Tuệ Sỹ
Hòa thượng Tuệ Sỹ viên tịch.
Ít khi một nhà tu ẩn dật, qua đời được nhiều người người nhắc tới như vậy.
Bởi vì trong một xã hội băng hoại, nhân phẩm đổ nát, ít có cơ hội được ca ngợi một người tốt, một tia sáng, một đôi chút hy vọng.
Nói về một người đáng kính cũng là một nhu cầu. Đó là một cách trấn an cho chính mình : đất nước chưa hoàn toàn bệ rạc, bởi vì còn những người như Tuệ Sỹ. Một cách khuyến khích cho những người còn nước còn tát.
Ở đây, tôi mạo muội dùng chữ Tuệ Sỹ trống không, như người ta viết về một nhà văn : Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử... Bởi vì sinh thời, một người nhiều tình cảm, suy tư như ông, chắc muốn viết văn, làm thơ hơn cả.
Tuệ Sỹ tượng trưng cho tất cả những gì đã mất ở xã hội Việt Nam, nhất là nhân phẩm con người.
Tuệ Sỹ là một nhà chân tu trong một thời mạt pháp, bên cạnh những hòa thượng, đại đức công an, thuộc kinh Hồ Chủ Tịch hơn khinh Phật.
Tuệ Sỹ sống thanh đạm, bên cạnh các thầy chùa quốc doanh lên xe xuống ngựa, vạt núi, xẻ rừng, phá hủy thiên nhiên để xây những ngôi chùa vĩ đại, kệch cỡm, thô bạo để kinh tài.
Trong một thời đại hỗn mang, dân lầm lẫn tôn giáo với mê tín, dị đoan, buôn thần bán thánh là chuyện làm ăn thịnh vượng nhất.
Tuệ Sỹ là trí thức thứ thiệt giữa một băng đảng ngụy trí thức. Hoặc bằng cấp giả, hoặc bằng cấp có được nhờ học thuộc lòng, nhưng quay mặt trước thảm trạng xã hội để được yên thân, để khỏi mất đôi chút bổng lộc. "Sĩ khí rụt rè, gà khải cáo. Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi", như ngày xưa Trần Tế Xương đã mỉa mai.
Tuệ Sỹ không đi tu để trốn đời, ông ghé vai lãnh việc chung, như Camus nói : trí thức hay không, người dân nào cũng ở trên thuyền, phải chèo.
Tuệ Sỹ lãnh án tử hình, không thèm xin khoan hồng, vì cho mình không có tội gì cả, ngoài tội yêu nước, và không có ai đáng để xét xử ông. Một câu ngắn đủ để nói lên thực trạng của công lý ở Việt Nam và tư cách của kẻ sĩ.
Dưới thân thể mảnh mai, gió nhẹ đủ để cuốn bay, khiến người ta nghĩ tới thánh Ghandi, nhà chân tu ấy đương đầu với cả một tập đoàn ma tăng, tập đoàn độc tài, cứu vãn cho danh dự Phật giáo Việt Nam trong cơn điên đảo.
Tuệ Sỹ là một trí thức uyên bác.
Trí thức không nhất thiết phải đi đôi với uyên bác, nhất là ở Việt Nam.
Những sách về Phật học của thầy mở một chân trời mới cho Phật tử, trong khi theo truyền thống "thuật nhi bất trác", đa số sách vở Việt Nam chỉ lặp đi lập lại những cái cũ, chỉ đi những lối mòn. Chưa nói đến tác phẩm tào lao tràn ngập thị trường của các nhà tu công an.
Thơ Tuệ Sỹ là những bát nước trong, nhưng bát nước chứa cả vũ trụ.
Một nhà chân tu, một trí thức uyên bác, một công dân bất khuất. Một người như vậy tưởng như không thể có ở Việt Nam ngày nay. Chuyện lạ là chuyện ấy có thực, nhân vật ấy có thực.
Thư thầy Tuệ Sỹ gởi tăng sinh Huế dưới đây, cách đây trên 20 năm, đáng lẽ phải dán ở mỗi chính điện, mỗi cổng chùa như một lá bùa, để ếm ma tăng khỏi mò vào cửa Phật:
"Một Phật tử xuất gia, khi cất bước ra đi, là đến phương trời cao rộng, tâm tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình chìu theo mọi giá trị hư đốn của thế gian. Người Phật tử không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền, bạo lực.
Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại, đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé và giả ngụy, mà ngay cả người đời nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc để giữ tròn danh tiết.
Chớ khoa trương bảo vệ chánh pháp mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho ma vương, là nơi tụ hội cho cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua quan bán chức".
Bia tàu
Một video được coi hàng triệu lần trên Weibo, hệ thống YouTube của Tàu. Video quay cảnh một nhân công hãng bia nổi tiếng Tsingtao ở Quảng Châu vén quần đái thoải mái vào cái bồn chứa rượu bia.
Nhà chức trách hoảng, vì Tsingtao là nguồn lợi khổng lồ, một biểu tượng của thực phẩm Trung Quốc, hứa sẽ điều tra.
Điều tra kiểu Trung Quốc.
Giống như như Bắc Kinh đang điều tra về bệnh bệnh hô hấp cực kỳ nguy hiểm đang hoành hành bên Tàu.
Người ta nhớ sau Covid, Trung Quốc đã chấp nhận cho một phái đoàn thuộc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tới Tàu để điều tra về nguồn gốc Covid. Tới nay, chưa ai biết mặt mũi bản báo cáo thế nào. Cuộc điều tra kể như chìm xuồng luôn.
Ai cũng biết Tedros Ghebreyesus là người được Trung Quốc tin cẩn, leo lên chức Giám đốc WHO nhờ phiếu của các nước đàn em của Tàu.
Hy vọng vụ Tsingtao pha nước tiểu sẽ khiến bạn bè bớt dẫn tới Chinatown ăn cơm Tàu.
Rất ớn cơm Tàu, cái gì cũng đầy mỡ, xì dầu đen thui. Có lần ở Bắc Kinh, sau một tuần lễ, ớn quá, xin ông đầu bếp cho ăn cơm trắng, rau luộc. Ông ta hiểu, cười hề hề, mang lên một đĩa ra luộc tổ bố, phủ đầy dầu hào đen thui. Và một chai Tsingtao !
Người Việt vẫn chưa bỏ được ý nghĩ coi chuyện đi ăn "cao lâu" là sang trọng ?
Dear Henry
Kissinger lìa đời, 100 tuổi.
Cùng một lúc cố vấn an ninh, và bộ trưởng ngoại giao cho Nixon từ 73 tới 75, tiếp tục phụ trách ngoại giao dưới thời Gerald Ford tới 77, Nixon là khuôn mặt ngoại giao nổi đình đám nhất trong thế kỷ vừa qua, người đã bắt tay với Trung Quốc để dẫn nước Tàu tới địa vị cường quốc ngày nay.
Có người ca tụng Kissinger như một nhà ngoại giao xuất sắc nhất của Hoa Kỳ, có người coi ông ta là một Rasputin kiểu Mỹ.
Rasputin là một anh phù thủy, vô luân, được Nga hoàng tin cẩn, cố vấn, giựt dây cho Nga hoàng làm những chuyện mờ ám nhất trong thời buổi băng hoại của nước Nga đầu thế kỷ 20.
Kissinger cùng với Lê Đức Thọ được trao giải Nobel Hòa Bình 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam.
Ủy ban Nobel đôi khi gây ngạc nhiên khi họ trao giải Nobel Văn Chương, hay Nobel Hòa Bình, nhưng trao giải Nobel Hòa Bình cho Kissinger, Lê Đức Thọ là chuyện lố bịch nhất.
Thọ là một trong những lãnh tụ Bắc Việt quyết tâm phải đánh chiếm miền Nam bằng bất cứ giá nào. Kissinger là người bán đứng một quốc gia đồng minh và sinh mạng của hàng chục triệu người, không thương tiếc.
Lê Đức Thọ từ chối giải Nobel, vì nhận giải Hòa Bình sẽ khó ăn nói với đồng đội sẵn sàng quyết tử.
Kissinger hy sinh hàng triệu nhân mạng của dân miền Nam Việt Nam chỉ có mục đích là dâng món quà gọi là hòa bình cho cử tri Mỹ.
Kissinger là cha đẻ của lý thuyết ngoại giao "realpolitik", lạnh lùng coi lợi ích của nước mình (nước Mỹ) trên hết, bất chấp luân lý, đạo đức, tình nghĩa, liên hệ tình cảm đối với đồng minh
Trong trường hợp ký hiệp định Paris, dẫn tới hàng triệu boat people và hàng triệu người đi tù cải tạo, Kissinger cũng chẳng nghĩ tới quyền lợi, uy tín của nước Mỹ. Chỉ nghĩ tới quyền lợi của cá nhân ông ta, và của ông chủ là Richard Nixon, đang bị lúng túng vì khó khăn nội bộ.
Có tin nói năm 75, khi Bắc Việt chiếm miền Nam, Kissinger muốn trả lại giải Nobel Hòa Bình, vì thấy Bắc Việt đã vi phạm hiệp định.
Nếu tin đó đúng, "nhà ngoại giao thông minh nhất nước Mỹ" quả thực là ngây thơ cụ. Vì bất cứ một người bình thường nào, dốt nát tới đâu, cũng biết rằng người Cộng Sản ký kết các hiệp định để ngồi xổm trên đó.
Dù sao cũng phải công nhận là nhân sinh quan "realpolitik" đã giúp Kissinger thành công trong đời sống cá nhân. Khi rời chính trường, ông thành lập Kissinger Associates, một công ty cố vấn cho các tai to mặt lớn trên thế giới, cực kỳ phát đạt. Muốn trở thành khách của Kissinger Associates để được cố vấn, phải đóng niên liễm… 225.000 dollars mỗi năm.
Về phía Mỹ thì kết quả hơi khác.
Sau 75, Hoa Kỳ khốn đốn mỗi lần tham chiến, từ Iraq, Syria, tới Afghanistan. Bởi vì nước nào cũng ớn về tình nghĩa đồng minh của Hoa Kỳ, khi nghĩ tới cuộc tháo chạy không danh dự khỏi Việt Nam.
Hy vọng Hoa Kỳ sẽ không áp dụng lý thuyết "realpolitik" của Dear Henry đối với Ukraine và Đài Loan.
Nhiều hội nhân quyền coi Kissinger là tội phạm chiến tranh, chịu trách nhiệm về ít nhất 3 triệu người chết trên thế giới.
Khi đã nổi danh, dù không phải là một sex symbol, ông cố vấn luôn luôn cập kè với những top models. Ông nói quyền lực khiến đàn ông trở thành quyến rũ. Ông ta nói : Tôi làm việc suốt ngày với Golda Meir (bà thủ tướng Do Thái), không lẽ lại qua đêm với Indira Gandhi (bà thủ tướng Ấn Độ). Tôi thích Jill St John hơn (Jill St John là một cô đào nhan sắc của Hollywood).
Carolyn Eisenberg, trong cuốn "Never Lose : Nixon, Kissinger and the Illusion of National Security" viết : Cái cơ hội chủ nghĩa (opportunism) của Kissinger không bờ bến. Cái nhu cầu cần được coi là quan trọng, được nổi danh của ông ta thật bao la".
Nếu cái nhu cầu ấy của Dear Henry nhỏ hơn, có lẽ ít người chết hơn.
Với một dân tộc như vậy…
Tôi soạn một bài nói chuyện về hiện trạng báo chí Việt Nam với một nhóm trẻ.
Bài viết xong, suýt nữa hài lòng. Nếu không đọc một đoạn Hannah Arendt viết về tự do báo chí.
Arendt là một triết gia Đức, nổi tiếng về những tác phẩm nghiên cứu về các chế độ toàn trị. Đọc xong, thấy bài mình còng lưng viết nó dài dòng, nhạt, rỗng, vô thưởng vô phạt.
Chỉ trong vài câu, Arendt tóm tắt gọn vấn đề, trong sáng, chính xác. Mà đó cũng không phải là một bài viết, chỉ là một câu trả lời phỏng vấn.
Hannah Arendt viết :
"Khi chúng ta không còn báo chí tự do, tất cả có thể xẩy ra.
Cái cho phép một chế độ độc tài toàn trị, hay bất cứ một chế độ độc tài nào, nắm vững quyền hành, là sự kiện người dân không được thông tin : làm cách nào bạn có thể có ý kiến, nếu không có thông tin ?
Nếu mọi người nói láo thường trực, hậu quả không phải là bạn tin những chuyện xảo trá, hậu quả tai hại là không ai tin chuyện gì nữa. Quả vậy, những chuyện dối trá, tự bản chất của nó, phải thay đổi, thêm bớt và một chính quyền gian trá phải liên miên viết lại chuyện do chính họ bịa ra. Người dân không phải chỉ nghe một lời dối trá, đôi khi tới hơi thở cuối cùng, nhưng nhận được rất nhiều dối trá, tùy theo nhu cầu chính trị. Và một dân tộc không còn tin gì nữa, sẽ không quyết định gì nữa. Người dân bị tước đoạt không những khả năng hành động, mà bị tước đoạt cả khả năng suy nghĩ, khả năng phán xét. Với một dân tộc như vậy, bạn có thể làm tất cả những gì bạn muốn".
Từ Thức
Nguồn : tuthuc-paris-blog.com, 30/11/2023
Tháng 9/1988, sau bốn năm bị bắt giam, hai thầy Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu bị tuyên án tử hình vì "hoạt động lật đổ chính quyền". Người Việt Nam khắp thế giới đã kêu gọi các chính phủ nơi mình cư ngụ can thiệp, đòi phải xóa bỏ bản án.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (trái) và Hòa thượng Thích Quảng Độ năm 2019. Photo screenshot Quangduc.com.
Lời tâm sự đầu năm Tân Sửu, Phật lịch 2564, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ kể lại lời Đức Thích Ca dặn dò các đệ tử trước khi nhập Niết-bàn : "Mọi thứ đều vô thường, các con hãy không ngừng tinh tấn".
Bây giờ, theo lý vô thường, Hòa thượng cũng về cõi tịch diệt, những người kính yêu Hòa thượng có thể nhớ lại lời Phật dạy trên đây, lấy làm phương châm : "Hãy không ngừng tinh tấn". Thầy Thích Tuệ Sỹ đã viết nhiều, đã giảng dạy nhiều, nhưng điều đáng học hỏi, tu tập tinh tấn chính là con người, hành vi, thái độ thong dong mà vẫn thiết tha với cuộc sống của vị thiền sư nhập thế.
Năm ngoái, lần sau cùng được hầu chuyện Thầy Tuệ Sỹ, có bạn Tâm Thường Định tham dự, chúng tôi đang nôn nóng với tin tức thời sự, đã đề nghị Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đưa ra một bản tuyên bố về việc quân đội Nga tấn công nước Ukraine. Tôi bàn rằng việc này rất ích lợi, cho thấy Giáo hội vẫn hoạt động, lại nhắc nhở cả thế giới thấy dân Việt Nam cũng xúc động trước số phận dân Ukraine. Thầy bình thản nghe, không phê phán, cũng không tán thành. Rồi tiếp tục nói chuyện về công trình phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh bằng tiếng Việt. Tâm không dao động. Đêm nằm tôi mới thấy mình quá nông nổi, không hiểu Thầy, cũng không hiểu đồng bào trong nước. Thầy mang những mối suy nghĩ, ưu tư mà tôi không nhìn thấy.
Thầy Tuệ Sỹ có lần nhắc lại một câu thơ Nguyễn Trãi : "Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn (人生識字多憂患)" nghĩa là : "Người đời, càng biết chữ càng nhiều lo nghĩ". Mối lo nghĩ được Thầy giãi bày "Thảm họa chết chóc bởi bom đạn vô tình đã không làm nhụt chí tình tự dân tộc ; nhưng ám ảnh không nguôi về một tương lai bấp bênh đè nặng bởi bóng tối của hận thù, nghi kỵ, bởi tham vọng quyền lực, tham ô tài vật, trong một xã hội bất an, đạo đức băng hoại, …" Đó là mối lo lớn. Những chuyện khác, những phiếm đàm, tạp thoại, chỉ nghe, biết, thông cảm, rồi buông thả, cho trôi qua. Nhưng Thầy rất lạc quan con người Việt Nam : "Dù vậy, trong tận cùng tâm khảm của đồng bào vẫn âm thầm trôi chảy dòng tâm thức thấm nhuần đức tính từ bi, nhân ái, giữ vững khí tiết của một dân tộc qua nhiều thế hệ".
Người Việt có thể lạc quan. Thầy kể lại chuyện lịch sử với hai câu thơ của Trần Nhân Tông : "Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông thiên cổ vững âu vàng" (Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã - Sơn hà thiên cổ điện kim âu – 社稷兩回勞石馬,山河千古奠金甌).
Sau khi đuổi được giặc Mông Cổ ba lần xâm lăng, triều đình trình lên Nhân Tông những văn thư, tài liệu của quân Nguyên, muốn tố cáo những người đã muốn đầu hàng. Nhà vua bảo đem đốt hết.
Thầy Tuệ Sỹ bàn : "Đất nước đang cần sự hòa hiệp đồng tâm nhất trí của toàn dân để xây dựng lại những gì đổ vỡ do chiến tranh. Hãy quên đi những lỗi lầm lớn nhỏ của bên này hay bên kia, ứng xử với nhau bằng khoan dung, tha thứ, không nhìn nhau bằng đôi mắt hoài nghi…" Nghe những lời bàn này, người Việt Nam còn sống sau năm 1975 phải suy ngẫm !
Rồi Thầy kết luận với một cách nhìn tích cực : "…dù cho thế lực tham tàn hung bạo như thế nào cũng chưa hề, và cũng sẽ không bao giờ làm cho cạn kiệt" được nguồn "phẩm chất đạo đức quân vương ấy !" Phẩm chất đạo đức quân vương này, Thầy Tuệ Sỹ nghĩ, "khơi nguồn dòng suối nuôi dưỡng khí phách của dân tộc này".
Sau khi đánh đuổi quân xâm lăng rồi, Trần Nhân Tông lại viết biểu "xin hàng", tự xưng là "Một bầy tôi nhỏ xíu" – "vi thần", rất nhỏ bé so với chữ "tiểu thần !" Nhà vua biết lực lượng và lòng tự kiêu của triều đình Mông Cổ rất lớn ! Họ có thể mở những cuộc chinh phạt mới, không biết bao giờ đất nước mới yên ! Nhờ lời lẽ khiêm cung của vị Hoàng đế Đại Việt, dân chúng tránh được những cuộc xâm lăng trả thù !
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ Được giáo phó lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Mối quan tâm lớn khác của Thầy Tuệ Sỹ là trách nhiệm Tăng thống do "di chúc ủy thác của Đức cố Tăng thống Thích Quảng Độ". Thầy kể trong Thư Khánh Tuế, viết sau mùa An Cư Kiết Hạ năm Canh Tý, Phật lịch 2564 : "…trông lên Tổ đức uy nghiêm, vô khả nại hà, tôi cúi đầu lãnh thọ".
Thầy nhìn công việc của vị Tăng thống rất khiêm tốn : "…trong thực tế (tôi) chỉ có vai trò liên lạc, chuyển tải tôn ý giữa Chư Tôn đức, trong nước và Hải ngoại đang hoằng hóa tại các châu lục khác nhau…". Tuy vậy, Thầy tận tâm tận lực để "liên lạc, chuyển tải" này. Trong bức "Thư Khánh Tuế", Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viết : "Cầu nguyện cho bốn chúng đệ tử… cùng hòa hiệp đồng tu trong Chánh Pháp, vì sự tăng ích và an lạc cho chính mình và cho nhiều người…". Một kết quả là kho "Đại Tạng Kinh Việt Nam" đã tiến được một bước đầu. Đây là công trình Thầy đã khởi xướng từ năm 1973, rồi tiếp tục theo đuổi suốt đời.
Phật giáo Việt Nam đã được vua Nhà Nguyên tặng một số bản trong Đại Tạng Kinh, sau khi hai bên giao hảo. Từ đó đến nay, rất nhiều hòa thượng đã bỏ công phiên dịch nhưng vẫn chưa hoàn tất. Các nước Phật giáo khác ở Châu Á đều có kinh tạng bằng ngôn ngữ mà người dân nghe là hiểu được. Tiếng Việt là một trong 20 ngôn ngữ được nhiều người dùng nhất thế giới, nhưng người Việt vẫn còn đọc nhiều kinh tạng qua chữ Hán. Quả thật, đây là một vấn đề đáng quan tâm. Thầy Tuệ Sỹ đã khuyến khích, thúc đẩy chư tăng và Phật tử, ở trong và ngoài nước, góp công dịch và in Đại Tạng Kinh. Năm nay, bản Thanh Văn Tạng hoàn tất, ra mắt các vị hòa thượng từ khắp nơi trên thế giới về Quận Cam chứng kiến, kể cả các thầy từ Việt Nam qua.
Phổ biến Kinh điển, Hoằng dương Phật pháp là một trách nhiệm của vị Tăng thống. Cùng với Pháp, một phần trách nhiệm nữa là Tăng già, ngôi thứ ba trong Tam Bảo, là tập thể của những người tu học. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ nhấn mạnh : Chư tăng và các Phật tử cần giữ gìn "tự thể thanh tịnh hòa hiệp".
Trong bức "Thư Khánh Tuế", Hòa thượng viết, "Tăng-già, chúng đệ tử Phật, tự thể vốn thanh tịnh và hòa hiệp, là cỗ xe vững chắc mà Đức Thích Tôn đã tác thành". Thực hành tâm bất phóng dật thì có thể đạt được mười điều thanh tịnh, như lời Kinh Hoa Nghiêm. Hòa thượng lập lại nhiều lần hai chữ Hòa Hiệp. "Tôi được ủy thác nhiệm vụ kế thừa… chính xác là kế thừa tâm nguyện chưa được viên thành của Hòa Thượng Trưởng lão Thích Quảng Độ, muốn thấy uy đức Tăng-già được thể hiện trong bản thể thanh tịnh hòa hiệp...". Giữ thể tính thanh tịnh hòa hiệp của Tăng-già thì mới có thể "từ đó phục hồi và kiện toàn cơ chế Giáo hội".
Dù đảm đương trách nhiệm Tăng Thống, nhưng Thầy Tuệ Sỹ vẫn tâm sự : "Bản thân tôi trước sau vẫn chỉ là nhà giáo dục, sự nghiệp suốt đời chỉ giới hạn trong những việc trước tác, phiên dịch kinh điển. Những khi cần đến kiến thức hàn lâm, Chư tôn Trưởng lão triệu tôi đến để thông diễn tôn ý cho bốn chúng đệ tử. Khi không cần thiết, tôi được phép trở về bản vị trong các giảng đường và thư viện". Thầy phải hy sinh không làm theo ước nguyện của mình, chấp nhận nghiệp dĩ : Lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Bản chất Thầy là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu, giáo dục, nhưng lại bị chế độ nhìn như một người đấu tranh chính trị ! Tất cả mọi người Việt Nam phải chịu đựng nghiệp dĩ này, các thầy cũng không tránh khỏi.
Tháng 9/1988, sau bốn năm bị bắt giam, hai thầy Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu bị tuyên án tử hình vì "hoạt động lật đổ chính quyền". Người Việt Nam khắp thế giới đã kêu gọi các chính phủ nơi mình cư ngụ can thiệp, đòi phải xóa bỏ bản án.
Giáo sư John T.P. Humphrey, Đại học McGill ở Montréal, rất xúc động khi nghe chúng tôi kể câu chuyện, trong bối cảnh chế độ vô sản chuyên chính ở Việt Nam. Ông đã tổ chức một cuộc họp báo, về án tử hình trên hai vị thầy tu khác đạo mà ông mới biết tên. Hàng trăm nhà trí thức ở Montréal đã ký kiến nghị yêu cầu chính phủ Canada lên tiếng đòi Đảng cộng sản Việt Nam trả tự do cho hai thầy.
Ông Humphrey lúc đó đã 77 tuổi, từng giữ chức Giám đốc Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, từ năm 1946 đến 1966. Đại học McGill vẫn dành riêng cho ông một văn phòng. Ông là tác giả đầu tiên soạn thảo bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1948. Chúng tôi báo tin cho ông Humphrey về hai bản án tử hình vì đã đọc cuốn hồi ký ông cho, trong đó ông nhắc đến Hai Bà Trưng. Ông ca ngợi hai phụ nữ lãnh đạo đầu tiên của dân tộc Việt chống cường quyền. Ông đã đến Việt Nam năm 1963, đứng đầu phái đoàn Liên Hiệp Quốc gửi sang vì "Vụ Phật giáo".
Nghiệp Báo đã vô tình đưa đẩy khiến Giáo sư Humphrey có lúc rơi vào một cơn gió cuốn với nước Việt Nam, với Phật giáo Việt Nam, rồi với hai thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu. Hai thầy không bao giờ biết đến tên ông. Ai gây ra những nghiệp báo như vậy ? Không ai là tác giả. Cũng giống như trọng lực hoặc điện từ lực, không có ai là tác giả.
Như ý Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Bồ Tát Vấn Minh : "Hựu như chư thế giới - Đại hỏa sở thiêu nhiên - Thử hỏa vô lai xứ - Nghiệp sinh diệc như thị" (又如諸世界, 大火所燒然, 此火無來處, 業性亦如是).
Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch : "Lại như các thế giới – Lúc đại hỏa cháy tan – Lửa này không từ đâu (tới) – Nghiệp tánh cũng như vậy".
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã ra đi. Thần thức có thể còn ở lại thế gian hay đã qua một thiên hà nào trong "ba ngàn thế giới". Nghiệp tánh như vậy. Hãy không ngừng tinh tấn !
Ngô Nhân Dụng
Nguồn : VOA, 25/11/2023