Gần như tái hiện lại những ngày đầu của cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt Nam vào tháng Tám năm 2017, khủng hoảng ngoại giao Slovakia - Việt Nam mở màn tròn một năm sau vào tháng Tám năm 2018 đầy kịch tính và diễn biến sôi động theo từng tuần lễ.
Trịnh Xuân Thanh trong phiên tòa tại Hà Nội. (Ảnh : VNA/Doan Tan via Reuters)
‘Kẻ đổ vỏ vĩ đại’
Ngày 14/8/2018, ông Bela Bugar - Phó Chủ tịch Quốc Hội Slovakia và cũng là Chủ tịch Đảng Most-Hid trong liên minh cầm quyền - lên tiếng chính thức ‘Slovakia nên trục xuất đại sứ Việt Nam tại Bratislava về nước nếu vụ bắt cóc cựu quan chức dầu khí Trịnh Xuân Thanh được xác nhận và Slovakia bị lợi dụng trong vụ việc này’, được thông tấn xã TASR loan đi cùng ngày.
Đại sứ Việt Nam tại Slovakia là ai ?
Chỉ mới cách đây vài tháng, vào tháng Năm năm 2018, Đại sứ Dương Trọng Minh đã trả lời bằng văn bản cho Bộ Ngoại giao Slovakia theo cách không thể ngắn gọn và đánh đố hơn ‘Trịnh Xuân Thanh chưa từng có mặt ở Slovakia’. Nhưng đúng một tháng sau, cảnh sát Slovakia và tờ báo độc lập Dennik N của nước này lẫn báo chí Đức đã có hơn cả bằng chứng về ‘Trịnh Xuân Thanh lảo đảo được hai mật vụ Việt Nam ‘dìu’ lên máy bay tại sân bay Bratislava vào ngày 26/7/2018’.
Thói dối trá đã lộ ra giữa ban ngày ban mặt.
Còn Bộ Ngoại giao Việt Nam thì sao ?
Trái ngược với danh vị ‘Người đốt lò vĩ đại’ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, cứ mỗi lần bùng nổ khủng hoảng ngoại giao với một quốc gia Châu Âu, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh của chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam lại bị biến thành ‘Kẻ đổ vỏ vĩ đại’.
Đổ vỏ cho những tác giả của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức.
Cũng đổ vỏ luôn cho cơn di chấn động đất từ Đức lan rộng và lan mạnh sang Slovakia, Czech và cả Pháp, Nga, Ba Lan… Trong dó có ít nhất 5 quốc gia thuộc khối Liên minh Châu Âu (EU).
Cũng có nghĩa là ‘năm thắng lợi ngoại giao chưa từng có’ mà Phạm Bình Minh nói ra không một chút sượng sùng vào cuối năm 2017 đã trở thành một tiền đề chưa từng thấy dẫn đến cơn địa chấn khủng hoảng toàn diện giữa Việt Nam với một phần lớn hoặc toàn khối EU trong năm 2018.
Ngay trước mắt là cơn khủng hoảng ngoại giao Slovakia - Việt Nam.
Kinh nghiệm ‘đi đêm’
Vào đầu tháng Tám năm 2018, chỉ 4 ngày sau loại bài điều tra của tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung của Đức và tờ Dennik N của Slovakia về ‘cựu Bộ trưởng Nội vụ Slovakia Robert Kaliňák đã giúp Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen bằng chuyên cơ của chính phủ Slovakia’, Ngoại trưởng Slovakia Miroslav Lajcak đã tuyên bố sẽ không bổ nhiệm đại sứ mới của nước này tại Hà Nội cho đến khi Slovakia kết thúc cuộc điều tra chuyên án trên - được đích thân Tổng thống Andrej Kiska và Thủ tướng Peter Pellegrini chỉ thị tiến hành. Không còn hoài nghi hay phải chờ đợi thêm nữa, cuộc khủng hoảng ngoại giao Slovakia - Việt Nam đã chính thức bùng nổ với động thái hạn chế ngoại giao ấy, trước khi có thể dẫn đến những động thái tiếp theo mang tính hạ cấp quan hệ ngoại giao còn trầm trọng hơn thế nhiều.
Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nếu ngay bây giờ hoặc sắp tới Phạm Bình Minh bay sang Bratislava để ‘đàm phán’ với Bộ Ngoại giao Slovakia, cho dù rất có thể điều kiện đầu tiên của phía Việt Nam, nếu còn có thể ra điều kiện, là một cuộc làm việc hoàn toàn mang tính ‘riêng tư’ mà không có có sự tham dự của báo chí và không công khai kết quả làm việc với báo chí và công luận.
Tình trạng khẩn cấp của Việt Nam vào chính lúc này là phải đôn đáo bở hơi tai dập tắt đống lửa Slovakia đang chực chờ bùng cháy dữ dội hơn. Cũng đồng thời phải lái những trận gió tốc mái của báo chí và dư luận quốc tế vào đống lửa đó sang hướng khác.
Từ thâm niên nhiều năm đàm phán với Hoa Kỳ về ‘đổi nhân quyền lấy thương mại’ đến cuộc đàm phán ngầm gần đây nhất với Bộ Ngoại giao Đức về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, giới chóp bu Việt Nam đã biến thành một trong những chế độ chính trị có bề dày trả treo, mặc cả và nhiều kinh nghiệm ‘đi đêm’ nhất trên thế giới.
Với tư cách là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhưng bị chính người dân Việt xem là ‘có vô số luật nhưng chỉ tồn tại Luật Rừng’, chính thể Việt Nam đã chưa hề công khai hóa bất kỳ chi tiết nào về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh từ tháng Bảy năm 2017 - khi Thanh bị bắt cóc tại Berlin - cho tới nay. Toàn bộ thông tin về vụ bắt cóc này được truyền đến dư luận và công luận chỉ từ phía các cơ quan cảnh sát, công tố và tòa án của Đức.
Vào thời gian trên, người ta lại nhận ra sự trống vắng khá kỳ lạ của Phạm Bình Minh. Tại Hội nghị trung ương 6 của đảng cầm quyền vào tháng Mười năm 2017, quan chức bộ trưởng ngoại giao này hiện ra không phải với báo cáo chuyên đề về thành tích đối ngoại mà là chuyên đề về… dân số.
Cũng không thấy Phạm Bình Minh hé ra bất kỳ phát ngôn nào về vụ Trịnh Xuân Thanh. Chỉ khi nào bị báo chí truy vấn quá rát mới thấy Người phát ngôn bộ ngoại giao Việt Nam hiện ra như hình ảnh một con vẹt mào đỏ kêu không mệt mỏi : ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’.
Câm lặng !
Điều kỳ lạ không kém là Bộ Ngoại giao Việt Nam đã chẳng hề có bất kỳ phản ứng nào, dù là nhẹ nhất, sau chuỗi sự kiện Bộ Ngoại giao Đức liên tiếp trục xuất vài ba quan chức ngoại giao trong Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin vào năm 2017.
Trong khi Ngoại trưởng Phạm Bình Minh có quá ít chuyến công du nước ngoài vào thời gian trên, kể cả việc để mặc cho người đồng chức bộ chính trị là Phó thủ tướng Vương Đình Huệ và cả một quan chức bên đảng nhưng thấp cấp hơn là Trưởng ban đối ngoại trung ương đảng Hoàng Bình Quân chiếm lĩnh trận địa ‘vận động quốc tế linh hoạt sớm thông qua Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu’ (EVFTA), có những dấu hiệu cho thấy Phạm Bình Minh và Bộ Ngoại giao của ông ta đã quá ‘oải’ với vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, từ nhiều tháng qua không còn muốn dây vào vụ này và thực chất không muốn bị biến thành kẻ đổ vỏ cho nhóm bắt cóc, bất chấp việc hai cái tên Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư và Tô Lâm - Bộ trưởng công an - đã bị Tòa Thượng thẩm Berlin bêu tên trong phiên xử kéo dài đến 3 tháng trời vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Chỉ đến tháng Sáu năm 2018, trong lúc tham dự một diễn đàn với Hội doanh nghiệp Việt Nam tại Berlin ở Đức, một quan chức ngoại giao là Tham tán công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Đức Nguyễn Hữu Tráng mới ‘vô tình’ tiết lộ việc giữa Việt Nam và Đức đã có những thỏa thuận từ tháng Mười Một năm 2017, nhưng toàn bộ nội dung này không được công khai.
Tiết lộ trên phù hợp với thông tin từ báo chí Đức - đặc biệt là tờ Taz’ - rằng sau khi bị Bộ Ngoại giao Đức phản ứng bằng một tuyên bố giáng trả vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, đồng thời phía Đức tạm đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam và còn cắt luôn quy chế miễn visa cho quan chức Việt sang Đức, phía Việt Nam đã liên tục cử đoàn qua Berlin để đàm phán và trả treo. Nhưng chỉ là trả treo, kể cả một lần nữa mặc cả ‘đổi nhân quyền lấy đối tác chiến lược’ như vụ Tổng cục ‘nhà tù’ của Bộ Công an Việt Nam phải trả tự do và tống xuất sang Đức đối với luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài vào tháng Sáu năm 2018, trong khi cho tới nay Hà Nội vẫn tuyệt đối không có một lời xin lỗi Đức và ‘cam kết sẽ không tái phạm’ theo một yêu cầu có vẻ khá nhẹ nhàng của Đức.
Còn bây giờ, Phạm Bình Minh sẽ làm gì ?
Hết cửa ‘đi đêm’ !
Sẽ không thể có chuyện Phạm Bình Minh dám bỏ mặc cái đống lửa Slovakia đang chực chờ phát cháy dữ dội, sau đống lửa Đức đã thiêu đốt nhóm bắt cóc từ Việt Nam, với nhiệt lượng không kém thua gì hơi nóng từ ‘lò’ của Nguyễn Phú Trọng.
Nhưng làm thế nào để dập lửa, và bức thiết hơn cả là không cho bức tường lửa từ Đức lan sang Slovakia và lan ra cả Châu Âu mà sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực cho EVFTA, trong khi vẫn bảo toàn được ‘uy tín’ của bộ Ngoại giao Việt Nam và thể diện cá nhân của Ủy viên bộ chính trị Phạm Bình Minh ?
Cho đến lúc này, khả năng ‘đi đêm’ của giới ngoại giao Việt Nam với Chính phủ Slovakia - phải nói một cách thành thực và không kém đau đớn - là gần như không có.
Sau vụ phát hiện dường như đã có một thỏa thuận ngầm giữa Bộ trưởng Nội vụ Slovakia Robert Kaliňák với Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm để ‘vận chuyển Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen bằng chuyên cơ của chính phủ Slovakia’, từ tổng thống đến thủ tướng và bộ trưởng nội vụ mới của Slovakia đều thi hành những biện pháp quyết liệt trong xử lý nội bộ và dựng cao hàng rào an ninh đối với Việt Nam, cho thấy giới ngoại giao Việt Nam không còn ‘cửa sau’ nào để ‘đi đêm’.
Tuy thế, phản ứng nghiêm khắc của Slovakia lại có thể là một lối thoát cho Phạm Bình Minh. Sẽ không diễn ra những cuộc đàm phán ngầm, hoặc dù có thì cũng không thể đạt được một thỏa thuận bắt tay bí mật nào đó. Sẽ chỉ cần báo cáo cho Tổng bí thư Trọng về việc phía Slovakia đã không còn dễ dàng chấp nhận điều kiện này điều kiện kia, càng không quan tâm đến điều kiện ‘đổi nhân quyền lấy ổn định ngoại giao’. Và cho dù bị Nguyễn Phú Trọng thúc bách, Ngoại trưởng Minh cũng chỉ làm vài việc cho có và trở về nước với một kết quả mang một chút hứa hẹn nhưng lại chẳng thể khiến ông Trọng ngủ ngon.
Lẽ nào trong tình thế nước sôi lửa bỏng hiện thời, Tổng bí thư Trọng phải kiêm luôn chức bộ trưởng ngoại giao Việt Nam - phỏng theo cái cách mà ông Trọng đã ‘tự cơ cấu’ vào Thường vụ đảng ủy công an trung ương vào tháng Mười năm 2016 - để trực tiếp ‘đàm phán’ với Slovakia - địa chỉ mà Việt Nam vẫn tự hào là ‘đối tác thân thiện’ ?
Với chính thể Việt Nam, mọi chuyện hầu như đã trở nên bất khả kháng cự.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 16/08/2018
Tròn một năm sau cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt, cơn khủng hoảng thứ hai mang tên Slovakia-Việt và cả EU-Việt sẽ chuyển qua giai đoạn mới : Thời kỳ đóng băng kéo dài nhiều năm.
Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ cộng sản Việt Nam bắt cóc đưa về Việt Nam ra tòa vào tháng Giêng, 2018. (Hình : Getty Images)
Đã quá muộn !
Nếu vào mùa Đông năm ngoái hoặc chậm lắm là mùa Hè năm nay, những kẻ bắt cóc chịu "trả lại nguyên hiện trường" theo yêu cầu của nhà đương cục Đức, tức giao lại một Trịnh Xuân Thanh mà được một bản thông báo như thể từ trong bóng tối của Bộ công an cho rằng đã tự nguyện về nước đầu thú (để sau đó phải lãnh đến hai án tù chung thân), thì có lẽ cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt đã tạm lắng và còn tưới thêm nước mát vào những tia lửa sắp bùng cháy của khủng hoảng Slovakia-Việt.
Nhưng giờ đây khi mùa Hè năm 2018 vẫn chưa trôi qua và gần hết Châu Âu đang oằn mình trong một đợt nóng kinh hoàng, chẳng có gì được xem là kết thúc khủng hoảng hay triển vọng ngoại giao-kinh tế của chính thể độc đảng ở Việt Nam với người Đức. Ngược lại, núi lửa khủng hoảng đang nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Đã quá muộn để trả lại Trịnh Xuân Thanh !
Lời thú tội của Nguyễn Hải Long – một nghi can tham gia đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức – tại Tòa Thượng Thẩm Berlin vào ngày 17 tháng Bảy, 2018, rốt cuộc lần đầu tiên mang tính chứng cứ không thể bác bỏ về không chỉ vai trò của những con tốt Nguyễn Hải Long, Đào Quốc Oai, Lê Anh Tú và một quan chức thừa hành bậc trung là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh (Bộ công an) Đường Minh Hưng, mà còn là cơ sở quá rõ để lần đầu tiên tòa án Đức tự tin công bố tên họ những "tác giả" có chức vụ cao hơn thế nhiều nằm trong Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam móc xích với phi vụ bắt cóc hệt như phim gián điệp thời Chiến Tranh Lạnh của thế kỷ XX.
Và dĩ nhiên, chứng cứ trên càng thúc đẩy mau hơn và mạnh hơn những quyết định tiếp tới của ngành tư pháp Đức để chế tài Việt Nam, kể cả việc phát thêm lệnh truy nã quốc tế đối với một số gương mặt quan chức cao cấp nào đó thuộc công an Việt Nam, trong bối cảnh Hà Nội trong hơn một năm qua vẫn chưa có bất kỳ một động tác xin lỗi và "cam kết không tái phạm" nào trước người Đức.
Sau tháng Bảy, 2017, khủng hoảng Đức-Việt đã bùng phát và kéo theo quá nhiều hậu quả. Không chỉ trục xuất vài cán bộ ngoại giao của đại sứ quán Việt Nam tại Đức về nước, nhà nước Đức còn thẳng tay tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng Mười, 2017, và một tháng sau đó đã thông báo ngừng luôn hiệp định về miễn trừ visa đối với quan chức Việt Nam đi công tác ở Đức.
Cho dù Nguyễn Hải Long đã bất ngờ kháng án vào cuối tháng Bảy, 2018, một động tác bị nghi ngờ là đã có những tác động đe dọa theo kiểu biệt kích từ nhà cầm quyền Việt Nam đối với gia đình của Long ở Việt Nam và khiến phiên tòa xét xử Nguyễn Hải Long có thể sẽ phải dài ra đến cuối năm 2018. Nhưng với toàn bộ lời thú tội bổ túc rất chi tiết của Nguyễn Hải Long trước Viện Công Tố, tòa án và luật sư, xem ra xác suất phản cung thành công của Long là quá thấp. Thậm chí mức án 3 năm 10 tháng tù giam mang tính khoan hồng mà Nguyễn Hải Long đã được tòa án Đức tuyên sơ thẩm, thay vì đến bảy năm rưỡi nếu "ngoan cố," sẽ không còn giữ được trong phiên tòa phúc thẩm.
Cứ "trả lại" Trịnh Xuân Thanh là xong ?
Vào tháng Sáu, 2018, khi Nguyễn Hải Long còn chưa chịu nhận tội, phía Việt Nam có vẻ tưởng chừng Tòa Thượng Thẩm Berlin sẽ bị bế tắc trong vụ xử Long và sẽ không thể có kết quả đáng kể nào để tác động vào khối hành pháp Đức nhằm chế tài thêm đối với Việt Nam.
Cũng vào tháng Sáu đó, giới chóp bu Việt Nam bất ngờ trục xuất luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài sang Đức như một chiến thuật "đổi nhân quyền lấy thương mại" – một cử chỉ lấy lòng, bởi vì Đức đang đóng vai trò quyết định trong việc tác động đến nghị viện Châu Âu xem xét có ký kết và sau đó thông qua Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-Châu Âu (EVFTA) hay không. Đồng thời, phía Việt Nam phát tín hiệu "sẽ trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức"…
Quan chức Việt Nam luôn nổi tiếng là những "chuyên gia đi đêm," đặc biệt là những phi vụ làm ăn kinh tế và trả treo "đổi nhân quyền lấy thương mại." Sau tháng Bảy, 2017, chiến dịch "đi đêm" – như một phương thức đàm phán ngầm về vụ Trịnh Xuân Thanh, bao gồm cả thỏa thuận không công khai cho báo chí và dư luận biết về những nội dung đã thỏa thuận, đã được giới chóp bu Việt Nam chỉ đạo cho Bộ Ngoại Giao của chính thể quá thiếu tính chính danh này tiến hành với người Đức, mà sau đó vài nội dung trong đó đã được báo chí Đức tiết lộ.
Nhưng cứ lén lút trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức thì mọi thứ sẽ trở về như cũ ?
Thật quá khó để hình dung theo cách trên.
Bởi lúc này đây đang khác hẳn với thời điểm cuối năm 2017. Sau khi Nguyễn Hải Long đã "khai sạch" và chắc chắn đã làm sáng tỏ nhiều hành vi của một số quan chức công an cao cấp của Việt Nam trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, hy vọng "kết thúc khủng hoảng Việt-Đức" trong năm 2018 và ký kết EVFTA vào cuối năm 2018 lại một lần nữa mờ mịt.
Về thực chất, "thắng lợi vĩ đại" nhất từ vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là sự "kiến tạo" một bước ngoặt lớn trong trang sử quan hệ ngoại giao Đức-Việt và EU-Việt, làm thay đổi hẳn nhận thức của giới quan chức Đức và Liên Minh Châu Âu đối với phương châm "Việt Nam luôn làm bạn với tất cả các nước."
Khi nổ ra vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và ít ngày sau đó, có lẽ Bộ công an và Bộ Ngoại Giao cộng sản Việt Nam đã tính toán không ít kế hoạch để đối phó với Đức và với dư luận. Nhưng dù mắt trước mắt sau đến thế nào, họ vẫn quên hoặc không thể nhận thức được – như một trí não bình thường – về một nhân tố căn cơ và mang tính quyết định : Đức là một nhà nước pháp quyền, lấy pháp quyền làm giá trị hàng đầu để điều hành xã hội và đối ngoại.
Tam quyền phân lập là một trong những giá trị pháp quyền ấy. Với tư cách là một thành phần độc lập trong thể chế chính trị tam quyền phân lập, tòa án Đức tách rời một cách tương đối với những quyết định của chính phủ và Bộ Ngoại Giao Đức.
Giờ đây, giới chóp bu Việt Nam chỉ quen tuyên rao "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" đang phải đối mặt với Tòa Thượng Thẩm Berlin chứ không chỉ còn là Bộ Ngoại Giao Đức.
Sự thật là trong con mắt nước Đức, một kẻ tham nhũng như Trịnh Xuân Thanh nếu có được phía Việt Nam trả lại cho Đức cũng chẳng có ý nghĩa gì lớn. Mà trên hết, người Đức cần được chế độ vi phạm nhân quyền quá trầm trọng ở Việt Nam thật sự tôn trọng như một nhà nước pháp quyền, mà vụ Trịnh Xuân Thanh là một phép thử rất lớn.
Khủng hoảng cấp nhà nước Slovakia-Việt và lan ra toàn EU
Trong ít ra vài ba tháng nữa, tương lai "phục hồi quan hệ đối tác chiến lược Đức-Việt" vẫn còn khá ảo ảnh – tỷ lệ thuận với thói "mặt dày" không còn giới hạn nào của Hà Nội. Trong khi đó, dường như phía Đức vẫn lưu giữ kịch bản "cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam" trong tình huống vụ Trịnh Xuân Thanh không thể cứu vãn được.
Trong thực tế và chắc chắn nằm ngoài sức tưởng tượng của những chóp bu "giàu trí tưởng bở" nhất của Việt Nam, ý đồ "chấp nhận trả giá đối ngoại để giải quyết đối nội" của "đảng và nhà nước ta" đã và đang phải trả giá quá đắt và chưa biết chừng nào mới trả giá xong.
Không có quan hệ đối tác chiến lược với Đức, hoặc mối quan hệ này bị tạm treo vô thời hạn, Việt Nam sẽ khó có hy vọng để tham gia EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Châu Âu-Việt Nam) vào năm 2018 hay trước năm 2020 mà do đó có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước này thêm vài phần trăm. Hiện thời, Đức đang được xem có vai trò quyết định đối với việc Nghị Viện Châu Âu có thông qua EVFTA với Việt Nam hay không.
Hậu quả từ cơn khủng hoảng Đức-Việt chưa thể kết thúc lại có thể là tiền đề mà có thể dẫn đến những bất ngờ khác và khó tưởng tượng trong tương lai, không chỉ là tương lai quan hệ giữa Đức và Việt Nam mà còn là quan hệ Việt Nam-Châu Âu.
Hậu quả xảy ra với Việt Nam sẽ từ từ, dai dẳng và không kém phần đau đớn. Nhiều người dân và doanh nghiệp Việt Nam sẽ vô hình trung trở thành nạn nhân của hệ lụy trừng phạt từ phương Tây, nhưng lại chẳng dám thốt ra tên của thủ phạm đã gây ra những hậu quả ghê gớm này.
Không chỉ Đức, từ tháng Bảy đến nay, mối quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa các quốc gia như Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Ý, Thụy Điển, kể cả một số nước khác ở Châu Âu với Việt Nam đã lạnh lẽo hẳn đi.
Một khả năng có thể xảy đến là trong thời gian tới, những quốc gia như Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Ý, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Anh sẽ có một số biểu cảm và hành động gần tương tự phản ứng của người Đức đối với Việt Nam qua vụ Trịnh Xuân Thanh.
Những biểu cảm và hành động này sẽ liên đới mật thiết với viện trợ không hoàn lại, tín dụng cho vay, cũng khiến đầu tư nước ngoài của Châu Âu vào Việt Nam có thể sụt giảm đáng kể. Những ưu đãi về hàng rào thuế quan trong nhập cảng hàng Việt Nam cũng bởi thế sẽ được thả nổi theo mặt bằng thị trường chung. Thậm chí khách du lịch Châu Âu – khi đã được báo chí lục địa này dồn dập cảnh báo về "nhà nước bắt cóc" – sẽ chẳng còn mấy tha thiết đi dã ngoại ở một Việt Nam đầy rủi ro rình rập.
Nhiều nước Tây Âu và cả Đông Âu sẽ có thể đặt Việt Nam vào một tầm ngắm mới và khởi tạo một hàng rào kiên cố nhằm ngăn chặn mật vụ Việt Nam hành xử theo "luật rừng" ở Lục Địa Già.
Tháng Bảy, chỉ ba ngày sau vụ Nguyễn Hải Long nhận tội, chính phủ Cộng hòa Czech đã quyết định tạm ngừng tiếp nhận đơn xin visa dài hạn cho mục đích lao động và kinh doanh đối với công dân Việt Nam. Trước đó một tháng, cựu Ngoại trưởng Czech Lubomir Zaoralek đã cáo buộc "Việt Nam là tội phạm có tổ chức và trở thành mối đe dọa an ninh quốc gia hàng đầu" của nước ông.
Điều trớ trêu là Czech lại là quốc gia được chính thể cộng sản ở Việt Nam xem là "nền kinh tế thân thiện nhất."
Trong khi cơn địa chấn khủng hoảng Đức-Việt còn lâu mới chấm dứt, chính thể Việt Nam lại phải đối mặt với một trận động đất với cường độ còn mạnh hơn thế nhiều.
Nếu loại bài điều tra của báo chí Đức (tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung) và báo Dennik N của Slovakia ngày 3 tháng Tám về "Robert Kaliňák đã giúp Bộ trưởng công an Tô Lâm đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khu vực Schengen bằng chuyên cơ của chính phủ Slovakia" là có cơ sở mà cựu Bộ trưởng nội vụ Slovakia Robert Kaliňák không thể phản bác được, khủng hoảng Slovakia-Việt đang chính thức bắt đầu và còn vượt trên khủng hoảng Đức-Việt một bậc.
Trong khủng hoảng Đức-Việt, các cơ quan tư pháp Đức chỉ làm rõ chứng cứ vụ bắt cóc đến Nguyễn Hải Long và một quan chức công an bậc trung là Đường Minh Hưng trong bối cảnh chuyến đi Đức của Tướng Hưng là lén lút chứ không công khai và càng không chính thức, thì chuyến đi của Bộ trưởng công an Tô Lâm đến Slovakia ngay sau khi xảy ra vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức, cùng cuộc gặp chính thức của Tô Lâm với bộ trưởng nội vụ Slovakia khi đó là Robert Kaliňák đã xác nhận rằng Tô Lâm là một đại diện chính thức của chính phủ Việt Nam, là tiền đề kéo theo mức độ xung đột ngoại giao giữa Slovakia và Việt Nam là xung đột cấp nhà nước.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 12/08/2018
Sau hai tuần lễ lặng như tờ, rốt cuộc phía Việt Nam đã phải phản hồi sự thúc giục của Bộ ngoại giao Slovakia về việc có hay không Trịnh Xuân Thanh được vận chuyển qua Slovakia mà ‘Bộ trưởng công an Tô Lâm làm bình phong’.
Trịnh Xuân Thanh bị chính phủ Đức cáo buộc mật vụ Việt Nam bắt cóc ở Berlin tháng 7/2017. Chính phủ Việt Nam luôn bác bỏ điều này - Ảnh : VOA
Tại một hội nghị thượng đỉnh không chính thức của EU ở Sofia hôm 18/5/2018, Thủ tướng Slovakia Peter Pellegrini đã nhẹ nhõm khi thông báo rằng Đại sứ Việt Nam tại Bratislava – ông Dương Trọng Minh – đã trả lời ‘Trịnh Xuân Thanh chưa bao giờ có mặt ở Slovakia’.
Trước đó, một thông tin từ đài VOA Việt ngữ dẫn tờ Slovak Spectator của Slovakia cho biết Bộ ngoại giao Slovakia đã gửi các câu hỏi về vụ bắt cóc này cho Đại sứ Dương Trọng Minh, nhưng mãi đến ngày 16/5/2018 vẫn chưa nhận được câu trả lời.
"Chúng tôi sẽ không bỏ qua chuyện này mà không có một câu trả lời nào", tờ báo của Slovakia dẫn lời Bộ trưởng ngoại giao Miroslav Lajcak nói, đồng thời cho biết thêm rằng Slovakia đã cảnh báo đại sứ Việt Nam rằng họ đã chờ đợi đủ rồi và vấn đề quá nghiêm trọng để mà kéo dài.
Dấu hỏi bật ra là làm thế nào để Bộ ngoại giao Slovakia có thể tin tưởng được câu trả lời từ Đại sứ Dương Trọng Minh có một giá trị nào đó ?
Trong thực tế, Dương Trọng Minh chỉ là một quan chức bậc trung, tương đương chức vụ trưởng hoặc vụ phó của Bộ ngoại giao Việt Nam, chẳng có quyền quyết định gì đối với những vấn đề mang tính sinh mạng chính trị của các quan chức cấp chính phủ và cấp bộ chính trị như Trịnh Xuân Thanh.
Câu trả lời của Đại sứ Dương Trọng Minh lại giống với một cách chơi chữ, chỉ đề cập ‘Trịnh Xuân Thanh chưa bao giờ có mặt ở Slovakia’, mà không hề thanh minh cho việc ‘Việt Nam không bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’.
Đại sứ Dương Trọng Minh (phải) và Quốc vụ khanh Slovakia Lukas Parizek. Ảnh : VOA
Một sự việc liên đới là cùng thời điểm xuất hiện câu trả lời của Đại sứ Dương Trọng Minh, người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hiện ra vào ngày 17/5 với phát ngôn ‘Việt Nam đang tiếp tục trao đổi chặt chẽ với phía Đức’ và ‘luôn coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Đức’. Cách nói này vẫn chỉ là ‘đọc bài’ xã giao, giống hệt thái độ ‘tuyên bố cho có’ đã từng thể hiện vào năm ngoái.
Trong buổi họp báo thường kỳ diễn ra ở Hà Nội vào ngày 3/8/2017, một ngày sau khi Bộ ngoại giao Đức ra tuyên bố phản đối hành động mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Bộ ngoại giao Việt Nam tuy "lấy làm tiếc", nhưng đã không có lấy một câu hay từ ngữ nào phủ nhận cáo buộc của phía Đức về việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc.
Lần này cũng vậy, Bộ ngoại giao Việt Nam không hề phủ nhận và không dám phủ nhận việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc.
Trong tình thế cấp bách mà nếu chậm hoặc không trả lời thì có thể làm xấu đi nhanh chóng mối quan hệ ngoại giao và thương mại giữa Việt Nam và Slovakia, phía Việt Nam có thể cho rằng cách trả lời ‘Trịnh Xuân Thanh chưa bao giờ có mặt ở Slovakia’ là khá an toàn và kín kẽ. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu trong thời gian tới, các cơ quan tư pháp Slovakia xác định được nghi vấn của cơ quan an ninh Đức về vụ ‘Tô Lâm làm bình phong ?’ là đúng, để ngược lại niềm vui mừng có vẻ còn hơi sớm của Thủ tướng Slovakia Pellegrini về sự ‘vô can’ của Slovakia, những bằng chứng nào đó sẽ được trưng ra và khiến mối quan hệ Slovakia – Việt Nam không thể khác hơn là phải khủng hoảng như cơn khủng hoảng Đức – Việt kéo dài cho tới nay ?
Nếu xảy ra tình huống trên, liệu khi đó phía Việt Nam sẽ thản nhiên cho rằng câu trả lời ‘Trịnh Xuân Thanh chưa bao giờ có mặt ở Slovakia’ chỉ là của cấp đại sứ chứ không mang danh nghĩa Bộ ngoại giao hay Chính phủ Việt Nam, và do đó Việt Nam sẽ… rút kinh nghiệm ?
Nếu nhìn lại, có thể dễ dàng nhận ra rằng trong bối cảnh bị Chính phủ Đức và sau đó là hầu hết các tờ báo quốc tế quan tâm đến vụ Trịnh Xuân Thanh cáo buộc rằng Thanh đã bị bắt cóc chứ không phải ‘tự nguyện về Việt Nam đầu thú’ mà sau đó đã phải nhận đến hai cái án chung thân, Hà Nội đã không hề phản ứng quyết liệt theo cách ‘đập tan những luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động’ – theo cái cách mà họ hay ‘nhảy dựng lên’ để phản ứng với các báo cáo của Hoa Kỳ và những tổ chức nhân quyền quốc tế về việc Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng.
Thái độ yếu ớt là một bằng chứng gián tiếp về sự thừa nhận hành vi phạm pháp. Dẫn chứng rõ nhất là cuộc khủng hoảng Đức – Việt.
Thông thường, hành động của một quốc gia nhằm trả đũa quốc gia khác trục xuất nhân viên ngoại giao của mình là trục xuất lại nhân viên của quốc gia đối phương. Nhưng kể từ tháng Tám năm 2017 khi Đức tố cáo mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và trục xuất ít nhất hai nhân viên ngoại giao của Đại sứ quán Việt Nam tại Đức, cho tới nay phía Việt Nam vẫn chỉ một mực ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’ nhưng lại chẳng dám có bất kỳ phản ứng công khai hay trục xuất trả đũa nào đối với các nhân viên ngoại giao của Đại sứ quán Đức tại Hà Nội.
Trong khi đó, tuyệt nhiên vẫn không thấy Bộ trưởng công an Tô Lâm hiện ra để ‘phản bác những luận điệu sai trái’ mới đây của phía Slovakia và Đức về vụ ‘Tô Lâm làm bình phong’. Hiện tượng quá trống vắng này càng khiến dư luận quốc tế tin rằng đã có một mối liên đới nào đấy giữa tướng Tô Lâm và Trịnh Xuân Thanh trong vùng lãnh thổ Slovakia.
Thiền Lâm
Nguồn : CaliToday, 20/05/2018