quan đến phản ứng chính sách, chủ trương nhà nước thì cộng đồng Công giáo vẫn đi đầu, những tôn giáo khác (kể cả Phật giáo Quốc doanh) vắng bóng trong dòng chảy này. Sự cưng chiều của Nhà nước, và sự lệ thuộc của Phật giáo đối với Nhà nước được biểu hiện ngay trong lý tưởng của T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam : "Đạo Pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội". Và đây có thể là một trong những mấu chốt khiến Phật giáo Việt Nam bị chỉ trích ngày càng nhiều, liên quan đến một loạt các vấn đề như thương mại hóa, tham nhũng, sự lạm dụng đức tin người dân để trục lợi.

Việt Nam có thể học theo Trung Quốc ?

Tại Trung Quốc, sau sự kiện Shi Xuecheng, 52 tuổi, người đứng đầu Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc và trụ trì của chùa Long Tuyền nổi tiếng ở Bắc Kinh, người đã bị tố cáo quấy rối tình dục các đệ tử qua tin nhắn. Chính quyền Trung Quốc đã đã ra chỉ thị 10 điểm, trong đó nghiêm cấm thương mại Hóa phật giáo, và tất cả nơi thờ tự phải phi lợi nhuận. Cán bộ quản lý địa phương cấm quảng bá, trục lợi từ hoạt động tôn giáo dưới danh nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế. Cấm xây dựng các tượng Phật lớn ngoài trời. Các khoản thu nhập nếu có từ hoạt động tôn giáo chỉ sử dụng cho mục đích từ thiện, bảo trì ; và các nhóm tôn giáo phải tuân thủ theo hệ thống thuế, có kiểm toán.

Những nội dung quản lý Phật giáo nêu trên của chính quyền Trung Quốc là thực trạng đang diễn ra tại Việt Nam, liệu chăng chính quyền Hà Nội cần nghiêm túc học tập và chỉnh đốn Phật giáo từ hôm nay, thay vì để xuất hiện một Shi Xuecheng phiên bản Việt Nam ?.

Hoa Nghi

Nguồn : VNTB, 22/03/2019

********************

Đổ thừa người khác

Nguyễn Lân Thắng, RFA, 22/03/2019

Như các bạn đã biết một vụ ầm ĩ dư luận lại vừa nổ ra ở Uông Bí, nóng hơn cả chuyện 200k trong thang máy, nóng hơn cả chuyện BOT bẩn, và đương nhiên nóng hơn nhiều chuyện giới cần lao vừa bị móc túi 8,36% vì giá điện sinh hoạt. Có nhiều người hồ nghi rằng đây là đòn truyền thông nào đó, nhằm đánh lạc hướng dư luận, kéo sự chú ý của dư luận khỏi chuyện Trung Quốc, chuyện môi trường, hay chuyện củi lửa lò tôn của ông đầu bạc... nhưng theo tôi thì không phải vậy.

phat4

Việc tuyên truyền 'oan gia trái chủ' được khuếch trương rộng rãi bởi sư trụ trì

Đây chỉ là giọt nước tràn ly vì từ lâu đã có quá nhiều người bức xúc trước các vấn đề trong sinh hoạt Phật giáo mà chưa được giải tỏa. Nạn cúng bái tràn lan, chùa phủ xây nguy nga, sư tăng ăn chơi xa hoa người ta nói nhiều lần rồi. Nhưng mới đây, một sự việc còn nghiêm trọng hơn đã xảy ra ở chùa Ba Vàng làm không chỉ người dân bức xúc mà các cơ quan báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo không thể ngồi im. Trong một video đăng tải lên mạng xã hội, bà Phạm Thị Yến , một phật tử, chủ nhiệm Câu lạc bộ Cúc Vàng – Tập Tu Lục Hòa, đạo tràng trưởng đạo tràng Từ Tâm – chùa Ba Vàng đã có những giải thích về vụ nữ sinh Cao Thị Mỹ D. (Điện Biên) khi đi giao gà cho mẹ vào chiều 30 Tết đã bị sát hại.

"Nguyên nhân chính chưa phải là nguyên nhân đi ship hàng (gà) khiến bị hiếp như vậy, mà nguyên nhân chính phải do các ác nghiệp của bạn ấy trong tiền kiếp và duyên trong hiện tại bạn ấy lại sát sinh.

Hai cái này cộng vào nhau khiến cho bạn ấy bị như vậy. Ai làm gì cũng phải là do quả báo của chính mình.

Bạn ấy bị người khác xâm hại về thân thể, hãm hiếp, giết chết, Yến sẽ đưa ra cho quý đạo hữu để chúng ta tư duy.

Bạn ấy trong tiền kiếp phải có hai loại tội : tội thứ nhất là sát mạng chúng sinh dã man ; tội thứ hai là về mặt thân thể, trinh tiết của người khác bạn ấy xâm phạm, cho nên bạn mới bị quả báo như vậy"..., bà Yến nói trong clip.

Dư luận đang nổi điên vì những phát ngôn rất hồ đồ, ác độc và xúc phạm đến người đã mất của bà Yến. Không chỉ trong clip đó, người ta còn phát hiện ra trong một clip khác, bà Yến nói "anh hùng chiến sĩ Việt Nam phải đi đánh giặc là vì trong tiền kiếp mắc nghiệp sát sinh"... Tất cả những điều này không phải là chuyện nói riêng với ai ở đâu đó, mà là lời thuyết giảng của bà Yến trước hàng ngàn Phật tử ở chùa Ba Vàng, được thu hình cẩn thận để đăng lên internet cho hàng triệu người khác vào xem. Rồi còn chuyện "thỉnh vong", "trả nợ cho vong" thu của Phật tử bốn phương mỗi người cả chục triệu đồng nữa... được rất nhiều tờ báo lớn đang tìm hiểu.

phat5

Dư luận đang nổi điên vì những phát ngôn rất hồ đồ, ác độc và xúc phạm đến người đã mất của bà Yến.

Một câu hỏi lớn đang được đặt ra là tại sao những lời nhảm nhí, thô thiển, áp đặt một cách rất ngô nghê giáo lý của nhà Phật vào các sự kiện trong đời sống này lại được ngang nhiên thuyết giảng trong chùa, cho hàng ngàn người nghe bên dưới, cho hàng triệu người vẫn theo dõi qua internet các sinh hoạt và lời Phật pháp từ chùa Ba Vàng ? Rồi chuyện dẫn dụ Phật tử làm lễ gọi vong, trả nợ cho vong rất nhảm nhí, trái với Phật pháp lại diễn ra ngang nhiên nhiều năm nay trong ngôi chùa này ? Nhiều tờ báo và dư luận đang lên tiếng đòi hỏi những người có chức trách ở chùa Ba Vàng, những ban Tôn giáo chính phủ hay Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải lên tiếng và phản ứng trước sự việc này. Nhưng theo tôi trước khi phán xét hay đòi hỏi những vị đó, chúng ta cũng cần nhìn sâu vào động cơ bên trong của câu chuyện này. Con người không bao giờ hành động nếu không cảm thấy có lợi ích. Không tự dưng hàng ngàn hàng vạn Phật tử kéo về đây nộp tiền cúng vong cho chùa Ba Vàng. Nếu không thể hiểu những gì xảy ra bên trong, thì ngoài chùa Ba Vàng còn hàng vạn ngôi chùa khác đang có hoạt động sinh hoạt tâm linh, ai mà biết hết được điều gì đang xảy ra ?

Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng từng có lúc gặp phải những chuyện buồn đau. Nỗi đau hay sự bất hạnh đến từ đâu, thực ra không phải lúc nào ta cũng có thể biết rõ một cách tường minh. Mình có lỗi hay không ? Nguyên nhân nào gây ra tai họa ? Sự dằn vặt đôi khi đeo đẳng rất lâu, tiếp tục làm khổ ta dù sự việc không còn mới. Tuy nhiên tâm lý con người sẽ luôn được xoa dịu khi ai đó chỉ ra rằng chuyện không may của mình đến từ một sự việc nào đó từ bên ngoài. Con người ta khi được rũ bỏ trách nhiệm sẽ cảm thấy nhẹ nhõm và bình an. Và rồi họ sẽ cảm thấy hạnh phúc và tự nguyện làm theo những chỉ dẫn để bằng mọi cách đẩy những lo lắng và đau khổ ra bên ngoài. Nếu sự lý giải đó được thể hiện trong màu sắc thần bí kỳ diệu của tôn giáo thì càng cuốn hút nhiều người tin theo. Đó chính là nút thắt cơ bản mà nhiều kẻ từ trước đến nay đã lợi dụng tôn giáo để mua thần bán thánh, lợi dụng vấn đề tâm linh để trục lợi cho mình.

Bàn về giáo lý nhà Phật thì rất dài, tu cả đời chưa chắc đã thành chính quả, nên tôi không dám lạm bàn nhiều. Nhưng xin hãy đọc kỹ một đoạn ngắn sau đây trên wikipedia khi tra tìm chữ "quả báo" :

"...Một trong các nguyên lý cơ bản của giáo lý Phật giáo là : Có luân hồi tất có nhân quả, hai việc ấy vốn liên tục nhau. Phật dạy : "Cha làm điều chẳng lành, con không chịu thế được, con làm điều chẳng lành, cha không chịu thế được. Làm lành tự được phước, làm dữ tự mang họa" (Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ, tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương). Lại có câu : "Ðiều lành dữ cuối cùng đều có trả, khác nhau chỉ đến chóng hay chầy, nhanh hay chậm mà thôi"

Cái Quả hay Nghiệp vốn là kết quả cái nhân hay duyên của con người tạo ra trong kiếp trước hoặc kiếp này. Rồi cái Quả ấy lại làm nhân cho cái Quả khác sẽ báo ứng về sau. Nhơn và Quả cứ tiếp tục tương ứng như vậy mãi như bóng với hình, mãi mãi là cuộc trả vay, vay trả của cõi luân hồi.

Nghiệp ở tiền kiếp làm con người đầu thai trong một cuộc đời, một hoàn cảnh nhất định. Nhưng điều này không có nghĩa là "số phận đã an bài từ trước", mà thực ra hành động và lựa chọn của con người trong kiếp đó vẫn có sự tự do. Nghiệp sinh ra hoàn cảnh, nhưng sự phản ứng đối với hoàn cảnh này lại nằm trong tay con người, do con người lựa chọn. Phật dạy : "Ác nghiệp chính do mình tạo, tự mình sinh ra. Ác nghiệp làm hại kẻ ngu dễ dàng như kim cương phá hoại bảo thạch... Làm dữ bởi ta, mà nhiễm ô cũng bởi ta ; làm lành bởi ta, mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay không tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được".

Do vậy con người không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh khó khăn khiến bản thân mình sa đọa. Làm Thiện hay làm Ác, tạo Ác nghiệp hay Thiện nghiệp đều là do tự thân mình chọn lấy, quả báo thế nào là do chính mình làm ra chứ không phải do Thần Phật nào quyết định...".

Nếu những con người ốm đau, bất hạnh đang bấu víu vào chùa Ba Vàng hay những ngôi chùa khác chỉ cần hiểu một phần nào đó những điều ở trên thì quả là phúc cho họ. Những tai ương, bệnh tật, những nghịch cảnh ở đời xảy ra là điều không ai muốn. Nhưng những điều đó (quả) có một phần trách nhiệm lớn (nhân) của chính chúng ta chứ không phải là ai khác. Có thể chúng ta bỏ tiền của để thực hành những nghi thức tôn giáo nào đó nhằm đẩy mối lo hay nỗi khổ đau ra khỏi tâm trí mình, nhưng tồn tại xã hội vẫn còn nguyên đó. Và khi đó ta không khác gì con đà điểu khi gặp nguy hiểm chui đầu xuống cát.

Đất nước kiệt quệ. Môi trường bị hủy hoại. Con người bị bóc lột. Ai là người phải chịu trách nhiệm ? Sức khỏe và đời sống của chúng ta gặp phải tai ương vì lẽ đó chứ chẳng phải tà ma quỷ thần nào hết. Không tự chịu trách nhiệm về tất cả cuộc đời mình, lãnh nhận nghịch cảnh, và đấu tranh trực diện với nó, chẳng tiền bạc nào mua nổi sự bình an.

phat6

Sau tất cả, hãy biết tự hỏi mình như người đàn ông trong bức ảnh này các bạn ơi.

Nguyễn Lân Thắng

Nguồn : RFA, 22/03/2019 (nguyenlanthang's blog)

Published in Diễn đàn

Đức Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ đang bị đe dọa ‘áp giải’ về Thái Bình ? (VNTB, 21/02/2019)

Một nguồn tin cho biết, trong những ngày tới đây, nhân dịp có một phái đoàn chư tăng của chùa Vĩnh Nghiêm đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ, sẽ có một vài nhân vật dân sự tháp tùng, và họ sẽ tìm mọi cách để ép đưa ngài Thích Quảng Độ về lại Thái Bình như một hình thức ‘an trí’ thời Pháp thuộc.

tangthong1

Đức Tăng thống (X), Hòa thượng Thích Nguyên Lý (XX) cùng một số chư tăng chùa Từ Hiếu, mồng 1 Tết Kỷ Hợi.

Kể từ khi Đức Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất rời quê nhà Thái Bình để về lại Sài Gòn vào cuối năm 2018, đến nay đã có ít nhất ba lần, vị Hòa thượng 91 tuổi này đã bị đe dọa ‘áp giải’ về lại Thái Bình.

Chuẩn bị lần thứ tư đe dọa ‘áp giải’ ?

Phật tử Diệu Thường kể rằng sau khi cô cháu gái của Đức Tăng thống đưa Ngài từ Thái Bình về lại Sài Gòn theo ý chỉ của Ngài, và chọn chùa Từ Hiếu ở quận 8 là nơi gửi trọn phần đời còn lại, thì cách đây hơn một tháng, ông Định – người cháu gọi Ngài theo thứ bậc dòng tộc là 'chú', đã đến tận chùa Từ Hiếu dự tính dùng vũ lực để ép Đức Tăng Thống về lại Thái Bình.

Sau khi nghe Phật tử Diệu Thường thuật lại câu chuyện, Hòa thượng Thích Nguyên Lý, trụ trì chùa Từ Hiếu đã hỏi ý Đức Tăng Thống : "Ông Định, cháu của Ngài muốn đưa Ôn Ngài về lại Thái Bình, Ôn Ngài nghĩ sao ?". Ngài nói : "Tôi đã phải rời bỏ Thái Bình về đây vì ở đó tôi rất bất an, không sống nổi, giờ còn về lại đó làm gì ? Đó là nhà của anh chị tôi năm xưa. Tôi là người tu thì phải ở chùa chứ sao lại ở nhà". 

Vài hôm sau đó, trong lễ tang vị Hòa thượng trụ trì Thiền viện Thanh Minh, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, ông Định cùng 'nhóm người nào đó' tìm mọi cách để buộc Đức Tăng Thống rời chùa Từ Hiếu, bằng việc cho người đến cung thỉnh Đức Tăng Thống về Thiền viện Thanh Minh để làm chủ các nghi thức tang lễ, gọi là Trưởng ban lễ tang. Sau đó nhân cớ này sẽ tiếp tục đưa ngài về lại Thái Bình.

Hòa thượng Thích Nguyên Lý nói rằng đó là buổi trưa ngày 18/01/2019, khi thỉnh Ôn Ngài đi viếng Hòa thượng Thanh Minh, Ngài bảo : "Tôi đã vào thăm Hòa thượng Thanh Minh trong bệnh viện Pháp Việt rồi, giờ tôi yếu không muốn đến chỗ đông người, tình nghĩa giữa chúng tôi như vậy là đã trọn vẹn lắm rồi".

Hòa thượng Thích Nguyên Lý kể về lần đe dọa thứ ba : "Chiều 18/01/2019, vợ chồng ông Định đến chùa xin gặp Ôn Ngài để mời Ngài về nhà đám giỗ bà nội. Tôi có kể lại việc hôm 17/01/2019 (12 tháng chạp) có thưa với Ôn Ngài về ngày giỗ của thân mẫu Ôn. Ngài nói : "Mẹ tôi qua đời đã lâu rồi, vả lại sau 49 ngày là mẹ tôi đã về cảnh giới của bà : đến ngày giỗ mẹ, tôi chỉ tưởng niệm trong tâm. Thầy chỉ cần hoa quả xôi chè tưởng niệm ngày mất của mẹ tôi là đủ. Còn ở gia đình các cháu muốn làm gì thì cứ tùy ý mà làm, sao cho thanh tịnh và đơn giản, cốt là tưởng nhớ ân đức của tổ tiên ông bà…". 

Tôi không cho ông Định gặp Ôn Ngài, vì các lý do sau : thứ nhứt, ngày 11/01/2019, khi ông tới chùa , trước mặt Hòa thượng Quảng Độ và tôi, ông đã nhào tới đòi đánh cô Diệu Thân là người chăm sóc Ôn Ngài, khi cô ấy không muốn rời khỏi phòng khách. Cô Thiên Hương phải ra tay ngăn cản.

Thứ hai, ngày 16/01/2019, khi tôi đang làm từ thiện ở Phú Yên, ông Định đã dẫn đoàn 7 người đến chùa Từ Hiếu mượn cớ thỉnh Ôn Ngài về Thanh Minh Thiền Viện thắp nhang cho Hòa thượng Thanh Minh, nhưng thực ra là sau đó ông áp giải Ôn Ngài về lại miền Bắc. Âm mưu này đã được một Phật tử cho hay trước khi phái đoàn của ông Định đến chùa Từ Hiếu. Vì vậy các Thầy trong chùa đóng cửa phòng Ôn Ngài theo lệnh của tôi điện về, không cho phái đoàn tiếp xúc Ôn Ngài. Ông Định đã đập phá cửa phòng ngay cầu thang phòng Ngài ở làm cho Ôn Ngài hốt hoảng bất an suốt ngày hôm đó.

Thứ ba, ông Định đã gọi điện cho em gái ở Thái Bình tuyên bố sẽ "chém chết cô Diệu Thân rồi chấp nhận vô tù".

Vì ba lý do trên, từ nay tôi không cho ông gặp Ôn Ngài. Sau đó, ông Định bước ra sân la lối và dọa sẽ kiện thầy Nguyên Lý ra tòa".

Một nguồn tin được xác nhận, vào tối ngày rằm tháng Giêng Kỷ Hợi, từ Thái Bình, ông Định đã quay trở lại Sài Gòn với toan tính sẽ cùng đoàn chư tăng chùa Vĩnh Nghiêm đến thỉnh an Đức Tăng thống trong vài ngày tới. Liệu đây sẽ là lần đe dọa thứ tư cho ‘áp giải’ Đức Tăng thống về lại Thái Bình ?

Hòa thượng Thích Quảng Độ : biểu tượng của Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Với nhiều người dân miền Nam, Hòa thượng Thích Quảng Độ là biểu tượng của một nhà hoạt động vì quyền tự do tôn giáo. Sau tháng 4 năm 1975, Hòa thượng được chính quyền Hà Nội xem là một nhân vật bất đồng chính kiến cần phải cô lập. Ngài đã trải qua nhiều năm tháng tù đày, sách nhiễu.

Ngài nhiều lần được chính giới quốc tế đề cử giải Nobel Hòa Bình vì đã dành cả cuộc đời tranh đấu bất bạo động cho công lý, hòa bình, nhân quyền, dân chủ. Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto vinh danh các nhà hoạt động nhân quyền năm 2006. Cùng năm, Ngài được nhận giải Can đảm vì Dân chủ do Phong trào Dân chủ Thế giới trao tặng. Trước đó, năm 2003, Ngài từng lãnh giải thưởng nhân quyền quốc tế Homo Homini cùng với Hòa thượng Thích Huyền Quang và linh mục Nguyễn Văn Lý. 

Năm 1995, Ngài bị bắt giam và bị phạt 5 năm tù và 5 năm quản chế với cáo buộc "phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước". Dưới áp lực của Hoa Kỳ, Ngài được trả tự do năm 1998 và đến tá túc tại Thanh Minh Thiền viện, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, trong tình trạng bị quản thúc dài hạn. Giữa tháng chín năm ngoái, Ngài bị buộc phải hồi hương quê nhà Thái Bình, nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó, Ngài đã quay lại Sài Gòn.

Hòa thượng Thích Quảng Độ từng là giảng sư đại học, một nhà văn, một dịch giả với một kho tác phẩm rất đáng kính nể : Kinh Mục Liên Sám Pháp : Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân : Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962 (truyện dịch từ Hán văn của Tinh Vân) : Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962 (truyện) : Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964 : Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận : Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận : Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận : Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập) : Phật Quang Đại Từ điển (9 tập) : Chiến tranh và bất bạo động : Thơ trong tù (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 Mậu Ngọ) : Thơ lưu đày (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến tháng 2 năm Nhâm Thân)…

Minh Châu

*****************

Gia đình Phật tử : Bi – Tri – Dũng của hôm nay ? (VNTB, 20/02/2019)

"Từ Bi", lấy câu "Duy tuệ thị nghiệp" làm phương châm, đưa vào huấn dụ. "Tự dũng mãnh thắp đuốc lên mà đi" làm nền tảng, trong quá trình tu tập và hoằng dương chánh pháp ! Ba chữ nầy, cũng đã dược chọn làm châm ngôn cho tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam từ khi vừa được thành lập…

tangthong2

Gia đình Phật tử : Bi – Tri – Dũng của hôm nay ?

Gia đình Phật tử Việt Nam là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật tử vào năm 1951 trên cơ sở các tổ chức giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần Phật giáo, do cư sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám sáng lập. 

Vào đầu thế kỷ 20 Gia đình Phật tử Việt Nam có hơn 150.000 Huynh trưởng và Đoàn sinh tham gia sinh hoạt thường xuyên.

Hiện nay, tổ chức Gia đình Phật tử tại nhiều chùa vẫn duy trì lịch sinh hoạt vào mỗi chủ nhật hàng tuần. Có nơi thì sinh hoạt vào chủ nhật sau mỗi 2 tuần lễ như chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài Gòn – một tự viện thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Ghi nhận từ một số vị huynh trưởng ở Gia đình Phật tử tại Sài Gòn trước 1975, thì chính tinh thần Bi – Trí – Dũng đã tạo làn sóng thanh niên Phật tử ở Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh thành miền Nam sôi sục xuống đường phản đối chiến tranh. 

Sau năm 1973, làn sóng này vẫn tiếp tục được đẩy lên rất cao, mặc dù thực thi Hiệp định Paris thì quân đội Mỹ đã rút binh sĩ khỏi chiến trường ở miền Nam, và người lính Mỹ cuối cùng rời trại Alpha ở Sài Gòn vào ngày 29/03/1973. Như vậy, sau thời điểm đó, dễ dàng nhận ra là tinh thần Bi – Trí – Dũng đã bị thế lực phe phái chính trị lợi dụng. 

Sau tháng tư năm 1975, các tổ chức Gia đình Phật tử ngưng trệ mọi hoạt động. Các anh chị huynh trưởng số thì đi vùng "kinh tế mới" : số bị đi "cải tạo" : số khác thì "vượt biên" định cư tại nước ngoài. Nhiều văn phòng, cơ sở của các Ban Hướng dẫn Cư sĩ Phật tử bị trưng thu, niêm phong sau ngày 30/04/1975 : Hồ sơ, khí mãnh thì một phần lớn kỳ hiệu, ấn tín, quyết định công nhận chính thức đơn vị, và những văn kiện lịch sử không còn do bị tiêu hủy trong cơn binh lửa… 

Cho đến năm 1986 thì Gia đình Phật tử mới bắt đầu được dần khôi phục, khi mà chính quyền đã ‘quốc doanh hóa’ được tổ chức Phật giáo Việt Nam vào cuối năm 1981. 

Tuy nhiên mãi đến tháng 12/1995, Ban Tôn giáo Chính phủ với Thông tư số 01, mới chính thức cho phép Gia đình Phật tử sinh hoạt trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Rồi phải chờ hai năm sau đó, đến Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam lần thứ IV tại Hà Nội, thì sinh hoạt Gia đình Phật tử mới được chính thức đưa vào Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cải tên Ban Hướng dẫn Cư sĩ Phật tử thành Ban Hướng dẫn Phật tử. 

Ban Hướng dẫn Phật tử có 2 phân ban trực thuộc : (1) Phân ban Hướng dẫn Cư sĩ Phật tử : (2) Phân ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử. Qua cơ chế này, các đơn vị Gia đình Phật tử trực thuộc Phân ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử tỉnh, thành. Phân ban này lại trực thuộc Ban Hướng dẫn Phật tử tỉnh, Thành hội. Mỗi đơn vị Gia đình Phật tử sinh hoạt nơi tự viện nào phải có sự bảo lãnh và chịu trách nhiệm của vị trụ trì nơi ấy.

Tiếp tục chờ đợi đến tháng 7 năm 2001, tại tổ đình Từ Đàm - Huế, mới diễn ra Đại hội Huynh trưởng Gia đình Phật tử toàn quốc lần thứ IX. Đại hội lần thứ VIII Huynh trưởng Gia đình Phật tử toàn quốc (cũng là đại hội cuối cùng trước khi lịch sử nước Việt Nam lật qua trang mới) được tổ chức tại Đà Nẵng vào các ngày 29, 30, 31/07/1973.

Chính cơ chế quản lý hành chính như nêu trên, đã khiến châm ngôn Bi – Trí – Dũng trở thành thuần túy là công cụ để phục vụ cho những yêu cầu đặt ra vào từng thời kỳ của Đảng cầm quyền. 

"Hiện nay sinh hoạt Gia đình Phật tử gần như hiếm hoi có các nội dung kêu gọi trách nhiệm của người Phật tử trước những bất công, oan khuất mà người dân Việt Nam đang phải gánh chịu. Tôi nghĩ rằng nếu như về mặt thể chế chính trị đã công nhận quyền được tự do lập hội, tự do công đoàn, thì ở đây cần trả lại cho sinh hoạt Gia đình Phật tử đúng như châm ngôn Bi – Trí – Dũng. 

Người đoàn sinh của Gia đình Phật tử phải hiểu trách nhiệm của mình với cộng đồng, để mạnh dạn lên tiếng cổ súy quyền tự do ngôn luận, tự do chính trị như thế hệ các cha anh từng là đoàn sinh Gia đình Phật tử trước năm 1975. Người đoàn sinh phải chia sẻ nỗi đau của người dân oan khuất đang bị cướp mất quyền tư hữu đất đai của chính họ. Người đoàn sinh Gia đình Phật tử không thể bịt tai, che mắt làm ngơ đồng ý phó mặc thế sự kiểu đã ‘có Đảng và nhà nước lo rồi’"... Nhà báo có bút danh Thảo Vy, một Phật tử ở Sài Gòn, chia sẻ.

Tâm sự với người viết, một vị Hòa thượng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kể rằng việc huấn luyện về Bi – Trí – Dũng giờ đây cũng phải uyển chuyển, tránh để chính quyền lo ngại, và các huynh trưởng cũng tránh bị ai đó chụp chiếc mũ lợi dụng quyền tự do ngôn luận. 

Với góc nhìn của thực thi các cam kết trong CPTPP, các FTA mà Việt Nam đã ký kết, nếu Nhà nước Việt Nam thực sự tôn trọng quyền tự do lập hội hiến định, tôn trọng quyền tự do tôn giáo, cần chấm dứt ‘bao cấp đường lối tư tưởng’. 

Hãy để cho đoàn thể Áo Lam tự quyết qua đại hội, và tu chính nội quy mà không phân biệt chuyện là của tổ chức nào, là Phật giáo Việt Nam – tức Phật giáo ‘quốc doanh’ theo lý tưởng "Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội", hay Phật giáo Việt Nam Thống Nhất với nhiệm vụ "xiển dương Phật pháp, phụng sự chúng sinh, an bình quốc gia, xã tắc". Đó mới thực sự là Bi – Trí – Dũng của ngày hôm nay, của hậu chiến gần nửa thế kỷ, nhưng lòng người dường như vẫn còn mầm mống ly tán.

Minh Châu

Published in Việt Nam

Xây chùa để rửa tiền tham nhũng

Hoàng Hải Vân, Tiếng Dân, 12/02/2019

Khi Việt Nam đang hội nhập sâu vào thế giới, luật pháp đang minh bạch từng bước, nhiều luật lệ đang trong quá trình liên thông với quốc tế. Do đó, tiền tham nhũng mang ra tiêu dùng hay đầu tư sẽ khó dần, gửi ra nước ngoài thì không hề dễ nếu như không được rửa, chỗ có thể để trong nước thì đang thu hẹp. Nghe nói có một số quan chức biến tiền tham nhũng thành vàng thành kim cương rồi đào hầm trong nhà để cất, thỉnh thoảng xuống… ngắm. Thiệt là cực khổ cho các quan chức của ta, kiếm tiền thì dễ nhưng dùng tiền lại khó vô cùng. Nhưng, như người ta thường nói, cái khó ló cái khôn.

chua2

Chùa Tam Chúc, ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, đang được gấp rút hoàn thành chờ Đại lễ Veskas 2019. Ảnh : Đức Nguyễn

Những nỗ lực dùng quyền thế để thiết lập đường dây tham nhũng khép kín, ví dụ như sử dụng Tổng cục Tình báo Bộ Công an đưa các hoạt động cướp đoạt tài sản công vào vòng bí mật để cho luật pháp không thể sờ gáy và dùng chính cơ quan siêu quyền lực kia để rửa tiền thông qua những công ty bình phong xem ra không thể là kế lâu dài được. Cho nên các vị phải tính những kế song song. Một trong những kế hữu dụng lâu dài nhất là đưa tiền tham nhũng vào chùa để rửa.

Một cựu quan chức cao cấp của một địa phương thuộc trung ương từng nói với tôi về một ngôi chùa hoành tráng của địa phương này được dùng làm lò rửa tiền như thế nào. Trước đây, mỗi khi được giao đất, doanh nghiệp nhận đất phải nộp cho cá nhân người đứng đầu địa phương một khoản tiền từ 8-10% giá trị lô đất tùy vị trí. Ông này từng nói thẳng với một nhà báo : "Tau không lấy tiền đó thì lấy gì chung cho mấy thằng ở trên", tất nhiên là ông nói mồm không bằng không chứng. Sau đó, có lẽ thấy việc này dễ bị lộ nên ông đã dùng cái chùa kia để rửa tiền. Chùa thì do ông cấp đất xây dựng, sư trụ trì là người ông sắp xếp đưa vào. Doanh nghiệp thay vì mang tiền phần trăm đến cho ông thì mang vào cúng chùa. Trụ trì được dùng một ít tiền đó để xây chùa đúc Phật, còn phần lớn chuyển lại cho ông. Ví dụ doanh nghiệp cúng vào chùa 10 tỷ thì phần chùa 1 tỷ còn phần ông 9 tỷ. Ông lấy tiền ra bất cứ lúc nào ông cần, để hối lộ các bộ, ngành ở trung ương và dùng riêng cho cá nhân ông. Nước ta chẳng có luật lệ nào kiểm soát tài chính của chùa chiền, nên dù tài thánh cũng không thể điều tra ra tiền mà ông dùng là tiền do doanh nghiệp đưa hối lộ. Chuyện này không thể nào tìm ra bằng chứng nếu như không kiểm soát được tài chính của chùa chiền, nên tôi không tiện nêu tên địa phương và quan chức liên quan.

Đó chỉ là một trường hợp xây chùa để rửa tiền mà tôi biết. Và những cái chùa như vậy có ở nhiều nơi. Ở đây tôi chỉ nói những ngôi chùa do các quan chức nhà nước bảo kê cấp đất xây dựng và sư sãi trụ trì do các quan chức này đưa vào. Còn chùa chiền truyền thống được các Phật tử cúng dường và được trụ trì bởi các bậc chân tu thì không nằm trong phạm vi có thể rửa tiền tham nhũng. Các bạn nên có sự phân biệt rõ ràng chuyện đó nhé.

Trường hợp mà tôi nói chỉ là việc rửa tiền của tham nhũng vừa vừa cấp địa phương. Còn cấp cao hơn thì tôi chưa có đủ thông tin, mặc dù vẫn có căn cứ để suy đoán.

Theo số liệu từ Zing.vn thì tập đoàn siêu chùa chiền Xuân Trường đã và đang triển khai các dự án tâm linh với diện tích đất siêu khủng : Ngoài quần thể Chùa Bái Đính "lớn nhất Đông Nam Á", nhà nước còn giao cho tập đoàn này 5.100 ha xây chùa Tam Chúc "lớn nhất thế giới", trong đó diện tích xây chùa 144ha, còn lại là quần thể kinh doanh "phụ trợ" chùa. Chưa hết, tập đoàn này đang chuẩn bị triển khai dự án 18.940 ha làm khu du lịch tâm linh Hồ Núi Cốc, 450 ha đất ở Hải Phòng cũng để xây chùa và đang xin 1000 ha thâu tóm luôn chùa Hương… Không ai có thể hiểu được tập đoàn này được thế lực nào bảo kê mà có thể chiếm được một diện tích đất lớn đến vậy để buôn tăng bán Phật.

Không thể đem chuyện rửa tiền nhỏ nhoi của cái chùa mà tôi nói ở trên áp dụng vào các quần thể siêu chùa chiền này. Rất khó có thể lần ra mối quan hệ ma mị giữa doanh nghiệp với các quan chức từ trung ương đến địa phương trong cuộc đại buôn bán kia. Chỉ biết rằng, nguồn thu ở đây là siêu khủng : từ sự cúng dường của Phật tử thập phương cho đến nguồn thu từ dịch vụ, từ nhà hàng, khách sạn… Tôi không có chứng cứ để nói tiền tham nhũng mang vào rửa ở đây, mặc dù rửa ở đây là không khó. Chỉ thấy rằng, ở đây quyền thế đang biến thành vốn liếng, thành siêu lợi nhuận. Và Phật không bao giờ có mặt ở những nơi này.

Hoàng Hải Vân

Nguồn : Tiếng Dân, 12/02/2019

**********************

Buôn tăng bán phật

Hoàng Hải Vân, Tiếng Dân, 11/02/2019

Vào thời nhà Lý, đạo Phật được triều đình trọng vọng một cách thái quá, cho nên dân chúng "quá nửa làm sư sãi" (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Còn chùa chiền thì mọc lên như nấm, đến nỗi một sử gia Phật tử như Lê Văn Hưu phải hạ bút : "Của không phải từ trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư ? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là việc làm phúc chăng ?".

chua2

Với diện tích đất được cấp lên đến hàng nghìn hecta, Công ty Xây dựng Xuân Trường không chỉ có thể kiếm doanh thu từ chính công trình tâm linh mà còn từ hạng mục dịch vụ xây kèm. Ảnh minh họa 

Do được nhà nước bảo trợ, giới sư sãi thoái hóa biến chất trở thành một tầng lớp ăn trên ngồi trốc gây hại cho dân lành. Lịch sử còn ghi lại một lời tấu của Đàm Dĩ Mông : "Nay tăng đồ và phu dịch số lượng chẳng kém gì nhau. Bọn tăng đồ tự kết làm bè đảng, lập càn người lên làm chủ, tụ họp thành từng nhóm làm nhiều việc dơ bẩn. Hoặc ở giới trường, tịnh xá thì công khai ăn thịt uống rượu. Hoặc nơi thiền phòng, tịnh viện thì kín đáo tự gian dâm với nhau. Ban ngày thì ẩn núp, ban đêm thì làm như chồn như chuột. Những hành vi làm bại hoại mỹ tục, làm thương tổn danh giáo dần dần trở thành thói quen, như thế mà không cấm thì lâu ngày sẽ càng thêm lên hơn nữa" (theo Đại Việt sử lược). Vua Lý Cao Tông nghe theo lời tấu này, chỉ giữ lại vài chục người "còn biết danh giá" ở lại làm tăng, còn bao nhiêu sa thải hết. Nhưng đã quá muộn, nhà Lý đã bước vào suy vong, mà đó là một trong những nguyên nhân.

Thực tế lịch sử ở nước ta đã cho thấy, khi Nhà nước xử sự thiên lệch đối với vấn đề tôn giáo, xã hội trở nên hỗn loạn như thế nào. Gần đây nhất, chính quyền ông Ngô Đình Diệm quá trọng vọng đạo Thiên chúa và có biểu hiện đàn áp Phật giáo, nhiều gia đình buộc phải "tự nguyện" theo Công giáo cho an toàn, vì vậy mà ngay sau khi chính quyền ông Diệm sụp đổ đã có không ít gia đình mang bàn thờ Chúa ra đường đạp đổ. Cả Đức Phật và Đức Chúa Jesús đều do sự thiên lệch của chính quyền mà phải chịu oan ở nước ta.

Cho nên không phải ngẫu nhiên mà vào cuối thế kỳ 18, Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ đã cấm Quốc hội không được ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cản tự do tín ngưỡng. Nhìn thấu những hậu quả của sự thiên lệch tôn giáo, các nhà lập quốc Mỹ thật là vĩ đại.

Ở Việt Nam ta ngày nay, nhìn chùa chiền mọc lên mà sợ hãi. Cả về số lượng, cả về quy mô, so sánh trên mọi tỉ lệ, chùa chiền hiện nay vượt xa gấp trăm gấp ngàn lần chùa chiền thời nhà Lý. Phá rừng làm chùa, thu hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp làm chùa, khắp nơi xây chùa, có xã 3-4 cái chùa. Chùa là nơi hoạt động mờ ám của quan chức như chùa Linh Ứng ở bán đảo Sơn Trà hay cái chùa to gì đó ở miền trung, nơi vị sư trẻ đầy quyền thế có thể giúp doanh nghiệp "chạy" dự án. Chùa Bái Đính hoành tráng là nơi kinh doanh hái ra tiền, tập đoàn quản lý chùa Bái Đính còn được cấp hàng ngàn ha đất xây chùa với tham vọng là ngôi chùa to nhất thế giới, v.v…

Nhìn hình ảnh của vài vị trong tứ trụ của nhiệm kỳ trước tại một số ngôi chùa, người ta không thể không đoán già đoán non về sự mờ ám của các vị trong sử dụng chùa chiền, nhưng không có căn cứ để khẳng định điều gì. Nhưng điều chắc chắc là việc phá rừng làm chùa, việc sử dụng hàng chục hàng trăm hàng ngàn ha đất xây dựng một cụm chùa chiền để kinh doanh thì không thể không có sự bảo kê của nhà nước.

Phật tại tâm chứ không tại chùa. Ngay từ thời nhà Trần, Phật giáo Việt Nam đã có truyền thống "cư trần lạc đạo", rất xa lạ với việc xây chùa to đúc Phật lớn. Khi quan chức, kéo theo đó là bộ phận khá đông người dân lũ lượt đi cầu Phật chứ không còn tin vào lòng trung chính của bản thân mình, ấy là lúc cần báo động về sự suy thoái của quốc gia dân tộc. Các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa nhìn thấy những bài học lịch sử.

Hoàng Hải Vân

Nguồn : Tiếng Dân, 12/02/2019

Published in Diễn đàn