RCEP : Trung Quốc "ngáng đường" Hoa Kỳ trở lại Châu Á ?
Minh Anh, RFI, 10/12/2020
Ở đâu Donald Trump bỏ trống, thì ở đó Tập Cận Bình len vào. Ngày 15/11/2020, Trung Quốc cùng 14 nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương ký kết hiệp định Đối tác Kinh tế Khu vực Toàn diện (RCEP) tại Hà Nội. Theo giới quan sát, với công cụ thương mại chưa từng có này, Bắc Kinh sẽ còn gia tăng mạnh mẽ ảnh hưởng của mình tại Châu Á. Làm thế nào cản đà tiến của Trung Quốc ? Đây sẽ là một thách thức nan giải cho chính quyền Mỹ tương lai.
Covid-19 bị đánh bại, tăng trưởng quay trở lại, Trung Quốc khẳng định rõ là một cường quốc. Mười bốn nước Châu Á – Thái Bình Dương bao gồm 10 nước khối ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và New Zealand, dưới sự chủ trì của Trung Quốc đã ký kết hiệp định tự do mậu dịch RCEP.
Đây sẽ là thỏa thuận thương mại tự do mậu dịch lớn nhất thế giới từ trước đến nay, tập trung 30% tổng sản phẩm nội địa toàn cầu. Một "nhà xưởng Châu Á" tương lai, theo như cách ví von của nhiều nhà quan sát. Bởi vì, thỏa thuận này sẽ cho phép thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình phân chia khu vực các dây chuyền sản xuất.
Theo ước tính của nhiều nhà kinh tế, văn bản dự kiến giảm các mức thuế quan (đến 90%), được áp dụng cho những sản phẩm trao đổi giữa các nước tham gia ký kết, sẽ cho phép GDP của mỗi nước tăng thêm 0,2%. Và một khi văn bản có hiệu lực Trung Quốc sẽ là nước hưởng lợi nhiều hơn cả, tiếp đến là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nếu như các biện pháp bảo hộ do Bắc Kinh áp đặt có liên quan đến thị trường nội địa, đang đẩy nhiều doanh nghiệp phương Tây cũng như là Nhật Bản rời Trung Quốc, thì thỏa thuận RCEP sẽ thúc đẩy nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến lập cơ sở sản xuất tại những nước lân cận để được hưởng ưu đãi thuế quan.
Theo trang mạng The Conversation, bất chấp dịch bệnh, toàn vùng Châu Á trong năm 2020 này tạo ra hơn 50% tổng sản phẩm nội địa toàn cầu. Trong khi đó, tỷ lệ này chỉ ở mức 20% trong năm 1980. Nhật báo kinh tế Les Echos của Pháp còn đưa ra con số so sánh khá ấn tượng : Các nước tham gia ký kết văn bản chiếm một tỷ trọng đến 5.300 tỷ đô la ngành sản xuất công nghiệp, so với 4.300 tỷ đô la cho cả Liên Hiệp Châu Âu và Hoa Kỳ gộp lại.
Từ toàn cảnh này, dưới một góc độ khách quan, sử gia Pierre Grosser, chuyên ngành Quan hệ Quốc tế, trường đại học Khoa học Chính trị Sciences Po trên đài phát thanh France Culture, trước hết nhận định RCEP được đúc kết, một lần nữa khẳng định xu hướng chuyển dịch "tâm lực hấp dẫn" từ Mỹ sang Châu Á, vốn đã xuất hiện từ nhiều thập niên qua.
"Nếu nhìn xa hơn khuôn khổ thỏa thuận, theo một cách nào đó, đây còn là một hình thức tái tập trung kinh tế Châu Á, gần giống như những gì chúng ta đã từng thấy trong những năm 1989 – 1990. Vào đầu thập niên 1990, người ta đã có cảm giác Hoa Kỳ không còn là đầu tầu tăng trưởng cho Châu Á nữa, mà là chính Châu Á. Giờ thì cảm giác này còn rõ nét hơn bao giờ hết, nếu như chúng ta nhìn vào dòng vốn đầu tư, trao đổi thương mại. Nước nào sẽ là những đối tác kinh tế hàng đầu của Châu Á ? Những gì chúng ta dễ dàng nhận thấy đó chính là Trung Quốc hay các nhà đầu tư Nhật Bản tại vùng Đông Nam Á. Có thể nói, đó cũng là lẽ thường tình nếu nhìn ngoài khuôn khổ thỏa thuận trên".
Nhìn về mối tương quan lực lượng, trọng lượng kinh tế Trung Quốc trong RCEP còn cao hơn của cả khối 10 nước Đông Nam Á gộp lại, nên tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng vì thế sẽ gia tăng gấp bội. RCEP – đòn ăn miếng trả miếng của Bắc Kinh đối với TPP do chính quyền Obama đề xướng, nhưng đã bị Donald Trump phá hỏng, sẽ minh họa cho một mô hình "tự do thương mại" kiểu Trung Quốc. Đó sẽ là một cơ hội vàng để Bắc Kinh thử nghiệm và thiết lập một hệ thống chuẩn mực của mình trong môi trường lân cận.
Theo đó, đối với Đảng cộng sản Trung Quốc, duy trì mối quan hệ thương mại với Đế chế Trung Hoa đòi hỏi phía các đối tác nước ngoài, nếu không đi theo những quyết định chính trị của Bắc Kinh, chí ít cũng phải có sự trung lập, bằng không lãnh đòn trừng phạt như trường hợp của Úc hiện nay (Le Monde).
Nhờ ai mà Trung Quốc có được thế mạnh như ngày nay ? Ông Eric Le Boucher, cây bút thời luận trên báo Les Echos không kiệm lời chỉ trích Donald Trump đã rút Hoa Kỳ ra khỏi cuộc đàm phán thỏa thuận xuyên Thái Bình Dương (TPP), để lại một khoảng trống béo bở cho Bắc Kinh.
Sự kiện cho thấy tầm ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực bị suy giảm mạnh. Với RCEP, Trung Quốc trở thành tâm điểm của khu vực, và có thể kết nối trực tiếp nước này với nhiều quốc gia đồng minh của phương Tây như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc hay New Zealand... Khi tham gia RCEP, những nước này hiểu rõ là tương lai đất nước của họ không còn nằm ở lục địa Đại Tây Dương nữa mà là ở chính xung quanh họ : Tỷ lệ tăng trưởng của khu vực, mà Trung Quốc đi đầu, sẽ cao từ hai đến ba lần so với mức tăng trưởng của phương Tây trong vòng 10 năm sắp tới.
Điều trớ trêu là theo các nhà quan sát, sáng kiến hội nhập kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, vốn không phải do Trung Quốc đề xướng, lại rất giống với hiệp định TPP của Mỹ bị ông Trump từ bỏ. Sử gia Pierre Grosser, tác giả tập sách "Lịch sử thế giới được viết nên ở Châu Á" (L’histoire du monde se fait en Asie) trên France Culture nhận xét tiếp :
"Điều thứ hai tôi thấy thú vị chính là cụm từ ʺChâu Á – Thái Bình Dươngʺ mà ông Tập Cận Bình sử dụng. Đây là những thuật ngữ do Mỹ và Úc đề ra trong những năm 1989-1990 để chứng tỏ là không nằm ngoài vùng Châu Á năng động này. Hơn nữa, vào thời kỳ đó, người ta còn có một tổ chức khác có tên gọi là APEC – diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương. Diễn đàn hiện vẫn còn tồn tại và vừa có một cuộc họp cách nay không lâu. Nhưng điều mới là giờ đây khu vực năng động này đã thực sự nằm trong tay Trung Quốc, cho dù ASEAN vẫn muốn là tâm điểm của hệ thống".
Dù vậy, giới quan sát cũng nhận thấy rằng chiến thắng chính trị - địa chính trị này của Trung Quốc vẫn chưa thật hoàn hảo. Thỏa thuận này không bao trùm hết mọi lĩnh vực kinh tế, liên quan rất ít đến nông nghiệp, một ít lĩnh vực công nghiệp, nhưng không có ngành dịch vụ và nhất là không có sự tham gia của Ấn Độ, đã rút ra khỏi các cuộc đàm phán.
Phải chăng số phận đã được an bài ? Trung Quốc đã trở thành cường quốc hàng đầu ? Liệu ông Biden có thay đổi được gì chăng ? Làm sao ngăn cản đà tiến của Trung Quốc ? Một loạt các câu hỏi được đặt ra, bởi vì sau bốn năm ở Nhà Trắng, ba năm cuộc chiến thương mại của tổng thống mãn nhiệm, Trung Quốc không những không đại bại mà còn mạnh mẽ hơn bao giờ hết bất chấp dịch bệnh Covid-19. Thách thức dành cho tân chủ nhân Nhà Trắng là rất lớn.
Dù tổng thống tân cử tuyên bố rằng "Phải cứng rắn với Trung Quốc" nhưng trong bối cảnh này và nhìn vào những gì ông Donald Trump để lại, giới phân tích hầu như đều có chung một nhận xét : Phạm vi hành động của Joe Biden sẽ rất hạn hẹp. Ông khó có thể quay trở lại hay thiết lập một thỏa thuận thương mại đa phương mới theo kiểu mô hình của TPP đưa ra năm 2010 – 2011, vì có nguy cơ sẽ bị cả phe Cộng Hòa và cánh tả trong đảng Dân Chủ cùng phản đối.
Tân chính quyền Washington rất có thể sẽ đề xuất "một phiên bản thỏa thuận tự do mậu dịch có hình thức khác hẳn nhưng không hoàn toàn mang tính chống Trung Quốc sao cho đạt được một thế cân bằng sức mạnh trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong kinh tế" theo như quan điểm của bà Nadege Rolland, chuyên gia về các vấn đề chính trị và an ninh Châu Á – Thái Bình Dương, thuộc National Bureau of Asian Research trên đài France Culture.
Một quan điểm cũng được nhà nghiên cứu sử học Pierre Grosser đồng chia sẻ. Tuy nhiên, tác giả tập sách về Châu Á còn lưu ý thêm rằng không nên ảo vọng vào những tuyên bố về tái dịch chuyển sản xuất, bởi vì đây là điều không thể thực hiện.
"Tất cả những phát biểu cho rằng chúng ta phụ thuộc ít hơn vào Trung Quốc, cần phải tái di dời sản xuất… tôi cho rằng khó thể thực hiện. Đúng là có một số hoạt động đầu tư đã di chuyển sang Việt Nam thay vì là Trung Quốc. Đúng là Việt Nam được hưởng lợi nhiều từ xu hướng này. Nhưng cùng lúc, cũng có nhiều doanh nghiệp Mỹ vẫn muốn đến Trung Quốc. Thế nên, việc phân ly hai nước là điều không thể.
Hơn nữa, có thể sẽ khó đạt được một thỏa thuận đa phương lớn khác. Nhưng trong những cuộc đàm phán với Hàn Quốc và Nhật Bản, những nước mà Hoa Kỳ đã có các thỏa thuận tự do mậu dịch, thái độ của chính quyền Biden có lẽ sẽ hòa dịu hơn so với Donald Trump, vốn dĩ có cách tiếp cận theo kiểu ʺtống tiềnʺ. Nghĩa là, ʺtôi bảo vệ anh, thì anh phải làm theo những gì tôi muốnʺ trên phương diện thương mại.ʺ"
Cuối cùng, nhà sử học nhắc lại Donald Trump đã phạm một sai lầm lớn khi cho rằng để "đánh" Trung Quốc, Washington có thể áp dụng cùng một kiểu kinh nghiệm mà họ đã từng thực hiện với Nhật Bản. Chỉ có điều Donald Trump đã đánh giá thấp đối thủ Trung Quốc.
"Vấn đề thật sự đối với Hoa Kỳ chính là họ đã từng gặp vấn đề như vậy trong những năm 1980 với Nhật Bản, nghĩa là cũng bị thâm hụt mậu dịch nghiêm trọng. Họ có cảm giác là Nhật Bản hoàn toàn không chơi đúng luật. Nhưng người ta có thể gây áp lực với Nhật Bản vì đó là một đồng minh. Vấn đề lớn nhất với Trung Quốc ở chỗ những phương tiện gây áp lực thực sự không đủ mạnh để buộc Bắc Kinh phải thay đổi hành vi kinh tế, nhất là hành vi kinh tế ở trong nước. Ví dụ như về việc trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước kể từ khi những doanh nghiệp này thâm nhập hoàn toàn vào hệ thống".
Như trêu tức Donald Trump, ngày thứ Hai, 07/12/2020, Bắc Kinh loan báo thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ trong tháng 11 đạt mức kỷ lục 37,4 tỷ đô la bất chấp cuộc chiến thương mại. Trong khi đó, nền kinh tế Mỹ đang trải qua một giai đoạn đen tối vì đại dịch Covid-19 xuất phát từ Vũ Hán, Trung Quốc.
Và nhất là, bất chấp các sáng kiến của Mỹ tại vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, sự hiện diện của Bắc Kinh tại khu vực địa-kinh tế chiến lược ngày càng được củng cố, khẳng định vị thế thống trị trong khu vực. Thế nên, France Culture mới đặt câu hỏi : "Tại Châu Á-Thái Bình Dương, ai có thể đối đầu với Trung Quốc ?"
Minh Anh
Nguồn : RFI, 10/12/2020
********************
Nhật Bản cần dẫn dắt Đông Nam Á trong sáng kiến Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và rộng mở
Nguyễn Trường, RFA, 10/12/2020
Sau khi nhậm chức Thủ tướng Nhật Bản, ông Yoshihide Suga đã không giấu giếm các "cử chỉ" đối ngoại và an ninh của chính quyền ông, theo đó tiếp tục theo đuổi Sáng kiến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP- free and open Indo-Pacific Strategy) do chính quyền tiền nhiệm Shinzo Abe thúc đẩy.
Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga (phải) và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ở Hà Nội hôm 19/10/2020 - Reuters
Trong chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên ra nước ngoài, tân Thủ tướng Suga chọn điểm đến là Việt Nam và Indonesia thay vì Mỹ như cách làm của các Thủ tướng Nhật Bản trong nhiều năm qua. Dù điều này mở ra các cách hiểu khác nhau, với một trong những cách giải thích là do tình hình Covid-19 phức tạp ở Mỹ, song vẫn sẽ là hiểu lầm khi cho rằng Nhật Bản đang theo đuổi một con đường khác với Washington khi thúc đẩy FOIP ở Đông Nam Á.
Trái ngược với điều đó, động thái mới nhất của Thủ tướng Suga nên được hiểu là một hình thức làm phong phú thêm FOIP bằng cách khiến tầm nhìn này có thể áp dụng cho các nước thành viên ASEAN. Qua các chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam và Indonesia, rõ ràng tân Thủ tướng Nhật Bản đã thể hiện sự nắm bắt tuyệt vời tình hình khu vực ASEAN. Việc Việt Nam được chọn làm điểm đến đầu tiên cho chuyến thăm của ông Suga cho thấy Tokyo đánh giá cao quan điểm ngày càng mạnh mẽ của Hà Nội trong tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, cũng như vai trò chủ tịch của Việt Nam trong việc thúc đẩy lập trường thống nhất của ASEAN về vấn đề an ninh cụ thể này. Trong khi đó, chuyến thăm Indonesia của ông thể hiện sự công nhận ảnh hưởng lâu dài của Jakarta trong việc thúc đẩy chiến lược đối ngoại của ASEAN, đặc biệt là Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (Outlook on the Indo-Pacific - AOIP).
Với những lý do này, câu hỏi đặt ra là liệu Nhật Bản có khả năng đi đầu trong việc thúc đẩy FOIP với tư cách là một cường quốc trung bình trong khu vực hay không ?
Xét trên mọi phương diện, thành công của Tokyo phụ thuộc vào sự tương thích và lợi ích của tầm nhìn FOIP đối với các nước thành viên ASEAN, thay vì việc Washington đơn phương thúc đẩy tầm nhìn và cách tiếp cận tích cực để thực hiện nó. Theo nghĩa này, Nhật Bản có thể chứng tỏ là một "nhà hòa giải" đáng tin cậy hơn Mỹ khi thúc đẩy FOIP ở Đông Nam Á.
Xét về sự tương thích, Thủ tướng Suga không ngần ngại nhấn mạnh vấn đề này trong cả 2 chuyến thăm Việt Nam và Indonesia. Trong bài phát biểu tại Đại học Việt-Nhật (Hà Nội) cũng như tiết lộ chính thức về cuộc thảo luận với Tổng thống Indonesia Joko Widodo, ông Suga bày tỏ sự ủng hộ của Nhật Bản đối với AOIP dù điều này dựa trên vai trò trung tâm của ASEAN và do đó, tương đối khác với FOIP. Đầu tiên, ông Suga nhấn mạnh các nguyên tắc chung của FOIP và AOIP - tôn trọng pháp quyền, cởi mở, tự do, minh bạch và hòa nhập, đồng thời mong muốn xây dựng một tương lai hòa bình và thịnh vượng với các nước ASEAN phù hợp với các giá trị cơ bản.
Dù không chỉ đích danh Trung Quốc, song Thủ tướng Suga kêu gọi lấy luật pháp quốc tế làm cơ sở để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông một cách hòa bình thay vì sử dụng vũ lực hoặc cưỡng bức để giải quyết vấn đề an ninh. Điều này khác với lời chỉ trích thẳng thắn của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đối với Đảng cộng sản Trung Quốc trong Hội nghị Bộ trưởng nhóm "Bộ tứ" đầu tháng 10 vừa qua, trong đó ông Pompeo gọi Trung Quốc là mối đe dọa toàn cầu. Do đó, việc Nhật Bản nói về Trung Quốc mà không nêu tên nước này phù hợp với diễn ngôn lâu nay của ASEAN về vai trò trung tâm, vốn kiềm chế việc loại trừ Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông, thể hiện rõ trong tuyên bố Chủ tịch hàng năm của khối. Chính cách thể hiện "nhẹ nhàng hơn" về tranh chấp Biển Đông giúp Nhật Bản xích lại gần hơn với ASEAN so với Mỹ. Việc Nhật Bản đề cao FOIP được cân nhắc dựa trên sự tương thích của tầm nhìn với vai trò trung tâm của ASEAN, thay vì đi ngược lại điều này.
Về mặt lợi ích, rõ ràng, Nhật Bản tìm đến Việt Nam và Indonesia để hợp tác kinh tế và quốc phòng đôi bên cùng có lợi. Tokyo đang xem Việt Nam như quốc gia thứ ba để đa dạng hóa chuỗi cung ứng từ Trung Quốc. Là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn thứ hai tại Việt Nam, Nhật Bản sẽ tăng cường hợp tác kinh tế với Hà Nội thông qua chuyến thăm của Suga, nổi bật là việc ký kết bản ghi nhớ (MOU) giữa hai nước về việc đầu tư các dự án nhà máy điện ở Việt Nam.
Hình chụp hôm 20/10/2020 : Tổng thống Indonesia Joko Widodo (phải) và phu nhân Iriana chụp hình cùng Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga và vợ là bà Mariko (trái). AFP
Đối với Indonesia, Nhật Bản đang tìm cách đạt được một trong những mục tiêu của FOIP là mở rộng phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng thông qua khả năng xây dựng thêm mạng lưới vận tải đường sắt công cộng (MRT) ở Jakarta, tăng tốc độ tàu ở phía bắc Jawa, vận hành và phát triển Cổng Patimban… Không chỉ khai thác nhu cầu cơ sở hạ tầng rộng lớn của Indonesia, việc Nhật Bản tham gia các dự án cơ sở hạ tầng tiềm năng này cho thấy công nghệ và kinh nghiệm của Nhật Bản tương đối có lợi cho các nước ASEAN vì phù hợp với nguyên tắc đầu tư cơ sở hạ tầng chất lượng của G-20, gồm tính công khai, minh bạch, hiệu quả kinh tế và tính bền vững. Như cựu Thủ tướng Abe đã chỉ ra, việc nhấn mạnh các chuẩn mực quốc tế (Nguyên tắc G-20) là nhằm cho thấy sự khác biệt giữa cách Nhật Bản và Trung Quốc tiếp cận phát triển cơ sở hạ tầng ở các nước ASEAN và hơn thế nữa.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, xuất khẩu vũ khí vẫn là trọng tâm của Nhật Bản sau vụ bán vũ khí mới đây cho Malaysia và Philippines. Với việc chính quyền Suga không bổ nhiệm 6 học giả chỉ trích luật an ninh trong quá khứ, Nhật Bản dường như đã gỡ bỏ rào cản cuối cùng cho việc xuất khẩu vũ khí. Trong chuyến thăm Việt Nam, Thủ tướng Suga và người đồng cấp Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã nhất trí về một thỏa thuận cơ bản cho phép Tokyo bán thiết bị và công nghệ quốc phòng cho Hà Nội. Tương tự, trong cuộc gặp của ông Suga với Tổng thống Indonesia Joko Widodo, hai bên nhất trí đẩy nhanh các cuộc đàm phán cho phép Nhật Bản xuất khẩu vũ khí cho Jakarta trong tương lai gần. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả các thiết bị và công nghệ quốc phòng này đều nhằm thực hiện mục tiêu khác của FOIP trong việc trao quyền cho các nước ASEAN (về mặt quân sự) chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời giúp các quốc gia Đông Nam Á bảo vệ lợi ích và chủ quyền một cách hiệu quả.
Trong thời gian tới, Nhật Bản được kỳ vọng sẽ thúc đẩy hơn nữa tầm nhìn FOIP ở các nước thành viên ASEAN khác. Với 2 trụ cột là tính tương thích và lợi ích, FOIP của Nhật Bản đang phát triển thành một nỗ lực bổ sung cho toàn bộ chương trình nghị sự AOIP. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế và an ninh của ASEAN thông qua quan hệ hợp tác cởi mở với tất cả các cường quốc, mà còn giúp làm phong phú thêm tầm nhìn FOIP, trong đó các diễn ngôn và cách tiếp cận của Mỹ không có sức thuyết phục đối với các nước Đông Nam Á. Về vấn đề này, Nhật Bản đang cho các nước thành viên khác của "Bộ tứ" thấy rằng họ hoàn toàn có khả năng dẫn dắt FOIP trong khu vực ASEAN.
Với mối quan hệ truyền thống Việt - Nhật, cũng như mối quan tâm và vai trò của Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam Á, Việt Nam hoàn toàn có thể hỗ trợ Nhật Bản trong việc đảm trách vai trò dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong việc gắn kết khu vực này với FOIP. Sự hỗ trợ của Việt Nam đối với Nhật Bản trong vai trò này để tạo ra một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hòa bình, phát triển và phồn vinh trên cơ sở hợp tác, hội nhập và liên kết chặt chẽ, chống lại các đe dọa an ninh từ Trung Quốc.
Ông bà ta thường nói "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" xem ra đã không còn thích hợp cho tình hình hiện nay, nhất là Việt Nam đang đối phó với một anh láng giềng xấu tính. "Bám anh em xa, ôm láng giềng gần" đã và đang trở thành phương châm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Nguyễn Trường
Nguồn : RFA, 10/12/2020
*************************
Trần Hiếu Chân, RFA, 06/12/2020
Vừa qua có hai tin về quan hệ "Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt – Ấn" (VICSP). Thứ nhất, hôm 27/11, các Bộ trưởng quốc phòng hai nước đã có trao đổi trực tuyến, thống nhất hợp tác huấn luyện phi công, lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc và hỗ trợ Hà Nội trong nhiều lĩnh vực công nghiệp quốc phòng. Thứ hai, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch đã mời đồng nhiệm Ấn Độ tham gia cuộc họp trực tuyến với 10 bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM +), do Việt Nam chủ trì, ngày 10/12 tới.
Reuters
Tại cuộc đối thoại hôm 27/11/2020, Bộ trưởng quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh khẳng định, hợp tác về quốc phòng là một trong các trụ cột chính của quan hệ "Đối tác Chiến lược Toàn diện" (CSP) giữa New Delhi và Hà Nội, được thiết lập từ năm 2016. Ngoài huấn luyện phi công và lực lượng gìn giữ hòa bình, hai bên dự kiến gia tăng hợp tác trong hàng loạt lĩnh vực, như chế tạo tàu chiến, bao gồm cả tàu ngầm.
Trong kế hoạch New Delhi hỗ trợ ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam, hy vọng Việt Nam có thể nhận được nhiều vũ khí tân tiến của Ấn Độ, như hệ thống phòng không Akash, trực thăng Dhruv và tên lửa BrahMos. Hà Nội đặc biệt quan tâm đến tên lửa chống hạm siêu thanh BrahMos, do Nga và Ấn hợp tác sản xuất, có tầm bắn 300km, được coi là vũ khí tự vệ hiệu quả trước các tham vọng vô lối của Trung Quốc ở Biển Đông. Hai Bộ Quốc phòng cũng đã thỏa thuận chia sẻ các dữ liệu về hải dương.
Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam còn mời đồng nhiệm Ấn Độ tham gia cuộc họp trực tuyến với 10 Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM +), do Việt Nam chủ trì, ngày 10/12 tới. Ấn Độ vừa cam kết sẽ giúp Việt Nam mọi khả năng có thể để hiện đại hoá các lực lượng vũ trang, bao gồm nguồn cung vũ khí, đào tạo người lái lái máy bay chiến đấu và tàu ngầm, cũng như tăng cường năng lực hàng hải.
Cam kết nói trên được đưa ra khi Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch qua hình thức hội nghị trực tuyến hôm 27/11, theo tường thuật của Times of India. Nhưng phía Việt Nam khi đưa tin về cuộc điện đàm giữa Bộ trưởng Quốc phòng hai nước đã không nhắc gì đến cam kết vừa kể trên của Ấn Độ. Phía Ấn Độ, ngược lại đã công khai cho truyền thông biết chính phủ nước này đảm bảo giúp đỡ hiện đại hoá quân đội Việt Nam trong bối cảnh hai quốc gia cùng có những mối quan ngại chung trước sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc trong khu vực.
Kênh truyền hình WION (Ấn Độ) ghi nhận, Bộ trưởng Singh nói với Bộ trưởng Lịch trong buổi hội đàm rằng, hợp tác quốc phòng luôn là một trong những trụ cột quan trọng nhất của quan hệ VICSP được hai nước khởi xướng từ năm 2016. Theo Times of India, sự hợp tác quốc phòng trên nền tảng của mối quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện" (CSP) trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh cả hai quốc gia đều lo ngại về những hành xử hung hăng của Trung Quốc trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam gần đây đã thông báo cho Ấn Độ biết chi tiết về các hoạt động gây căng thẳng trên Biển Đông của Trung Quốc.
Thông báo về cuộc họp từ Bộ Quốc phòng Ấn Độ được Times of India và WION trích dẫn cho biết cả hai bộ trưởng đã thảo luận về các dự án đang triển khai khác nhau và quỹ đạo tương lai của các cam kết quốc phòng song phương và bày tỏ hài lòng rằng mặc dù trước tình hình Covid-19 nhưng việc trao đổi quốc phòng giữa cả hai Lực lượng Vũ trang vẫn duy trì được động lực tích cực.
Cả hai nước cũng đang xem xét hợp tác trong một số lĩnh vực quốc phòng khác như đóng tàu, phát triển lực lượng tàu nổi và tàu ngầm trên biển. New Delhi đã mở rộng các khoản tín dụng trị giá 600 triệu USD để hỗ trợ sản xuất quốc phòng trong nước của Việt Nam. Các hành động quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc trên Biển Đông trong năm qua được cho là đã kéo Hà Nội và New Delhi tiến lại gần nhau hơn trong một mối quan hệ đối tác được xem là để làm đối trọng với Trung Quốc.
Việc Trung Quốc gần đây đưa oanh tạc cơ H-6J ra đảo Phú Lâm, một trong những khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, khiến Hà Nội tức giận. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng hôm 20/8/2020, như nhiều lần trước đây, đã lên án các hoạt động quân sự hoá của Trung Quốc trên Biển Đông, tuyên bố rằng việc triển khai máy bay ném bom H-6J là "hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam" và làm "phức tạp tình hình trong khu vực".
Tên lửa siêu thanh Brahmos của Ấn Độ trong một diễu hành ở New Delhi hôm 23/1/2006. Hình Reuters
Trong tháng 7/2020, Trung Quốc cũng đã hai lần công bố tiến hành tập trận tại khu vực Biển Đông và Bộ Ngoại giao ở Hà Nội cả hai lần đều lên tiếng phản đối khi cho rằng, hoạt động này của Trung Quốc là "vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo" Hoàng Sa. Những hoạt động này của Trung Quốc xẩy ra vào thời điểm Đại sứ Việt Nam Phạm Sanh Châu gặp Bí thư Đối ngoại Ấn Độ Harch Vardhan Shringla (21/8) và trong lúc có cuộc thảo luận trực tuyến giữa Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh và người đồng cấp của ông phía Ấn Độ, Subrahmanyam Jaishankar (25/8).
Phía Việt Nam đã thông báo với Ấn Độ về tình hình căng thẳng leo thang tại Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường hiện diện quân sự tại nơi này với việc triển khai tàu, chiến đấu cơ và ít nhất một máy bay ném bom tại vùng biển mà Việt Nam nói thuộc chủ quyền của mình và cũng là nơi hãng ONGC của Ấn Độ có các hoạt động dầu khí.
Theo Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc điều máy bay ném bom ra quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã từng đưa một vài oanh tạc cơ tầm xa H-6K tới khu vực này năm 2018. Tuy nhiên, theo Giáo sư Thayer, việc Việt Nam chủ động thông báo với Ấn Độ cho thấy, Việt Nam đang tham gia vào một động thái ngoại giao với mục đích tìm kiếm sự ủng hộ chính trị", Giáo sư Thayer được South China Morning Post trích lời.
Tại sự kiện mà các nguồn tin ngoại giao gọi là cuộc gặp chính thức (21/8), Đại sứ Phạm Sanh Châu nói Việt Nam quyết tâm phát triển mối quan hệ CSP mạnh mẽ. Ấn Độ và Việt Nam giờ đây gặp nhau tại điểm hội tụ về chiến lược. Cả hai bên đều phản đối việc Trung Quốc coi Biển Đông là ao nhà của mình và cả hai cùng có lợi ích trong việc gìn giữ hoà bình và ổn định trong vùng biển tranh chấp. Sự hợp tác sâu rộng nữa giữa Ấn Độ và Việt Nam trong các hoạt động khai thác dầu khí diễn ra nhằm đối trọng những hành động phát triển cơ sở hạ tầng vượt trội của Trung Quốc ở khu vực tranh chấp với Ấn Độ ở Kashmir.
Ấn Độ coi tự do hàng hải trên Biển Đông là trọng tâm trong tầm nhìn chiến lược của nước này trong một "Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do là rộng mở" (FOIP) và theo nhà nghiên cứu Malik, điều quan trọng hơn đối với Ấn Độ là kiềm chế những tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trên hầu hết khu vực biển có tranh chấp. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu, dù cả Hà Nội và New Delhi đều có thể thấy được lợi ích trong mối quan hệ đang nở rộ nhưng cả hai bên vẫn thận trọng, nhất là Việt Nam.
Tuy nhiên, vì Việt Nam hoạt động thông qua khuôn khổ đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ, cũng như thu hút các cường quốc khác như Nhật Bản, Nga và Mỹ nên, theo GS. Thayer, Hà Nội biết rằng họ có "đòn bẩy quan hệ" mà họ có thể dựa vào khi cần hỗ trợ "nếu Trung Quốc trở nên quá hung hăng". Trong Sách trắng Quốc phòng mới nhất công bố cuối năm ngoái, Việt Nam vẫn tiếp tục không tham gia liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào trong chính sách quốc phòng "bốn không và một nếu" của mình.
Ngày 17/10/2020, Tạp chí "Nikkei Asian Review" dẫn lời Ngoại trưởng Ấn Độ Jaishankar cho rằng sự vươn lên của "Bộ Tứ" kim cương ("Quad", gồm Ấn, Mỹ, Nhật và Úc) phản ánh xu hướng thay đổi từ thế giới đơn cực sang đa cực và xu hướng này sẽ trở thành trung tâm trong tương lai. Thế giới hiện thiếu cấu trúc để giải quyết các vấn đề, không giống như thời Chiến tranh Lạnh. "Các thách thức chung hiện không có ai, cấu trúc, tổ chức hay hệ thống các nhân tố có sẵn có thể thực sự giải quyết", theo ông Jaishankar.
Lần theo tư duy chiến lược nói trên, ngày 3/12, các chuyên gia nhắc lại đánh giá của Tổng Tham mưu trưởng quân đội Mỹ Mark Milley khẳng định tại một diễn đàn về quân sự, Hoa Kỳ cần gia tăng gấp bội lực lượng Hải quân tại Tây Thái Bình Dương, từ đây đến năm 2045, để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc kiểm soát vùng biển này. Quân đội Mỹ cũng cần triển khai một số lực lượng "trên bộ" tại Philippines, Việt Nam và Úc.
Theo ông Milley, việc triển khai lực lương nói trên không nhằm gây chiến tranh với không Trung Quốc, mà là để bảo đảm Bắc Kinh không dám phát động chiến tranh. Tướng Milley đánh giá, một hạm đội hiện đại sẽ là phương tiện răn đe hiệu quả nhất. Tuy nhiên, theo ý kiến các chuyên gia trong nước, Việt Nam phải cân nhắc việc nếu đặt căn cứ quân sự, với Hoa Kỳ chẳng hạn thì Trung Quốc sẽ gây sự với Việt Nam rất nhiều và nếu chiến tranh ở Biển Đông chẳng hạn thì Hoa Kỳ có thể bảo vệ cho Việt Nam hay không ? Câu trả lời là còn lâu lắm.
Trong bối cảnh "trở đi mắc núi, trở lại mắc sông" như trên, thì chính VICSP có thể lại là một giải pháp đề phá vỡ bế tắc. Bởi vì, khác với thời điểm trước tháng 5/2020, các nhà tư tưởng chiến lược của Ấn Độ nay đã từ bỏ thái độ "nước đôi truyền thống" đối với các thỏa thuận an ninh đa phương. Dường như Ấn Độ không có lựa chọn nào khác ngoài việc hưởng ứng "Bộ Tứ". Với VICSP, cả Ấn Độ lẫn Việt Nam có thể xoay chuyển bang giao song phương thành một nhánh của hợp tác đa phương trong trật tự mới ở khu vực.
Trần Hiếu Chân
Nguồn : RFA, 06/12/2020
Tham khảo thêm :
- Việt Nam sẽ nằm trong danh sách Hoa Kỳ mở rộng căn cứ quân sự ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ?
- Ngăn chặn Bắc Kinh : Mỹ cần triển khai quân tại Việt Nam và nhiều nước ven Biển Đông
- RFI, Ấn Độ-Thái Bình Dương : "Vai trò trung tâm" của ASEAN bị thách thức
- India and the Changing Dynamics of the Indo-Pacific by Sujan R. Chinoy, October 28, 2020
Việt Nam hưởng lợi trước mắt từ RCEP ; Trung Quốc ‘thắng’, Mỹ ‘thua’ ?
VOA, 16/11/2020
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được 15 nước Châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, ký kết qua mạng hôm 15/11 trong khuôn khổ một hội nghị quốc tế do Hà Nội làm chủ nhà.
Thủ tướng và Bộ trưởng Thương mại Việt Nam tại lễ ký RCEP qua mạng hôm 16/11
Các thành viên RCEP gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand và 10 nước thuộc Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Hai chuyên gia kinh tế nhận định với VOA rằng hiệp định mang lại những lợi ích trước mắt cho Việt Nam song đi kèm theo đó là nguy cơ Việt Nam lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Họ cũng đánh giá rằng RCEP giúp Trung Quốc tăng vị thế lãnh đạo và ảnh hưởng địa-chính trị, trong khi Mỹ chịu bất lợi.
RCEP được xem là thỏa thuận thương mại tự do lớn nhất thế giới, với tổng dân số của các nước thành viên lên đến 1/3 dân số trên thế giới , và chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu.
Hiệp định này dần cắt giảm thuế quan trong vòng 20 năm, chống lại chủ nghĩa bảo hộ, đẩy mạnh đầu tư và cho phép hàng hóa lưu chuyển tự do bên trong khu vực.
Hai tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh và Nguyễn Trí Hiếu nói với VOA rằng trong thời gian trước mắt, hiệp định sẽ có tác động tích cực cho Việt Nam.
Bà Nguyễn Hoàng Ánh, một giảng viên đại học ở Hà Nội với chuyên môn sâu về thương mại quốc tế, chỉ ra thực tế rằng mỗi khi Việt Nam tham gia hiệp định thương mại tự do, như với ASEAN hoặc EU, GDP của Việt Nam và đối tác đều tăng lên.
Ông Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia tài chính-ngân hàng người Mỹ gốc Việt, khẳng định RCEP mở rộng thêm thị trường xuất khẩu cho Việt Nam cũng như mang lại các lợi thế về thuế quan cho Việt Nam khi xuất khẩu sang các nước thành viên.
Việt Nam tăng phụ thuộc vào Trung Quốc
Nhưng cả hai chuyên gia đều cảnh báo về nguy cơ Việt Nam ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới hiện nay. Ông Hiếu nói:
"Từ trước đến nay Việt Nam đã lệ thuộc rồi. Về xuất khẩu, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Về nhập khẩu, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Với RCEP, Việt Nam lệ thuộc vào kinh tế toàn cầu và nhất là kinh tế Trung Quốc ngày càng nhiều. Do đó, điều gì tiêu cực xảy ra trên thế giới và Trung Quốc cũng sẽ có tác động tiêu cực đến Việt Nam".
Cửa khẩu biên giới Hữu Nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Photo CafeF
Con số thống kê của Việt Nam cho thấy trong 10 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của đất nước đạt gần 440 tỉ đô la, với xuất siêu lên đến gần 19 tỉ đô la, cao gấp đôi mức xuất siêu cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, trong cán cân thương mại với Trung Quốc, Việt Nam nhập siêu rất lớn từ nước láng giềng phương bắc khi số liệu tính đến tháng 10/2020 cho thấy Việt Nam xuất sang Trung Quốc 37,6 tỉ đô la và nhập khẩu 65,78 tỉ đô la.
Với kinh nghiệm giảng dạy về thương mại quốc tế, bà Ánh lưu ý rằng việc cắt giảm thuế theo RCEP có nhiều khả năng mang lại thêm lợi thế cho Trung Quốc trong buôn bán nội khối, riêng với Việt Nam, hàng Trung Quốc sẽ tràn vào nhiều hơn. Bà nói:
"Đến nay, Việt Nam luôn trong tư thế nhập siêu. Bây giờ, tiếp tục có hiệp định này, khả năng là nhập siêu của Việt Nam càng tăng lên, sự phụ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc cũng tăng lên".
Bên cạnh đó, phó giáo sư-tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh chỉ ra rằng RCEP không quan tâm nhiều đến thương mại công bằng (fair trade) khi nó không chứa đựng các điều khoản về bảo vệ quyền của người lao động, môi trường, và sở hữu trí tuệ.
Hiệp định cũng không giải quyết các vấn đề về trợ cấp công nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, vẫn áp đặt thuế với thương mại điện tử xuyên biên giới, v.v…, theo lời bà Ánh.
Để so sánh, bà nêu ra các hiệp định thương mại tự do với Mỹ và Liên hiệp Châu Âu thường có các điều khoản đòi hỏi phải bảo vệ nhân quyền, người lao động, môi trường và một số vấn đề khác.
Vì vậy, PGS-TS Ánh cho rằng RCEP không giúp gì cho Việt Nam trong việc cải tiến nền thương mại và sản xuất theo hướng tích cực. Bà nói:
"Việt Nam sẽ thiên về đi tìm một thị trường xuất nhập khẩu đơn giản như Trung Quốc và chúng ta sẽ bị phụ thuộc ngày càng nhiều hơn. Về lâu về dài sẽ không có lợi".
Mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ, theo lời Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh, những lợi ích trước mắt từ hiệp định không phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
"GDP tăng lên nhưng không đủ bù đắp nổi các mất mát về môi trường hay quyền lợi của người lao động, đó là những điều không tính hết bằng tiền được", bà Ánh nói với VOA.
Nhiều hàng Trung Quốc nhập vào Mỹ qua cảng ở Seattle
Trung Quốc ‘thắng’, Mỹ ‘thua’ ?
Như VOA đã đưa tin, RCEP được khởi xướng vào năm 2012 và được coi là một cách để Trung Quốc, nước nhập khẩu và xuất khẩu lớn nhất khu vực, kiềm chế ảnh hưởng đang tăng của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống Obama.
RCEP chỉ lấy đà sau khi Tổng thống Trump rút Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP vào năm 2017, trong khi Hoa Kỳ là kiến trúc sư chính của TPP.
Là nguồn hàng xuất nhập khẩu chính đối với đa số các thành viên RCEP, Trung Quốc ở vị thế có thể hưởng lợi và uốn nắn các quy định thương mại, nới rộng ảnh hưởng trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, điều mà cựu Tổng thống Obama đã tìm cách ngăn chặn.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu đánh giá với VOA rằng tuy Tổng thống Trump trong 4 năm qua tìm cách làm suy yếu thế lực của Trung Quốc với phương châm "Nước Mỹ trên hết" và tiến hành chiến tranh thương mại gây ảnh hưởng khá nặng đến Bắc Kinh, song trên thực tế, vị thế của Trung Quốc về địa-chính trị không lung lay, nếu không nói là còn mạnh hơn.
Theo tiến sĩ Hiếu, RCEP đi vào thực thi lúc này là một bước tiến nữa của Trung Quốc khi họ nắm vai trò dẫn đầu trong khối kinh tế lớn nhất toàn cầu, giành được lợi thế trong cạnh tranh với Mỹ. Ông Hiếu nói thêm:
"Trong cạnh tranh toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc, khi Trung Quốc mạnh hơn, có thể là vị trí của Mỹ sẽ bị tác động, không có lợi cho Mỹ. Về lý thuyết, khi Trung Quốc tăng cường sức mạnh kinh tế thông qua hợp tác với nhiều thành viên trong khối RCEP, đây là một đối trọng rất đáng kể với Mỹ".
Cũng về vấn đề này, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh có chung suy nghĩ. Bà nói:
"Với thực tế Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, có nhiều khả năng Trung Quốc sẽ chiếm một vị thế lãnh đạo trong RCEP. Điều đó giúp Trung Quốc có không gian kinh tế khả thi và nó giống như một công cụ để Trung Quốc đối đầu với Mỹ trong cuộc xung đột địa-chính trị đang diễn ra với Mỹ hiện nay".
Bà Ánh bình luận rằng 4 năm của Tổng thống Trump với việc ông rút khỏi các hiệp định quốc tế quan trọng, lạnh nhạt với các đồng minh và đối tác đã làm Mỹ thụt lùi, suy yếu. Bà mong rằng nước Mỹ sẽ có một tổng thống mới với cái nhìn dài hạn hơn.
Sau cuộc bầu cử hôm 3/11, ông Joe Biden ra tuyên bố đã giành chiến thắng và nhận được lời chúc mừng từ nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài trong đó có các nước Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, v.v… và Giáo hoàng Phanxicô. Đến nay, Tổng thống đương nhiệm Donald Trump chưa chấp nhận thất bại.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nói với VOA rằng nếu ông Biden nắm quyền, có lẽ ông sẽ khôi phục lại chính sách xoay trục của Tổng thống Obama, nước Mỹ sẽ tiếp tục đối đầu với Trung Quốc nhưng sẽ không có các hành động trừng phạt hoặc đe dọa trực tiếp giống như ông Trump đã làm.
"Mỹ sẽ làm gì để duy trì sức mạnh và vị trí số một trên thế giới trong cạnh tranh với Trung Quốc, chúng ta phải chờ xem", ông Hiếu nói.
Nguồn : VOA, 16/11/2020
***********************
Tú Anh, RFI, 15/11/2020
Mười lăm nước Châu Á và Thái Bình Dương ký kết hiệp định đối tác thương mại do Trung Quốc khởi xướng từ năm 2012, nhân thượng đỉnh ASEAN kết thúc vào Chủ nhật, 15/11/2020, dưới sự chủ tọa của Việt Nam, chủ tịch luân lưu Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á.
Thượng đỉnh ASEAN, qua truyền hình trực tuyến, kết thúc vào Chủ nhật với sự kiện hình thành khối mậu dịch tự do quan trọng nhất thế giới : Hiệp định Đối tác Toàn diện Khu vực, gọi tắt là RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership).
Hiệp định này thành lập một vùng thương mại tự do giữa 10 nước Đông Nam Á, cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ở phía bắc xuống tận nam Thái Bình Dương với Úc và New Zealand.
Với tư cách chủ tịch luân lưu ASEAN, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố là ông "hài lòng" đạt được kết quả sau 8 năm đàm phán phức tạp.
Do Bắc Kinh đề xuất, để đáp trả một sáng kiến thành lập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership – TPP) của Washington đã bị Donald Trump bỏ rơi, RCEP của Trung Quốc bao trùm một vùng kinh tế năng động liên quan đến 2 tỷ người và chiếm 30% tổng sản lượng (GDP) toàn cầu.
RCEP còn phục vụ cho tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh trong khu vực, qua một chiến lược phát huy ảnh hưởng bao quát hơn, dưới tên gọi "một vành đai một con đường".
Theo AFP, các nước khu vực kỳ vọng vào RCEP để tăng cường phát triển kinh tế nhờ vào quy định giảm hàng rào thuế quan, hài hòa thủ tục xuất nhập khẩu, tạo điều kiện sinh hoạt dễ dàng hơn cho xí nghiệp.
Ấn Độ từ chối tham gia
Hiệp định có những quy định bảo vệ sở hữu trí tuệ nhưng thiếu hai lãnh vực quan trọng là "tôn trọng môi trường và quyền lợi người lao động".
Lo ngại hàng Trung Quốc giá rẻ tràn ngập thị trường, Ấn Độ không tham gia vào RCEP.
Tú Anh
Nguồn : RFI, 15/11/2020
**********************
BBC, 15/11/2020
10 thành viên ASEAN cùng 5 nước ký hiệp định thương mại tự do qui mô hứa hẹn tăng tốc kinh tế hậu đại dịch Covid-19.
RCEP được ký kết theo hình thức trực tuyến do đại dịch Covid-19.
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership - RCEP) được ký kết theo hình thức trực tuyến sau 8 năm đàm phán.
RCEP bao gồm mười thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand.
"Tôi tin tưởng hiệp định sẽ sớm đước các nước phê chuẩn và đưa vào thực thi, góp phần đưa vào phục hồi kinh tế sau đại dịch và góp phần phát triển các nước thành viên trong thời gian tới", Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.
Các thành viên chiếm gần một phần ba dân số thế giới và chiếm 29% GDP toàn cầu.
Khu thương mại tự do mới sẽ lớn hơn cả Hiệp định Hoa Kỳ-Mexico-Canada và Liên Hiệp Châu Âu.
Ấn Độ cũng từng tham gia đàm phán, nhưng đã rút vào năm ngoái, do lo ngại rằng mức thuế thấp hơn có thể gây tổn hại cho các nhà sản xuất trong nước.
Lý do chính khiến Ấn Độ quyết định không tham gia RCEP là do lo ngại rằng một lượng lớn hàng nhập khẩu giá rẻ của Trung Quốc có thể gây tổn hại thêm cho các ngành công nghiệp nội địa của Ấn Độ.
Thâm hụt thương mại của Ấn Độ với Trung Quốc lên tới khoảng 50 tỷ USD trong năm tài chính 2019.
Mặt khác, Trung Quốc được cho là đang cố gắng mở rộng ảnh hưởng của mình bằng cách dẫn đầu việc tạo ra khuôn khổ thương mại đa phương trong bối cảnh rạn nứt ngày càng lớn với Hoa Kỳ.
Chính phủ Trung Quốc cho biết thương mại với các nước ASEAN từ tháng 1 đến tháng 10 đã tăng 5,1% so với cùng kỳ năm ngoái lên mức 540 tỷ đô la, đưa ASEAN trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Bắc Kinh.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc : "Tôi tin tưởng hiệp định sẽ sớm đước các nước phê chuẩn và đưa vào thực thi..."
RCEP dự kiến sẽ loại bỏ một loạt thuế nhập khẩu trong vòng 20 năm.
Hiệp định này cũng bao gồm các điều khoản về sở hữu trí tuệ, viễn thông, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử và các dịch vụ chuyên nghiệp.
Nhưng có thể "quy tắc xuất xứ" mới - quy định chính thức xác định nguồn gốc sản phẩm - sẽ có tác động lớn nhất.
Nhiều quốc gia thành viên đã có các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhau, nhưng vẫn còn có những hạn chế.
"Các FTA hiện tại có thể rất phức tạp để sử dụng so với RCEP", Deborah Elms từ Trung tâm Thương mại Châu Á cho biết.
Các doanh nghiệp có chuỗi cung ứng toàn cầu có thể phải đối mặt với thuế quan ngay cả trong một FTA vì sản phẩm của họ chứa các thành phần được sản xuất ở nơi khác.
Ví dụ, một sản phẩm được sản xuất tại Indonesia có chứa các linh kiện của Úc có thể phải đối mặt với thuế quan ở những nơi khác trong khu vực thương mại tự do ASEAN.
Theo RCEP, các linh kiện từ bất kỳ quốc gia thành viên nào sẽ được đối xử bình đẳng, điều này có thể mang lại cho các công ty ở các quốc gia RCEP động lực để tìm kiếm nhà cung cấp trong khu vực thương mại của khối này.
Mặc dù RCEP là một sáng kiến của ASEAN, hiệp định được nhiều người coi là một giải pháp thay thế Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) được Trung Quốc hậu thuẫn.
TPP không có Trung Quốc tham gia nhưng bao gồm nhiều nước Châu Á. 12 hai quốc gia thành viên đã ký TPP vào năm 2016 trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump rút nước Mỹ ra vào năm 2017.
Các thành viên còn lại tiếp tục hình thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với 11 thành viên.
Mặc dù bao gồm ít quốc gia thành viên hơn, nhưng CPTPP cắt giảm thuế quan nhiều hơn và bao gồm các điều khoản về lao động và môi trường so với RCEP.
RCEP tập hợp các quốc gia thường có mối quan hệ ngoại giao bị trục trặc - đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản.
Cả Australia và Trung Quốc đều ký thỏa thuận này, bất chấp các báo cáo rằng Trung Quốc có thể tẩy chay một số mặt hàng nhập khẩu của Australia vì nhiều khác biệt chính trị.
Thương mại quốc tế nằm thấp hơn nhiều trong nghị trình trong cuộc bầu cử năm nay của Hoa Kỳ và Tổng thống đắc cử Joe Biden đã nói tương đối ít về việc liệu chính sách thương mại của ông sẽ thay đổi đáng kể hay liệu ông sẽ xem xét lại việc gia nhập TPP hay không.
Nguồn : BBC, 15/11/2020
***************************
Trọng Nghĩa, RFI, 14/11/2020
Trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 37, vào hôm 14/11/2020 đã diễn ra Thượng Đỉnh Mỹ-ASEAN lần thứ 8, cũng theo hình thức trực tuyến, với trưởng đoàn phía Mỹ là cố vấn an ninh quốc gia Robert O'Brien, thay mặt cho tổng thống Donald Trump, và thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, đại diện ASEAN. Tại hội nghị, ông O’Brien đã lên tiếng thúc đẩy các nước Đông Nam Á tích cực phát huy một vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và mở (Free and Open Indo-P acific-FOIP), một khu vực đang phải chịu các hành vi bành trướng của Trung Quốc.
Trong phát biểu tại hội nghi, ông O'Brien đã nhấn mạnh đến lợi ích to lớn mà quan hệ đối tác giữa hai bên mang lại cho sự thịnh vượng, an ninh và hạnh phúc của hơn một tỷ người ở Hoa Kỳ và các quốc gia ASEAN, đồng thời tái khẳng định cam kết lâu dài của Hoa Kỳ đối với một vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và mở (A Free and Open Indo-Pacific - FOIP).
Ý tưởng về một khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và mở đã được Mỹ thúc đẩy trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng tăng cường các hành vi gây hấn ở Biển Đông, chèn ép các nước ASEAN đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Bắc Kinh đã cản trở các hoạt động đánh bắt cá và thăm dò khoáng sản của các quốc gia láng giềng trong những năm gần đây, lấy cớ là hầu như toàn bộ Biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Đại diện Mỹ đã nhấn mạnh trên quan hệ hợp tác ASEAN – Mỹ trong các lĩnh vực, và khẳng định sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để giúp đối phó với dịch Covid-19 thông qua các hỗ trợ tài chính và trang thiết bị với tổng trị giá 87 triệu USD.
Trump không tham dự, uy thế của Mỹ suy giảm
Theo các nhà quan sát, do việc trưởng phái đoàn Mỹ chỉ là cố vấn an ninh chứ không phải là tổng thống, tiếng nói của Hoa Kỳ tại Hội nghị ASEAN lần này sẽ bớt đi tầm quan trọng, một điều đáng tiếc vào lúc Hoa Kỳ và ASEAN kỷ niệm 5 năm Quan hệ Đối tác Chiến lược
Ông Trump đã tham dự Thượng đỉnh ASEAN vào năm 2017 ở Philippines, nhưng sau đó đã không dự bất kỳ hội nghị nào.
Lần này, tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (East Asia Summit - EAS) sắp mở ra, trưởng đoàn Mỹ tiếp tục là ông O'Brien, trong lúc các nước khác đều có đại diện cấp nguyên thủ quốc gia hay thủ tướng chính phủ.
Thượng Đỉnh Đông Á được cho là diễn đàn hàng đầu ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh và quốc phòng. Kể từ khi thành lập vào năm 2005, hội nghị đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển chiến lược, địa chính trị và kinh tế của Đông Á.
Ngoài 10 nước thành viên ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á còn bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Mỹ và Nga.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 14/11/2020
Thu Hằng, RFI, 15/11/2020
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị Cấp cao Đông Á (East Asia Summit - EAS) tối 14/11/2020 qua hình thức trực tuyến. Các nhà lãnh đạo Châu Á-Thái Bình Dương bày tỏ quan ngại về tình hình Biển Đông, dù không nêu đích danh Trung Quốc, trong khi căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Một quan chức của chính phủ Nhật Bản cho hãng tin Kyodo biết, thủ tướng Yoshihide Suga đánh giá những hành động ở Biển Đông và biển Hoa Đông “đi ngược lại với luật pháp và xu thế cởi mở” và chia sẻ những quan ngại này với các nước trong khu vực.
Phía Ấn Độ cũng bày tỏ quan ngại trước những “hành động” và “sự cố” đang phá hủy niềm tin ở Biển Đông, theo trang BC Focus. Phát biểu tại Hội nghị EAS, ngoại trưởng Ấn Độ, S. Jaishankar nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tôn trọng luật pháp quốc tế, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền.
Trung Quốc đòi yêu sách chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông, bồi đắp, gia cố và quân sự hóa các đảo trong vùng. Tại biển Hoa Đông, Bắc Kinh đòi chủ quyền đối với quần đảo Sekaku/Điếu Ngư do Nhật Bản kiểm soát. Đòi hỏi này bị thủ tướng Suga bác tại Hội nghị EAS vì xâm phạm chủ quyền của Nhật Bản.
Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng hối thúc các nước ASEAN hoàn thiện Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC). Tuy nhiên, song song với tiến độ, thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nhấn mạnh đến một bộ quy tắc ứng xử “hiệu quả và thực chất” và “vẫn còn nhiều việc phải làm”.
Theo trang ASEAN 2020, một lần nữa, lãnh đạo 18 nước Châu Á-Thái Bình Dương tham gia Hội nghị Cấp cao Đông Á kêu gọi kiềm chế, giải quyết mâu thuẫn dựa trên cơ sở pháp lý, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Đây cũng là quan điểm của Việt Nam, được thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh trong Hội nghị Cấp cao Đông Á. Bản đồ đường 9 đoạn của Trung Quốc yêu sách chủ quyền ở Biển Đông đi ngược với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) gồm 10 nước ASEAN, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Nga và Mỹ.
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 15/11/2020