Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

chendang1

29 tháng Tư, 1975, người m và 3 đa con trên chiếc tàu ri Sài Gòn. (Hình : AP Photo/File)

 

Niệm Tháng Tư

Tôi có người anh không chết trn

T xóa tên mình cui tháng Tư

S sách lưu danh làm chi na

C lau khát vng đt Hoa Lư

Tôi có người cha giương súng lnh

Chào lá quc kỳ trước khi đi

Cha thng đu mình viên đn chót

Chết theo thành - bia chng cn ghi

Tôi có người m nhìn quanh mãi

Nhà mình còn chi đáng giá không

Trước cái t th bà cúi ly

T tiên tha th bui go đong

Tôi có người ch t do y

Bán tà áo cưới đi thăm nuôi

Tht thân gia dm trường Nam-Bc

Lòng men sông Hát gii oan thôi

Tôi có đứa em ra đu ch

Ch miếng cơm tha bên quán ăn

Tay mi vé s cu người trúng

Va hè chiếu rách khóc thiên đàng

Tôi có người yêu đêm từ t

Khuya em lên tàu đi vượt biên

Máu trinh loang xung vùng bin Thái

Tr giá t do ri hóa điên

Tôi có thằng bn đi trót lt

Quay v kháng chiến gia rng hoang

Hoài bão quê hương cao cht ngt

T hình-tù ngc chng sn gan

Tôi có mình tôi rất ngm ngùi

Bốn hai ln đếm tháng Tư rơi

Chén đng sao ai mi ung mãi

Bên dòng bi s dt d trôi.

Phạm Xuân Thành

Nguồn : VOA, 28/04/2017

Published in Văn hóa

Nếu đnh nghĩa "xâm lược" là cướp đot ch quyn bng vũ lc, quyn hành, thì không th xem Hoa Kỳ là xâm lược như ging điu tuyên truyền ca Hà Ni đ kích đng thanh niên min Bc, đ H Chí Minh có th hoàn thành s mng ca mt cán b Cng Sn quc tế, nhum đ toàn quc Vit Nam, dưới danh nghĩa được gi là "gii phóng dân tc".

my1

Minh họa. nh : VOA/Lam Thy

Sau khi Hoa Kỳ đổ quân vào Vit Nam, giúp min Nam chng li sc tn công hung hãn ca Bc Vit vi s ym tr ti đa vũ khí và tin bc ca Liên Xô và Trung Cng, trong vòng 10 năm, 58 nghìn thanh niên ưu tú ca nước M đã chết hoc mt tích ti đây. Nước Mỹ đã tn phí trong cuc chiến này 738 t đô la, cuc chiến tn kém nht trong lch s Hoa Kỳ. Nước M thu li gì trong cuc chiến xa đt nước mình na vòng trái đt này, nếu không nói là mt cuc thua trn, "Không Hòa Bình, Chng Danh D" (No Peace, No Honor) như nhan đ cun sách ca giáo sư Larry Berman (The Free Press, 2001.)

Sau khi Hoa Kỳ ký hiệp đnh Paris, chp nhn rút quân khi min Nam, năm 1973, Lê Đc Th t chi nhn gii Nobel Hòa Bình cùng vi Kissinger đ xé hip đnh, tiến công min Nam, hoàn thành mục tiêu ca Bc Vit, "đánh là đánh cho Trung Quc, đánh cho Liên Xô".

Và nước M đã làm gì cho người dân min Nam sau ngày 30 tháng Tư khi xe tăng Bc Vit vào dinh Đc Lp ?

Trong những ngày cui cùng ca chiến tranh Vit Nam, hơn 7.000 người Việt Nam được di tn bng trc thăng ra khi đt nước trong "Chiến Dch Gió lc" (Operation Frequent Wind) do Thy Quân Lc Chiến Hoa Kỳ thc hin.

Thời gian tiếp theo sau đó là nhng thuyn nhân vượt biên ra nước ngoài bng đường bin, đã được Hoa Kỳ đón nhận nhiu nht.

Thập niên 1990 bt đu các chương trình ln, ODP, H.O., chương trình con lai…

Theo Sở Di Trú và Nhp Tch Hoa Kỳ, t năm 1950 đến 1974, ch có 650 người Vit M. Năm 1980 con s này lên đến 261.729 và theo US Census, năm 2015 đã có 1.980.344 người Vit đnh cư Hoa Kỳ.

Người Vit M thành công trong nhiu lãnh vc và mau chóng hi nhp vào xã hi mi. Hàng trăm ngàn chuyên viên k thut rt có kh năng đã và đang đóng góp tích cc vào quê hương th hai. Chính Người Vit t nn Cng Sn – từng b chính quyn Vit Nam gi là "bn ma cô, đĩ điếm chy theo chân Đế Quc đ kiếm bơ tha sa cn" - đã cu nn kinh tế ca Vit Nam khi sp đ vào nhng năm 80. Các "khúc rut ngàn dm" này gi v Vit Nam hàng nhiu t M Kim mi năm.

Nhưng thc sự chúng ta, người Vit trên đt M t bao nhiêu năm nay, sinh sôi ny n, thành công, sng an bình và hnh phúc, đã công bng vi nước M chưa ?

Tôi tin rằng, chúng ta chưa công bng vi nước M, khi vn nói "nước M phn bi", "Đng Minh tháo chy !", hay những câu nói ma mai : "Bn như thế thì đâu cn đến k thù !", "nước M là đt tm dung"…

Chúng ta đã thật s xem nước M là "nhà" ca mình chưa ?

Một ngôi nhà đ chúng ta trú mưa, tránh nng, có phên du đ ngăn k xu xâm nhp làm tn hi đến gia đình chúng ta, một ngôi nhà có khu vườn có bóng cây che mát cho chúng ta, có trái cây cho chúng ta dùng và nhng lung hoa đy hương sc cho chúng ta thưởng thc. Trong ngôi nhà y con cái chúng ta đã được sinh ra và ln lên, được nuôi dy và hc hành đ thành người đôn hu t tế, và chúng ta chưa h nghĩ đến mt ngày nào đó chúng ta s t giã ngôi nhà này đ ra đi, tìm mt nơi trú ng khác.

Có đôi lúc, tôi nghĩ chưa coi đây là ngôi nhà thc s ca chúng ta và không ít người vn coi đây là ngôi nhà tr qua đường, và chúng ta là những người khách tr vô tình và vô ơn.

Chúng ta đã chối b căn cước t nn nhiu ln đ v li nơi chúng ta đã b ra đi, nơi mà chúng ta gi là tù đày, áp bc, nơi chúng ta không th nào sng, đã b quê hương, làng mc và m m ông cha đ ra đi.

Chúng ta đã biểu tình lên án nước M bình thường hóa quan h, giao thương, tha hip vi k thù xưa, trong khi chúng ta vn nuôi sng, v béo chế đ y vi s đô la khng l gi v hàng năm.

Chúng ta đã cứu đói, xây cu, vá đường gi là làm t thin ở Việt Nam, ví như trong 10 USD cho Vit Nam, chúng ta đã dành được 1 USD cho nước M chưa ?

Chúng tôi không nói đến người Vit đt nước khác, mà là người Vit trên đt M hôm nay. Cái đt nước đã được che ch chúng ta đêm qua, ch 15 phút khi chúng ta gi 911 đã có xe cấp cu đến nhà, cái đt nước mà con cái chúng ta đến trường được dy d, được che ch, cái đt nước mà tr con, người già được săn sóc, không bao gi thiếu bánh mì, git sa và viên thuc !

Đã cạn li, tôi xin trích vài dòng ca mt tác gi Vit Nam, tên Song Châu trên Facebook, mà tôi tin đây là một người Vit đang sng M, đ làm li kết ca bài này : "… đây, mc đích ca bài viết này, người viết ch mong rng, không cn phi yêu nước M, nhưng xin bn đng vô tình hay c ý làm tn thương nước M, mt đt nước đã cưu mang bn, giúp cho bn mi phương tin, mi cơ hi đ bn vươn lên sng cuc đi tươi đp mà nhiu người trong nhiu quc gia trên thế gii ước ao".

Tôi cũng xin phụ ho thêm : "Xin hãy công bng vi nước Mỹ" !

Huy Phương

Nguồn : VOA, 03/2017

Nhà báo Huy Phương nguyên là mt sĩ quan Thông tin và báo chí Việt Nam Cộng Hòa, mt người tù trong các tri tp trung ca cộng sản by năm sau 1975, lưu vong ti M t năm 1990. Ti Hoa Kỳ, ông là tác gi 12 tác phm văn thơ, hin cng tác vi Người Vit, H Thng Saigon Nhỏ và Báo Trẻ, Thi Báo (Canada), đài Phát thanh Vit Nam (Oklahoma) và đài truyn hình SBTN ti Hoa Kỳ, s trường vi th loi tp ghi, viết v sinh hot và tâm tình ca người Vit trên đt Mỹ.

Published in Diễn đàn

Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên với báo chí Việt Nam do nhà báo Cam Ly thực hiện và được in trong nước gần đây, nhà văn Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen, giải thưởng Pulitzer năm 2016) đã nói :

"Tôi đến Mỹ với tư cách là người tị nạn năm 4 tuổi. Ký ức của tôi bắt đầu từ lúc bị tách ra khỏi gia đình để 'nhập gia' với gia đình đỡ đầu là những người da trắng. Tôi lớn lên cùng với người Mỹ thuộc mọi nguồn gốc, và giữa những người tị nạn Việt Nam buồn bã."

chuyen1

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt

Có lẽ nỗi buồn từ thời thơ ấu đã thấm đẫm vào từng trang văn của Nguyễn Thanh Việt, để giờ đây, cầm trên tay tập truyện ngắn The Refugees (tạm dịch Những người tị nạn), lòng tôi cũng nặng trĩu nỗi buồn. Buồn vì chiến tranh đã lùi xa bốn mươi hai năm nhưng những vết thương của nó vẫn còn rỉ máu. Buồn vì sự chia cắt trong lòng chính những người Việt với nhau vẫn còn sâu hoắm. Buồn vì những xung đột trên khắp thế giới vẫn đang biến hàng triệu người thành những người tị nạn, đẩy họ khỏi quê hương bản xứ, để rồi họ phải lang thang vào tương lai mờ mịt nơi xứ người.

Mở quyển sách, truyện ngắn đầu tiên Black-Eyed Women (tạm dịch Những người phụ nữ mắt đen) như một con thuyền đưa tôi trôi ngược về quá khứ. Bấp bênh trên những ngọn sóng hiện tại đan cài vào dĩ vãng, trên con thuyền ấy là một người mẹ và hai người con. Trong khi người con gái đang sống cùng người mẹ tại Mỹ, người con trai là một hồn ma - anh đã chết trong chuyến vượt biển của cả gia đình. Nỗi đau ký ức dai dẳng đến nỗi dù đã qua đời, anh vẫn hiện về bên mẹ và em gái trong bộ quần áo ướt lướt thướt. Và qua cuộc trò chuyện giữa hai anh em, tôi nhận ra sự thật khủng khiếp đằng sau cái chết của người anh, sự sâu thẳm của tình ruột thịt, và lý do tại sao người mẹ và người em gái đang sống dật dờ như đã chết. Dù chỉ mô tả thóang qua chuyến vượt biển của những người tị nạn Việt Nam, Black-Eyed Women đã ám ảnh tôi đến nỗi vào buổi đêm sau đó, tôi đã mơ thấy những hồn ma. Họ đã nhìn xóa y vào tôi câu hỏi : 'Tại sao ?'

Tại sao chiến tranh lại xảy ra ? Tại sao con người lại tiếp tục chia rẽ con người ? Sự chia rẽ đó không chỉ tồn tại trong hoặc ngay sau cuộc chiến, mà hậu quả của nó còn kéo dài trong rất nhiều thập kỷ, như trong truyện ngắn I'd Love You to Want Me (tạm dịch Em muốn anh khao khát em). Trong truyện ngắn này, quá khứ - với những đường viền ảo mờ là chiến tranh và loạn lạc - có nguy cơ chia rẽ vợ và chồng. Bà Khanh - người phụ nữ phải hy sinh công việc mà bà yêu thích để có thể chăm sóc chồng - dần nhận ra rằng chồng bà đang nhầm lẫn bà với một người phụ nữ khác. Người phụ nữ đó là ai và có vai trò thế nào trong thời gian chồng bà còn sống ở Việt Nam ? Liệu việc bà và chồng đã cùng sống sót chuyến hành trình vượt đại dương, đã cùng vượt qua những ngày đầu ở California - nơi họ đã phải ăn đồ ăn mua bằng phiếu thực phẩm, mặc quần áo cũ do người khác bố thí - có đủ níu họ lại với nhau ?

Với một bút pháp tài tình đan xen hiện tại và quá khứ, Nguyễn Thanh Việt khiến người đọc phải nhập thân vào những người tị nạn, bất kể họ là nam hay nữ, trẻ hay già. Một trong những người tị nạn đó là Liêm, một chàng trai mười tám tuổi đã chạy thóat khỏi những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, chuyến hành trình khốc liệt đến nỗi khi đã đến trại tị nạn, 'khi nằm trên giường và lắng nghe những đứa trẻ chơi nhắm mắt chạy trốn ở lối đi giữa những chiếc lều, anh cố gắng quên đi những người đã bám vào không khí khi rơi xuống sông, một số người bị đánh ngã trong sự hỗn loạn, một số bị những người lính đang tuyệt vọng tìm đường tháo chạy bắn vào lưng '. Đến được San Francisco, tưởng như cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Nhưng Liêm đã phải tiếp tục đối diện với quá khứ bằng việc phải trả lời những câu hỏi, làm việc ở quán rượu, và sống cùng với người bảo trợ của anh - một người đồng tính. Từng sởn gai ốc khi bị những người đàn ông khác vô tình hoặc cố ý chạm vào người, liệu Liêm sẽ bị người khác giới tính cám dỗ ? Hoặc chính anh sẽ là người cám dỗ ?

chuyen2

Chiến tranh Việt Nam vẫn để lại những hậu quả

Trong số tám truyện ngắn hợp thành The Refugees, có lẽ War Years (tạm dịch Những năm chiến tranh) gần gũi với những trải nghiệm thời thơ ấu của nhà văn Nguyễn Thanh Việt nhất. Nhân vật chính trong truyện là một cậu bé có cha mẹ là chủ cửa hàng tạp hóa  New Saigon Market (Sài Gòn Mới), giống như cha mẹ của Nguyễn Thanh Việt. Xoay quanh những hoạt động tại cửa hàng, sự quan sát trẻ thơ của cậu bé khiến mùi thơm gia vị, tiếng người lao xao trả giá và cuộc sống của cộng đồng Việt Nam tại San Jose hiện lên sinh động trên những trang sách. Trung tâm của câu chuyện ban đầu là cha mẹ cậu bé : những người tần tảo kiếm sống, thắt lưng buộc bụng lo cho con ăn học, tiết kiệm, và giúp đỡ họ hàng còn lại ở quê nhà. Và giữa cuộc sống tưởng như thanh bình đó, hiện lên một nhân vật đanh đá và sắc sảo - bà Hoa. Bà đang dốc sức vận động quyên góp tài trợ cho một nhóm du kích đang hoạt động tại Thái Lan. Mẹ cậu bé có nhiều lý do để từ chối ủng hộ cuộc vận động ấy, nhưng vì lo sợ công việc kinh doanh sẽ bị cộng đồng người Việt tẩy chay, quyết định đối diện với bà Hoa. Cậu bé đi cùng mẹ, để rồi cậu - người đã ngây thơ tưởng tượng "du kích là những người không cạo râu ria, bị muỗi cắn đầy mình, tóc bết lại, mệt mỏi trong những thứ quần áo rằn ri tơi tả, sống nhờ nước mưa, lợn rừng và rệp rừng, rèn kỹ năng đánh giáp lá cà bằng việc đâm lưỡi lê qua những quả mít" sẽ khám phá ra điều gì về cuộc chiến tranh mà cậu chưa từng trải nghiệm, khi cùng mẹ xộc vào nhà bà Hoa mà không hề báo trước ?

Là một nhà văn tài năng có khả năng dẫn dắt người đọc vào những thế giới khác nhau của sự tưởng tượng, Nguyễn Thanh Việt hoàn toàn có thể viết về các chủ đề khác. Nhưng không. Trong ba quyển sách mà anh đã liên tục xuất bản trong thời gian gần đây, The Sympathizer (Cảm tình viên), The Refugees (Những người tị nạn), và Nothing Ever Dies : Vietnam and the Memories of War (Không có gì chết đi, Việt Nam và những ký ức chiến tranh), anh đã tạo dựng nên những thế giới đa chiều xoay quanh một trục chính : chiến tranh Việt Nam và những câu chuyện về người Việt, dù họ ở trong nước hay ở nước ngoài. Cũng trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Cam Ly, Nguyễn Thanh Việt đã nói : '…Các tác phẩm của tôi, mặc dù chủ yếu nói về người Việt và cuộc chiến tranh Việt Nam, nói cho cùng là để hướng tới những chủ đề to lớn hơn - chiến tranh và ký ức, quyền lực và lạm dụng quyền lực, loại trừ và dung nạp, bất công và đấu tranh giành lại công lý. Lịch sử của bản thân tôi - với tư cách là người tị nạn mà cả hai đất nước đều không muốn đón nhận - đã khiến tôi trở thành một người viết luôn ngờ vực chủ nghĩa dân tộc, chiến tranh, và những tác phẩm viết ra không vì mục đích tạo nên sự thay đổi.'

chuyen3

Tác phẩm The Refugees của Nguyễn Thanh Việt

Khi đọc các câu chuyện trong The Refugees, người ta không thể không nhận ra sự thay đổi của từng nhân vật khi họ trải qua hành trình mà những người tị nạn buộc phải trải qua. Truyện ngắn The Americans (Những người Mỹ) được kể dưới con mắt của một cựu phi công - người đã từng điều khiển máy bay B-52 và ném bom xuống Việt Nam. Chưa từng đặt chân lên dải đất hình chữ S, ông đã chỉ nhìn dải đất đó từ độ cao hơn mười hai nghìn mét. Và ở trong buồng lái chật chội, trên con chim sắt khổng lồ mang trên mình ba mươi tấn bom, ông đã bay lên và cảm thấy mình tự do hơn tất cả. Ông tin rằng mình phải tấn công kẻ thù từ trên cao, để cứu mạng những người lính Mỹ trên mặt đất. Dường như ông chưa bao giờ có mặc cảm tội lỗi về hàng ngàn, hoặc hàng chục ngàn mạng người vô tội đã bị ông giết chết, ngoại trừ việc ông gặp ác mộng khi ngủ. Nhưng rồi khi vợ và con ông thuyết phục ông đến thăm Việt Nam, ông nhận thấy đất nước này nghèo hơn với những gì ông tưởng tượng. Và ông đã phải đối diện với hậu quả của chiến tranh, qua những bộ phận thân thể bị mất đi của những người thanh niên mà ông giáp mặt. Chưa từng hài lòng về con gái, giờ đây ông sẽ làm gì khi con ông muốn ở lại Việt Nam để chuộc tội thay cho cha mình ? Có thể nói, với truyện ngắn này, Nguyễn Thanh Việt đã mở rộng định nghĩa về người tị nạn. Tị nạn để trốn chạy khỏi ký ức, khỏi mặc cảm tội lỗi, khỏi nỗi đau, khỏi sự day dứt của quá khứ.

Di sản mà những người tị nạn chiến tranh thừa hưởng từ cha mẹ mình thường bao gồm sự nghèo đói, hoặc sự bơ vơ lạc lõng trên đất khách quê người. Thay bằng việc mô tả những di sản thường gặp đó, Nguyễn Thanh Việt đảm nhiệm một công việc khó khăn hơn. Ngòi bút của anh bám rễ vào thế giới nội tâm của những người tị nạn để cất lên tiếng nói về di chứng tâm lý hậu chiến tranh. Trong truyện ngắn Someone Else Besides You (tạm dịch Một người khác ngoài bạn), người cha - người đã từng nhảy ra khỏi máy bay và chỉ huy một tiểu đoàn lính nhảy dù - sau bao năm vẫn dựng những đứa con trai dậy vào sáng sớm, bắt chúng tập luyện những bài tập thể hình. Để rồi sự chấn thương tâm lý của ông đã được người con trai thừa kế : anh dễ dàng bật khóc, suy sụp vì không thể cứu vãn cuộc hôn nhân với người vợ của mình.

Dẫu mang quốc tịch Mỹ, Nguyễn Thanh Việt đã luôn gắn bó với Việt Nam bằng sự trở về. Anh đã trở về bằng các chuyến đi, bằng ngòi bút, và bằng cả việc luôn tìm đọc các tác phẩm của các nhà văn Việt Nam trong nước. Anh đã trải lòng : '…tôi cố gắng đọc được càng nhiều sách càng tốt, qua các bản dịch. Dĩ nhiên những tác phẩm mà tôi được đọc giúp tôi cảm nhận thế nào là người Việt Nam - với tất cả sự đa dạng và những mâu thuẫn trong đó. Tôi cũng coi các tác phẩm của người Mỹ gốc Việt là một phần của nền văn chương và học thuật Mỹ và Việt Nam, và tôi hy vọng độc giả Việt Nam cũng nhìn nhận như thế. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại là một phần của cộng đồng người Việt - ta không thể đơn giản hóa cộng đồng này chỉ bằng một định nghĩa duy nhất thế nào là người Việt Nam được. Đó chính là lý do chúng ta nên hướng tới sự đa dạng của các tác phẩm, để tránh rơi vào cách nhìn nhận sơ sài về bản sắc, dân tộc, và văn hóa.'

Trên con thuyền mang tên The Refugees, các nhân vật của Nguyễn Thanh Việt cũng trở về Việt Nam, qua các chuyến đi thực tế hoặc trong ký ức. Cuộc trở về được mô tả cặn kẽ nhất trong quyển sách là chuyến đi của Vivien, một người được sinh ra ở Việt Nam nhưng đã rời khỏi quê cha đất tổ cùng mẹ và hai em trên một chiếc thuyền. Sẽ dễ dàng hơn nếu Nguyễn Thanh Việt mô tả cuộc trở về đó qua chính đôi mắt của anh - một người Mỹ gốc Việt. Nhưng không, anh đã vào vai của Phương - một cô gái, người em cùng cha khác mẹ với Vivien. Tốt nghiệp ngành sinh học và không tìm được việc làm, Phương đành phải khom người làm công việc bồi bàn tại nhà hàng Nam Kha trên đường Đồng Khởi. Cô đã đón chào Vivien bằng sự vui mừng khấp khởi thường thấy của những người Việt trong nước khi có người thân từ nước ngoài trở về. Nhưng rồi, Phương đã dần bóc tách được vỏ bọc cuộc sống dường như thành công mỹ mãn của chị cô, để chạm tới một bí mật sâu thẳm. Bí mật đó đã dẫn đến một hành động hết sức bất ngờ của Phương, và khi tro tàn của điều cô làm bay lên, cô chợt nhận ra rằng bầu trời Sài Gòn trong vắt và đẹp xiết bao.

Ở trang đầu tiên của The Refugees, Nguyễn Thanh Việt đã đề tặng tác phẩm cho những người tị nạn ở khắp mọi nơi. Với tập truyện ngắn này, có thể nói Nguyễn Thanh Việt đang tiếp thêm cho những người tị nạn sức mạnh của hy vọng. Đó là hy vọng của về mối quan hệ tốt hơn với các thành viên trong gia đình, về sự khởi nguồn của cuộc sống mới, về sự đồng cảm của cộng đồng và về những giây phút bình yên.

Vốn yêu thích The Sympathizer, tôi ngạc nhiên khi The Refugees không mang dáng dấp hoặc bị ảnh hưởng chút nào bởi giọng văn hài hước, mỉa mai và cay đắng vốn hiện hữu trong The Sympathizer. Vừa trĩu nặng nỗi buồn nhưng cũng vừa lấp lánh vẻ đẹp của tình nhân ái và sự hy vọng, The Refugees vừa mới ra mắt vào tháng hai năm nay nhưng đang được bạn đọc khắp thế giới nhiệt liệt đón nhận. Quyển sách đã được các tờ báo hàng đầu như Guardian, New York Times, Washington Post đánh giá cao. Dù viết về người Việt, những câu chuyện của Nguyễn Thanh Việt không chỉ dành cho người Việt. Anh là một trong những tác giả hiếm hoi được vinh danh với các giải thưởng văn học uy tín, ở cả thể loại hư cấu và phi hư cấu .

Với The Refugees, Nguyễn Thanh Việt tiếp tục khẳng định anh không phải là một ngọn gió thoảng qua trên diễn đàn văn học thế giới, mà là một tác nhân thay đổi diễn đàn văn học đó.

Tác giả hiện đang nghiên cứu tiến sĩ (đề tài hậu quả chiến tranh Việt Nam) với trường Đại học Lancaster và là tác giả của 9 quyển sách thơ, hư cấu và phi hư cấu, bao gồm tập thơ song ngữ Việt Anh The Secret of Hoa Sen (Bí mật của hoa sen, Nhà xuất bản BOA Editions, New York).

Published in Diễn đàn

Chưa bao giờ tên ông Lê Duẩn, nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam được nói đến nhiều như trong dịp kỷ niệm 38 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung (17/02/1979 - 17/2/2017), nhưng không phải để ca tụng lập trường chống Tầu của ông mà để công khai nói lên sự nhu nhược của lớp lãnh đạo bây giờ trước âm mưu thôn tính Việt Nam của Bắc Kinh.

leduan1

Khi nhận xét mục đích cuộc chiến Việt Nam vừa qua, Lê Duẩn, bí thư thứ nhất Đảng Lao động, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày nay nói : "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc..." (nguồn : Danlambao, 15/08/2016)

Cảm nhận này đã được rút ra từ nội dung các cuộc nói chuyện của hai người con trai ông Lê Duẩn là Tiến sĩ thương gia Lê Kiên Thành và Thiếu tướng Lê Kiên Trung, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an với báo chí Việt Nam, kể cả báo An Ninh Thế Giới của Bộ Công an. Tuy nhiên trong những phát biểu đề cao tinh thần lúc nào cũng phải cảnh giác với Trung Quốc của cha mình, hai ông Thành và Trung đã không xóa được trách nhiệm lịch sử đẩm máu của ông Lê Duẩn đối với nhân dân Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân và sau ngày 30/04/1975.

Thảm sát Mậu Thân

Trước tiên, hãy nói về cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 mà đảng và báo chí cộng sản vẫn ba hoa gọi là "cuộc tổng tiến công và nổi dậy". Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã có các cuộc nổi dậy của dân ủng hộ quân cộng sản khi cuộc tấn công bắt đầu đêm Giao thừa ngày 31/1/1968. Cũng không có bất cứ nhóm dân nào đã bỏ phía quốc gia chạy về phía cộng sản trong thời gian giao tranh mà chỉ thấy hàng ngàn người dân đã gồng gánh, tay xách nách mang nối đuôi nhau chạy bạt mạng về phía quốc gia (1).

Sau trận Mậu Thân, Bộ Chính trị đã họp để kiểm điểm và đã có lời khiển trách một số người về tổn thất nhân mạng quá nặng đã gây ra cho một số đơn vị chủ lực của miền Bắc. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cũng chỉ trích chiến lược và chiến thuật của miền Bắc đã tiêu diệt gần hết lực lượng "quân giải phóng".

Sau năm 1975, bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (tức Chính phủ Việt Cộng) đã công khai tố cáo các sĩ quan chỉ huy miền Bắc đã chủ tâm xua các đơn vị du kích miền Nam làm bia đỡ đạn cho họ !

Vì vậy, Phóng viên Lan Hương của báo An Ninh Thế giới mới hỏi ông Thành rằng : "Ông có biết có quyết định của Tổng bí thư Lê Duẩn đến giờ vẫn gây tranh cãi. Như cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 chẳng hạn...".

Lê Kiên Thành : "Nói về Tết Mậu Thân năm 1968, chúng ta phải nhớ đó là thời điểm Westmoreland đề nghị Mỹ tăng gấp đôi số lượng quân Mỹ tại Việt Nam lên 1 triệu quân và đưa chiến tranh ra miền Bắc. Khi đó Chính phủ Mỹ đang đứng giữa hai lựa chọn hoặc là tăng quân viện trợ, tiếp tục cuộc chiến, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, hoặc dần rút khỏi chiến tranh Việt Nam.

Nếu chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, nếu ta mất Hải Phòng, mất Quảng Bình, nghĩa là mất tất cả những con đường chi viện cho miền Nam thì đó sẽ là điều vô cùng tồi tệ. Và cú đánh Tết Mậu Thân - một trận chiến tổng lực, đánh vào cả Đại sứ quán Mỹ và Dinh Độc Lập đã làm người Mỹ choáng váng. Cú đánh đó đã khiến người Mỹ quyết định ngồi vào bàn đàm phán và tính đến phương án rút quân khỏi Việt Nam. Tức là cuộc chiến đã bẻ ngoặt sang một hướng khác hoàn toàn có lợi cho cách mạng Việt Nam.

Chúng ta đã phải trả giá không ít cho bước ngoặt ấy. Nhưng sẽ phải đặt một vấn đề như thế này : Chúng ta sẽ trả giá cho đợt tổng tấn công đó, hay chúng ta sẽ trả giá cho hai mươi năm nữa, hoặc thậm chí lâu hơn mới giải phóng miền Nam ? Có gì đảm bảo sự trả giá lâu dài đó sẽ bớt đắt đỏ hơn ?" (An Ninh Thế Giới, 10/07/2016).

leduan2

Lễ cải táng các nạn nhân tết Mậu Thân 1968 tại Huế

Lập luận của ông Lê Kiên Thành không chỉ phản ảnh quan điểm bênh cha của ông ta mà là của Bộ Chính trị thời bấy giờ muốn bênh vực lập trường "vũ trang bạo lực" của ông Lê Duẩn, dù phải trả bất kỳ bằng giá nào. Nhưng trong chiến lược gọi là "Một cú đập lớn để tung tóe ra các khả năng chính trị", như câu nói của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thời 1968, phía Cộng sản và quân Giải phóng (du kích địa phương) cũng đã phải trả giá với 44.842 lính tử thương, 61.267 bị thương, 4.511 mất tích và 912 bị bắt, theo Bách Khoa toàn thư mở.

Cũng tài liệu này cho biết phía Hoa Kỳ, có 16.511 chết, 87.388 bị thương. Việt Nam Cộng Hòa : 28.800 chết, 172.512 bị thương. Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand : khoảng 2.000 chết, vài nghìn bị thương.

Ngoài giao tranh trên chiến trường, quân đội cộng sản và Bộ Chính trị do ông Lê Duẩn điều hành sau lưng Hồ Chí Minh đã phạm tội sát hại dân lành tại mặt trận Huế-Thừa Thiên trong 26 ngày đêm chiếm đóng thành phố này.

Tài liệu của Bách khoa Toàn thư mở viết : "Trong những tháng và những năm tiếp theo sau Trận Mậu Thân tại Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất".

Theo Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau Tết, các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4.000 gia đình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được họ xác định là đã bị bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và đôi khi còn bị chôn sống.

Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên Cục Tâm lý chiến của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970 :

"Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau :

- Tổng số dân sự tử vong : 7.600 chết lẫn mất tích ;

- Chiến trường : 1.900 bị thương vì chiến cuộc ; 944 thường dân chết vì chiến cuộc.

- Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể :

* 1.173 tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968 ;

* 809 tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969 ;

* 428 tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969 ;

* 300 tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phủ Thứ, tháng 11 năm 1969 ;

* 100 tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969 ;

* 1.946 mất tích (tính đến năm 1970)".

Bắt tù và chết biển

Sau khi chiếm được miền Nam, em của ông Lê Kiên Thành, Tướng Lê Kiên Trung nói : "Trong nhiều cuộc chiến tranh, phe thắng cuộc đã có sự trả thù với những kẻ thất bại. Nhưng sau khi giải phóng xong, Đảng ta mà người đứng đầu là ba tôi đã đưa ra mệnh lệnh : Bằng bất cứ giá nào cũng không được động chạm đến những người thuộc chính quyền cũ. Và, thay vì một cuộc tắm máu như báo chí nước ngoài đã dự đoán trước giải phóng, những người thuộc chính quyền cũ chỉ bị đưa đi cải tạo, giáo dục…" (An Ninh Thế Giới, 27/07/2016).

Nhưng "cải tạo, giáo dục" của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong số 4 tội ác mà ông Tổng bí thư Lê Duẩn có trách nhiệm lúc bấy giờ.

Thứ nhất, nhà nước đã đánh lừa để bắt hàng trăm ngàn quân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa đi tù lao động dài hạn dưới danh nghĩa "học tập cải tạo".

Thứ hai, Chính quyền cộng sản đã tiến hành chiến dịch đánh tư sản mại bản và đuổi dân thành phố đi vùng "kinh tế mới" để đầy đọa người dân, đánh phá và tiêu diệt toàn diện nền kinh tế thị trường phồn thịnh của miền Nam.

Thứ ba, hủy diệt các di sản văn hóa và giáo dục văn minh của miền Nam.

Thứ tư, đẩy trí thức và hàng trăm ngàn người miền Nam phải bỏ nước trốn ra nước ngoài tìm tự do khiến cho hàng chục ngàn người chết trên Biển Đông.

Và cũng từ chính sách trả thù báo oán, bóc lột và hủy hoại miền Nam của Bộ Chính trị do Lê Duẩn lãnh đạo cho đến ngày qua đời 07/10/1986 đã gây chia rẽ, tạo hận thù dân tộc giữa hai miền Nam-Bắc cho đến bây giờ (2017) vẫn chưa hàn gắn được.

Vậy Thiếu tuớng Lê Kiên Trung đã bênh vực cha mình ra sao khi nói về "kinh tế thị trường" của miền Nam bị đánh sập ?

Ông Trung nói : "Nhiều người phê phán cha tôi về việc duy trì nền kinh tế bao cấp quá lâu. Nhưng ngay sau khi giải phóng xong, khi mà nhiều người trong chúng ta vẫn còn coi Mỹ là kẻ thù, ba tôi đã giao cho Bộ trưởng Ngoại giao khi đó là ông Nguyễn Cơ Thạch sang thăm Mỹ, bằng mọi giá thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. 

Ba tôi đã muốn giữ nguyên nền kinh tế thị trường ở miền Nam, song song với nền kinh tế bao cấp ở miền Bắc, vì chính ông cũng muốn so sánh ưu điểm và nhược điểm của hai nền kinh tế đó. Vì ba tôi và các đồng chí của mình khi đó đều được giáo dục và trưởng thành trong hệ thống lý luận về xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô-viết của Stalin. 

Nhưng ông cảm nhận được, nền kinh tế thị trường có những ưu điểm của nó, và ông muốn có cơ hội để so sánh giữa hai mô hình đó, để tìm được con đường tốt nhất cho đất nước. 

Dù chuyện này chưa bao giờ được ông công khai trong các nghị quyết của Bộ Chính trị, nhưng trong chỉ đạo của ba tôi và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng với ông Nguyễn Cơ Thạch trước chuyến thăm Mỹ sau giải phóng, tôi biết rằng đã có nội dung đó. Tiếc là cuộc đàm phán đó đã không thành công. Vì khi đó, nhiều người bên phía chúng ta vẫn còn coi Mỹ là kẻ thù, và bản thân người Mỹ cũng có suy nghĩ ngược lại. 

Với họ, việc một nước lớn như Mỹ thất bại trong cuộc chiến với một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam đã làm tổn thương nặng nề lòng tự tôn của họ. Không thể dễ dàng để hai nước có thể ngay lập tức nối lại quan hệ ngoại giao, bình thường hóa quan hệ. Thậm chí, sau đó Mỹ còn cấm vận Việt Nam nhiều năm liền. Nên cuối cùng, chuyến đi của ông Nguyễn Cơ Thạch đã thất bại".

Tướng Lê Kiên Trung nói như thế vì ông chỉ biết một nửa câu chuyện Việt-Mỹ lúc bấy giờ. Nguyên do chính vì phía Việt Nam cứ nằng nặc đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh trị giá 3,25 tỷ USD, mặc dù Hà Nội đã vi phạm Hiệp định Paris 1973 khi đem quân xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa.

Vì vậy, báo An Ninh Thế Giới mới hỏi tiếp : "Cứ cho là chuyến đi đó thất bại, thì tôi nghĩ, vẫn có nhiều cách để duy trì và phát triển mô hình kinh tế thị trường ở miền Nam song song với mô hình bao cấp ở miền Bắc, nhưng như chúng ta đã biết, ngày đó, nền kinh tế bao cấp đã được nhân rộng ở cả hai miền. Tại sao ba ông không làm điều đó ?".

Tướng Trung : "Bối cảnh lịch sử lúc đó có lẽ đã khiến ba tôi không dễ thực hiện khát vọng và mục đích của mình. Khi mà Mỹ từ chối quan hệ ngoại giao với Việt Nam, và bản thân những nhà lãnh đạo trong nước thời đó đều tin theo hệ thống xã hội chủ nghĩa mô hình Xô-viết của Stalin, thì việc đưa ra một ý tưởng như thế là trái với lý tưởng của nhiều người".

Ai sợ Trung Quốc ?

Về lập trường của ông Lê Duẩn đới với Trung Quốc, tướng Trung nói : "Ba tôi không sợ Mỹ, vì ông hiểu Việt Nam có thể thắng Mỹ. Còn chuyện không sợ Trung Quốc là một câu chuyện dài.

Ba tôi là người yêu thích lịch sử. Ông đọc đi đọc lại những câu chuyện về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Và vì thế, ông biết, trong những cuộc chiến tranh kéo dài suốt mấy nghìn năm đất nước tồn tại, ngoài hai lần chống Pháp và Mỹ, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là lịch sử chống quân xâm lược từ phương Bắc kéo xuống. 

Và dù trong thời gian ngắn hay dài, thì cuối cùng, chúng ta cũng đều đánh đuổi được giặc ngoại xâm phương Bắc. Dân tộc này trong lịch sử chưa từng sợ phương Bắc, và tôi nghĩ ba tôi thấm nhuần truyền thống ấy".

Từ khi còn rất sớm, ba tôi đã nhận ra, dù họ viện trợ cho chúng ta rất nhiều, dù tiếng là hai nước cộng sản anh em, thì họ vẫn mang những ý đồ không khác gì những triều đại trước đây".

leduan3

Tổng bí thư Lê Duẩn về thăm Diễn Châu (Trung Quốc)

Tại sao Tướng Trung lại nói nhiều về người cha của mình luôn luôn đề phòng Trung Quốc vào lúc "nhạy cảm" hiện nay dưới thời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ? Nhưng không chỉ một mình Tướng Trung nói mà anh ông, Tiến sĩ Lê Kiên Thành cũng nói nhiều về chuyện dưới đây.

Ông Trung kể : "Ngay cả trong các cuộc gặp với ba tôi, một lãnh đạo của bạn (chú thích của Phạm Trần : Mao Trạch Đông năm 1960) đã nói : "Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Các đồng chí không cần làm cách mạng, tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á". 

Ông Trung kể tiếp : "Khi nghe câu nói đó ba tôi đã cảm nhận ra ngay ý đồ của họ và dặn lòng mình luôn phải cảnh giác với dã tâm ấy. Ba tôi từng viết về một cuộc đối thoại giữa ông và một lãnh đạo của họ như thế này (Phóng viên báo An Ninh Thế Giới không dám viết lãnh đạo này là Mao Trạch Đông) :

"Ông ta hỏi tôi : Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất ?

Tôi (Lê Duẩn) trả lời : Khoảng 200.000 cây số vuông.

Ông ta hỏi : Dân số của họ bao nhiêu ?

Tôi trả lời : Khoảng 3 triệu !

Ông ta nói : Như vậy là không nhiều ! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà !

Ông ta hỏi : Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan ?

Tôi trả lời : Khoảng 500.000 cây số vuông.

Ông ta hỏi : Có bao nhiêu người ?

Tôi trả lời : Khoảng 40 triệu !

Ông ta nói : Một tỉnh của nước tôi có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan !

Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta nói với tôi : "Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên ?". Tôi nói : "Đúng". Ông ta hỏi : "Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh ?". Tôi nói : "Đúng". Ông ta nói : "Và quân Minh nữa, phải không ?". Tôi nói : "Đúng, và cả các ông nữa. Nếu các ông tìm cách xâm lược đất nước tôi. Các ông có biết điều đó không ?...".

Kể lại như thế rồi Tướng Trung kết luận : "Vì nhận thức được ý đồ của họ, cũng như các tiền nhân, nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta và ba tôi cũng giữ tinh thần cảnh giác, ngay cả khi họ là nước viện trợ rất lớn cho chúng ta trong kháng chiến chống Mỹ.

Có lần, họ đề nghị viện trợ cho chúng ta 500 xe tải chi viện cho tuyến đường Trường Sơn, với điều kiện họ sẽ cử lái xe đi kèm. 500 xe hồi đó là vô cùng quý giá với Việt Nam. Nhưng chúng ta đã kiên quyết từ chối. 

Khi đó có đồng chí lãnh đạo đề nghị ba tôi "nhận vài chiếc cho người ta vui", nhưng ba tôi và lãnh đạo không đồng ý. Ba tôi cũng báo cáo với Bác Hồ : "Chúng ta muốn thắng Mỹ, thì không được sợ Mỹ, nhưng nhất định cũng không được sợ Trung Quốc". Câu nói ấy của ông hẳn đã đến tai người Trung Quốc…".

Tại sao Tầu đánh Việt Nam năm 1979 ?

Sau đó, báo An Ninh Thế Giới hỏi : "Hầu hết những nhà nghiên cứu lịch sử đều nhận định, Tổng bí thư Lê Duẩn là nhà lãnh đạo Việt Nam có đường lối cứng rắn nhất với phương Bắc. Anh có đồng ý với ý kiến của nhiều người, khi họ cho rằng sự cứng rắn của ông Lê Duẩn là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh Biên giới phía bắc ?".

Tướng Trung đáp : "Ba tôi cứng rắn với họ thì đúng. Nhưng những người nói ông là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh Biên giới năm 1979 có lẽ là không hiểu lịch sử. Suốt thời phong kiến của chúng ta, họ đã vì ghét ông vua nào mà đem quân xâm lược mảnh đất này ? Không vì cha tôi, họ vẫn tìm cách chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, rồi bây giờ là âm mưu chiếm toàn bộ Biển Đông. Họ chẳng ghét ai cả. 

Chỉ có một lý do duy nhất, ý đồ xâm lược của họ là không bao giờ thay đổi. Ba tôi, mang trong mình bản năng của người Việt suốt chiều dài lịch sử : không cần biết họ mạnh thế nào, nhưng anh cứ xâm phạm biên giới chúng tôi là chúng tôi đánh…

Ba tôi, như bao người Việt yêu nước bằng cả trái tim mình, đã luôn hiểu rằng, họ là mối đe dọa truyền kiếp, là dân tộc mà trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, bất cứ triều đại nào, chế độ nào, cũng không từ bỏ ý đồ xâm chiếm Việt Nam. Lịch sử xâm lược của họ là lịch sử mở rộng lãnh thổ về phương Nam. 

Và, cho đến tận ngày hôm nay, với những yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông, về đường lưỡi bò, vẫn có thể chứng minh một điều, những nhận định của chúng ta về dã tâm của họ chưa bao giờ sai lầm. Khi còn nắm quyền, ba tôi vẫn cố gắng giữ một mối quan hệ ngoại giao mềm mỏng với họ".

Vậy phải chăng vì Trung Quốc đã nuôi thù với ông Lê Duẩn nên đã tìm cách áp lực phía Việt Nam không được nhắc đến tên Lê Duẩn trong nhiều năm qua ?

Nếu đúng như vậy thì cũng không ngạc nhiên vì nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, người thân của Lê Duẩn từng bị phía Tầu buộc Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh (đảng khóa VI) loại ra khỏi Bộ Chính trị và mất luôn chức Bộ trưởng Ngoại giao tại Đại hội đảng VII thời Đỗ Mười.

Vậy phản ứng của tướng Trung ra sao, báo An Ninh Thế Giới hỏi : "Và cảm giác của anh - một người con, như thế nào trong suốt giai đoạn ấy, giai đoạn mà tên tuổi ông ít được nhắc đến như thế ?".

Tướng Trung đáp thẳng thừng : "Dĩ nhiên là tôi buồn. Không chỉ buồn cho cá nhân tôi, gia đình tôi. Vì tôi cho rằng đã có những việc, câu chuyện của ba tôi đã không được đề cập chính xác, đầy đủ, khoa học. Tôi cũng rất buồn và mãi trăn trở một điều, tại sao có những sự thật mà sau bao nhiêu năm chúng ta vẫn nhất định phải giấu kín ? Và tôi cho rằng, đó không phải là cách hành xử khách quan, minh bạch và khoa học".

An Ninh Thế Giới hỏi tiếp : "Nói thế thì hẳn là anh khao khát đến một ngày, tất cả tư liệu về cuộc đời của Tổng bí thư Lê Duẩn, về những quan điểm cũng như quyết định của ông trong những thời điểm lịch sử và cả những đánh giá về vai trò của ông trong giai đoạn ông nắm quyền sẽ được công bố ?".

Ông Trung đáp : "Đó chính xác là mong ước lớn nhất của tôi và những người thân trong gia đình suốt nhiều năm qua. Cha tôi và nhiều nhà lãnh đạo đất nước thời kỳ đó đã mất mấy chục năm trời. Và tôi không hiểu lý do vì sao, có những điều đến giờ này chúng ta vẫn cần giữ bí mật.

Nhưng tôi nghĩ, những người làm công tác nghiên cứu, những người làm báo như chị, phải được tiếp xúc với những sự thật đó, để có cái nhìn chính xác và đầy đủ nhất về lịch sử. Và nhân dân cũng có quyền được biết, những nhà lãnh đạo của họ đã làm gì, đã ứng xử thế nào, trong những thời khắc lịch sử của đất nước".

(trích An Ninh Thế Giới, 27/07/2016)

Với những lời nói như những kẻ "điếc không sợ súng" của tướng Lê Kiên Trung và anh ông, Tiến sĩ Lê Kiên Thành về lập trường lúc nào cũng phải "đề phòng Tầu xâm lược" của nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn, hiển nhiên hai ông đã gửi một thông điệp chính trị khá lý thú cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người có tiếng thân Trung Quốc.

Phạm Trần

(22/02/2017)

--------------------

(1) Đọc thêm : Những ký ức không bao giờ cũ (Tuấn Khanh)

Published in Diễn đàn
Trang 5 đến 5