- Ngày 24/7/2012, Trung Quốc đã chính thức lập thành phố Tam Sa. Thành phố này có tổng diện tích vùng đất và vùng nước lên đến 2 triệu km2, nhưng dân số chỉ khoảng 2.000 người, chủ yếu tập trung trên đảo Phú Lâm.
- Sau 9 năm xây dựng, chính quyền Bắc Kinh đã nâng cấp tiện ích trên rất nhiều hòn đảo thuộc thành phố, cả quân sự lẫn dân sự, đầu tư thu mua các công nghệ nước ngoài và thực hiện việc kiểm soát và giám sát hành chính từ tiền đồn của họ trên đảo Phú Lâm.
- Chính quyền Trung Quốc đang dùng các phương tiện dân sự của thành phố Tam Sa để làm vỏ bọc cho tham vọng kiểm soát các vùng biển mà nước này có yêu sách trên Biển Đông.
Lễ khánh thành thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm ở tỉnh Hải Nam, cực Nam của Trung Quốc, ngày 24/7/2012. Ảnh : Xinhua.
Ngày 24/7/2012, Trung Quốc đã tổ chức một buổi lễ khánh thành trên đảo Phú Lâm (Woody Island) để tuyên bố với các bên tranh chấp trên Biển Đông về việc thành lập một đơn vị hành chính có tên là thành phố Tam Sa (Sansha). Tam Sa là thành phố trực thuộc tỉnh Hải Nam (Hainan), và có thủ phủ đặt tại đảo Phú Lâm.
Chính phủ Trung Quốc tuyên bố, thành phố này được thành lập để quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa (Zhongsha Islands – cách gọi của Trung Quốc để chỉ bãi cạn Scarborough và bãi Macclesfield). Thẩm quyền pháp lý của chính quyền thành phố Tam Sa trải rộng trên hơn 280 hòn đảo, bãi cạn, rạn san hô, các thực thể khác và vùng nước xung quanh chúng. Tổng diện tích vùng đất và vùng nước là hơn 2 triệu km2. Tam Sa có dân số thường trú là 1.800 người, không tính lực lượng quân đội đóng trên các căn cứ của thành phố.
Một bản đồ của Trung Quốc ghi rõ "đường lưỡi bò" và thành phố Tam Sa. Ảnh : SMCP.
Đến tháng 4/2020, Quốc vụ viện Trung Quốc lại ra quyết định thành lập thêm hai đơn vị hành chính cấp quận cho thành phố Tam Sa (quận Tây Sa và quận Nam Sa).
Cho đến nay, thành phố Tam Sa đã phát triển nhanh chóng, không chỉ về khả năng kiểm soát hành chính, khả năng quân sự mà thậm chí còn cả về kinh tế, du lịch và an sinh xã hội cho người dân trên đảo. Sự phát triển nhanh chóng của đơn vị hành chính này đang gây trở ngại khá lớn cho các bên tham gia tranh chấp trên Biển Đông, trong đó có Việt Nam.
Vậy, 9 năm sau khi thành lập, Tam Sa hiện giờ ra sao ?
Sau 9 năm phát triển, đảo Phú Lâm, thủ phủ của thành phố Tam Sa, hiện đã trở nên nhộn nhịp hơn nhờ có bến cảng được mở rộng, kho đông lạnh thủy sản, máy phát điện dự phòng, nơi sửa chữa tàu, nơi tiếp nhiên liệu cùng hàng loạt công trình tiện ích khác.
Trong Báo cáo Hàng hải Trung Quốc số 12 của Viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc (China Maritime Studies Institute) thuộc trường Đại học Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval War College – NWC), tác giả Zachary Haver (ông là chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc và Biển Đông, hiện đang là nhà phân tích tình báo của một công ty an ninh mạng Hoa Kỳ tên là Recorded Future) tường thuật rằng các tiện ích dân sự trên đảo cũng được đầu tư kỹ lưỡng, như nhà ở công cộng, trường học, các cơ quan tư pháp, phủ sóng mạng 5G, dịch vụ hàng không (phục vụ cho dân sự và giới học giả ngành hàng hải của Trung Quốc).
Trước đây, đảo Phú Lâm là nơi khan hiếm nước ngọt vì mạch nước ngầm trên đảo thường bị nhiễm mặn và nếu sử dụng lâu dài sẽ phá hủy hệ sinh thái trên đảo. Tuy nhiên, từ năm 2016, chính quyền thành phố Tam Sa đã khắc phục được vấn đề nước bằng các hệ thống lọc nước mặn và xử lý nước thải.
Trên Đảo Cây (Tree Island), vào năm 2020, chính quyền Trung Quốc đã tìm cách xây dựng các khu nhà ở và phát triển các khu trồng trọt, nông trại để biến nó thành một nơi thích hợp cho con người cư trú. Trong khi đó, ở Cồn cát Tây (West Sand) – một hòn đảo rộng khoảng 10 dặm vuông với một tòa nhà và một công trình trông giống máy bơm khử muối, Trung Quốc đang tích cực trồng cây để ngăn không cho hòn đảo này bị xâm thực và xói mòn đất.
Cũng theo Zachary Haver trong cùng báo cáo, chính quyền thành phố Tam Sa còn thiết lập hoàn thiện hệ thống tổ chức đảng và chính quyền trên những đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng và thiết kế các tour du lịch đến thành phố, cũng như khuyến khích các công ty hoạt động và phát triển nghề cá tại đây.
Theo RFA, thông qua thành phố Tam Sa, chính phủ Trung Quốc đã mua hoặc lên kế hoạch mua các phần cứng, phần mềm, thiết bị giám sát hàng hải, giám sát đất liền, an ninh thông tin và các thiết bị khác từ 25 công ty có trụ sở tại Mỹ, Nhật Bản, Italy, Australia, Đài Loan và các quốc gia khác.
RFA khai thác được 13 hợp đồng của chính phủ và các tài liệu liên quan cho thấy rằng từ năm 2016 đến 2020, 10 thực thể thuộc hệ thống đảng – nhà nước Trung Quốc có liên kết với thành phố Tam Sa đã mua hoặc lên kế hoạch mua tổng cộng 66 mặt hàng với tổng giá trị lên đến 930.000 USD . Hầu hết các hợp đồng đều được ký kết trong năm 2020.
Chi phí công nghệ nước ngoài mà thành phố Tam Sa mua lại (tính theo nhân dân tệ). Ảnh : RFA
Theo RFA, rất có thể những tài liệu mà họ tìm thấy chỉ là phần nổi trong tảng băng chìm. Trong năm 2020, chính quyền thành phố đã phát hơn 700 thông báo đấu thầu, hợp đồng và các tài liệu có chứa bằng chứng chuyển giao công nghệ.
Khoảng 1/4 các công nghệ được thành phố Tam Sa thu mua là để trang bị cho các tàu của lực lượng chấp pháp hàng hải,bao gồm tàu tuần tra, tàu đổ bộ, tàu tấn công và thiết bị dưới nước không người lái. Tất cả các vật phẩm được thành phố thu mua đều nhằm mục đích sử dụng trên Biển Đông.
Chính quyền trung ương cũng ra sức phát triển năng lực quân sự và bán quân sự ở Tam Sa. Chính quyền thành phố đã thiết lập một cơ chế phòng thủ chung giữa quân đội và cảnh sát dân sự, phát triển lực lượng chấp pháp và dân quân biển, và thành lập một trung tâm chỉ huy chung cho các lực lượng quân sự, cảnh sát biển dân sự và dân quân hàng hải.
Sự phát triển nhanh chóng của thành phố Tam Sa là để đáp ứng được nhu cầu cấp bách phải kiểm soát các thực thể đang tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông. Chính quyền Trung Quốc đã dùng các phương tiện dân sự của thành phố Tam Sa để làm vỏ bọc cho tham vọng kiểm soát các vùng biển mà Trung Quốc có yêu sách trên Biển Đông. Các nguồn lực để "chi viện" cho Tam Sa hầu hết đều được lấy từ đất liền.Việc kiểm soát Biển Đông thông qua thành phố Tam Sa là một phần trong chiến lược củng cố các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và ngăn chặn các quốc gia khác củng cố các tuyên bố chủ quyền của họ. Trung Quốc đã theo đuổi chiến lược này từ những năm 2000, sau một thời gian trì hoãn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông.
Lee Nguyen
Nguồn : Luật Khoa, 24/07/2021
Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã nhanh chóng rút Mỹ khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Điều đó làm dấy lên mối quan ngại trong số các đồng minh Châu Á-Thái Bình Dương của nước này về việc liệu Tổng thống mới của Mỹ có ý định giảm bớt sự can dự hơn nữa đối với khu vực này hay không, trong bối cảnh chính sách "xoay trục sang Châu Á" của người tiền nhiệm vốn đã tỏ ra đáng thất vọng. Tuy nhiên, nỗ lực "gây bão truyền thông" của Chính quyền Trump - thiết lập lại các điều khoản trong quan hệ kinh tế của Mỹ với các nước trên khắp thế giới - đã che đậy quyết tâm thách thức Trung Quốc ngày càng dâng cao của họ, không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả về an ninh. Không nơi nào phản ánh đúng điều đó bằng khu vực Biển Đông, nơi Trung Quốc có tranh chấp với Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan, và Việt Nam. Tháng 7/2020, Mỹ đã xóa bỏ những tàn dư cuối cùng của chính sách không can dự với khu vực này và chính thức bác bỏ các yêu sách biển của Trung Quốc tại đây.
Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence chụp hình cùng các lãnh đạo ASEAN tại Thượng đỉnh ASEAN - US ở Singapore hôm 15/11/2018 - Reuters
Trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ đã theo đuổi một chính sách từng được mô tả là "tuyệt đối không can dự" vào các tranh chấp hàng hải ở biển Nam Trung Hoa. Nhưng việc Trung Quốc ngày càng tỏ rõ thái độ quyết đoán đối với vùng biển này vào đầu những năm 2010 cuối cùng đã dẫn đến việc Chính quyền Tổng thống Obama bắt đầu chuyển trọng tâm chính sách của Mỹ, hướng tới một lập trường cứng rắn hơn. Năm 2013, Hải quân Mỹ đã đưa tàu tác chiến tuần duyên đến đồn trú luân phiên tại Singapore. Năm 2014, Mỹ công bố tài liệu gây ra sự hoài nghi đối với yêu sách "đường 9 đoạn" của Trung Quốc. Và năm 2015, Hải quân Mỹ tiếp tục tiến hành các hoạt động tự do hàng hải bên trong phạm vi 12 hải lý tính từ các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, việc gia tăng sự hiện diện ở khu vực này hầu như chẳng làm được gì để ngăn chặn Bắc Kinh. Khi Obama mãn nhiệm, Trung Quốc nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa và biến chúng thành các đảo đủ lớn để xây dựng sân bay, cảng, hệ thống radar và đặt nhiều cơ sở quân sự khác (trái ngược với cam kết của Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình về việc không quân sự hóa các đảo).
Sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Trump đã nhanh chóng ra lệnh dừng các biện pháp quân sự trong chính sách Biển Đông của người tiền nhiệm. Mặc dù động thái này có lẽ nhằm mục đích giúp Trump tính toán lại mối quan hệ với Trung Quốc trên quy mô lớn hơn, nhưng nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Chưa đầy 1 năm sau, khi cuộc chiến thương mại giữa hai quốc gia bắt đầu nhen nhóm, Chính quyền Trump đã chuyển hướng và đưa ra đường lối cứng rắn hơn nhiều đối với Bắc Kinh. Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis khi đó công khai cảnh báo Trung Quốc về những hậu quả lớn hơn nếu họ không có thái độ kiềm chế ở khu vực này. Hải quân Mỹ cũng đưa tàu tác chiến tuần duyên thứ hai vào Singapore và tăng cường các cuộc tuần tra tự do hàng hải, biến chúng trở thành hoạt động thường xuyên và mạnh mẽ hơn. Số lượng các hoạt động tuần tra tăng từ 2-3 lần/năm trong 2 năm cuối của Chính quyền Obama lên 9 lần trong năm 2019.
Khu trục hạm USS Wayne E. Mayer của Hải quân Mỹ ở Biển Đông hôm 11/4/2017 Reuters
Cho tới năm 2020, Mỹ dường như quyết định sẽ đáp trả các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông theo cách trực diện hơn. Khi Trung Quốc cử một tàu khảo sát, có tên là Hải Dương Địa Chất 8, cùng một số tàu thuộc lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc cũng như của lực lượng dân quân biển đến Vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia để quấy nhiễu hoạt động hợp pháp của giàn khoan West Capella thuộc Tập đoàn Petronas, và tự tiến hành các hoạt động khảo sát địa chất của mình. Đó là chiến thuật vẫn thường được Trung Quốc sử dụng tại các vùng biển có tranh chấp với Việt Nam. Tuy nhiên, tháng 4 vừa qua, Mỹ đã can thiệp bằng cách thể hiện sức mạnh. Một nhóm tàu chiến viễn chinh của Mỹ gồm 3 tàu chiến, trong đó có 1 tàu tấn công đổ bộ chở máy bay chiến đấu F-35, cùng 1 khinh hạm của Australia tiến thẳng vào khu vực tranh chấp và tiến hành một cuộc diễn tập tại đây. Trong 2 tuần tiếp theo, cả các tàu tác chiến duyên hải đồn trú tại Singapore lẫn 4 máy bay ném bom B-1 của Mỹ cất cánh từ đảo Guam và từ lục địa Mỹ đã triển khai các hoạt động tuần tra riêng rẽ trong khu vực này. Trong khi đó, trong một tuyên bố công khai hiếm hoi, Hạm đội Thái Bình Dương tuyên bố rằng họ sẽ cho xuất kích đồng thời tất cả các tàu ngầm tấn công hạt nhân được triển khai ở tuyến đầu tới Tây Thái Bình Dương để giúp chống lại hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Động thái này đánh dấu lần đầu tiên Mỹ đặt ra thách thức mạnh mẽ đến vậy đối với Trung Quốc ở các vùng biển có tranh chấp.
Tuy nhiên, động thái này chưa mạnh mẽ bằng sự kiện xảy ra 2 tháng sau. Ngày 4/7, Mỹ triển khai 2 nhóm tác chiến tàu sân bay, được bố trí xung quanh tàu sân bay USS Nimitz và USS Ronald Reagan, tiến hành các cuộc tập trận ở Biển Đông, gần nơi một hạm đội nhỏ của Hải quân và Cảnh sát biển Trung Quốc cũng đang tổ chức diễn tập đổ bộ. Điều thậm chí còn bất thường hơn là chỉ sau đó 2 tuần, cả hai nhóm tác chiến tàu sân bay đều quay trở lại tiến hành các cuộc tập trận chiến thuật phòng không sau khi Trung Quốc triển khai 4 máy bay chiến đấu J-10 tới đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Trường Sa. Đây chính là hai cuộc tập trận lớn nhất của Mỹ tại khu vực này trong gần 1 thập kỷ qua.
Trong khi đó, tại Washington, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo chỉ trích các yêu sách biển của Trung Quốc là hoàn toàn bất hợp pháp và tuyên bố rằng Mỹ sẽ liên kết chính sách của Hoa Kỳ với phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016 để bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Tòa Trọng tài đã đưa ra phán quyết này sau khi Trung Quốc không đưa ra được bất kỳ cơ sở pháp lý nào về luật quốc tế để chứng minh cho yêu sách "đường 9 đoạn" của nước này tại Biển Đông. Do đó, Pompeo cho rằng Trung Quốc không có quyền ở bất kỳ vùng đặc quyền kinh tế nào xung quanh các đảo nhân tạo của nước này ; không có quyền quấy rối các hoạt động đánh cá hay thăm dò năng lượng của các quốc gia khác ; và không có cơ sở pháp lý để đơn phương áp đặt ý chí của mình đối với khu vực này. Chưa bao giờ chính sách của Mỹ đối với Biển Đông lại rõ ràng và mạnh mẽ đến vậy.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích lập trường cứng rắn gần đây của Mỹ. Đầu tiên (và có lẽ là rõ ràng nhất) là do quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đang trở nên tồi tệ hơn. Xét cho cùng, cả hai nước vẫn còn nhiều bất đồng xung quanh vấn đề thương mại, gián điệp mạng, vấn đề Đài Loan và gần đây nhất là việc Trung Quốc "siết chặt" Hong Kong. Một nguyên nhân khác là Mỹ mong muốn trấn an các đồng minh về năng lực quân sự của mình, đặc biệt là sau khi xảy ra ổ dịch mới Covid-19 làm tê liệt tàu sân bay USS Theodore Roosevelt trong phần lớn tháng 4/2020. Một nguyên nhân khác nữa là sự thất vọng của Mỹ đối với Trung Quốc. Trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ hy vọng đưa Trung Quốc hội nhập một "trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc". Nhưng Trung Quốc từ chối tuân thủ các nguyên tắc mà nước này không tham gia xây dựng và tiếp tục hăm dọa các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, có lẽ lý do rõ ràng nhất chính là chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc ở Biển Đông : Nỗi lo sợ rằng Trung Quốc sẽ lợi dụng sự xao nhãng của thế giới khi đối phó với đại dịch Covid-19 để tăng cường hơn nữa sự hiện diện của họ trong khu vực.
Bắc Kinh trước đây từng có những bước tiến lớn tại Biển Đông vào những thời điểm như vậy. Lợi dụng những khoảng trống sức mạnh trong khu vực, Trung Quốc nhiều lần có hành động lấn chiếm các lãnh thổ biển trong hơn 40 năm qua. Thay vì sử dụng các cuộc đối đầu mạo hiểm quy mô lớn, Trung Quốc từng bước lấn chiếm lãnh thổ của các nước yêu sách khác khi các nước này không có được sự ủng hộ từ các cường quốc đồng minh hoặc các đồng minh đó bị xao nhãng hay suy yếu.
8 máy bay chiến đấu của Trung Quốc ở đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa hôm 17/7/2020 (hình vệ tinh) Labs Inc.
Năm 1974, Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa từ Chính quyền Sài Gòn khi biết rõ rằng Mỹ - đồng minh của chính quyền này trong Chiến tranh Việt Nam - không có khả năng tới hỗ trợ. Sau đó, vào năm 1988, Trung Quốc tiếp tục chiếm đá Gạc Ma của Việt Nam khi Liên Xô - cường quốc bảo trợ cho Việt Nam đã rút khỏi khu vực Đông Nam Á. Vào năm 1995, chỉ vài năm sau khi Mỹ đóng cửa 2 căn cứ quân sự lớn nhất trong khu vực và căng thẳng trong quan hệ giữa hai quốc gia đồng minh hiệp ước trở nên tồi tệ khiến Philippines gần như không thể tự vệ, Trung Quốc đã nhân cơ hội chiếm đá Vành Khăn từ tay Philippines.
Bắc Kinh đã kiềm chế những hành động khiêu khích ở Biển Đông trong phần lớn thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, thời điểm mà Mỹ đang ở đỉnh cao của sức mạnh (và Washington tỏ rõ việc sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó). Nhưng sau khi Mỹ trở nên chia rẽ về các cuộc xung đột ở Afghanistan và Iraq, hành vi cơ hội của Trung Quốc đã quay trở lại. Nước này tăng cường quấy nhiễu các tàu đánh cá, các tàu thăm dò năng lượng ở khu vực Đông Nam Á và bắt đầu xây dựng các đảo nhân tạo - tiến độ ban đầu khá chậm chạp nhưng lại được đẩy nhanh sau khi chiến lược "xoay trục sang Châu Á" của Obama hóa ra chỉ là "hữu danh vô thực". Việc xây dựng các đảo nhân tạo cho phép Trung Quốc không những củng cố các yêu sách của họ mà còn mở rộng năng lực giám sát và kiểm soát các vùng biển xung quanh. Đến một lúc nào đó, những đảo nhân tạo này có thể giúp Trung Quốc duy trì một vùng nhận dạng phòng không đối với những vùng biển này.
Với việc công bố lập trường mới ở Biển Đông, Mỹ đã chấp nhận một vai trò lớn hơn và tích cực hơn trong khu vực này. Về điều này, một số người có thể cho rằng tình hình chắc chắn sẽ trở nên khả quan, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á. Sức mạnh của Mỹ dường như chính là điều mà khu vực này cần để đối trọng với Trung Quốc. Mặt khác, câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ là liệu chính sách mới của nước Mỹ có bền vững và quan trọng hơn cả là liệu nó có hiệu quả ?
Đối với vấn đề đầu tiên, các nhà lãnh đạo Đông Nam Á chắc chắn sẽ có những nghi ngờ. Những người hoài nghi có thể chỉ ra rằng việc gần đây Mỹ phô diễn sức mạnh gần giàn khoan West Capella chỉ kéo dài vài ngày, tại vùng biển mà các cuộc đối đầu hải quân có thể kéo dài nhiều tháng. Quả thực, những tàu chiến do Mỹ dẫn đầu đã rời khỏi khu vực này từ rất lâu trước khi các tàu Trung Quốc rời đi. Hiểu rộng hơn, sự hoài nghi của lãnh đạo các nước có thể đơn giản là do thực tế rằng Mỹ phải mất nhiều thập kỷ để đưa ra một chính sách rõ ràng, điều khó có thể là tín hiệu cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Mỹ. Cùng với điều đó, họ cũng phải tự hỏi rằng đến một lúc nào đó, liệu Mỹ có thể dùng chính sách mới này để mặc cả một thỏa thuận thương mại có lợi hơn với Trung Quốc hay không. Và vì vậy, hầu hết các nước Đông Nam Á có xu hướng chờ xem chính sách mới của Mỹ sẽ diễn ra thế nào. Trong lúc này, họ có thể sẽ không đặt quá nhiều hy vọng, đặc biệt là trong thời gian diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
Nhưng có lẽ vấn đề quan trọng hơn là chính sách mới của Mỹ có hiệu quả ra sao, bởi Trung Quốc có thể không còn hành xử như một kẻ cơ hội giống như trước đây nữa. Trong nhiều thập kỷ qua, việc Trung Quốc phát triển mạnh mẽ sức mạnh quân sự đã nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về năng lực quân sự của nước này với Mỹ. Điều đó cho phép Trung Quốc có thể tin rằng việc họ được quyền tự do hành động mà hoàn toàn không bị trừng phạt ở Biển Đông chỉ còn là vấn đề thời gian. Tờ Thời báo Hoàn cầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bóng gió về điều đó. Thậm chí, các nhà phân tích của Australia, một đồng minh thân thiết với Mỹ, hiện nghĩ rằng Mỹ đã mất đi ưu thế vượt trội về quân sự và nghi ngờ khả năng Mỹ có thể đảm bảo cán cân sức mạnh ở khu vực phía Tây Thái Bình Dương. Vì thế, để chính sách mới phát huy hiệu quả, Mỹ sẽ phải chứng minh rằng họ cam kết duy trì lợi thế quân sự của mình. Để làm được điều đó, Mỹ cần phải đầu tư nhiều hơn cho lực lượng hải quân, không quân và khả năng tác chiến mạng. Cuối cùng, chỉ điều đó mới có thể thuyết phục Trung Quốc rằng thời gian không ủng hộ họ.
Tuy nhiên, các nước Đông Nam Á cũng phải góp sức : tỏ ra bớt trung lập và hợp tác an ninh nhiều hơn. Các nước như Việt Nam - Chủ tịch ASEAN năm nay, đang trực tiếp hưởng lợi từ chính sách mới của Hoa Kỳ về Biển Đông. Hay Indonesia là nước "anh cả" của ASEAN, cũng đã bị Trung Quốc đe doạ xâm lấn hồi đầu năm nay. Chưa kể Philippines, vốn rất tích cực trước đây, nhưng nay đã thay đổi dưới thời Duterte. Rồi Malaysia, luôn chọn "im lặng là vàng" khi bị Trung Quốc xâm lấn và đe doạ. Thật không may, lãnh đạo nhiều nước Đông Nam Á đã quen với việc né tránh bất kỳ sự lựa chọn nào giữa chủ quyền quốc gia và nước mà họ coi là động lực thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế : Trung Quốc. Nhưng khi Trung Quốc ngày càng trở nên cứng rắn hơn, hành động né tránh đó không chứng tỏ họ đang tìm kiếm hướng đi thứ ba, mà là tỏ ra vờ như không thấy để rồi hi vọng sóng gió sẽ qua đi. Nếu Đông Nam Á nhất mực né tránh, điều đó sẽ làm xói mòn tính hiệu quả của chính sách cứng rắn mà Mỹ mới đưa ra. Dù chính sách mới này có lâu dài và mạnh mẽ đến đâu, thì Mỹ cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi bảo vệ lợi ích của những nước có quan điểm khác về việc tự bảo vệ mình.
Nguyễn Trường
Nguồn : RFA, 04/09/2020
Chưa đầy hai năm sau khi Pháp, Đức và Ý gửi lên Ủy Hội Âu Châu đề nghị đưa ra một cơ cấu kiểm tra và rà soát các đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Châu Âu, cuối cùng Liên Hiệp Âu Châu đã đưa ra được một cơ chế nhằm bảo vệ cho quyền lợi của đại lục này.
Trung Quốc mua càng ngày càng nhiều các công ty gọi là Mittelstand - công ty cỡ trung vốn là cột xương sống của công nghiệp Đức. (Hình : spiegel.de)
Khác với Ủy Ban Điều Tra Đầu Tư Nước Ngoài (CfiUS) của Hoa Kỳ, một ủy ban liên ngành có nhiệm vụ rà soát các dự án đầu tư nước ngoài vào Mỹ xem có làm thiệt hại gì đến quyền lợi và an ninh của nước Mỹ để cho phép hay không, Liên Hiệp Âu Châu chỉ có thể đưa ra một cơ chế rà soát không ràng buộc. Nhưng nó cũng đủ để có thể giúp tạo ra những quan tâm cần thiết tại nhiều nước Châu Âu mà cho đến nay còn thiếu cả một cơ cấu như vậy.
Đạo luật vừa được Nghị Viện Châu Âu thông qua sẽ thành lập một cơ cấu báo động về các đầu tư ngoại quốc vào Châu Âu trong tương lai và một ngân hàng dữ liệu trung ương cho các đầu tư hiện nay trong khi dành quyền quyết định cho phép hay không cho từng quốc gia thành viên.
Nguyên ủy của việc này phát xuất từ các đầu tư có tính cách khai thác xâm lược của Trung Quốc vào các khu vực hạ tầng cơ sở và kỹ thuật cao của Châu Âu. Một thí dụ điển hình là công ty China Ocean Shipping Company (Cosco) đã thầu lấy cảng Pireus của Athens Hy Lạp nơi họ đang xây dựng một trung tâm hải hành tại Địa Trung Hải cho các công ty của Trung Quốc vừa quốc doanh vừa tư nhân như là một phần của "con đường lụa đại dương" của chính phủ Trung Quốc.
Tại Bồ Đào Nha, Trung Quốc đã đầu tư 12 tỷ Euro vào các dự án đi từ năng luợng cho đến chuyên chở với một sự hiện diện đáng kể trong các ngành bảo hiểm, y tế, dịch vụ tài chánh và truyền thông. Quan trọng hơn nữa là Trung Quốc và Bồ Đào Nha dự trù sẽ phóng lên các vệ tinh để quan sát vùng biển chung quanh quần đảo Azores ngay chính giữa Đại Tây Dương.
Trên lãnh vực kỹ thuật cao, Trung Quốc đã đặt chỉ tiêu đạt mức dẫn đầu thế giới trên các lãnh vực như thông minh nhân tạo (AI), người máy (robotics), xe hơi sử dụng các năng lượng khác ngoài dầu hỏa, thiết bị y khoa và hàng không. Nếu không thể tự mình đạt được các mục tiêu đó thì Trung Quốc mua các công ty của các nước khác có khả năng trong các vấn đề này.
Và đó là điều đã làm các quốc gia Châu Âu báo động khi Midea, một công ty làm các đồ gia dụng của Trung Quốc mua công ty nổi tiếng nhất của Đức về robotics, Kuka với giá là $5.3 tỷ vào năm 2016. Dư luận chính trị của Đức lại càng xôn xao thêm nữa khi thấy rằng Trung Quốc mua càng ngày càng nhiều các công ty gọi là Mittelstand – công ty cỡ trung vốn là cột xương sống của công nghiệp Đức. Họ sợ rằng dưới sự quản lý của Trung Quốc những bí mật nghề nghiệp của công nghiệp Đức dần dà sẽ bị chuyền vào tay người Hoa hết. Mặc dầu phải đối phó với những điều kiện khác, giới doanh thương Pháp và chính phủ cũng trở thành quan ngại việc Trung Quốc mua lại các công ty Pháp.
Chính quyền dân túy tại Ý thì lại có môt cách tiếp cận lỏng lẻo hơn đối với việc rà soát đầu tư nước ngoài. Mặc dầu chính phủ trước ủng hộ việc bắt buộc cung cấp các thông tin trong việc đầu tư, chính phủ mới nay muốn để cho việc này thành một việc tự nguyện. Điều mỉa mai là Ý là một trong những quốc gia mà bị Trung Quốc ngắm nhiều nhất tại Châu Âu. Kể từ năm 2014, các công ty Trung Quốc đã mua lại công ty làm vỏ ruột xe Pirelli, đội banh AC Milan, mua cổ phần tại các công ty năng lượng như ENI. ENEL và CDP Reti. Trung Quốc cũng đầu tư mạnh vào các hải cảng của Ý.
Hầu hết các quốc gia Châu Âu khác không có những cuộc tranh cãi như vậy về đầu tư Trung Quốc. Trên thực tế chỉ có 12 trong số 28 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Châu Âu là có một cơ cấu rà soát đầu tư nước ngoài và ngay cả trong những quốc gia này chúng cũng khác nhau môt cách đáng kể.
Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc đều có những cơ quan rà soát đầu tư gay gắt. Châu Âu trước kia tuy rằng có những quan ngại nhưng không nói ra một cách công khai. Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump với những chính sách gay gắt chống Trung Quốc, đặc biệt là trên phương diện mậu dịch và đầu tư, đã giúp cho các nước Châu Âu cảm thấy tự do hơn trong việc lên tiếng nói.
Tuy nhiên đối với nhiều nước Châu Âu, Trung Quốc vẫn là một nguồn đầu tư hấp dẫn (kể cả nước Anh mà chẳng bao lâu nữa sẽ rút ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu). Thế nhưng ngoại trừ Bắc Kinh bỏ chính sách lợi dụng trong lúc bảo hộ cho thị trường của mình, các nước Châu Âu đã đúng trong việc chuẩn bị bảo vệ cho chủ quyền và sự độc lập về kinh tế của mình.
Lê Mạnh Hùng
Nguồn : Người Việt, 06/12/2018
Kiểm soát kỹ thuật số : Tham vọng của Trung Quốc
Bạo chúa Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan sẽ đi đến đâu ? Hãy hành động để "giải thoát chúng ta ra khỏi thế giới của đồ nhựa !" là tít lớn của một số tuần báo Pháp.
Trang bìa báo Courrier International số 24 đến 30/05/2018 : "Trung Quốc : Nhà nước Big Brother"Ảnh chụp màn hình
Nhưng trước hết xin giới thiệu hồ sơ lớn của Courrier International, với trang bìa : "Trung Quốc : Một Nhà nước toàn trị. Điều tra về các nỗ lực của Bắc Kinh thu thập dữ liệu về các cá nhân vì các mục tiêu chính trị và thương mại". Hình ảnh nền : Một chùm camera trên cao, quay khắp mọi hướng, theo dõi nhất cử nhất động của đám đông bên dưới. Bức vẽ đỏ rực như máu - với hàng chữ màu vàng - nhắc gợi đến quốc kỳ nước Trung Hoa cộng sản.
"Khi Bắc Kinh thu hoạch Data" là tên của bài nhận định toàn cảnh về lĩnh vực xử lý dữ liệu kỹ thuật số tại Trung Quốc được đăng tải trên trang mạng điều tra nổi tiếng của Hồng Kông, có tên The Initium, tiếng Hoa là "Đoan Truyền Môi/Duanchuanmei" (1). Bài viết chỉ ra viễn cảnh đáng sợ của việc chính quyền và doanh nghiệp khai thác các dữ liệu cá nhân vì các mục tiêu đen tối.
176 triệu là số lượng camera kiểm soát tại Trung Quốc, được thống kê hồi 2016, so với 50 triệu tại Mỹ. Thị trường camera Trung Quốc tăng trưởng hơn 13% trung bình năm, từ 2012 đến 2017, so với 2,6% của phần còn lại của thế giới. Một trong các mục tiêu của chính quyền Bắc Kinh, khi phát triển camera, hay các phương tiện theo dõi điện tử khác, là để chính quyền, với sự phối hợp của các công ty thân chính quyền, kiểm soát hành vi của công dân.
"Đánh giá hạnh kiểm" của người dân là điều bắt đầu được thí điểm áp dụng với hệ thống mang tên "tín dụng xã hội". Cuối năm ngoái, tập đoàn Alibaba thông báo ký kết một "thỏa thuận hợp tác chiến lược" với chính quyền địa phương một thành phố thuộc khu kinh tế đặc biệt tỉnh Hà Bắc (Hebei) để sử dụng các công nghệ số vào mục tiêu theo dõi và đánh giá hành vi của dân chúng : từ sử dụng phương tiện giao thông loại nào, như thế nào, đến việc có tham gia trồng cây đầu năm mới, có vứt rác bừa bãi hay không ?...
Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch triển khai toàn quốc hệ thống đánh giá hạnh kiểm người dân trước năm 2020, theo đó những người được coi là có hạnh kiểm tốt, sẽ được ưu đãi, ví dụ trong việc vay tín dụng, hạnh kiểm xấu sẽ bị trừng phạt. Hệ thống kiểm soát với công nghệ số này nếu được áp dụng sẽ biến Trung Quốc trở thành một quốc gia toàn trị của Big Brother, nơi con người bị theo dõi toàn diện, ở mọi nơi mọi lúc, giống như điều mà George Owell đã mường tượng trong tiểu thuyết "1984".
Tuy nhiên, bài viết của trang mạng Hồng Kông The Initium nhấn mạnh đến rất nhiều trở ngại cho một thị trường dữ liệu kỹ thuật số tại Trung Quốc, trước hết là các quy định về pháp lý.
Thị trường chợ đen và cái chết của nữ sinh Từ Ngọc Ngọc
Các quy định về quyền sở hữu các dữ liệu kỹ thuật số còn "rất mơ hồ". Theo phó giám đốc của GBDEX, trung tâm dữ liệu ở thủ phủ tỉnh Quý Châu (GuiZhou), cơ sở được Nhà nước tài trợ - thì việc thiếu quy định pháp lý khiến việc buôn bán các dữ liệu phát triển chậm. Theo điều tra của tạp chí Caijing (Tài Kinh), đa số dữ liệu được mua bán trên thị trường chợ đen. Vụ nhiều lãnh đạo của công ty Datatang bị cảnh sát bắt, vì tội tiết lộ thông tin của khách hàng hồi 2017, khiến cổ phiếu của công ty bốc hơi khoảng 1,5 tỉ yuan (từ gần 200 triệu euro). Vụ này khiến giới kinh doanh dữ liệu số hóa lo sợ. Theo Caijing, trong tổng số 5,5 tỉ dữ liệu cá nhân được phổ biến, 80% là do tay trong của các công ty tuồn ra ngoài.
Tháng 8/2016, Từ Ngọc Ngọc (Xu Yuyu), một nữ sinh viên 18 tuổi, đã thiệt mạng, vì tim ngừng đột ngột, sau khi bị tin tặc đánh cắp 9.900 yuan, là số tiền đăng ký học. Điều tra cho thấy kẻ cắp đã khai thác được các thông tin về nữ sinh bất hạnh, trong số 100.000 dữ liệu cá nhân mua được một cách bất hợp pháp.
Số phận bi thảm của nữ sinh viên Từ Ngọc Ngọc đánh động xã hội Trung Quốc về tầm quan trọng của dữ liệu cá nhân.
Tháng 6/2017, luật về an toàn internet của Trung Quốc có hiệu lực. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để bảo vệ các thông tin riêng tư của mỗi người ? Theo một giáo sư luật (ông Li Yang, Đại học trung ương các dân tộc thiểu số ở Bắc Kinh), luật pháp Trung Quốc có tính đến việc "bảo vệ đời tư". Trên thực tế, cho đến nay, chính quyền cũng như các doanh nghiệp không hề có ý định "nhường cho dân mạng quyền sở hữu các dữ liệu số hóa về chính bản thân họ".
"Khoảng cách lớn" với quốc tế
Bên cạnh vấn đề pháp lý, trở ngại lớn khác của việc khai thác các dữ liệu kỹ thuật số, hay Big Data, là công nghệ và năng lực tổ chức. Vẫn theo báo Hồng Kông, trình độ công nghệ của Trung Quốc vẫn còn ở "một khoảng cách lớn" so với trình độ quốc tế, như thừa nhận của một quan chức chính phủ phụ trách lĩnh vực này.
Để khai thác được các dữ liệu số hóa, vấn đề là các dữ liệu phải "đồng bộ, chính xác, đầy đủ và được thẩm định". Một sai lầm nhỏ nhất cũng có thể làm hỏng kết quả. Trung Quốc rất thiếu chuyên gia để làm được việc này. Đây cũng là lý do mà, theo chính báo chí Nhà nước Trung Quốc, rất nhiều dữ liệu của các cơ quan địa phương, đã phải nằm yên tại chỗ, không thể chia sẻ đi đâu.
Thời gian gần đây, Đảng cộng sản Trung Quốc ngày càng coi khả năng xử lý dữ liệu kỹ thuật số là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Lãnh đạo một tờ báo Đảng so sánh Big Data với "vũ khí" và "ngòi bút" (tức tuyên truyền), như là các phương tiện chủ yếu để duy trì quyền lực. Trong những năm tới, Bắc Kinh sẽ xoay sở ra sao với mục tiêu dùng kỹ thuật số để kiểm soát xã hội ? Chúng ta hãy chờ xem.
Nước Ý : "Cú nhảy vào vô định" ?
Nước Ý là nỗi lo lớn của Châu Âu. Ý với liên minh hai đảng dân túy đang tìm cách lập chính phủ ám ảnh Courrier International. Tuần báo giới thiệu hai bài từ báo Ý, có nhan đề "Nước Ý : Một cú nhảy vào vô định" và "Dân Ý kẹt giữa hai phe, một bên là những kẻ man rợ và bên kia là những kẻ đớn hèn".
"Những kẻ man rợ" là từ mà báo The Financial Times dùng để gọi liên minh hai đảng dân túy Ý Năm Sao và Liên Đoàn Phương Bắc, còn "những kẻ đớn hèn" là từ mà lãnh đạo đảng Liên Đoàn Phương Bắc gọi những người ủng hộ Liên Âu. Bài "Dân Ý kẹt giữa hai phe, một bên là những kẻ man rợ và bên kia là những kẻ đớn hèn" của tờ báo theo xu hướng bảo thủ Il Tempo tỏ ra rất lo ngại trước viễn cảnh "tổn thất không thể vãn hồi" mà những kẻ chính trị nghiệp dư có thể gây ra, và vòng xoáy tồi tệ mà nước Ý khó có thể thoát khỏi.
Bài "Một cú nhảy vào vô định", của tờ báo trung hữu Corriere della Sera, nhắc đến một nghịch lý là hai đảng "chống hệ thống" giờ đây phải chuẩn bị thực thi một công việc "chưa từng có", đó là nắm quyền điều hành đất nước. Corriere della Sera tỏ ra bình tĩnh, tin tưởng vào cử tri, tin tưởng là nước Ý sẽ không rơi vào một nền độc tài, như nhiều người dự báo.
Tờ báo trung hữu cảnh báo là tân chính phủ - của hai đảng Năm Sao và Liên Đoàn Phương Bắc - một khi ra đời, hãy nhớ rằng để tồn tại, họ cần phải "tôn trọng các liên minh quốc tế" và "chi tiêu công", bởi nước Ý với các nước Châu Âu gắn bó với nhau mật thiết hơn là nhiều người đòi hỏi "dân tộc tự quyết" cho nước Ý vẫn tuyên truyền.
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ : một Hitler mới ?
Nếu như nước Ý là mối nguy lớn trực tiếp trong lòng Liên Âu, thì bên sườn Châu Âu là một mối họa đáng sợ không kém : nhà độc tài Erdogan của nước Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là chủ đề chính của Le Point. Xã luận tuần báo đặt câu hỏi : "Erdogan, một Hitler mới" ?
Le Point khẳng định có rất nhiều lý do để khẳng định điều này. Cũng giống như Hitler, ông Erdogan đã được đưa lên ghế lãnh đạo bằng con đường bầu cử dân chủ. Sau khi có được đa số áp đảo tại Nghị Viện, lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang sử dụng đến Hiến pháp để tập trung toàn bộ quyền lực trong tay. Không có quyền lực đối trọng, Erdogan sẵn sàng điều hành đất nước bằng sắc lệnh, và nếu cần một mình có thể tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Chính Erdogan, trong một phát biểu năm 2016, buột mồm ca ngợi Đức Quốc Xã, như tấm gương của một chế độ tập quyền. Giống như Hitler, Erdogan hoài niệm về đế chế Ottoman, phủ nhận các cuộc tàn sát của đế chế chống lại người Armenian.
Le Point cũng lên án thái độ của các lãnh đạo phương Tây, bị so sánh với Hiệp ước Munchen (Munich) năm 1938, khi Anh và Pháp nhân nhượng với Đức Quốc Xã, cho phép Hitler sáp nhập một phần đất đai của Thụy Sĩ.
Le Point còn dành nhiều trang để mô tả các hoạt động nhằm xây dựng một chế độ độc tài tại Thổ Nhĩ Kỳ. Đáng chú ý có bài mô tả "các mạng lưới gây ảnh hưởng của Erdogan tại Pháp". Cụ thể là một hệ thống giáo dục, với khoảng từ 16.000 đến 21.000 học sinh, gần như hoàn toàn do các giáo viên đến từ Thổ Nhĩ Kỳ phụ trách. Theo một viên chức Pháp biết rõ hồ sơ này, nhiều nội dung giảng dạy trong các sách giáo khoa được gửi từ Thổ Nhĩ Kỳ, tuyên truyền, cổ vũ cho đạo Hồi, thần học Hồi giáo, hoàn toàn mâu thuẫn với nền giáo dục thế tục của Cộng hòa Pháp.
Nga hồ hởi trước một phương Tây chia rẽ
Liên Hiệp Châu Âu đang trong tình thế trong ngoài căng thẳng, nhất là sau quyết định của tổng thống Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran. Trang mạng Nga Vzgliad (có nghĩa là "Quan điểm") - nổi tiếng thân điện Kremlin - hoan hỉ : "Phương Tây bị rạn nứt nghiêm trọng, cho dù giới tinh hoa của hai bờ Đại Tây Dương vẫn còn hy vọng chính quyền Trump chỉ là một cơn ác mộng, và mọi sự sẽ trở lại bình thường vào năm 2020", tức sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ lần tới.
Theo báo Nga, hiện tại Liên Âu cho dù không khuất phục trước các đòi hỏi của Mỹ, nhưng cũng không thể cắt đứt với Mỹ, cũng như không thể khẳng định là một lãnh đạo của cộng đồng quốc tế. Châu Âu chỉ có thể hy vọng khẳng định được độc lập, mà để làm được điều này cần phải có được cải thiệu tương quan lực lượng với Mỹ. Trong bối cảnh này, "việc Liên Âu hướng về Moskva là điều tự nhiên". Vẫn theo tờ báo thân Putin, hiện tại "Iran" là hồ sơ duy nhất mà Liên Âu và Nga có thể tìm được thỏa hiệp.
Đạo Phật vào phương Tây bị bóp méo ?
Phương Tây và đạo Phật là chủ đề chính trong mục "Văn hóa" của L’Express tuần này. Tuần báo tổ chức cuộc tranh luận giữa hai chuyên gia. Người thứ nhất là nhà xã hội học Fréderic Lenoir, tác giả nhiều cuốn sách về thiền định, về đạo Phật, bán rất chạy tại Pháp. Người thứ hai là nhà giáo Marion Dapsance, đại học Columbia (New York), tác giả cuốn sách "Qu’ont-ils fait du bouddhisme ?" (Nhà xuất bản Bayard), lên án việc tiếp thu đạo Phật một cách méo mó tại phương Tây.
Theo nhà giáo Marion Dapsance, tại phương Tây, người ta đã biến đạo Phật, với "nhiều tư tưởng cao thượng", hướng đến "sự khoan dung... cổ vũ cho hòa bình", thành các thực hành vì mục tiêu "hưởng lạc" của cá nhân.
Về phần mình, nhà nghiên cứu Frédéric Lenoir cho rằng, việc tác giả phê phán các thực hành thiền định theo đạo Phật, rất phổ biến hiện nay ở phương Tây, là "không công bằng". Bởi nếu như việc thiền định làm giảm nỗi lo hãi thấm vào xã hội chúng ta, thì đây là một tác động không nhỏ. Thiền định có thể mang lại "sự yên tĩnh cho tâm hồn", cảm nhận về "hạnh phúc", hay "tập trung phát triển các tình cảm, như lòng nhân từ", mà điều này rất cần thiết cho những con người hiện đại, vốn "liên tục kết nối với thế giới của công nghệ mới", của internet, "thường xuyên bị kích động thái quá, trong cuộc sống hàng ngày".
Nhà xã hội học Frédéric Lenoir cũng cho biết các đóng góp tài chính cho cơ sở thiền định, do ông phụ trách (Fondation SEVE - Savoir Etre et Vivre Ensemble), đều được chuyển cho Fondation de France, một tổ chức từ thiện lớn của Pháp, chuyên giúp đỡ những người dễ bị tổn thương.
Nhạc rock và nước Mỹ theo Greil Marcus
Cũng trong lĩnh vực văn hóa, Le Point có bài phỏng vấn nhà văn và nhà phê bình nhạc rock Greil Marcus (1), người mà tờ báo đánh giá là "nhà sử học và triết học về văn hóa âm nhạc gây ngạc nhiên nhất". Trong bài phỏng vấn, với nhan đề "Greil Marcus : Dylan, nước Mỹ và tôi", Greil Marcus thốt lên : "Nhạc rock từng là tôn giáo của nước Mỹ, 'tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, trái tim của một thế giới không có trái tim, linh hồn của một thế giới không có linh hồn'. Thế nhưng giờ đây loại âm nhạc này không còn gì là sáng tạo nữa".
Nhà phê bình nhắc đến clip "Bad Romance" của Lady Gaga như một chút gì còn sót lại của truyền thống rock. "Bad Romance" là bài ca về nước Mỹ đương đại, về một nước Mỹ của những người thấp cố bé họng, một nước Mỹ mà theo ông đang mất phương hướng. Ẩn đằng sau những câu hát du dương là một không khí đầy bạo lực.
Về chính trị Mỹ với chính quyền Donald Trump, chuyên gia về nhạc rock nhận xét : "Sự thắng thế của chủ nghĩa dân túy kiểu Trump vừa là một hiện tượng mới, do các hệ quả của toàn cầu hóa, nhưng cũng là sự trỗi dậy của một nước Mỹ của những kẻ mị dân, kỳ thị chủng tộc và bạo lực". Cho dù, việc Trump chiến thắng có nhiều điều do ngẫu nhiên, nhưng thời kỳ trị vì của ông ta "sẽ kéo dài hai nhiệm kỳ", với hệ quả là "những tổn thất hết sức lớn cho xã hội Mỹ", với việc nhiều người chết hơn "do thiếu chăm sóc y tế, do phân biệt chủng tộc, bạo lực các loại". Đối với nước Mỹ, những năm tới sẽ là "một đêm dài Trung Cổ".
Về câu hỏi "Âm nhạc" có thể làm gì ? Greil Marcus trả lời : hơn mọi nghệ thuật khác, sức mạnh của âm nhạc là đi thẳng vào lòng người, và đó cũng là điều mà bạn có thể chia sẻ với nhiều người khác.
Tiểu thuyết về chế độ toàn trị "1984" : Một bản dịch mới
L’Obs chú ý đến bản dịch mới của "1984" (Nhà xuất bản Gallimard) - tiểu thuyết nổi tiếng về xã hội toàn trị của Orwell, gần 70 năm sau dịch phẩm đầu tiên. Trả lời phỏng vấn L’Obs, dịch giả Josée Kamoun cho biết bà muốn giúp cho độc giả đương đại trực tiếp cảm nhận được tính chất "rùng rợn" trong câu chuyện của Orwell. Đây là điều mà L’Obs cho là một hành động "táo bạo".
Một trong các bí quyết của dịch giả, khiến kiệt tác của Orwell năm xưa tiếp tục gây tác động mạnh đến độc giả Pháp ngữ đương đại, đó là thay thế các động từ vốn được chia ở "thì quá khứ đơn" (trong tiếng Pháp thường được dùng để mô tả những gì diễn ra trong quá khứ xa xôi), bằng các động từ "thì hiện tại". Nhiều thuật ngữ đặc biệt mà Orwell chế ra cũng được chỉnh sửa để tạo ấn tượng đích đáng hơn… Lý do của việc cần một bản dịch mới, theo nữ dịch giả, đó là bản thân tiếng Pháp đã có nhiều biến đổi, và nhận thức của công chúng hiện nay về thế giới mà Orwell mô tả cũng đã khác trước nhiều.
Hãy thoát khỏi thế giới đồ nhựa !
Trong lúc ám ảnh độc tài, toàn trị là hồ sơ chính của nhiều tuần báo Pháp, với nhà độc tài Erdogan - Thổ Nhĩ Kỳ, với Nhà nước Trung Quốc mưu đồ kiểm soát xã hội bằng công nghệ số, báo L’Obs gửi một thông điệp khác đến với công chúng : Hãy hành động để "giải thoát chúng ta ra khỏi thế giới của đồ nhựa !".
"Đồ nhựa có mặt ở khắp nơi - dưới nước, trên bàn ăn, trong không khí chúng ta thở - và đe dọa hành tinh chúng ta". Các đại dương, vào năm 2050, dự kiến sẽ chứa nhiều đồ nhựa hơn là cá. Trước đe dọa khủng khiếp này, nhân loại phải phản ứng. Bên cạnh các chiến dịch rộng lớn của các tổ chức đánh động công luận như Plastic Attack, nhắm vào các chuỗi siêu thị, mỗi cá nhân có thể chủ động hành động, bằng cách chỉ sử dụng đồ nhựa khi thật cần thiết, và tăng cường phân loại rác thải.
Theo L’Obs, nhựa từng một thời gian dài gắn với thế giới tiêu thụ, tiện nghi, nhưng từ bỏ đồ nhựa - ít nhất là gần như hoàn toàn - không có nghĩa là trở về thời tiền sử.
L’Obs giới thiệu kinh nghiệm của cô Aline Gubri, 22 tuổi, tốt nghiệp thạc sĩ về Phát triển bền vững, với cuốn sách "Zero plastique, zero toxique / Không đồ nhựa, không chất độc hại" (Nhà xuất bản Thierry Souccar, 2017). Rất nhiều mẹo nhỏ như : chuyển sang dùng những đồ ăn, thức uống có bao bì bằng thủy tinh, bằng giấy ; có nhiều loại xà phòng bánh có thể thay thế các chai nước gội đầu bằng nhựa ; bàn chải gỗ thay cho bàn chải nhựa…
Trong một bài viết khác, L’Obs đặt câu hỏi : Mục tiêu của chính phủ Pháp 100% đồ nhựa tái chế và giảm một nửa rác thải vào năm 2025 liệu có khả thi ?
Cuốn sách nói trên của Aline Gubri lại được dẫn ra như một ví dụ cho thấy chúng ta có thể xoay xở với những phương tiện hiện có, để vừa có một cuộc sống dễ chịu, nhưng lại ít gây tổn hại nhất cho môi trường.
Châu Âu : Đầu tư gấp rưỡi cho các quỹ xanh
L’Obs loan tin mừng là đầu tư cho các quỹ phát triển bền vững bảo vệ môi trường của Châu Âu tăng 49% trong năm vừa qua, từ 22,2 tỉ euro lên 32,2 tỉ, trong đó nước Pháp đứng đấu, với một phần ba thị trường. Thượng đỉnh COP 21 và chứng nhận TECC (Chuyển đổi năng lượng và sinh thái) giúp cho thị trường minh bạch hơn, công chúng nhận dạng rõ hơn các quỹ vì môi trường. Theo ông Hervet Thiard, tổng giám đốc của Pictet AM, quản lý 4 quỹ phát triển bền vững, người ta ngày càng coi đầu tư cho môi trường là nơi cất giữ vốn an toàn hơn so với ba năm trước.
Trọng Thành
1. The Initium.com (Duanchuanmei) là một trang mạng độc lập tại Hồng Kông, không chịu sự kiểm duyệt của Bắc Kinh, do nhiều người xuất thân từ Hoa lục lập ra năm 2015, với mục tiêu "giới thiệu với công chúng người Hoa trên toàn thế giới" thời sự đa chiều, đặc biệt chú trọng đến thể loại báo chí điều tra và sử dụng nhiều dữ liệu thống kê.
2. Greil Marcus - thường được vinh danh là "ông hoàng" của nền phê bình nhạc rock Mỹ - tới Pháp tham dự lễ kỉ niệm phong trào xã hội 1968 và giới thiệu Three Songs, Three Singers, Three Nations, vừa được dịch sang tiếng Pháp (Nhà xuất bản Allia). Cuốn sách vén lộ những bí mật của "ba nền văn hóa" rất riêng biệt của nước Mỹ, qua ba tác phẩm, ghi dấu ba thời điểm quyết định của nền âm nhạc Mỹ. "Các giai điệu bắt rễ sâu xa trong vô thức tập thể dường như đã không do một ai sáng tác ra cả. Vượt lên trên những người biểu diễn, các giai điệu ấy như thể là những tiếng vọng của một thời quá khứ xa xôi, những hình ảnh phản chiếu thế giới tưởng tượng của cả một dân tộc" (giới thiệu của nhà xuất bản).