Vẫn chưa có nhiều đột phá
Ngày 11/9/2024 là đúng một năm Việt Nam và Mỹ nâng cấp mối quan hệ lên mức cao nhất là Đối tác chiến lược toàn diện. Nhân dịp này, RFA thực hiện phỏng vấn với nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế, thạc sĩ Hoàng Việt để nhìn quan hệ hợp tác hai nước trong năm vừa qua.
Tổng thống Mỹ Joe Biden đến thăm và nâng cấp mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam hồi tháng 9/2023 - AFP
Cao Nguyên : Theo ông, việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện đã mang lại những lợi ích cụ thể gì cho Việt Nam trong năm vừa qua, lĩnh vực nào ông cho là có những bước tiến hợp tác mạnh mẽ nhất ?
Hoàng Việt : Nói chung là quan hệ của Việt Nam gần đây đã phát triển nhanh chóng. Đã có những phát triển vượt bật từ trước, sự phát triển của quan hệ Việt-Mỹ phải kể từ năm 2010, đặc biệt là phát triển mạnh là từ 2014, sau sự kiện mà Trung Quốc đã đặt một cái giàn khoan vào Vùng Đặc quyền Kinh tế Việt Nam và Việt Nam cảm thấy rằng là cần phải bứt phá và thoát ra khỏi sự lệ thuộc của Trung Quốc. Cho nên quan hệ Việt Nam với Mỹ được phát triển thêm một cái bước khác, một giai đoạn khác.
Cho đến tháng 9 năm ngoái, khi Tổng thống Biden sang Việt Nam, hai bên đã quyết định nâng cấp quan hệ lên mức độ cao nhất là Đối tác chiến lược toàn diện, đã mở ra rất nhiều cái cơ hội cho hai bên hợp tác.
Tuy nhiên, trong vòng một năm qua thì thời gian nó cũng tương đối ngắn. Và bản thân hai nước cũng có nhiều cái biến động trong chính trị trong nội bộ. Việt Nam thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời. Bên Mỹ thì đang bước vào một cuộc bầu cử. Cho nên là vẫn chưa có nhiều cái sự thay đổi nhiều, tức là cái bước tiến mới kể từ năm ngoái.
Thực ra, trước đó thì quan hệ thương mại của hai bên vẫn đã phát triển rồi, nhưng mà người ta vẫn đang kỳ vọng là sau khi mà nâng cấp quan hệ lên mức độ cao nhất, thì phát triển quan hệ kinh tế thương mại nó sẽ đột phá, nhưng mà cho đến nay thì vẫn chưa.
Năm ngoái khi mà Tổng thống Biden sang, thì cũng có lời hứa với Việt Nam là muốn thúc đẩy những công ty, những tập đoàn sản xuất chip và chất bán dẫn đến đầu tư ở Việt Nam. Đến nay, đã có nhiều cái đoàn đến thăm Việt Nam và ký nhiều cái biên bản ghi nhớ MOU. Nhưng mà trong thực tế thì vẫn chưa có một doanh nghiệp nào của Mỹ thực sự triển khai dự án sản xuất chip và chất bán dẫn ở Việt Nam kể từ sau khi hai bên nâng cấp quan hệ.
Cao Nguyên : Theo Tờ thông tin của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội công bố nhân một năm Việt-Mỹ nâng cấp mối quan hệ, trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, hai bên đã tổ chức nhiều hoạt động chung, như Mỹ công bố Chương trình Khách mời Quốc tế về Đào tạo Lãnh đạo thiết kế riêng nhằm hỗ trợ các cán bộ Việt Nam thực hiện Kế hoạch Hành động Quốc gia về Phụ nữ, Hòa bình và An ninh của Việt Nam ; Trong tháng 7, tàu USS Blue Ridge của Hải quân Hoa Kỳ và tàu tuần tra Waesche của Lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ đã đến thăm cảng Cam Ranh và tham gia các hoạt động giao lưu cộng đồng và văn hóa tại Khánh Hòa…
Với những hợp tác như vậy thì thái độ của Trung Quốc như thế nào ? Ông nhận thấy có kiềm chế được sự quấy nhiễu của Trung Quốc trên Biển Đông trong năm qua ? Ít nhất là đối với Việt Nam ?
Hoàng Việt : Thực ra cái vấn đề này thì cũng rất khó để nói. Bởi vì, thứ nhất là Trung Quốc thì không bao giờ thích chuyện mà Việt Nam xích lại gần với Mỹ. Cái đó là điều chắc chắn. Bởi vì Trung Quốc và Mỹ là cạnh tranh nhau, cạnh tranh nhau đủ có mọi thứ. Cạnh tranh nhau cả về ảnh hưởng trên thế giới và đặc biệt là khu vực châu Á và khu vực Biển Đông, nơi mà các cường quốc Mỹ và Trung Quốc đều muốn duy trì cái ảnh hưởng của mình tại khu vực này. Bởi vì khu vực Biển Đông đóng vai trò rất quan trọng, cho nên kể cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn tạo cái ảnh hưởng của mình tại khu vực này.
Trong cái bối cảnh đó thì Việt Nam cũng đang phải cố tìm cách khéo léo. Tức là sau khi mà hai bên đẩy lên cái đối tác chiến lược toàn diện thì cho thấy cái lòng tin của hai bên nó cũng đã khác.
Nếu như trước đây Việt Nam vẫn e ngại Mỹ trong một số trường hợp. Ví dụ như là e ngại về Cách mạng màu hay là e ngại về việc mà Mỹ tìm cách can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam… Thì phía Mỹ cũng đã rất nhiều lần khẳng định và kể cả ông Biden cũng khẳng định trong chuyến thăm năm ngoái là Mỹ tôn trọng cái thể chế của Việt Nam. Và chắc chắn là Mỹ cũng không dại gì mà can thiệp vào chính trị đội của Việt Nam cả.
Mặt thứ hai thì Việt Nam cũng e ngại việc là Trung Quốc sẽ cảm thấy không hài lòng. Chắc chắn là Trung Quốc không hài lòng rồi. Nhưng mà cái việc mà Việt Nam phát triển quan hệ với Mỹ nó cũng là một cái nhu cầu tất yếu của Việt Nam. Bởi vì, Mỹ là một quốc gia mà cái thị trường lớn nhất trên thế giới và nền công nghệ khoa học cũng như kinh tế thị trường có rất nhiều bước phát triển mà Việt Nam cần phải học hỏi. Cho nên việc phát triển mối quan hệ Việt Nam với cả Mỹ lên mức cao nhất nó là một cái nhu cầu không thể thiếu nếu Việt Nam muốn phát triển.
Thế còn cái câu hỏi là liệu nó có làm giảm bớt sự đe dọa của Trung Quốc trên Biển Đông hay không thì cái này nó cũng có một phần nào trong đó thôi. Câu chuyện trên Biển Đông, trong trường hợp Philippines hiện nay, Philippines là đồng minh của Mỹ và có Hiệp định hỗ tương quân sự từ năm 1951 và Philippines là đồng minh thân thiết của Mỹ. Thế nhưng mà không phải vì những chuyện đó mà Trung Quốc lại nhẹ tay với cả Philippines mà thậm chí Trung Quốc cũng mượn cớ để đẩy nó cao hơn. Cho nên, bảo là nếu mà quan hệ với Mỹ khiến cho Trung Quốc chùn tay ở Biển Đông thì điều đấy hoàn toàn là khó.
Nhưng mà, cũng bởi vì Mỹ thúc đẩy quan hệ với Việt Nam thì khiến cho Trung Quốc cũng phải đánh giá cái vị trí của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc nó khác trước. Nếu như không có quốc gia như Mỹ thúc đẩy quan hệ với Việt Nam thì rõ ràng là Trung Quốc sẽ coi Việt Nam như một cái dạng chư hầu. Chúng ta đã thấy những chuyến thăm của lãnh đạo cao cấp Trung Quốc sang Việt Nam và thậm chí cuối năm ngoái ông Tập Cận Bình cũng đã sang thăm Việt Nam.
Việt Nam đã khéo léo cân bằng mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc cũng khiến Trung Quốc cảm thấy cần phải cạnh tranh với cả Mỹ. Và vì cạnh tranh với Mỹ thì Trung Quốc bắt đầu mới có những cái gọi là quan hệ cũng tương đối là tôn trọng Việt Nam. Thế thì một mặt nào đó Việt Nam phát triển quan hệ với Mỹ thì cũng tạo cho Trung Quốc một cái tâm lý là cần phải đối xử Việt Nam một cách ngang hàng hơn, chứ không phải muốn làm gì thì làm như trước.
Cao Nguyên :Khi đọc Tờ thông tin do Sứ quán Mỹ công bố, tôi nhận thấy có rất nhiều chương trình hoặc gói viện trợ, hỗ trợ từ Mỹ dành cho Việt Nam. Vậy phía Mỹ được gì từ Việt Nam trong năm qua, với tư cách là Đối tác chiến lược toàn diện ?
Hoàng Việt : Có lẽ Mỹ sẽ mong Việt Nam có một cái vai trò tích cực hơn trong cái khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Thứ hai, Mỹ cũng mong muốn có những trao đổi về quốc phòng nhiều hơn đối với Việt Nam. Chúng ta đã thấy là gần đây có cái chuyến thăm Mỹ của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang. Chuyến thăm đã cho thấy là một số những hé mở trong cái Bản tuyên bố của hai bên và bên Mỹ đưa ra có nhắc tới là hai bên đang muốn thúc đẩy thương mại quốc phòng. Và có lẽ đấy cũng là một điều mà cả hai bên đều mong muốn.
Một mặt, Việt Nam cũng đang cần hiện đại hóa sức mạnh trên biển của mình, trong đó có hải quân và đặc biệt là lực lượng cảnh sát biển. Thế thì Việt Nam cũng cần có sự giúp đỡ không chỉ của Mỹ mà nhiều quốc gia đồng minh của Mỹ. Ví dụ như Nhật Bản, Ấn Độ... Những quốc gia này đều có thể giúp Việt Nam nâng cấp, tăng cường cái sức mạnh trên biển. Và đây là việc Việt Nam rất cần.
Trung Quốc đang sử dụng cái gọi là chiến thuật vùng xám trên Biển Đông. Hiện nay, Trung Quốc đang áp dụng chiến thuật này đối với cả Philippines, lấn áp Philippines, đòi hỏi những quốc gia như Việt Nam hay Philippines muốn chống lại chiến thuật vùng xám của Trung Quốc phải có lực lượng chấp pháp trên biển mạnh để có thể đương đầu được.
Trong bối cảnh đó thì Việt Nam rất cần sự giúp đỡ của Mỹ. Trong một năm vừa qua, sau khi hai bên đã nâng cấp quan hệ thì cảnh sát biển Việt Nam đã được Mỹ huấn luyện nhiều hơn. Huấn luyện cả về sử dụng máy bay không người lái, rồi huấn luyện trong cái việc tác chiến trên biển, hay là quản lý những vấn đề trên biển, rồi kiểm soát thông tin trên biển… Điều đấy rõ ràng là một bước tiến mới.
Việt Nam cũng đang tìm kiếm một số vũ khí huấn luyện từ phía Mỹ. Trong chuyến thăm của ông Phan Văn Giang sang Mỹ có nhắc tới thương mại quốc phòng thì đó cũng là điều mà có lẽ hai bên đang mong chờ. Việt Nam thì muốn nâng cấp cái năng lực của mình. Mỹ cũng muốn cung cấp cho Việt Nam một số vũ khí để có thể là giảm bớt thâm hụt thương mại giữa hai quốc gia này.
Cao Nguyên : Đâu là thách thức trong quá trình duy trì và phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ?
Hoàng Việt : Có rất nhiều cái thách thức.
Một là, Việt Nam và Mỹ có rất nhiều kế hoạch để phát triển. Trong đó có cả phát triển về dự án năng lượng hạt nhân dân sự, hay phát triển về hoạt động hợp tác về quân sự và quốc phòng.
Theo tôi biết là Mỹ cũng đã nhiều lần muốn có tàu chiến hoặc tàu sân bay đến Việt Nam. Còn Việt Nam hiện nay cũng đang mong chờ phát triển kinh tế thương mại và đặc biệt là đang muốn "lót ổ cho đại bàng". Tức là muốn kéo nhiều tập đoàn sản xuất chip và chất bán dẫn từ Mỹ đặt nhà máy tại Việt Nam.
Cho đến nay thì đó vẫn là thách thức đấy. Bởi vì, Việt Nam còn nhiều rào cản, cả về thủ tục hành chính, cả về năng lượng, về khả năng cung cấp năng lượng điện, năng lượng xanh chẳng hạn… thì vẫn là những khả năng mà Việt Nam chưa mời chào được các doanh nghiệp chip và chất bán dẫn từ Mỹ tới.
Vấn đề thứ hai là tiềm năng của Việt Nam về đất hiếm. Việt Nam được coi là một quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới. Nhưng đất hiếm của Việt Nam phân bố rất là lẻ tẻ và đòi hỏi có công nghệ đủ hiện đại để khai thác mới có giá trị kinh tế. Và điều này thì Việt Nam cũng rất cần tới vai trò của Mỹ. Bởi vì Mỹ có công nghệ về đất hiếm rất hiện đại. Đấy là những cái mà Việt Nam vẫn đang mong chờ.
Phía Mỹ thì không chỉ mong chờ phát triển về kinh tế thương mại mà cả về quân sự quốc phòng. Nhưng Việt Nam thì một mặt cũng đang cố gắng đi từng bước từng bước để giải thích cho Trung Quốc.
Cao Nguyên : Thế thì nhân quyền thì sao. Ông có nghĩ nhân quyền cũng là một thách thức trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ không ?
Hoàng Việt : Nhân quyền vẫn là một vấn đề mà hai bên luôn luôn có những cái nhìn khác nhau. Việt Nam cho rằng ở Việt Nam, trong bối cảnh của Việt Nam và cái nhìn của Việt Nam thì nhân quyền phải khác, không thể giống Mỹ được.
Nhưng có lẽ là Chính phủ Mỹ, dù là Dân chủ hay Cộng hòa thì cũng vẫn nhìn Việt Nam ở trong một mức độ khác. Hiện nay thì quan hệ giữa hai nước đang rất là tốt đẹp. Vì thế cho nên vấn đề nhân quyền có lẽ cũng là một cái chủ đề mà Mỹ sẽ luôn luôn đề cập tới với Việt Nam, nhưng ở một cái mức độ nhẹ hơn so với trước đây.
Cao Nguyên : Thạc sĩ Hoàng Việt, một lần nữa cám ơn ông vì đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
Cao Nguyên thực hiện
Nguồn : RFA, 12/09/2024
"...Có một giá trị nội tại trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và điều đó không liên quan gì đến bất kỳ quốc gia thứ ba nào…"
Đại sứ Marc Knapper
Lời tòa soạn : Gần hai tuần sau chuyến thăm của tổng thống Joe Biden ở Việt Nam và hai quốc gia Việt - Mỹ công bố thỏa thuận nâng cấp quan hệ bang giao lên mức cao nhất, đối tác chiến lược toàn diện, đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, Marc Knapper, có mặt tại Washington, đã dành cho VOA tiếng Việt cuộc phỏng vấn nhanh, do phóng viên Khánh An thực hiện.
VOA đăng tải nguyên văn nội dung phỏng vấn dưới đây. (VOA tiếng Việt)
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken và đại sứ Marc Knapper (phải), đi bộ đến một câu lạc bộ nhạc Jazz tại Hà Nội hôm 15/4/2023.
***
Khánh An : Cảm ơn Đại sứ về cơ hội quý báu được nói chuyện với ông, đặc biệt là tại thời điểm lịch sử này của mối quan hệ Mỹ-Việt. Cảm ơn ông ! Tôi muốn biết một chút cảm giác của ông khi trở lại đây (Mỹ) sau những ngày bận rộn với lịch trình dày đặc sự kiện.
Marc Knapper :Vâng, trước hết, cảm ơn cô đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này. Và xin chào các thính giả và người xem của quý đài. Thật tuyệt vời khi được trở lại Washington sau thời điểm thực sự lịch sử trong quan hệ Mỹ-Việt khi Tổng thống Biden tới Việt Nam vào tuần trước tại Hà Nội, gặp Tổng bí thư [Đảng Cộng sản Việt Nam]. Trên thực tế, chính là theo lời mời của Tổng bí thư, Tổng thống đã đến thăm Hà Nội và có cuộc gặp tuyệt vời với Tổng bí thư, với Thủ tướng, với người đứng đầu Quốc hội, và cuộc nâng cấp mang tính lịch sử quan hệ đối tác của chúng ta từ Đối tác Toàn diện lên Đối tác Chiến lược Toàn diện thực sự mang tính lịch sử . Ý tôi là chúng ta sử dụng từ "lịch sử" rất nhiều khi nói về những điều này và đôi khi nó có thể là một câu nói sáo rỗng nhưng trong trường hợp này, thực sự là một khoảnh khắc lịch sử giữa hai đất nước chúng ta, và tôi nghĩ trách nhiệm của chúng ta bây giờ là tận dụng nó.
Có rất nhiều công việc đã được thực hiện cho chuyến thăm này và cho lần nâng cấp này. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải thừa nhận rằng chính công sức của nhiều người ở Việt Nam và ở Hoa Kỳ trong nhiều năm đã đưa chúng ta đến thời điểm này. Và vì vậy, tôi nghĩ chúng ta phải nhận thức được những nỗ lực trong nhiều năm và trách nhiệm hiện nay thuộc về chúng ta, ở cả Việt Nam và Hoa Kỳ, là tận dụng thời điểm này và đưa mối quan hệ của chúng ta lên những tầm cao hơn nữa.
Vì vậy, tôi cảm thấy rất vui.
Khánh An : Tôi biết đó là cảm giác tuyệt vời ! Ông có thể chia sẻ một vài câu chuyện của chính mình trong tư cách là đại sứ tại Việt Nam được không ? Ông chính là một cây cầu nối liền hai đất nước. Vậy kinh nghiệm của ông trong vai trò đó như thế nào ? Có câu chuyện thú vị nào mà ông muốn chia sẻ không ?
Marc Knapper : Vâng, trước hết, tôi nói rằng giữa đại sứ quán của chúng tôi ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán của chúng tôi ở thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi có gần 1.100 nhân viên Việt Nam và nhân viên Mỹ làm việc rất chăm chỉ mỗi ngày cho mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Vì vậy, tôi không thể nhận công trạng bất cứ điều gì. Ý tôi là, công việc mà những người này làm mỗi ngày thực sự là chìa khóa hay là xương sống của mối quan hệ này. Và chính công việc của họ lặp đi lặp lại, như tôi đã nói, trong nhiều năm đã đưa chúng ta đến mức có thể nâng cấp mối quan hệ. Vì vậy, đối với tôi trong tư cách là đại sứ, việc trở thành một phần của đội ngũ tuyệt vời này là một niềm tự hào lớn lao. Tôi thực sự vinh dự khi Tổng thống Biden chọn làm đại sứ vài năm trước. Và một lần nữa, tôi cảm thấy vô cùng tự hào và có trách nhiệm giúp cho đội ngũ này đạt được nhiều thành tựu hơn nữa khi làm việc với các đồng nghiệp Việt Nam của chúng tôi.
Về những kỷ niệm đặc biệt từ chuyến thăm, tôi nghĩ ra một chuyện. Khi đoàn xe lái xe trong thành phố, bởi vì Tổng thống chỉ ở đó khoảng 24 giờ, một chuyến thăm rất ngắn ngủi, nhưng những khoảnh khắc chúng tôi lái xe từ sân bay vào Hà Nội rồi lái xe từ Quảng trường Ba Đình đến một số cuộc họp rồi quay lại sân bay, các đường phố chật cứng người, vỉa hè chật cứng người ra vẫy chào, và có cờ nữa, cờ Việt Nam, cờ Mỹ. Thật là... thật là ấm áp và rất xúc động khi thấy người dân Việt Nam rất nồng nhiệt chào đón vị quan khách. Đó là sự chào đón nồng nhiệt, đó là lòng hiếu khách nồng hậu mà nhiều người trong chúng tôi, tất cả chúng tôi đều cảm nhận được khi đến thăm Việt Nam và tôi rất vui mừng khi đích thân ngài tổng thống của chúng ta có thể chứng kiến điều đó. Đó chính là sự nồng nhiệt mà người dân và lãnh đạo Việt Nam chào đón ông đến Việt Nam.
Có một khoảnh khắc khác đối với tôi rất đặc biệt, rất cảm động. Đó là khi Tổng thống đến thăm Quốc hội và gặp Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Trong cuộc gặp này, các cựu chiến binh Mỹ và một cựu chiến binh Việt Nam có cơ hội trao đổi hiện vật chiến tranh, và hai cựu chiến binh Mỹ đã trao lại cuốn nhật ký cho người cựu chiến binh Việt Nam này. Ông ấy đã đánh mất nó trong chiến tranh và chúng tôi đã tìm lại được nó. Nó đã ở Hoa Kỳ trong rất nhiều năm và chúng tôi đã có thể trả lại nó cho người đàn ông này trước sự chứng kiến của Tổng thống và Chủ tịch Quốc hội. Chúng tôi cũng đã nhận được một số hiện vật từ phía Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi đã bàn giao một số tài liệu lưu trữ, nhưng chỉ buổi lễ ngắn gọn rất đơn giản này thôi cũng đã rất cảm động đến mức tôi nghĩ nó tượng trưng cho thiện chí giữa hai dân tộc chúng ta hiện nay. Nó thể hiện những nỗ lực không ngừng của chúng ta hướng tới việc hòa giải và xây dựng lòng tin, sự hiểu biết lẫn nhau.
Và đối với tôi, cô biết không, bố tôi là một cựu chiến binh. Ông tham chiến ở Việt Nam từ năm 1966-1967. Và vì vậy, đối với cá nhân tôi, thật là ý nghĩa khi thấy các cựu chiến binh đến gần với nhau và một lần nữa thực hiện phần việc của họ trong tư cách cá nhân để thúc đẩy hòa giải và sự thông hiểu. Vì vậy, đối với tôi, đó là một khoảnh khắc rất đáng nhớ và cảm động.
Khánh An : Nói về hòa giải, nhiều lãnh đạo Mỹ và Việt Nam nói rằng Chiến tranh Việt Nam không chỉ có hai bên, mà là cuộc chiến của ba bên : Mỹ, miền Bắc và miền Nam. Vậy tôi muốn biết, liệu Hoa Kỳ có kế hoạch hành động nào trong khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện để hỗ trợ quá trình hòa giải đó không ?
Marc Knapper : Tôi nghĩ tất cả công việc chúng tôi làm hàng ngày là để xây dựng sự thông hiểu cho dù đó là thông qua quan hệ giáo dục hay quan hệ con người. Bạn biết đấy, Việt Nam là quốc gia có nguồn sinh viên (du học) đứng thứ năm tại Hoa Kỳ. Và vì vậy, mỗi ngày những sinh viên trẻ Việt Nam sang Mỹ học tập đều giúp xây dựng những cầu nối và xây dựng sự thông hiểu giữa người dân Việt Nam và người dân Hoa Kỳ. Đồng thời, chúng ta có nhiều người Mỹ, tôi ước gì có nhiều hơn, đến Việt Nam để tham gia các chương trình giảng dạy Fulbright hoặc làm thiện nguyện viên của Đoàn Hòa bình. Và trong số đó, có nhiều người là người Mỹ gốc Việt muốn quay trở lại để hiểu rõ hơn về di sản của mình, để góp phần xây dựng sự thông hiểu. Và vì vậy, tôi nghĩ thông qua những nỗ lực này, chúng tôi có thể giúp xây dựng cầu nối giữa Việt Nam và người Mỹ thuộc mọi tầng lớp khác nhau.
Khánh An : Nhà Trắng nhấn mạnh rằng "Việt Nam là đối tác rất quan trọng trong khu vực". Ông có thể nói rõ hơn về vai trò của Hà Nội đối với Washington về mặt kinh tế và địa chính trị, đặc biệt là so với các đồng minh hiệp ước khác của Mỹ trong khu vực như Philippines hay Thái Lan không ? Đối tác chiến lược toàn diện có nâng cao vị thế của Việt Nam trong Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ hay không ?
Marc Knapper : Việt Nam luôn là đối tác quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng tôi. Tôi nghĩ nếu bạn nhìn vào năm yếu tố của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đó là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương được kết nối, Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương kiên cường, thịnh vượng, an toàn, và nếu bạn nhìn vào chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tất cả những yếu tố đó đều thể hiện trong cách chúng tôi tiếp cận Việt Nam.
Trên thực tế, có nhiều lợi ích và mục tiêu mà chúng tôi chia sẻ với Việt Nam, cho dù đó là lợi ích chung của chúng tôi đối với một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở, trong trường hợp này, đặc biệt là một Biển Đông tự do và rộng mở. Chúng tôi hướng đến một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương được kết nối với nhau và tất nhiên điều này dẫn đến ý tưởng về vai trò trung tâm của ASEAN mà chúng tôi đồng ý 100% với Việt Nam về tầm quan trọng của ASEAN trong tư cách là một cường lực và nguồn thịnh vượng kinh tế của khu vực. Nhìn vào chính sách của chúng tôi đối với Việt Nam, có thể thấy là nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng, cho dù là thúc đẩy đầu tư của Việt Nam vào Hoa Kỳ, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam, đảm bảo rằng các công ty Mỹ có một sân chơi bình đẳng ở Việt Nam, đảm bảo khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng tôi mà Việt Nam là đối tác sáng lập, đảm bảo rằng chúng ta có thể vượt qua vạch đích trong nỗ lực đó, cho dù là thúc đẩy an ninh, hãy nhìn vào công việc chúng tôi làm với Việt Nam trong việc đảm bảo Việt Nam có được những khả năng cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình trên biển, trên không, trên đất liền hoặc thậm chí trong không gian mạng.
Vì vậy, chúng tôi hợp tác rất chặt chẽ để xây dựng năng lực, chẳng hạn như thông qua hợp tác giữa Tuần duyên và Cảnh sát biển. Và cuối cùng, xây dựng khả năng phục hồi trong khu vực và với Việt Nam, dù đó là nỗ lực cùng nhau giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu hay hợp tác với Việt Nam để đảm bảo Việt Nam có được những gì cần thiết để thực hiện quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế sạch hơn, xanh hơn, hay là khả năng phục hồi trong bối cảnh đại dịch toàn cầu. Bạn biết đấy, khi chúng tôi cần giúp đỡ nhất, Việt Nam đã cung cấp cho Hoa Kỳ các thiết bị bảo hộ cá nhân, khẩu trang. Và khi Việt Nam cần giúp đỡ, chúng tôi đã cung cấp cho Việt Nam 40 triệu vắc xin, giúp tiêm chủng cho một tỷ lệ lớn dân số và giúp Việt Nam mở cửa nền kinh tế khá sớm.
Và trong tất cả các lĩnh vực này, Việt Nam đã chiếm một phần quan trọng, một vị trí quan trọng trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng tôi. Tôi nghĩ việc nâng cấp lên Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện đã phản ánh mối quan hệ bền chặt giữa hai nước. Và tôi hy vọng sẽ còn thấy nhiều cuộc trò chuyện hơn nữa diễn ra về cách thức chúng ta có thể tăng cường hơn nữa sự hợp tác về mặt kinh tế và trong các lĩnh vực khác, cho dù đó là an ninh, quốc phòng, thực thi pháp luật, khoa học, công nghệ, giáo dục, chất bán dẫn. Ý tôi là, việc hợp tác với Việt Nam để đảm bảo nước này trở thành một nền kinh tế tập trung vào công nghệ cao dựa trên đổi mới, một nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045. Tất cả đều là những nỗ lực mà Hoa Kỳ muốn tham gia, là một phần trong đó. Vì vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với Việt Nam khi Việt Nam tìm cách phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, tìm cách phát triển các lĩnh vực sản xuất công nghệ cao để đa dạng hóa chuỗi cung ứng vào Việt Nam. Đây đều là những mục tiêu mà chúng tôi chia sẻ và chúng tôi rất vui mừng về những nỗ lực của mình trong tương lai.
Khánh An : Trong tuyên bố chung về việc thành lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, nội dung nhấn mạnh một cách không cân đối vào việc hợp tác kinh tế, trong khi quân sự, địa chính trị hay tranh chấp Biển Đông lại không được chú ý nhiều. Vậy Việt Nam có thể mong đợi gì ở Mỹ khi đối mặt với sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông và trong khu vực ? Đối tác chiến lược toàn diện có vai trò gì về mặt chiến lược, quân sự và đặc biệt trong vấn đề căng thẳng ở Biển Đông ?
Marc Knapper : Tôi nghĩ với Việt Nam, Hoa Kỳ có chung quan điểm về tầm quan trọng của việc đảm bảo Biển Đông vẫn tự do và rộng mở, cho dù đó là quyền tự do hàng hải, tự do thương mại, tự do hàng không, để đảm bảo rằng không một quốc gia nào có thể tự ý đơn phương thay đổi hiện trạng, đảm bảo luật pháp quốc tế được tôn trọng, đặc biệt là Công ước về Luật Biển, nhằm đảm bảo các nước không bị cưỡng ép và có thể đưa ra những quyết định có lợi cho mình và không cảm thấy rằng họ đang bị áp lực hoặc bị bắt nạt phải đưa ra những quyết định trái ngược với những gì tốt nhất cho đất nước và người dân của họ. Và đây là những điều mà Hoa Kỳ và Việt Nam đang có cùng một quan điểm. Tôi kỳ vọng rằng trong tương lai, khi chúng ta tìm cách làm sâu sắc hơn nữa, thực hiện tuyên bố và tinh thần của việc nâng cấp, là tìm cách đảm bảo rằng hai nước chúng ta có thể hợp tác thậm chí hơn nữa để bảo vệ lợi ích mà chúng ta chia sẻ.
Khánh An : Có hai dự án ở riêng tỉnh Khánh Hòa mà Nhà Trắng đã nêu, là dự án nuôi trồng thủy sản và dự án năng lượng pin. Vậy xin hỏi Mỹ có bao giờ cân nhắc hay bàn bạc với Việt Nam về việc thúc đẩy sự hiện diện của Mỹ ở Vịnh Cam Ranh không ?
Marc Knapper :Ồ, tôi nghĩ, trước hết, hai dự án đó đại diện cho hai lĩnh vực quan trọng của hợp tác Mỹ-Việt. Thứ nhất, dự án pin mà chúng tôi hợp tác với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế sạch hơn, xanh hơn với năng lượng tái tạo, gió và mặt trời và tất nhiên pin là một phần của lưới điện và thông qua dự án này cho thấy pin có thể hoạt động như thế nào ở Việt Nam.
Và tất nhiên, dự án nuôi trồng thủy sản một lần nữa cho thấy đầu tư của Mỹ có thể làm gì để thúc đẩy nuôi trồng thủy sản bền vững trong trường hợp này, và trở thành nguồn thu nhập cho người nuôi trồng thủy sản địa phương hoặc người nuôi tôm địa phương.
Còn đối với việc đối thoại về Cam Ranh, tôi sẽ không đưa ra bất kỳ giả thuyết hay suy đoán nào. Đó là hai điều khác nhau.
Khánh An : Tổng thống Biden khi ở Hà Nội đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hợp tác song phương nhằm thúc đẩy nhân quyền. Vậy Hoa Kỳ có kế hoạch hành động nào cho vấn đề này trong khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện hay không, trong lúc nhiều người Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ bị bắt vì dám lên tiếng ?
Marc Knapper : Nhân quyền là chủ đề thường xuyên trong các cuộc trò chuyện của chúng tôi với những người đồng cấp Việt Nam, dù là ở cấp độ của tôi, cấp thấp hơn hay cấp Tổng thống. Tổng thống đã nêu vấn đề nhân quyền trong tất cả các cuộc họp của ông tại Hà Nội và chúng tôi làm điều đó vì nó quan trọng đối với giới lãnh đạo và người dân Mỹ, và chúng tôi sẽ tiếp tục làm như vậy.
Tuy nhiên, bạn biết đấy, trên thực tế, trong phiên điều trần chuẩn thuận của chính mình, tôi đã nói về tầm quan trọng, đối với tôi và với chính quyền Hoa Kỳ, về nhân quyền và giải quyết vấn đề này theo cách cởi mở, thẳng thắn nhưng tôn trọng, và chúng tôi sẽ tiếp tục làm như thế.
Khánh An : Rõ ràng là Mỹ muốn "một nước Việt Nam mạnh, độc lập, tự chủ và thịnh vượng", Mỹ muốn xây dựng Việt Nam thành một đối tác mạnh trong khu vực để chống lại Trung Quốc, nhưng liệu Washington có xem xét một cách đầy đủ thực tế là Việt Nam vẫn do cộng sản cai trị ?
Marc Knapper : Tôi phải đặt lại vấn đề một chút với phần đầu của câu hỏi, là phải chăng mối quan hệ của chúng tôi với Việt Nam là vì Trung Quốc hay trực tiếp chống lại Trung Quốc hoặc bất kỳ quốc gia nào khác. Có một giá trị nội tại trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và điều đó không liên quan gì đến bất kỳ quốc gia thứ ba nào. Tôi chắc chắn rằng Việt Nam, khi họ nhìn chúng tôi, không phải là vì ai khác mà là về việc chúng ta cùng nhau, hai đất nước chúng ta và những mục tiêu chúng ta chia sẻ, những lợi ích mà chúng ta chia sẻ. Thực tế là hai đất nước chúng ta đã trở nên rất tương đồng với nhau trong nỗ lực chung, xin nhắc lại, nhằm đảm bảo Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, nền kinh tế kỹ thuật số vào năm 2030, không có carbon vào năm 2050. Đây là những mục tiêu quan trọng đối với người dân và lãnh đạo hai nước, không liên quan đến bất cứ ai khác. Vì vậy, tôi thực sự phải, nói thế nào nhỉ, không đồng ý với quan điểm cho rằng điều này là vì ai đó hoặc vì một quốc gia nào khác. Không phải thế. Nó là vì giá trị nội tại cơ bản mà hai nước chúng ta có được trong mối quan hệ của chúng ta, chứ không vì ai khác.
Khánh An : Hoa Kỳ sẽ theo đuổi những lĩnh vực hợp tác an ninh mới nào với Việt Nam ?
Marc Knapper : Chúng ta có thể mong đợi thấy nhiều hợp tác hơn nữa về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải hay năng lực hàng hải. Chẳng hạn, việc đảm bảo Cảnh sát biển Việt Nam có phương tiện để bảo vệ lợi ích của mình trên biển, dù là lợi ích về tài nguyên thiên nhiên hay lợi ích trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Như chúng ta đã thấy trong triển lãm thương mại quốc phòng tháng 12 vừa qua tại Hà Nội, là triển lãm đầu tiên từ trước đến nay, đã có nhiều công ty Mỹ tham gia. Và vì vậy, chúng tôi mong chờ những cơ hội trong tương lai cho các nhà thầu quốc phòng Mỹ hợp tác với chính phủ Việt Nam nhằm giúp chính phủ đa dạng hóa và hiện đại hóa quân đội. Và tôi nghĩ chúng ta có thể thấy nhiều cơ hội hơn để hợp tác cùng nhau trong các vấn đề như không gian mạng và an ninh mạng. Đó chỉ là ba lĩnh vực, nhưng tôi chắc chắn sẽ còn nhiều hơn nữa.
Khánh An : Vâng, và đây là câu hỏi cuối dành cho ông. Ông có thích cuộc sống ở Việt Nam không ? Ấn tượng sâu sắc nhất của ông về đất nước và con người Việt Nam là gì ?
Marc Knapper : Cô biết đấy, trước đây tôi đã sống ở Việt Nam. Tôi đã sống ở đó từ năm 2004 đến năm 2007. Và vì vậy, đối với tôi, việc quay trở lại đây một lần nữa, sau 15 năm, là năm 2022 trong tư cách đại sứ là một cảm giác vô cùng đặc biệt và là một vinh dự to lớn khi được đại diện cho Hoa Kỳ, cho người dân Mỹ tại Việt Nam. Như tôi đã nói, thân phụ tôi là một cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam. Vì vậy, một thế hệ đã đi qua, thân phụ tôi là một chiến binh, đến tôi, con trai của ông, là đại sứ, điều đó thật ý nghĩa. Tôi nghĩ nó kể một câu chuyện tuyệt vời về sức mạnh của sự hòa giải, sức mạnh của những gì mà hai quốc gia và hai dân tộc có thể làm khi họ bắt đầu xây dựng sự hiểu biết và xây dựng niềm tin, và một lần nữa nỗ lực, không bao giờ quên quá khứ mà sử dụng nền tảng của việc hợp tác giải quyết các vấn đề di sản chiến tranh để mở đường cho tương lai, như chúng ta đã làm. Vâng, tôi cảm thấy xúc động khi nhớ lại lòng hiếu khách nồng hậu của người dân Việt Nam, sự chào đón nồng nhiệt mà tôi nhận được, và sẽ còn rất nhiều chỗ cho việc hợp tác. Tôi muốn n ói là mối quan hệ này đang tiếp tục đi lên theo một quỹ đạo thẳng dốc và tôi rất vui mừng được trở thành một phần trong đó.
Khánh An : Cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cơ hội cho buổi nói chuyện này. Điều này thật đặc biệt đối với chúng tôi và với khán giả của chúng tôi. Cảm ơn ông !
Lê Quốc Quân, RFA, 31/08/2023
Quan hệ Việt Mỹ đã trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử và hiện nay đang tiến dần đến một ngưỡng quan trọng và có ý nghĩa, đòi hỏi cao và thách thức các giá trị của các bên. Nhân chuyến đi hai ngày của Tổng thống Biden đến Việt Nam vào trung tuần tháng 9 này, chúng ta cần có những phân tích thấu đáo và dự báo nghiêm cẩn về mối quan hệ này.
AFP
Thực tế chiến lược "Xoay trục sang Châu Á" đã được hình thành từ thời tổng thống Barack Obama và vẫn tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ bởi tổng thống Joe Biden. Những kết hợp như QUAD (1) (tứ giác kim cương gồm Nhật, Ấn, Mỹ, Úc) hay Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trước đây cũng không nằm ngoài chiến lược để thúc đẩy hợp tác giữa các đối tác và kiềm chế sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Ngoài một số chiến lược lớn toàn cầu, Hoa Kỳ liên tục tìm kiếm những đồng minh mới, ở dạng "vùng đệm" gần hơn với Trung Quốc mà những cuộc thảo luận gần đây với Hàn Quốc, Philippines, Việt Nam và cả Campuchia đã cho thấy điều đó. Với vị trí đặc biệt và lịch sử đầy chông gai với Trung Quốc, Việt Nam không thể không thu hút sự chú ý lớn lao của Hoa Kỳ.
Đối với Việt Nam thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gặp những thách thức lớn khi không giải quyết được vấn đề tham nhũng và tình hình kinh tế đang trì trệ. Trong khi tuổi đang trở nên cao và không thể cầm quyền mãi được, ông buộc phải chấp nhận "binh" những đường banh mới, hầu gia tăng uy tín chính trị và tìm kiếm cơ hội phát triển kinh tế cho đất nước.
Khả năng kiểm soát quyền lực của ông Trọng bằng những lời rao giảng đạo đức đang dần dần chết khô giữa một xã hội mà tính lý tưởng đã trở nên cạn kiệt. Hầu hết các quan tham hủ bại mới ra toà gần đây đều từng giáo huấn, thậm chí viết sách (2) về chống "diễn biến" và có những lời dạy kinh điển về đạo đức. Lối giáo huấn suông đã rất lỗi thời và bị thực tế phủ nhận trên mọi phương diện.
Vì thế, việc nâng cấp là bước tiến quan trọng và có lợi cho cả đôi bên. Đối với Mỹ là tính kế lâu dài, đối với Việt Nam là ưu tư trước mắt. Hoa Kỳ cần an ninh khu vực, thích thú ngắm bãi biển "dài và đẹp" hơn 3.200 km với nhiều cảng nước sâu ưu việt có thể sử dụng đa mục đích, trong khi Việt có thêm một phương tiện vừa thu lợi được kinh tế và vừa cân bằng được với mối quan hệ đối với Trung Quốc và Nga, đồng thời nâng tầm của mình trong toàn khu vực.
Việt Nam hiểu rõ dã tâm của Trung Quốc khi mới đây ngoại trưởng Vương Nghị đã đề nghị Việt nam duy trì lý tưởng cộng sản (3), bảo vệ an ninh chế độ và chống lại sự can thiệp từ các thế lực bên ngoài, trong khi khẩn trương tiến hành các hoạt động quân sự hoá trên đảo Tri Tôn. Kiểu nói "một đàng làm một nẻo" thì các quan của Việt Nam cũng đều ở bậc thượng thừa, cho nên họ đọc vị nhau rất kỹ.
Báo chí chính thống của Việt Nam vô cùng dè dặt trong việc lên tiếng cụ thể về chuyến đi mặc dù mọi thứ đã chính thức. Thực tế thì trước đó hai bên đã tiến hành các bước đi rất cẩn thận và chi tiết. Sau chuyến đi của Ngoại trưởng Hoa Kỳ đến Việt Nam vào tháng 4 thì Trưởng ban đối ngoại trung ương Lê Hoài Trung đã đến Washington DC vào cuối tháng 6, gặp cả Ngoại trưởng Anthony Blinken và cố vấn an ninh quốc gia Jake Sullivan và hai bên đã bàn bạc nhiều vấn đề về quan hệ hai nước và cả chuyến đi của tổng thống.
Có lẽ để tôn trọng Việt Nam và cũng đề phòng những bất trắc như trong chuyến đi của Phó tổng thống Kamala Harris vào năm 2021, trong thông báo(4) của Nhà trắng ban đầu cũng chỉ đề cập đến việc Tổng thống Biden đi dự hội nghị G20 từ ngày 4-7 tháng 9 và Phó tổng thống Kamala Harris đi dự hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Jakarta, Indonesia. Mãi cho đến ngày 28/8, thì mới có thông báo về chuyến đi Việt Nam vào ngày 10/9 (5).
Việc Joe Biden đi thăm Việt Nam ngay sau khi dự hội nghị G20 trong khi không dự thượng đỉnh Jakarta cách đó không xa thể hiện một uy thế đặc biệt của Việt Nam trong khu vực. Tất cả các bên đều nhận thức rõ rằng Việt Nam là một thách thức chính yếu của Trung Quốc trong việc bành trướng lãnh thổ và chủ quyền ở biển Đông Nam Á và Trung Quốc sẽ coi bước đi của Biden như là một hành động táo bạo và đầy ưu ái cho một "quân cờ" mới.
Việt Nam cũng có cách của mình. Vừa im lặng để đi xa nhưng cũng ý thức rõ về tránh nhiệm mới, vị thế mới của mình nên đang hết sức thận trọng trong mối quan hệ này. Để có thể cân bằng và pha loãng một sự liên kết mới với Hoa Kỳ, Việt Nam cũng đã muốn gia nhập khối BRICS và chuẩn bị ký "Đối tác chiến lược" (5) với Australia. Báo chí trong nước cũng liên tục nói về sự nâng cấp quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện với Singapore.
Chính trị luôn có sự phiêu lưu và sức hấp dẫn riêng của nó. Nhưng loài người đang trở nên nhanh và ranh hơn trên tất cả các phương diện. Đồng thời sự mập mờ về chủ nghĩa và trỗi dậy của thực tế Trung Quốc đang đặt ra những mâu thuẫn lớn về lý thuyết và thực tiễn, về nói và làm, về khả năng phân biệt đúng và sai, tốt và xấu trong nền chính trị toàn cầu.
Hoa Kỳ hiện cũng đang thực thi một chính sách chính trị thực dụng và điều đó ít nhiều có mâu thuẫn với các giá trị mà Họ vẫn thường đề cao. Các giá trị như "Tự do, Dân chủ và Nhân quyền" luôn được người Mỹ cổ suý nay có thể tạm bị gác một bên cho những chương trình hành động thực tế hơn. Vào độ tuổi 100 của mình, Henry Kissinger vẫn tiếp tục thăm người bạn "tri âm" Trung Quốc và nói về việc hợp tác Mỹ Trung. Nhiều người Mỹ vẫn tiếp tục coi ông là chiến lược gia của thế giới trong thế kỷ 21 với cách tiếp cận đầy thực dụng. Câu chuyện "mèo trắng hay mèo đen" có vẻ như không chỉ là của Trung Quốc. Nhưng rõ ràng nếu không giải quyết những vấn đề vi phạm nhân quyền của Việt Nam hay Trung Quốc thì Hoa kỳ cũng sẽ gặp phải những thách thức từ các đồng minh của mình. Người ta sẽ hiểu như thế nào về quan điểm của người Mỹ đối với một Việt Nam cộng sản, đang là đàn em thực sự của Trung Hoa cộng sản ? Tiêu chuẩn kép (Double standard) trải rộng từ đông sang tây và kéo dài từ quá khứ sang hiện tại, vẫn tiếp tục được chính quyền Biden phát huy mạnh mẽ ?
Việt nam cũng thế nhưng công khai và thách thức hơn. Khi ký kết hiệp định thương mại với EU, Việt Nam sẵn sàng sửa luôn cả luật lao động, cho phép thành lập "công đoàn độc lập" để hài lòng các đối tác. Nhưng trong thực tế thì không, sau hơn ba năm trôi qua, không một tổ chức công đoàn độc lập nào được ra đời, mà ngược lại, xã hội dân sự ngày càng bị tấn công, thu hẹp. Trong những năm vừa qua, chính quyền Việt Nam đã bắt đến sáu giám đốc (6) thuộc VUSTA là cơ quan "ô dù" của các tổ chức xã hội "bán nhà nước". Còn Hoa Kỳ, liệu có quá tự tin khi khi lao vào một cuộc chơi không phải sở trường của mình ?
Dù sao khi các bên đã bước qua quá khứ để dấn bước trong hiện tại, hướng tới tương lai. Đây là một hành động hoàn toàn hợp xu thế tiến bộ và điều này là mong ước của rất nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam hiện nay.
Nhân loại đã sững sờ khi thấy sự hài hoà tuyệt vời giữa "đầu tư tư bản" và "chuyên chế cộng sản" tại Trung Quốc và Việt Nam trong suốt 20 năm qua, nay thì có lẽ không quá bất ngờ khi ngoại giao "cây tre" đang vờn quanh cùng "cây gậy" nhỏ và một "củ cà rốt" to tướng.
Cũng sẽ vô cùng hoà hợp, như con rắn cuộn quanh cây gậy của thần Asclepios, vươn lên một chiếc ly đựng dược liệu, trong biểu tượng của ngành y. Hình ảnh đó không chỉ tượng trưng cho sự khôn ngoan và sức khoẻ mà còn ám chỉ khả năng giải quyết những vấn đề nhức nhối nhất của mối bang giao : "vừa hợp tác, vừa đấu tranh" như lời của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng nói trong mối quan hệ với Trung Quốc. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh với bên này, trong một quan hệ "tay ba" thì đồng nghĩa với bên kia cũng phải "vừa hợp tác, vừa đề phòng".
Khi viết những dòng này, tôi nhớ đến ly rượu "mao đài" sóng sánh mà Mao Trạch Đông đã uống cạn cùng Nixon trước khi ký "Tuyên cáo chung Thượng Hải" vào năm 1972. Chuyến thăm bắt đầu từ một cuộc "Ngoại giao bóng bàn" mà sau đó các nhà báo đã ví von "trái bóng nhỏ" (bóng bàn) đã làm thay đổi trái bóng lớn (trái đất). Sau hơn 50 năm, từ một cuộc chia chác lịch sử của các cường quốc, Hoa Kỳ chợt nhận ra rằng Trung Quốc đã thực sự đã lớn mạnh và trở thành một đối thủ tiềm tàng không thể tránh khỏi. Hai con dê này đang đi qua một chiếc cầu hẹp và có vẻ như không tránh nhau.
Cũng bởi vậy mà có hàng loạt động thái "dồn dập" để nâng cấp quan hệ ngoại giao như đang xảy ra. Liệu Việt Nam lại có tiếp tục đi vào quỹ đạo của những nước lớn mà biết đâu lại trở thành một tiền đồn của những cuộc chiến tranh ủy nhiệm trong tương lai ?
Trong hoàn cảnh lúc này, Việt Nam như một cô gái đa tình có thể "bắt cá hai tay" nhưng giả sử có một cuộc chiến tranh xảy ra, dù trên Biển Đông, ở Đài Loan hay bất cứ một nơi nào khác quanh khu vực, Việt Nam rất có thể buộc phải chọn bên như đã từng chọn bên.
Khi đó, một Việt Nam đang "bắt cá hai tay" có thể lại trở nên cực kỳ nguy hiểm khi tự nó đã nuôi dưỡng cả "sự thủy chung" và "lòng phản trắc" trong các mối quan hệ. Rất có thể quyết định bắt cá hai tay của Việt Nam hôm nay sẽ "xé" Việt Nam ra làm đôi, vào thời điểm bất ngờ nhất của ngọn triều lịch sử như nó đã từng xảy ra. Còn Hoa Kỳ và Trung Quốc, họ vẫn luôn là một nước lớn, họ sẽ chơi ván lớn với những người chơi xứng tầm ?
Lịch sử thì phiêu du và không ai có thể dự báo được, nhưng có một điều chúng ta có thể làm được là đất nước mình phải thực sự mạnh lên. Nhân dân được tự do, ấm no, đất nước được phát triển và thịnh vượng. Có như vậy thì chúng ta mới giữ được chủ quyền, bảo vệ sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của mình trong thế đứng của toàn nhân loại. Đó là lúc chúng ta có thể tự hào được "sánh vai với các cường quốc năm Châu" mà không phải "ngả nghiêng" kiểu cây tre.
Tham khảo :
1. https://en.wikipedia.org/wiki/Quadrilateral_Security_Dialogue
4. https://www.rfi.fr/vi/quốc-tế/20230829-nhà-trắng-thông-báo-tổng-thống-mỹ-biden-công-du-việt-nam-thắt-chặt-quan-hệ-song-phương
5. https://dangcongsan.vn/thoi-su/thuc-day-quan-he-doi-tac-chien-luoc-viet-nam-australia-644808.html
6. https://www.voatiengviet.com/a/cac-nha-hoat-dong-bi-bat-giu-vi-tron-thue-thuc-chat-va-he-luy/7140303.html
RFA, 31/08/2023
Giới bất đồng chính kiến và người hoạt động xã hội ở Việt Nam bày tỏ sự hân hoan về chuyến thăm sắp tới của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tới Hà Nội vào đầu tháng 9 này, coi đây là cơ hội để Việt Nam mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ nói riêng và phương Tây nói chung.
Tổng bí thư RFA
Tuy nhiên, một số người tỏ ra dè dặt, thậm chí hoài nghi về tác động của sự kiện này lên tình trạng nhân quyền ở Việt Nam.
Theo công bố của Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao Việt Nam, Tổng thống Joe Biden sẽ đến Hà Nội vào ngày 10/9 và rời đi sau đó một ngày. Trong thời gian ở Hà Nội, ông sẽ gặp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và một số lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam để bàn về việc tăng cường quan hệ song phương trong một loạt những vấn đề từ công nghệ, kinh tế đến tình hình ổn định trong khu vực và biến đổi khí hậu.
Trần Hoàng Phúc, người mới mãn hạn tù sáu năm về tội danh "tuyên truyền chống nhà nước" vì hoạt động cổ suý nhân quyền và dân chủ, nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 31/8 :
"Tôi kỳ vọng trong chuyến đi này của ông Biden, quan hệ Việt Nam–Hoa Kỳ sẽ được nâng lên một tầm cao mới. Cụ thể trong chuyến đi này, ông Biden và ông Phú Trọng sẽ vạch ra những bước tiến cụ thể trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là ở các lĩnh vực mà Hoa Kỳ có thế mạnh.
Sự chủ động của Việt Nam là bước đi quan trọng trong việc cân bằng quan hệ, tránh sự lệ thuộc vào mối quan hệ với Trung Quốc vốn tiềm ẩn nhiều vấn đề".
Trần Hoàng Phúc, người từng là thành viên của tổ chức Sáng kiến Thủ lĩnh Trẻ Đông Nam Á (YSEALI – Young South East Asia Leaders Initiative) và được chọn là một trong những gương mặt trẻ được gặp Tổng thống Barack Obama khi ông tới thăm Hà Nội năm 2016, cho rằng việc hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ trong thời điểm khó khăn kinh tế hiện nay rất có lợi cho người dân Việt Nam, không chỉ giải quyết các vấn đề trước mắt Việt Nam đang gặp phải mà còn mở ra một bức tranh kinh tế-công nghệ tươi sáng hơn cho Việt Nam với sự trợ giúp to lớn của đối tác Hoa Kỳ so với khi lựa chọn hợp tác với Trung Quốc.
Một cựu tù nhân lương tâm khác, Huỳnh Thị Tố Nga, người mãn hạn tù cuối tháng ba vừa qua, cho biết cô cũng như tất cả người dân Việt Nam mong muốn đất nước sẽ được cải thiện bởi bối cảnh quốc tế đang tác động một cách mạnh mẽ vào sự thay đổi của một quốc gia.
"Chúng tôi mong muốn một đất nước tự do, phát triển và nhân văn, quyền công dân được thực thi một cách tôn trọng và minh bạch. Nhân quyền được đề cao và được thực hiện một cách triệt để".
Theo cô, nếu Việt Nam đạt được thỏa thuận song phương toàn diện với Hoa Kỳ, sẽ giúp ích rất nhiều cho sự ổn định và phát triển sắp tới. Muốn làm được điều đó, ban lãnh đạo Việt Nam phải thật sự có thiện chí và cam kết thực hiện các thỏa thuận một cách minh bạch. Bên cạnh đó, Việt Nam phải hợp tác giải quyết về vấn đề nhân quyền đang bị bóp nghẹt ở quốc nội.
Cô cũng cho rằng Việt Nam khó có sự thay đổi lớn sau chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ nếu như ban lãnh đạo ở Hà Nội vẫn bảo thủ và không chịu thay đổi quan điểm dưới nhiều sức ép và nghiêng về sự tính toán lợi ích có chủ đích.
Hoa Kỳ và Việt Nam thiết lập trở lại quan hệ ngoại giao vào năm 1995 và nâng cấp quan hệ song phương lên "đối tác toàn diện" vào năm 2013.
Trong chuyến thăm sắp tới của ông Biden, hai nước có thể nâng cấp lên "đối tác chiến lược" hoặc "đối tác chiến lược toàn diện". Việt Nam hiện đã thiết lập "đối tác chiến lược toàn diện" với Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, và mức quan hệ thấp hơn với nhiều quốc gia, trong đó có Anh, Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều quốc gia ở Châu Âu.
Cựu giáo chức Trần Thị Thảo ở Hà Nội bày tỏ mong muốn hai quốc gia sẽ ký thoả thuận nâng cấp quan hệ lên "đối tác chiến lược toàn diện" trong chuyến thăm của ông Biden tới đây và quan hệ song phương mang tính thực chất, ổn định, và lâu dài.
"Nếu thế, Việt Nam sẽ được hưởng lợi về nhiều mặt trong các lĩnh vực như an ninh, công nghệ, hàng xuất khẩu nông sản, may mặc, ...vào Mỹ. Tất nhiên đó là quan hệ hai chiều nhưng Việt Nam có lợi nhiều hơn khi có quan hệ sâu và rộng với một cường quốc đứng đầu thế giới", bà nói.
Tuy mong muốn là vậy nhưng kỳ vọng của bà vào chuyến thăm không nhiều vì bà cho rằng "đường lối của Việt Nam tuy có tiến bộ và cởi mở hơn nhưng vẫn bảo thủ trì trệ và đặc biệt là vấn nạn tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên ngày càng nhiều, tinh vi và phức tạp".
Còn một khó khăn nữa, đó là nước Mỹ ở xa mà Trung Hoa lại gần, mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đi theo mô hình của Đảng Cộng sản Trung Quốc, bà nhấn mạnh.
Một nhà hoạt động môi trường và nhân quyền ở Hà Nội cũng bày tỏ kỳ vọng trong chuyến thăm này, hai quốc gia sẽ đạt được nhiều thoả thuận nhằm tạo ra các bước đột phá vững chắc cho sự phát triển lâu dài giữa bên. Vấn đề phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, nhân quyền, môi trường... tại Việt Nam sẽ được hỗ trợ và củng cố tốt hơn.
"Tôi là một nhà hoạt động bảo vệ môi trường nên tôi đặc biệt kỳ vọng vào sự kiện lần này sẽ thúc đẩy những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, môi trường tự nhiên được bảo vệ thực sự tại Việt Nam", người này nói trong điều kiện ẩn danh.
Bên cạnh hy vọng về tác động của Hoa Kỳ lên sự phát triển của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, giới hoạt động trong nước cũng trông đợi về việc Hà Nội cải thiện hồ sơ nhân quyền dưới sức ép của Hoa Kỳ dù vẫn còn nhiều hoài nghi.
Bà giáo Trần Thị Thảo nói về tác động của chuyến thăm cũng như việc nâng cấp quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ lên hồ sơ nhân quyền của Việt Nam :
"Về ngắn hạn, có thể sẽ không có những chuyển biến mang tính rõ nét và có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, về dài hạn, việc hợp tác kinh tế với Hoa Kỳ sẽ đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn với nền dân chủ phương Tây, chính quyền Hà Nội sẽ có những bước đi phù hợp hơn để cải cách chính sách của họ về quyền con người để phù hợp với bối cảnh kinh tế mới".
Theo bà, trong tương lai, "Việt Nam không nằm ngoài vòng quay của thế giới văn minh tiến bộ, hướng tới xã hội nhân bản và thực thi trọn vẹn giá trị nhân quyền phổ quát".
Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Thị Tố Nga cho rằng nhân quyền là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu, bởi vì tình trạng nhân quyền ở Việt Nam đang rất tệ hại. Trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam liên tục bắt bớ những người đấu tranh bất đồng chính kiến, vậy nên, vấn đề nhân quyền không còn là vấn đề nội bộ của Việt Nam mà nó đã là vấn nạn nhức nhối của thế giới.
"Một trong những quốc gia lên án vấn đề này một cách mạnh mẽ chính là Hoa Kỳ, vậy nên sự kiện Tổng thống Joe Biden đến thăm Việt Nam chắc chắn phía Mỹ sẽ có những thương thuyết với Việt Nam nhằm trợ giúp những người đang hoạt động đấu tranh vì nhân quyền ở quốc gia này", cô nói.
Tuy nhiên, theo cô, vấn đề thương thuyết nội dung thế nào, có đạt hiệu quả hay không tùy thuộc rất lớn vào sự kiên quyết và khôn khéo của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ cần có hướng xử lý nếu phía Việt Nam không giữ lời hứa trong lĩnh vực này, cô nhấn mạnh.
Một nữ hoạt động ở thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ :
"Việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ có thể tạo cơ hội để thảo luận về các vấn đề nhân quyền và tự do ngôn luận tại Việt Nam. Điều này có thể đặt nền tảng cho việc thúc đẩy tôn trọng tự do dân chủ và thúc đẩy sự cải thiện tự do nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam.
Mặc dù tình hình thực tế rất bi quan nhưng tôi luôn hi vọng tích cực, chuyến thăm này tạo áp lực để Việt Nam xích lại gần Mỹ hơn, đồng nghĩa với việc tiến lại gần thế giới tự do dân chủ hơn là thế giới cộng sản, người anh láng giềng Trung Quốc".
Tuy có hy vọng vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ để Việt Nam phát triển trong nhiều lĩnh vực, nhưng nhiều người hoạt động lại bày tỏ sự hoài nghi về khả năng quan hệ song phương phát triển sẽ kéo theo sự cải thiện về hồ sơ nhân quyền của Việt Nam, cho dù Mỹ là một trong những quốc gia luôn cổ suý giá trị dân chủ và nhân quyền.
Theo nhà hoạt động xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh thì "việc nhích gần Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc lơi lỏng mối quan hệ với đàn anh xã hội chủ nghĩa, và chơi vơi giữa phần định hình về một nhà nước tương lai, điều này tức sẽ dẫn đến việc Hà Nội sẽ thắt chặt hơn tất cả các vấn đề về an ninh, đẩy mạnh mọi sự kiểm soát để bảo vệ sự tồn vong của chế độ".
Người này dự đoán "một mô hình trắng về đối kháng chính trị tương tự như Singapore sẽ ngày càng rõ hơn" ở Việt Nam.
Tuy hy vọng vào chuyến thăm, cựu giáo chức Trần Thị Thảo cho rằng sau chuyến thăm của ông Biden, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam vẫn thế : vẫn có bắt bớ và sau đó là những bản án nặng nề cho những người yêu nước- những người nói ra sự thật hay có các hoạt động phản đối Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam.
"Tôi tin Tổng thống Mỹ sẽ nói với Hà Nội về nhân quyền trong chuyến thăm này, nhưng Việt Nam có cách phản biện của họ như lâu nay họ vẫn làm. Mỹ quan tâm đến nhiều vấn đề khác hơn nhân quyền nên Việt Nam vẫn vi phạm quyền con người", bà nói.
Cựu trung tá tình báo quân đội Vũ Minh Trí cho biết ông không có hy vọng gì từ chuyến thăm Hà Nội sắp tới của ông Biden. Ông cho rằng "thứ mà hai bên cùng đạt được chỉ là một chút son phấn rẻ tiền, không hơn".
"Tôi không kì vọng, mong mỏi gì ở chuyến thăm và sự nâng cấp quan hệ này vì thấy rất rõ một bên không thật lòng, thậm chí còn rất lươn lẹo, tráo trở.
Về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, phiên toà phúc thẩm ông kĩ sư Trần Bang (bị giữ nguyên mức án 8 năm tù giam và ba năm quản chế- PV) vừa mới diễn ra là câu trả lời trực tiếp, sinh động", ông nói trong tin nhắn.
Phó Thủ tưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sang thăm chính thức Hoa Kỳ từ ngày 20 đến ngày 21 tháng 4 theo lời mời của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Rex Tillerson. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam tới Mỹ dưới thời của Tổng thống Donald Trump. Chuyến thăm này có ý nghĩa thế nào với hai nước và quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam trong thời gian tới sẽ ra sao ?
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Rex Tillerson (phải) và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Washington, DC ngày 20 tháng 4 năm 2017. AFP photo
Việt Hà phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về quan hệ quốc tế thuộc trường đại học George Mason, Hoa Kỳ, nhân chuyến thăm này.
Trước hết nói về ý nghĩa của chuyến thăm với hai nước, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nhận định :
Nếu mình nhìn những ngày vừa qua từ ngày ông Trump lên làm Tổng thống thì tính tình của ông Trump và những lời tuyên bố bất nhất của ông Trump làm cho rất nhiều nước quan ngại, nhất là những nước coi trọng quan hệ giữa nước mình và Mỹ. Cho nên ngay từ đầu chúng ta thấy các chuyên thăm của các nhà lãnh đạo của chính phủ của họ như Nhật, Đức, Anh. Họ thăm để làm gì ? Trước hết họ muốn có liên lạc cá nhân với ông Trump trước, thứ hai là họ muốn tìm hiểu chính sách mới của chính quyền này, thứ ba là họ muốn củng cố mối quan hệ của họ với ông Trump. Thì chuyến thăm của ông Phạm Bình Minh cũng nằm trong mục tiêu đó. Nhưng có một số điều đặc biệt. Chúng ta thấy là trong số những người sang thăm có bà Merkel, ông Abe, bà May là ở trong cấp lãnh đạo cao cấp gặp thẳng ông Trump. Còn cấp của ông Phạm Bình Minh là ở một cấp tương đối thấp hơn, có nghĩa là gì ? Có nghĩa là về phương diện hình thức chuyến thăm này không quan trọng bằng những cái kia. Có nghĩa là với Mỹ, tầm quan trọng của Việt Nam không thể bằng các nước kia. Về phương diện thứ hai chúng ta thấy là Việt Nam còn coi trọng quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam rất nhiều.
Đầu tiên chúng ta thấy một số nước gửi lời hỏi thăm ông Trump. Ở Việt Nam thì ông Nguyễn Xuân PHúc hỏi thăm ông ấy. Rồi ông Bình Minh gặp ông Tillerson, và lần này không phải là lần đầu mà là lần thứ 2. Lần thứ nhất cách đây khoảng 1 tháng ở bên lề hội nghị G20 ở Châu Âu. Chúng ta thấy những việc này rất là dồn dập, cho thấy là Việt Nam rất coi trọng quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, muốn tìm hiểu và củng cố quan hệ đó. Đồng thời cũng có tin là ông Thủ tướng Phúc sẽ sang thăm Mỹ trong vài tháng tới. Có lẽ ông Minh sang để giàn xếp cho chuyến viếng thăm đó.
Việt Hà : Thưa giáo sư, trong chuyến thăm này, ông Phạm Bình Minh và ông Rex Tillerson sẽ bàn thảo những vấn đề chính gì ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Quan hệ Việt Nam và Mỹ thì vẫn tiếp tục tăng cường. Trong mối quan hệ đó có mối quan hệ tay ba giữa Trung Quốc, Việt Nam và Mỹ. Việt Nam từ xưa đến nay vẫn tìm một đối trọng nào đó tuy họ không nói ra, nhưng việc đi tìm đối trọng là phải. Mỹ là một đối trọng quan trọng nhất cho nên họ sang họ sẽ thăm dò xem Mỹ ủng hộ Việt Nam đến mức độ nào, có thể Việt Nam giúp gì về phương diện an ninh hay không. Quan trọng hơn nữa là hiệp ước TPP mà Việt Nam rất hy vọng ở thị trường Mỹ này giờ không còn nữa thì vấn đề thương mại cũng phải được đề cập đến.
Việt Hà : Trong thời gian tranh cử Tổng thống ông Donald Trump cũng đã có chỉ trích Việt Nam là phá giá hàng sang Hoa Kỳ. Trong cuộc gặp gần đây với ông Tập Cận Bình thì ông cũng cho thấy dấu hiệu thắt chặt quan hệ hơn với Trung Quốc, ít nhất là trong những lời nói. Vậy thì theo giáo sư, dưới thời của Tổng thống Donald Trump, vai trò của Việt nam đối với Mỹ sẽ khác thế nào so với dưới thời của Tổng thống Barack Obama ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Phải nói lời tuyên bố của ông Trump khi tranh cử về những hành động mà ông làm sau này thì nó không hoàn toàn đồng nhất với nhau và có tính bất nhất. Thí dụ ông nói về Trung Quốc thì ông nói là Trung Quốc là nước trục lợi tiền tệ để làm lợi cho mình. Sau khi gặp ông Tập thì ông nói là Trung Quốc không phải như vậy nữa. Ông thay đổi liền.
Trong trường hợp quan hệ giữa Mỹ với Việt Nam, thì cái thời của ông Obama ông ấy nhấn mạnh sự xoay trục. Trong xoay trục, thì quan hệ rất tốt. Ông Obama đã thăm Việt nam, bà Clinton cũng thăm nữa. Quan hệ rất tốt. Trong trường hợp của Trump, ông nói về vụ Việt Nam là Việt nam lấy công ăn việc làm của Mỹ nhưng mà so với Trung Quốc thì cái nhập siêu giữa Mỹ với Việt nam chả có là bao nhiêu cả, nên ông cứ nói vậy thôi, cho nên nó không quan trọng lắm. Ngay cả thị trường lớn như Trung Quốc mà nhập siêu khoảng hơn 300 tỷ mà ông còn quan hệ và vẫn coi trọng thì vấn đề với Việt Nam nhẹ hơn nhiều.
Chính sách xoay trục sang Châu Á ra sao ?
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (trái) bắt tay với Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hà Nội vào ngày 24 tháng 5 năm 2016. AFP photo
Việt Hà : Chính quyền của Tổng thống Trump đã nói là chiến lược xoay trục của Tổng thống Obama không còn tác dụng gì nữa. Vậy theo giáo sư chiến lược của Tổng thống Donald Trump ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương sắp tới sẽ khác biệt thế nào. Liệu ông ấy nói như vậy thì có nghĩa họ sẽ làm mạnh lên hay là họ sẽ giảm nhẹ sức ép lên Trung Quốc ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Ông muốn làm cái gì thì ông cũng va chạm với thực tế chính trị thế giới. Thực tế chính trị thế giới, nhất là ở khu vực đó là sự vươn lên của Trung Quốc và cố gắng làm bá quyền ở đó. Khi Trung Quốc bá quyền ở vùng biển Đông thì sẽ đẩy Mỹ ra khỏi vùng đó. Lựa chọn của Mỹ là hoặc là nhân nhượng hoàn toàn hoặc là chống lại, nếu chống lại thì phải coi vùng đó là quan trọng.
Dưới thời Tổng thống Obama thì ông coi vùng đó rất quan trọng về lâu dài với nước Mỹ kể cả về phương diện kinh tế lẫn chiến lược. thời ông Trump thì mình chưa thấy nói chuyện đó. Nhưng nếu nhìn ra thế giới thì ở vùng Nam Mỹ thì rất nhiều vấn đề. Châu Âu thì gia nua. Bây giờ nền kinh tế kiếm nhất thì chỉ ở bên Á Châu thôi. Mỹ muốn có vai trò quan trọng chứ đừng nói là lãnh đạo thế giới mà không muốn bị đẩy ra vùng đó thì phải quan tâm thôi. Thành ra ông muốn nói gì thì nói thì thực tế chính trị vấn là như thế. Thứ hai là ông Tổng thống có rất nhiều quyền trong chính sách ngoại giao. Nhưng về Á Châu thì có rất nhiều quyền lợi có thể rất quan tâm đến nó, ví dụ như hải quân rất quan tâm đến nó.
Thứ hai trong thượng viện ở ủy ban quân vụ chúng ta thấy có nhiều Thượng nghị sĩ nhất là ông John McCain rất quan tâm đến sự hiện diện của Mỹ ở đó. Thế thì không có chuyện là ông Tổng thống muốn làm gì thì làm. Điều đó có nghĩa là dần dần với thời gian Mỹ vẫn phải coi trọng vùng đó. Chútrọng đến mức độ nào thì ngay từ thời Tổng thống Obama ông ấy cũng nói là chúng tôi không thể làm một mình được. Chúng tôi muốn làm thì các ông phải cố gắng giúp chúng tôi, vì thế chúng ta thây có một số nước như Nhật Bản đã có chứng tỏ là có đóng góp nhiều hơn, rồi Singapore, ngay cả Malaysia một phần nào đó.
Ông Trump ông hơi lơ là hơn nhưng không có nghĩa là ông không để ý. Nhưng ông để ý đến mức độ nào thì còn tùy thuộc vào đóng góp của các nước đó đối với tình hình an ninh chung trong khu vực, trong đó có cả quyền lời của nước Mỹ nữa. Nó cũng tùy thuộc vào quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc.
Việt Hà : Tổng thống Donald Trump từ trước đến nay vẫn nói là ông sẽ chú trọng hơn đến vấn đề nội bộ nước Mỹ, làm nước Mỹ vĩ đại trở lại. Nếu chủ trương của ông ấy đã là như vậy thì phía Việt Nam có gì có thể đưa cho phía Mỹ để cho thấy là Việt Nam thực sự có lợi đối với Mỹ ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Trước hết Việt Nam riêng cái nhìn chiến lược của các chiến lược gia Mỹ thì Việt Nam đã có vai trò quan trọng. Lấy ví dụ, nếu Mỹ không muốn Trung Quốc độc chiếm vùng quan trọng đó, mà tôi nghĩ là Mỹ không muốn như thế. Và nếu không muốn như vậy thì Mỹ không muốn có một cực tức là chỉ có ông Trung Quốc làm bá chủ hết. Mỹ muốn có một hệ thống đa cực ở đó. Một hệ thống đa cực ở đó phải có sự hiện diện Mỹ, phải có sự lớn mạnh của Nhật Bản, Nam Hàn, Úc Châu, và trong đó phải có Việt Nam nữa. Trong số những nước Đông Nam Á thì Việt Nam là một nước tương đối mạnh nhất, tương đối thôi, trừ Indonesia ra thì quân lực của Việt Nam cũng rất mạnh.
Còn một nước có quan hệ quan trọng với Mỹ qua hiệp ước quân sự là ông Philippines thì chính sách của ông Duterte làm ông Mỹ rất phiền lòng. Trong khi ông phiền lòng ông Philippines thì vai trò của Việt Nam trong việc đi tìm kiếm lực lượng đa cực quan trọng hơn. Việt nam muốn chứng tỏ thì phải cho thấy mình muốn độc lập với Trung Quốc. Thứ hai là mình có khả năng, những cố gắng làm mình độc lập với Trung Quốc. Những cái đó nó làm cho vai trò của Việt Nam quan trọng hơn trong cái nhìn chiến lược của Mỹ.
Việt Hà : Theo giáo sư thì dười thời của Tổng thống Donald Trump thì phía Hoa Kỳ khi trao đổi với Việt Nam thì có thể có những sức ép nào đối với Việt Nam không ? Có một số ý kiến cho rằng dưới thời của Tổng thống Obama thì vấn đề nhân quyền được nói tới nhiều hơn nhưng dưới thời của Tổng thống Donald Trump thì có lẽ vấn đề nhân quyền sẽ phải bỏ sang một bên. Giáo sư có ý kiến gì ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Bỏ một bên thì không hẳn như thế nhưng nó bớt hơn. Ngay cả dưới thời ông Obama nói mạnh về nhân quyền nhưng cái hành động cho thấy nhân quyền không phải là vật cản duy nhất. Người ta nói là nhân quyền là cái mà Mỹ phải nói tới nhưng nó không phải là vật cản trở tất cả những tiến bộ khác. Nó quan trọng nhưng nó cũng là một cản trở. Với ông Trump thì nó cản trở ít hơn, ít nhất là trong giai đoạn này.
Việt Hà : Vậy thì sức ép từ phía Mỹ với Việt Nam dưới thời của Tổng thống Donald Trump là gì ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Các nước quan hệ mật thiết với nhau thì nó có cái gọi là sự tương đồng về chế độ chính trị rất quan trọng. Nhân quyền là một phần trong đó. Nếu Việt nam làm quá vấn đề nhân quyền thì dĩ nhiên cũng tạo ra phiền nhiễu vì bên Mỹ không chỉ có một mình ông Tổng thống. Bên Mỹ còn rất nhiều áp lực nhân quyền, chúng ta thấy có bao nhiều cơ quan không phải ở Mỹ mà ở cả thế giới nữa, rồi trong quốc hội. Có những nhóm đó luôn áp lực lên vấn đề nhân quyền. Quan niệm riêng của ông Trump ông không để ý nhưng mà định chế bên Mỹ nó đòi hỏi ông ấy không thể nào không để ý được, nó chỉ có thể tương đối bớt thôi chứ không hoàn toàn được.
Vấn đề nhân quyền cũng là một trong những rắc rối. Nếu Việt Nam không làm gì quá trớn về vấn đề này thì cũng là một hấp dẫn. Ngoài ra thì vấn đề nhân công Việt Nam rẻ cũng lợi cho Mỹ vì nhập siêu giữa Mỹ và Việt Nam cũng chẳng đáng bao nhiều so với tổng số của Mỹ. Nếu Việt Nam sản xuất được những đồ rẻ hơn do giá nhân công của mình thì cũng tốt đối với giới tiêu thụ Mỹ chứ không phải hoàn toàn là có hại cho Mỹ. Có nhiều vấn đề nhưng theo tôi vấn đề quan trọng nhất là vai trò chiến lược của Việt Nam.
Việt Hà : Xin cảm ơn giáo sư đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.
Việt Hà, phóng viên RFA
Nguồn : RFA, 20/24/2017