Đã có nhà văn cho rằng chiến tranh là "vũ điệu của những con số". Thật vậy, trong chiến tranh những con số nói lên rất nhiều điều.
Một cảnh trong The Vietnam War, PBS.
Ngày tháng, cho đến giờ của một trận chiến. Trận đánh kéo dài bao nhiều giờ, phút ? lực lượng tham chiến các bên là bao nhiêu ? số bom, đạn lớn nhỏ nhiều hay ít ? hiệu quả ra sao ? thương vong, người chết, bị thương nặng nhẹ ra sao, bao nhiêu ? tù binh, chiến lợi phẩm nhiều ít là bao nhiêu ?
Nói đến một trận đánh mà không có những con số để thuyết minh thì thật là vô duyên, vô dụng.
Trong chiến tranh ở Việt Nam, 2 bên đều đưa ra những con số của mỗi trận chiến. Nhưng mỗi bên có một quan niệm, cách thức khác hẳn nhau. Điều này có tác dụng không nhỏ đối với kết thúc của cuộc chiến, có thể nói là có tác dụng quyết định thắng thua trong chiến tranh.
Về phía Hoa Kỳ, các thông báo, tin tức, các con số đều chuẩn xác theo nền nếp công khai, chính quy của một hệ thống sổ sách, thống kê, kế toán khoa học, chi ly, nghiêm chỉnh. Con số sỹ quan, quân nhân, chuyên viên, kỹ thuật viên, đơn vị có mặt ở miền Nam Việt Nam là bao nhiêu, được thông báo từng tuần lễ, từng tháng một. Các đợt tăng quân, giảm quân, rút quân cũng công khai tỷ mỷ, rõ ràng, chính xác đến tuyệt đối.
Tướng Westmoreland còn ra chỉ lệnh cho mọi cấp chỉ huy phải đích thân đếm kỹ các xác chết của đối phương để đảm bảo các báo cáo thật chuẩn xác.
Còn phía Bắc Việt Nam đưa bao nhiêu quân vào miền Nam ? không có một tin tức nào, một con số nào suốt từ năm 1960 đến năm 1975. Coi như không hề có 1 quân nhân nào từ miền Bắc vượt qua giới tuyến quân sự. Cứ như là tất cả đều là Quân giải phóng của Mặt trận Giải phóng là dân miền Nam, dân tại chỗ hết. Có thế mới là "tôn trọng tuyệt đối quyền tự quyết của nhân dân miền Nam" như đã cam kết trong các Hiệp định. Các xe tăng vào Nam cũng cắm cờ Mặt trận.
Về công bố con số thương vong trong các trận đánh, trong cuộc chiến tranh cũng vậy, mỗi bên có một quan niệm riêng, một cung cách riêng khác hẳn nhau.
Phía Hoa Kỳ theo nếp làm việc công khai, minh bạch, chuẩn xác. Bộ Quốc phòng công bố hàng tuần lễ tổn thất của quân nhân Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, có tuần lễ 40, 60 người, có tuần lễ lên 180 người. Tổng số sau khi chiến tranh kết thức là gần 60.000, có tên từng người ghi trên bức tường kỷ niệm giữa thủ đô Washington DC.
Vậy mà theo công bố của phía Bắc Việt Nam, riêng trong năm 1968 qua trận chiến Mậu Thân, quân Hoa Kỳ đã tổn thất lên đến 130.000 người (!).
Nếu cộng tất cả các con số thương vong của quân đội Việt nam Cộng hòa đăng trên báo Quân đội Nhân dân thì chỉ riêng trong năm 1968, con số đó lên đến gần nửa triệu, hơn 460.000 ngàn quân ! Một con số thổi phồng quá đáng ! Còn "phía ta" thì không có con số nào, nghĩa là… không đáng kể.
Về số máy bay bị bắn rơi trên miền Bắc, con số Lầu Năm góc đưa ra là gần 1.000 máy bay các loại, nhưng theo công bố của Hà Nội là gần 3.000 chiếc. Những con số thật và số ma, số ảo cãi nhau, nhảy múa loạn xạ trong nhận thức của người muốn biết sự thật. Tin ở con số nào ?
Cũng như những sự kiện. Trong "The Vietnam war", các nhà làm phim tái hiện cuộc tàn sát Mỹ Lai với kết quả viên thiếu úy W. Calley bị ra vành móng ngựa với bản án tù chung thân (sau được ân xá), còn vụ tàn sát Mậu Thân ở Huế với vài ngàn nạn nhân bi thảm thì đến nay cũng chưa thật rõ ngọn ngành và nguyên nhân, không có ai là người chịu trách nhiệm.
Thật ra mỗi bên có cái lý sự của mình.
Phía Hoa Kỳ là một thể chế dân chủ thuần thục, luôn tôn trọng sự chân thực, chính xác, không cho phép mỵ dân, lừa dân, nói dối dân, sẽ mất hết niềm tin, cơ sở tồn tại của chế độ.
Phía chế độ độc đoán độc đảng là quan niệm đánh lừa được địch trong chiến tranh, nghi binh, che dấu sự thật không đáng nói trong chiến tranh là thủ thuật, khôn ngoan, miễn là giành được chiến thắng, toàn thắng. Mọi sự nói dối, lừa địch và che dấu, lừa dư luận trong nước và thế giới là được phép, lương tâm yên tĩnh, không cần băn khoăn. Kết quả biện minh cho biện pháp. Thực dụng đặt lên trên đạo đức, tính lương thiện.
Thật khó phán xử bên nào, đúng bên nào sai. Hai chế độ chính trị, hai nền văn hóa đối chọi nhau, khác hẳn nhau.
Nếu như phía Hoa Kỳ cũng che dấu sự thật, không thông báo chi ly, chính xác tổn thất của phía mình từng tuần lễ, che dấu tổn thất hàng tuần tăng gấp 2, 3, đến 5 lần năm sau so với các năm trước, thì có thể phong trào phản chiến không mạnh mẽ quyết liệt như đã từng xảy ra.
Nếu như phía Bắc Việt cũng làm như Hoa Kỳ, công bố sòng phẳng chân thực các con số thương vong các bên, thường thương vong trong một trận cao hơn đối phương đến 3, 4 lần, thì hậu phương sẽ bị chấn động lớn, lòng dân hậu phương sẽ không yên. Cuộc chiến có thể không kết thúc như đã diễn ra.
Sự nhảy múa hoa mắt của những con số, đây cũng là một góc khuất lý thú của cuộc chiến mà 2 nhà đạo diễn Hoa Kỳ đã không nêu bật lên. Nó có tác dụng đối với kết quả và kết thúc của cuộc chiến.
Xin nêu lên một sự thật như một đóng góp nhỏ bé cho việc nhìn lại và tổng kết về cuộc chiến vừa qua.
Bùi Tín
Nguồn : VOA, 18/10/2017
Thư gửi các bạn thời trẻ dại
(Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây II-Thị Nghè)
Một hình ảnh trong The Vietnam War.
Các bạn rất cũ. Lâu quá không gửi thư cho nhau, có lẽ cũng do chúng mình ở xa nhau quá, tuổi mỗi ngày một nặng thêm nên lười, rồi lúc nhớ lúc quên, cứ nói sẽ viết, tiếp theo là sẽ quên. Hôm nay bỗng nhớ đến các bạn, và thấy cần phải viết để chia sẻ với các bạn một điều mà chúng ta đã và vẫn chia chung. Cả hai tuần nay từ lúc bắt đầu chiếu phim về Chiến Tranh Việt Nam trên truyền hình, tôi nhận được rất nhiều bài viết, nhiều phản ứng về bộ phim này.
Đi ra từ chiến tranh, sống trong chiến tranh, rồi lại chạy ra khỏi chiến tranh
Chúng mình là bạn từ thời Tiểu Học 1954, theo cha mẹ chạy Cộng Sản vào Nam. Đi ra từ chiến tranh, sống trong chiến tranh, rồi lại chạy ra khỏi chiến tranh. Chặng đường hơn 20 năm thật quá dài, nhưng khi đã hết chiến tranh (ít nhất là với chúng mình), sống rải rác trên địa cầu hơn 40 năm thanh bình, vẫn chưa thoát ra khỏi hai chữ "chiến tranh".
Đọc những bài viết nhận định về bộ phim 10 kỳ liên tiếp này. Nhiều người phân tích rành rọt về Cộng Sản, về Quốc Gia, về Đồng Minh Mỹ rất chi tiết, rất tỉ mỉ. Dù phân tích đó rất nông cạn hay rất thuyết phục, nhưng cuối cùng còn lại hai chữ "Chiến Tranh", dù nhìn bằng góc cạnh nào chăng nữa cũng vẫn đau lòng.
Những con số người chết cho cuộc chiến này, con số trận đánh hai bên, con số những trận bom rải thảm. Con số người chết trong "Trại Cải Tạo", chết "Vượt Biên Giới", chết "Vượt Biển" và Đồng Minh chết cho đất nước bạn. Có cố nói thế nào, biện minh ra sao, thì cái phần đau đớn hậu quả đó không lấy bất cứ "lý lẽ" gì mà cứu vãn được. Chỉ có thể kết luận là "rùng mình" :
Cái hậu chiến tranh giống như khói hun vào phổi chúng ta, không thể nào lấy ra được. Chúng ta sống với buồng phổi đó cho đến lúc chết .
Chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam dù được suy diễn cách nào, dù đặt tên cuộc chiến là gì ta cũng thấy rõ ràng là "Huynh Đệ Tương Tàn". Những người lính sau một trận chiến, chết nằm úp mặt, lật lên máu đỏ da vàng, nếu còn thoi thóp sẽ nói cùng ngôn ngữ với ta. Cộng Sản hay Quốc Gia lúc đó chỉ còn trơ ra một hình hài "Việt Nam" khốn khổ. Ta chỉ còn biết thốt lên :
"Trời ơi những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai ?"
Tô Thùy Yên
Từ lúc nào chúng ta đã khóc cho chiến tranh và chúng ta sẽ lại phải khóc vì chiến tranh vào lúc nào nữa, trong khi thế giới càng ngày càng hoảng loạn, căng thẳng. Có thể chúng ta không còn cơ hội khóc nữa vì chúng ta đã quá già nua và sắp ra khỏi đời sống, nhưng con, cháu, chắt chúng ta liệu có bình yên mãi được không ?
Những ngày cuối của chiến tranh Việt Nam
Tôi nhớ lại một bài Thơ khóc con của Rudyard Kipling, nhà văn, nhà Thơ người Anh nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết cho trẻ em, The Jungle Book (1894), con trai ông, Thiếu úy John Kipling của quân đội Anh đã tử trận trong Trận Loos, ở vùng Artois của Pháp trong Đệ I Thế Chiến và không tìm thấy xác. Ông không khóc riêng cho con trai mình, mà cho tất cả những người con đã hy sinh trong Đệ I Thế chiến (*) :
That flesh we had nursed from the first in all cleanness was given…
To be blanched or gay-painted by fumes – to be cindered by fires –
To be senselessly tossed and retossed in stale mutilation
From crater to crater. For this we shall take expiation.
But who shall return us our children ?
--------------------
Da thịt con tinh khiết
Cha mẹ nuôi ấu thơ
Khói đã nhuộm xám đen
Bom đốt thành tro bụi
Xác con ném qua lại
Trên những hố những hầm
Xác con đã nổ tung
Chúng ta sẽ đền bù
Những điều đã xẩy ra
Nhưng ai sẽ trả lại
Con thân yêu cho ta
(Trần Mộng Tú dịch)
Người chồng chết, người vợ trẻ còn đàn con nhỏ để tìm niềm an ủi trong vất vả hy sinh. Người con chết, cha mẹ không tìm ra điều gì thay thế vào được.
Có người nói "Bộ phim Vietnam War chỉ cốt chống chế cho thể diện của Mỹ hơn là sự trung thực cho cuộc chiến".
Người con chết, cha mẹ không tìm ra điều gì thay thế vào được
Hãy đọc một bài Thơ về sự trung thực trong cuộc chiến này của Kyle Schlicher (USMC 5/15/1968), một người lính trong quân đội Đồng Minh Mỹ.
They Didn't Know
he lay there
under the sun
dried blood on his lips.
the heat was oppressive.
his clothes were dusty,
dark blotches on them.
i could see the ants
moving,
entering him
and
exiting him.
how i hate this place!
how i hate the people
who are responsible
for all this unbelievable madness.
how i hate myself
for volunteering to be here!
i watched the ants crawling
over the body.
i wanted to hate them too!
but
they didn't know
and
the hating
had to stop somewhere.
Chúng Chẳng Biết Gì Đâu
chàng nằm đó
dưới mặt trời
máu khô trên môi
sức nóng nung người
quần áo chàng bẩn thỉu
bầm đen từng mảng
tôi thấy những con kiến
chuyển động
chúng vào trong chàng
rồi
ra khỏi chàng
sao tôi ghét nơi này thế
sao tôi ghét mấy người này thế
mấy người có trách nhiệm
cho những điên cuồng không tưởng
sao tôi ghét cả chính tôi thế
sao lại tự nguyện tới đây
tôi nhìn những con kiến bò
qua lại trên xác chàng
tôi muốn ghét luôn chúng nữa
nhưng
chúng chẳng biết gì đâu
và
cái sự ghét này
phải chấm dứt ở một nơi nào đó.
Hai đoạn của hai bài thơ tiếp theo, của người lính miền Nam và một của người miền Bắc.
Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không ?
Trước mặt con: những ngọn đồi cát máu
Đêm thì thầm cùng những nấm xương
Ôi, trái tim con mãi tôn thờ Má
Đã dạy con hai tiếng yêu thương.
Nguyễn Dương Quang
(Đêm cuối năm viết cho Má)
Buổi chiều sau chiến tranh
Ngày trở về
anh đi lệch một bên
Một ống quần
phất phơ trong gió...
Bà mẹ nghèo lẩy bẩy
Ra ngõ đón con
Con dìu mẹ, mẹ dìu con
Hai dấu chấm khép chiều nắng lửa...!
Trần Sĩ Tuấn
Các bạn của tôi ơi ! Ngày 23 tháng 10 này tôi sẽ nhận lời mời của Thư Viện Seattle đến nghe bà Lynn Novick nói về công việc làm một cuốn phim về chiến tranh thế nào. Tôi sẽ đọc một bài thơ về cảm nghĩ của mình khi xem phim về chiến tranh (Theo yêu cầu của Thư Viện).
Tôi sẽ không dự buổi bình luận về cuộc chiến trong phim, đó không thuộc khả năng hiểu biết của tôi, vì ngay cả Ken Burns và Lynn Novick những người hàng đầu về làm phim chiến tranh đều thừa nhận "Cuộc chiến Việt Nam" là chủ đề khó khăn và phức tạp nhất mà họ từng thực hiện khi có quá nhiều luồng quan điểm, quá nhiều cách nhìn nhận từ các đối tượng khác nhau. Khi được hỏi vì sao lựa chiến tranh Việt Nam, mở lại những hồi ức đau thương và tranh luận cay đắng không có hồi kết, hai đạo diễn cho rằng "Việt Nam" vẫn là công việc còn dang dở của nước Mỹ. Không có ai thực sự hiểu cuộc chiến đã xảy ra thế nào và những người trải qua nó phải chịu đựng ra sao.
(trích Nghiencuuquocte.net)
Đến bao giờ nước Mỹ mới hết những công việc dang dở này trên thế giới ?
Những người bạn thời "Tiểu Học" của tôi. Những: Nam,Giáo,Tâm, An, Hà 1, Hà 2, Bình, Hạnh, Giao ơi! Hãy yêu thương Việt Nam mình với trái tim của thời tuổi dại, hãy cố quên đi những người thân yêu trong gia đình mình, những người bạn của mình đã chết ở Bắc hay Nam, vì AK-47, vì B-40, hãy cố tha thứ và thương yêu như trong một câu Thơ của người góa phụ trẻ miền Nam đã viết :
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
Trần Mộng Tú
(30/9/2017)
Nguồn : VOA, 02/10/2017
(*) Joshep Rudyard Kipling 1865-1936 - Nobel Văn Chương 1907
Sau gần 3 năm chuẩn bị, cuộc triển lãm "Chiến tranh Việt Nam : 1945-1975" khai mạc hôm thứ Tư tuần này tại Viện Bảo tàng Lịch sử New York.
Viện Bảo Tàng Lịch sử New-York gần cổng vào Central Park ở New York. (Ảnh AP Photo/Mark Lennihan)
Cuộc chiến đã làm xã hội chia rẽ sâu xa và phơi bày những giới hạn của sức mạnh quân sự Mỹ, là chủ đề của một cuộc triển lãm mới về một đề tài cũ nhưng hãy còn nhiều tiếng vang trên chính trường đầy chia rẽ của nước Mỹ ngày nay, theo lời người phụ trách triển lãm, bà Marci Reaven.
Cách đây vài năm, khi ý kiến tổ chức một cuộc triển lãm về Chiến tranh Việt Nam được nêu lên tại Bảo tàng Lịch sử New York, một thành viên của Hội đồng Quản trị, ông James Grant, kể lại rằng hơn 40 năm sau cuộc chiến, chiến tranh Việt Nam vẫn khơi lên những xúc cảm mãnh liệt.
Ông Grant, một cựu chiến binh hải quân Mỹ phục vụ tại Việt Nam vào giữa thập niên 1960, nói một cuộc tranh luận sôi nổi đã nổ ra giữa ông với một thành viên khác trong Hội đồng quản trị về động cơ của Hoa Kỳ khi tham chiến, bản chất cuộc xung đột, và liệu các nỗ lực và những sự hy sinh đó rốt cuộc chỉ vô ích ?
Với những kỷ vật và chứng tích được trưng bày, bằng cả âm thanh và hình ảnh, cuộc triển lãm có tính tương tác kể lại câu chuyện của cuộc xung đột từ gốc của nó sau Thế chiến Thứ Hai, khi mà Hoa Kỳ hậu thuẫn cho quân đội Pháp để tìm cách duy trì chế độ cai trị thực dân của nước này ở Đông Dương.
Cuộc triển lãm miêu tả giai đoạn leo thang chiến tranh, cũng như giai đoạn khép lại cuộc chiến, triệt thoái binh sĩ Mỹ về nước giữa lúc phong trào chống chiến tranh nổi lên ở trong nước, cũng như các cuộc biểu tình sôi nổi không kém ủng hộ các nỗ lực chiến tranh.
Theo bà Marci Reaven, Giám Đốc phụ trách triển lãm, thì câu chuyện chiến tranh Việt Nam được kể từ cả hai phía. Tại triển lãm, khách có thể xem một tác phẩm sơn mài tuyên truyền của miền Bắc năm 1962, do một nghệ sĩ còn sống tái tạo lại độc quyền cho Bảo tàng Lịch sử New York.
Các chứng tích được trưng bày gồm một phi đạn Bullpup gắn trên máy bay ném bom F-105, một chiếc xe jeep, và hai dãy màn ảnh video thuật lại từng giai đoạn của cuộc chiến. Khách có thể chọn đoạn video kể lại từng giai đoạn lịch sử của cuộc chiến.
Trong các kỷ vật được trưng bày còn có giấy gọi nhập ngũ mà thanh niên Mỹ tuổi từ 18 tới 26 thời đó phải luôn mang theo mình, nhiều người đã mang ra đốt giấy này để nói lên sự chống đối của mình, và thách thức lệnh nhập ngũ. Chính sự chống đối này đã dẫn tới việc bãi bỏ lệnh nhập ngũ vào năm 1973, không lâu sau khi những binh sĩ Mỹ cuối cùng rút ra khỏi Việt Nam.
Tất cả những chi tiết nghe tương tự như những gì đã nghe về bộ phim tài liệu 10 tập của đạo diễn Ken Burns và đạo diễn Lynn Novick vừa được trình chiếu trên đài PBS mới đây, chỉ là do "tình cờ ngẫu nhiên", theo bà Marci Reaven.
Khách đến xem triển lãm được khuyến khích ghi lại, hoặc ghi âm những sự suy nghĩ của mình về chiến tranh Việt Nam, để lại cho các thế hệ mai sau.
"Chúng tôi muốn các thế hệ đến sau trải nghiệm, như chúng ta đã trải nghiệm, rằng chiến tranh là sản phẩm của nhiều quyết định do các chính quyền và cá nhân làm ra, và điều quan trọng là phải tìm hiểu các quyết định đó, chú ý tới các quyết định đó khi mà chúng đang được làm".
Cuộc triển lãm "Chiến tranh Việt Nam : 1945-1975" tại Viện Bảo Tàng Lịch sử sẽ mở cho tới ngày 22/4/2018.
Phi lộ
Các bạn quý mến,
Bài báo này sau khi đăng trên VOA có một bạn hồi âm ngay, cho rằng Bùi Tín bịa đặt xấu xa, làm gì có chuyện bặt tin, trong chiến tranh thư từ vẫn được gửi và nhận bình thường giữa 2 miền !!!
Bộ đội tranh thủ nghỉ đọc thư chụp tại dãy Trường Sơn năm 1972 (Ảnh : Đoàn Công Tính-Dân Trí)
Tôi viết theo kinh nghiệm cá nhân. Tôi đi B 3 lần, một lần 8 tháng, 1 lần 18 tháng, vợ trẻ, con gái lên 6, con trai lên 3 vậy mà không một lá thư đi về, bặt tin hoàn toàn. Dù lo nghĩ, buồn nhớ thương, nhưng chịu.
Tôi có 2 cháu con 2 bà chị, cháu Hiệp 22 tuổi, cháu Hưng 19 hy sinh ở Bình Định, Đức Phổ, báo tử chậm gần 1 năm, nay vẫn không biết thi hài, mộ ở đâu. 2 cháu cũng không có một lá thư từ khi lên đường.
Tôi không vu cáo, bịa đặt. Tôi thấy phải phơi bày sự thật, vì những oan hồn, oan trái trong cuộc chiến.
Xin các bạn từng đi B, các gia đình tử sỹ cho biết tôi có bịa đặt vu cáo hay không.
Ý kiến quý báu của bạn xin email cho tôi.
Cám ơn các bạn nhiều.
Bùi Tín
(05/10/2017)
_____
"Kính gửi Ban biên tập Tiếng Dân,
Tôi vừa đọc trên Tiếng Dân hôm nay bài "Những oan hồn của cuộc chiến" của ông Bùi Tín (1), thấy có đoạn trong file kèm đây là hoàn toàn sai, bịa đặt :
"Có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời".
Trong chiến tranh chống Mỹ, tôi đã ở chiến trường miền Nam 13 năm, biết rõ hoàn toàn không có sự cấm đoán "độc ác" nào với việc liên lạc thư từ giữa những người chiến đấu ở miền Nam và người thân ở miền Bắc. Tất nhiên là liên lạc có khó khăn, do chiến sự, nhưng tuyết đối không có chuyện cấm đoán, thậm chí trái lại còn được khuyến khích. Rất dễ hiểu : để người cầm súng yên tâm chiến đấu. Cũng dễ hiểu những thư từ đó không được tiết lộ những bí mật quân sự mà mọi người lính đều biết.
Không biết ông Bùi Tín bịa ra chi tiết này để làm gì, sẽ chỉ khiến cho những điều khác do ông nói ra có thể đúng sẽ trở nên khó tin. Khách quan, trung thực, đứng đắn bao giờ cũng cần thiết.
Nguyên Ngọc (05/10/2017)
(1) http://baotiengdan.com/2017/10/05/nhung-oan-hon-cua-cuoc-chien/
_____
Hồi âm của nhà văn Bùi Tín :
"Thân gửi cô Ngọc Thu và anh Nguyên Ngọc,
Rất cám ơn cô NT đã đăng bài và cho biết ý kiến của anh Nguyên Ngọc.
Tôi hơi bất ngờ vì tôi nghĩ anh Nguyên Ngọc cũng rõ cái tình cảnh không có thư từ liên lạc công khai, chính thức qua bưu điện Nam – Bắc ra sao. Sự bặt tin là phổ biến. Tôi đã sống với cả đại đội ở chiến trường miền Nam hàng tháng, đều là như thế. Anh em chỉ có thể gửi thư tay cho cán bộ, anh em bị thương trở ra miền Bắc đưa tay hộ. Hầu như 100% là thế.
Sao anh NN lại nói là thư từ được gửi bình thường ?! Xin hỏi các anh em đi B mà xem. Các gia đình tử sỹ thì rõ.
Tôi có kinh nghiệm bản thân, 3 lần đi B – vào Nam là như thế. Đi 8 tháng, 1 năm rưỡi mà bặt tin. Vợ trẻ, con gái 6 tuổi, con trai 2 tuổi mà bằng bẵng 8 tháng không một tin nào. Gửi ai được ? đành chịu. Tôi còn nhớ ghé qua Bộ Chỉ huy Quân khu 5 gặp anh Nguyên Ngọc, các bạn đi bắn con rộc – con vượn bao tử cho ăn cháo rộc. Còn nhớ mãi.
Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán… nên báo tử chậm một cách phổ biến. Cục Chính sách của Tổng cục Chính trị cho biết chậm trung bình là 18 tháng ! Nhiều tử sỹ được anh em bạn từ miền Nam ra báo, sau mới được Bộ Quốc phòng báo chính thức.
Cháu Hưng 19 tuổi và cháu Hiệp 23 tuổi của tôi, con 2 bà chị hy sinh ở Quảng Ngãi, Bình Định đến nay vẫn không tìm ra mộ, thi hài. Cháu Hiệp học rất giỏi, là lớp trưởng. 2 cháu đi không có một lá thư, hy sinh không có một vật gì để lại.
Tôi thấy tất cả là sự thật. Xin làm một cuộc điều tra xã hội học công khai khách quan thì sẽ rõ.
Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi.
Tôi luôn định cho mình sự trung thực trên hết, và cả cái quyền tự do phán xét có trách nhiệm.
Tôi rất quý anh Nguyên Ngọc về tính ngay thẳng, và sự gắn bó với lý tưởng Phan chu Trinh.
Có gì xin anh trao đổi thêm.
Quý mến,
Bùi Tín
(05/10/2017)
_____
Theo đề nghị của anh, tôi xin đóng góp một chút dữ kiện. Hồi còn sinh thời, trước năm 1975, Nhật Tuấn em trai tôi cũng đã đi B và lặn lội vài năm trên đường Trường Sơn. Sau 1975, khi Nhật Tuấn vào Sài Gòn, anh em chúng tôi có dịp hàn huyên nhiều chuyện.
Khi đề cập đến chuyện nhà, Tuấn có than rằng nhiều năm xa Bố (sống ở Hà Nội), vậy mà không bao giờ có dịp viết thư hỏi thăm vì trong cuộc chiến làm gì có chuyện thư từ qua lại. Ngay cả khi đồng đội có người bỏ xác trên chiến trường cũng không có chuyện thư từ báo tin về cho gia đình hay nữa. Như vậy có ai cho rằng "anh bịa đặt xấu xa" theo tôi là không đúng. Riêng tôi, vẫn theo dõi các bài anh viết, tôi rất cảm phục sự trung thực và tấm lòng của anh đối với đất nước.
Nhật Tiến
(05/10/2017)
_____
Một số phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam do quân đội Hoa Kỳ phổ biến mà tôi được xem cho thấy bộ đội miền Bắc không có phương tiện chuyên chở trong vùng rừng núi. Cho nên sau nhiều trận giao tranh, trước khi vôi vã rút lui, họ chỉ có thời giờ vội vã chôn vùi bộ đội tử thương trong nhửng mồ chôn tập thể trong rừng núi. Vì vậy chuyện mất xác là chuyện bình thường. Miến Bắc cố tình dấu con số thương vong.
Bộ Đội Việt Nam có nhiều binh tử trận và mất tích ở Campuchia, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy hết. Do đó mà trong những lần các nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Nam gặp lãnh đạo Campuchia đều thảo luận về ba vấn đề then chốt là :
(1) Tranh chấp biên giới ;
(2) Người gốc Việt sống ở Campuchia ;
(3) và binh sĩ Việt mất tích tại Campuchia theo các bài tường thuật của báo Việt Nam gần đây. Việt Nam chiếm đóng Campuchia từ 1978-1889.
Trong 10 năm đã không hoàn tất được việc tìm kiếm này. Do đó, Việt Nam liên tục kêu gọi Campuchia giúp đỡ.
Thành ra, những lời anh kể phản ảnh đúng sự thật.
Nguyễn Quốc Khải
(06/10/2017)
*******************
Bộ phim Chiến tranh Việt Nam của các đạo diễn Hoa Kỳ gây nên nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau của người Việt trong và ngoài nước.
Mộ liệt sĩ trường Sơn, Đường số 9 - Ảnh minh họa
Đó là điều tất yếu vì cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm, liên quan đến nhiều nước, với những động cơ khác nhau, không thể làm thỏa mãn mọi người.
Đây là một dịp bổ ích và lý thú để công luận có thể được dịp phát biểu thêm, soi tỏ thêm nhiều điều mới mẻ, những góc tối của cuộc chiến, từ đó có thể bổ xung cho nhau nhiều hiểu biết mới để soi tỏ thêm quá khứ, hiện tại và tương lai của các bên tham chiến trong mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Một số nhà báo, làm phim truyền hình người Việt, người Pháp, Hoa Kỳ, Đức… phỏng vấn tôi nhân dịp này. Tôi đã phát biểu ý kiến của mình.
Với tư cách là một nhân chứng sống, từng tham dự cuộc chiến từ ngày đầu đến ngày cuối, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, ở chiến trường Cam-bốt cũng như ở Lào, tôi có nhiều suy nghĩ, kỷ niệm về cuộc chiến tranh, nay có dịp để nói lên những điều quan trọng bị khỏa lấp mà bộ phim hoành tráng của các nhà làm phim Hoa Kỳ không đề cập đến.
Nhiều bạn hỏi tôi, nếu tôi tham gia một bộ phim khác về Chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ nói lên những điều gì ? Tôi có khá nhiều điều cần phát biểu về cuộc chiến, khi tưởng nhớ, ngẫm nghĩ lại về cuộc chiến. Qua bài báo này trước hết, tôi muốn nói đến những oan hồn của cuộc chiến.
Tôi có một số người thân, ông chú, các anh chị em họ Bùi vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã bị Việt Minh chụp mũ cho là Việt gian, bị bắt giam sau Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu là ông Bùi Nhữ Uyên chú ruột tôi từng theo cụ Nguyễn Thượng Hiền, người cùng làng sang Nhật Bản vận động cho phong trào Đông Du và sau đó về Trung Quốc, tham gia Việt Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu. Chú tôi bị bắt năm 1946, bố tôi (Bùi Bằng Đoàn) lúc đó là trong Ban Thường trực Quốc hội can thiệp với ông Hồ chí Minh, ông Hồ lệnh cho chính quyền tỉnh Hà Đông thả ngay chú tôi, nhưng đúng vào đêm lệnh thả đến nhà giam ở Vân Đình thì chú tôi mất vì "đau bụng" khẩn cấp. Bạn tù cùng giam cho rằng chú tôi bị trại giam đầu độc.
Những oan hồn tôi không thể quên. Việt Minh từ hồi đó coi tất cả các đảng yêu nước chống Pháp là Việt gian, như Quốc Dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Cách mạng đồng minh, đệ tứ (Trostkyt)… Họ phê phán rất mạnh cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, coi là sai lầm thân Tàu, chuộng Pháp.
Tôi còn nhớ trước năm 1940 1941 số đảng viên Quốc dân đảng rất đông, vượt con số đảng viên đảng CS Đông dương ở các nhà giam, ở Côn Đảo. Rất nhiều giáo viên tiểu học các xã, huyện, trí thức nông thôn tham gia phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Rất nhiều trung nông, phú nông, cả địa chủ nhỏ có học tham gia đảng này, về sau bị Cải cách ruộng đất kiểu Mao vu cáo là địa chủ ác bá, là việt gian, bị sát hại gần hết, theo thống kê khi sửa sai con số oan hồn này lên đến hơn 15.000.
Ngoài số nói trên cần kể đến oan hồn của các nhà yêu nước Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm – lãnh đạo nhóm Troskyt, tướng Nguyễn Bình và nhà sử học Trần Huy Liệu - nguyên là đảng viên Quốc dân đảng, cụ Đặng Văn Hướng – nguyên Bộ trưởng không bộ do ông Hồ phong chức và cụ Nguyễn Khắc Niêm, thân sinh ông Nguyễn Khắc Viện, chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp – 2 cụ đều bị tàn sát trong Cải cách ruộng đất.
Cũng cần ghi thêm trong danh sách các oan hồn những cán bộ cộng sản có ít nhiều thức tỉnh đã bị thải loại, ra rìa, như tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Hoàng Minh Chính… trong vụ án "xét lại", Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán… trong vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Nguyên Giáp… từng có tư duy độc lập chống lại một số chủ trương chính sách của đảng.
Những ngôi mộ vô danh trong cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua sẽ không bao giờ có tên - Ảnh minh họa
Các đồng đội của tôi vào Nam chiến đấu theo lời nguyện "sinh Bắc tử Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc", chết vài chục vạn, hơn 300.000 tử sĩ hiện chưa tìm ra thi hài mộ chí, cũng là những oan hồn, nỗi đau lòng uất hận của hàng vài triệu bố mẹ, anh chị em ruột thịt. Đó là những oan hồn vì khi chiến đấu, tự nguyện hy sinh, các đồng đội của tôi đều mang theo hy vọng rồi gia đình mình, bố mẹ anh chị em mình, đồng bào mình sẽ được hưởng độc lập tự do, an bình, phồn vinh hạnh phúc. Những hy vọng thiêng liêng ấy đến nay vẫn còn xa vời. Ngược lại đất nước còn bị ách Bắc thuộc từ sau mật đàm Thành Đô năm 1990, tự do tư tưởng, ngôn luận còn bị cấm đoán, trừng phạt, an ninh của nhân dân, nông dân, trí thức, nhà kinh doanh tự do bị đe dọa, các chiến sỹ yêu nước, đòi tự do cho nhân dân bị tù đầy, chênh lệch giàu nghèo tồi tệ hơn thời phong kiến, thực dân, đảng cộng sản biến thành lực lượng kìm hãm đà tiến bộ, phát triển của đất nước, mắc nợ hàng triệu oan hồn đã hy sinh do những lời đường mật giả dối.
Tôi có nhiều anh em, cháu, - con các bà chị ruột và chị họ vào Nam chiến đấu và hy sinh ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, Bình Định nay vẫn chưa tìm ra thi hài, mộ chí. Đã đến lúc phải nói thẳng ra là gia đình và các cháu đã bị lừa. Họ đưa ra Luật nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền về vinh quang trai thời loạn là sinh Bắc tử Nam, cưỡng bức các cháu bỏ học cầm súng, bắt ký các bản tình nguyện nhập ngũ, buộc bố mẹ phải ký tên "vinh dự hiến con cho Tổ quốc", trong khi con cháu các quan lớn hầu hết đều được xuất ngoại học tập ở Liên Xô, Trung Quốc , Ba lan, Đông Đức, Tiệp… Một sự bất công khổng lồ. Bố mẹ các cháu tôi lo nghĩ tiếc thương con, ban đêm xụt xùi khóc, nhưng vẫn phải tỏ ra vui vẻ khi tiễn con vào Nam. Các cháu đều miễn cưỡng ký giấy "tình nguyện vào Nam chiến đấu, đâu cần xin có mặt" theo ý nguyện (cưỡng bức) của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cả một khoa học bịp bợm thành hệ thống.
Tôi đã từng nhiều lần vào Nam cùng các đơn vị, vào Bình Trị Thiên, rồi vào Tây Nguyên – Kon Tum, Gia Lai, vào Bình Định, Buôn Ma Thuột, Bình Long, Sài Gòn… có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời. Hoặc có khi tử trận, nhưng giấy báo tử để chậm vài năm là thường, vì chiến tranh khốc liệt, tử sỹ nhiều, đơn vị giải thể, tiêu tùng hết, nhiều đơn vị sát nhập vào nhau, sổ sách mất, cháy, chỉ huy thuyên chuyển liên miên, không có nền nếp chính quy, kiểu du kích, đại khái, lem nhem.
Cho đến chuyện quản lý tù binh Mỹ chặt chẽ, có sổ sách hàng ngày mà cuối cùng vẫn mất tích, không lý giải được, lên đến hơn 100 người, đủ biết công việc quản lý của quân đội thời chiến luộm thuộm ra sao.
Ở các nước văn minh, với quân đội hiện đại, họ rất quan tâm đến việc thông tin, thư từ gia đình quân nhân được chuyển nhanh nhất, chu đáo nhất đến tay chiến sĩ ngoài mặt trận. Đây là trách nhiệm, đền đáp thiết thực có ý nghĩa nhất những hy sinh của gia đình và các quân nhân. Ở Việt Nam, đảng cộng sản cho việc cố tình bặt tin là biện pháp cưỡng bức để các chiến sĩ không còn suy nghĩ thao thức mong chờ thư đi từ lại, một lòng một dạ hy sinh chiến đấu cho những mục tiêu riêng của đảng. Đây là món rất độc của chiến tranh tâm lý. Vì nếu tự do thư từ, thông tin, các chiến sĩ sẽ kể về những trận đánh thiêu thân, cả đơn vị chết quá nửa như sau tết Mậu Thân thì hậu phương sẽ bị chấn động, rất nguy hiểm để kêu gọi tiếp những đợt "sinh Bắc tử Nam", mà phần lớn sẽ không trở về.
Ngoài hàng mấy chục vạn oan hồn trên đây, tôi không thể không nhắc đến vài vạn người chưa chết nhưng bị những oan khiên dằn vặt không kém các oan hồn kể trên. Họ rất đáng thương, nhưng xã hội đã lãng quên họ.
Đó là chừng 20.000 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân (theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quân lực Bộ Tổng tham mưu) vào Nam bị chiêu hồi bởi Việt nam Cộng hòa, sau chiến tranh trở về gia đình ở miền Bắc, đã bị hỏi tội, bỏ tù, cải tạo, trả thù, bôi xấu, hạ nhục, hành hạ ra sao, bị gia đình xỉ vả, láng giềng khinh miệt, không sao ngẩng mặt lên được. Theo tôi biết, rất đông anh em đó ở Hà Nội, Hà đông, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh… Một số bảo mạng, cầu an, không chịu được gian khổ, căng thẳng, nhưng không ít có ý nghĩ lành mạnh, không đang tâm bắn vào anh em trong một cuộc huynh đệ tương tàn phi lý vô đạo nên đã chịu chiêu hồi, hy vọng khi chiến tranh kết thúc, không ai nỡ trị tội mình. Đã có nhà văn nào nói lên thảm cảnh của số anh em bị chiêu hồi rồi trở về quê quán này để tiếp tục bị oan khiên, kêu trời không thấu này. Đã có tổ chức xã hội nào cúi xuống nâng đỡ các số phận đen đủi này, tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi lý vô đạo do đảng cộng sản gây nên vì những mục tiêu và cuồng vọng riêng.
Nếu tôi tham gia dựng lên những bộ phim về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi sẽ nói đến bản chất của chiến tranh, qua những mặt tối, những góc tối bị che dấu, bị che lấp, nhưng oan hồn, những nỗi oan trái chưa được biết, để có thể nói lên hết mặt trái của cuộc chiến tranh không anh hùng, chẳng oanh liệt, một cuộc nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn đáng hổ thẹn, đáng sám hối. Tít bộ phim có thể là "Những oan hồn - hay mặt trái của chiến tranh", hay "Một cuộc chiến đầy dối trá", cũng có thể là "Cuộc chiến của những người nô lệ", vì đảng cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho học thuyết Mác – Lênin, rồi qua đó bắt nhân dân, quân đội làm nô lệ cho những tham vọng riêng của đảng, để cho đất nước lạc hậu, tàn lụi đổ nát, bất công như hiện nay.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Sài Gòn, một đảng viên cộng sản kỳ cựu rất có lý khi đề nghị mỗi ngày kỷ niệm 30/4 là một cuộc Sám hối và xin lỗi của đảng cộng sản đã chủ động gây nên những tổn thất về sinh mạng, tài sản, thời gian của dân tộc đến mức quá sức chịu đựng của nhân dân, để lịch sử có thể sang trang, đất nước có một chế độ chính trị dân chủ, độc lập thật sự, lãnh thổ toàn vẹn, có nhân quyền, phát triển phồn vinh cho toàn xã hội.
Bùi Tín
Nguồn : VOA, 05/10/2017
Có một điều khá thú vị mà tôi đã khám phá ra trong những lần may mắn được gặp gỡ, trao đổi với những người bạn có tấm lòng với đất nước đó là chúng tôi đều có chung một chủ đề : Chủ đề về cuộc chiến 1945-1975 với nguyên nhân, diễn biến và thắng lợi, về việc Việt Nam Cộng Hòa có thật sự thua không ?
Việt Nam Cộng Hòa còn là chỗ dựa tinh thần cho những người khao khát dân chủ
Trước hết tôi hiểu vì sao lại có điểm chung kỳ lạ ấy. Hầu hết những người bạn mà tôi gặp gỡ đều thấy sự bất tài nhưng lại thủ đoạn và gian ác của chính quyền cộng sản, tất cả đều chán nản và khao khát đến cháy bỏng về một nền dân chủ thật sự.
Một người bạn đã đùa với tôi rằng : "Tôi sẽ uống bất cứ thứ gì nếu phải băng qua sa mạc trong tình trạng hết nước". Có lẽ những người bạn của tôi đang có tâm lý như vậy, trong cơn tuyệt vọng, họ sẽ uống bất cứ thứ gì có thành phần là nước, họ sẽ tìm đến bất cứ một chế độ dân chủ nào dù chỉ là dân chủ một phần, hoặc chưa trọn vẹn. Việt Nam Cộng Hòa là một "hoài niệm" như vậy, cho tới giờ thì chế độ đó đã hiển hiện như là một chế độ tốt nhất mà Việt Nam từng có. Việt Nam Cộng Hòa để lại nhiều tình cảm và thương nhớ cho rất nhiều người nhất là khi bản thân những người đó đang sống trong một chế độ tồi tệ dù luôn được hô hào là ưu việt và tốt đẹp nhất trên các phương tiện truyền thông.
Việt Nam Cộng Hòa còn là chỗ dựa tinh thần cho những người khao khát dân chủ, không ai muốn nghĩ về lý do nó sụp đổ và họ cần một ai đó bào chữa cho thất bại ấy để tâm trí và con tim có thể được xoa dịu. Bạn bè tôi, có người vẫn không hài lòng khi tôi nói rằng "tất cả chúng ta đều thua" và họ quyết làm rõ về vấn đề ta-địch, thắng-thua một cách rạch ròi. Rất buồn vì thứ tư duy đó đã cố hữu và bền chặt trong tâm thức mỗi người. Các bạn ấy muốn tôi có một lời giải thích sâu sắc và cặn kẽ vì họ nghĩ rằng một người chịu khó đọc nhiều như tôi sẽ không thể nói y như bộ máy tuyên truyền đã ra rả suốt mấy chục năm nay. Tâm lý hi vọng, chờ đợi ấy thật dễ hiểu vì còn một nguyên nhân nữa : một biến cố trọng đại và có ảnh hưởng như vậy đối với lịch sử nhưng chưa bao giờ đươc phân tích đến nơi đến chốn và thỏa đáng, vấn đề chỉ càng trầm trọng hơn khi những lãnh đạo cộng sản luôn kiêu ngạo, tự đắc rằng đã "đánh cho Mỹ cút- Ngụy nhào", "giải phóng miền Nam-thống nhất đất nước"...
Thật sự người cộng sản chưa bao giờ suy nghĩ về thắng thua nếu quan sát bàn cờ chiến lược thế giới. Vì nếu chịu khó suy nghĩ thì họ đã không "thống nhất" đất nước bằng mọi giá và không "đánh Pháp, đánh Mỹ" đến cùng. Ngày 8/5/1945 là một cột mốc đáng nhớ trong lịch sử loài người, ngày mà chiến tranh thế giới thứ II khép lại nhưng cũng là ngày mở ra một giai đoạn với nhiều biến cố phức tạp, mở ra cuộc thư hùng mới giữa hai khối ý thức hệ : Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa.
Sau chiến tranh Anh, Pháp đã thắng dù có nhiều tổn thất, tuy nhiên hai quốc gia này cũng phải đối mặt với vấn đề giải quyết các thuộc địa sau sự ra đời của Liên Hiệp Quốc với sự tôn vinh những giá trị về quyền tự do, tự quyết của mỗi dân tộc và sau khi những chính quyền thuộc địa cũ đã không còn nữa. Mâu thuẫn đã diễn ra : trong khi người Anh trao trả độc lập cho bất cứ dân tộc nào muốn độc lập thì người Pháp lại muốn đỡ đầu cho những chính quyền cũ ở các nước thuộc địa. Pháp lại càng có lý do làm điều đó khi Việt Minh (tiền thân đảng cộng sản) tuyên bố độc lập tại quảng trường Ba Đình. Có lẽ người Pháp chẳng bao giờ chấp nhận việc để cho một tổ chức khủng bố theo kiểu Nga cướp chính quyền, họ đã can thiệp và sai lầm bắt đầu từ đó.
Hình ảnh người Pháp xâm lược với chế độ thực dân vẫn ám ảnh và chưa thể xóa nhòa trong tâm trí người Việt đã cung cấp cho Việt Minh một lý do chính đáng để tuyên truyền "Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa", "chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả, không có gì quí hơn độc lập tự do"... Chính quyền thực dân Pháp thật sự đã kết thúc ở Việt Nam sau khi thất bại trước quân phiệt Nhật nhưng vì thiếu viễn kiến và bị Việt Minh hạ nhục khi từ chối tham gia vào khối "Liên Hiệp Pháp" nên Pháp đã trở lại Việt Nam và kéo dài cuộc chiến thêm 9 năm và kết thúc bởi trận Điện Biên Phủ. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết và người Mỹ nhảy vào can thiệp với ý đồ chặn đứng sự bành trướng của phong trào cộng sản tại Châu Á.
Indonesia từ sau thế chiến II chuyển dần vào quỹ đạo cộng sản. Đảng cộng sản Indonesia, với gần một triệu đảng viên, là đảng cộng sản mạnh thứ nhì tại Châu Á và kiểm soát chính quyền Sukarno. Indonesia là nước đông dân thứ ba tại Châu Á với một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Nếu Indonesia lọt vào quỹ đạo cộng sản thì toàn bộ giao thông giữa Châu Âu và Trung Đông với Châu Á bị phong tỏa và Châu Á hoàn toàn bị khống chế. Indonesia quan trọng gấp nhiều lần Việt Nam, chưa nói riêng miền Nam Việt Nam. Tại đây Hoa Kỳ đã hoàn toàn thắng lợi. Sự biểu lộ quyết tâm và sức mạnh của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đem lại tin tưởng cho quân đội Indonesia chưa hoàn toàn bị đảng cộng sản kiểm soát, quân đội Indonesia trở thành một đe dọa cho đảng cộng sản Indonesia, buộc đảng này phải ra tay trước, tổ chức đảo chánh, để rồi thất bại và bị tàn sát trong vòng hai tuần lễ năm 1965. Không phải là một sự tình cờ mà chỉ một năm sau khi Hoa Kỳ đổ bộ ào ạt vào Việt Nam, tình hình Indonesia thay đổi hẳn. Sau khi đã lật ngược được thế cờ tại Indonesia, mục tiêu chiến lược chính của Hoa Kỳ tại Châu Á đã đạt được, Việt Nam không còn quan trọng nữa.
Nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục can thiệp tại Việt Nam sau đó, bỏ ra hàng tỷ đô la mỗi năm vì hai lý do : một là họ tin có thể thắng luôn tại Việt Nam, hai là họ cũng cần củng cố thêm các chế độ đồng minh tại Châu Á. Khối lượng đô la mà Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam đã là một sức bật kinh tế quan trọng cho Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn và Thái Lan. Khi Hoa Kỳ quyết định rút lui khỏi Việt Nam năm 1973, các nước này đều đã vững mạnh. Nhật đã thành một đại cường, Đài Loan và Đại Hàn những nước kỹ nghệ hóa, Thái Lan đã cất cánh.
Cuộc chiến Việt Nam cũng đã làm kiệt quệ Liên Xô và khối cộng sản. Người Mỹ đã phí tổn rất nhiều tại Việt Nam, nhưng họ quá mạnh, nền kinh tế của họ chỉ giảm sút đà tăng trưởng. Liên Xô và khối cộng sản chi phí ít hơn nhưng đã chi phí quá sức và bị kiệt quệ.
Chiến thắng ngày 30/4/1975 cũng đã rất độc hại cho khối cộng sản, do tình trạng suy kiệt và tuyệt vọng trong một cuộc cạnh tranh hòa bình, họ phải chọn lựa chiến lược liều lĩnh ''thừa thắng xông lên'' (tương tự như Hitler quyết định tấn công Liên Xô năm 1942) và làm mất đi một cơ hội duy nhất để vươn lên, đó là cuộc khủng hoảng dầu hỏa trong suốt thập niên 1970. Giá dầu từ 6 USD năm 1970 tăng lên đến 35 USD một ba-rin năm 1980, các nước tư bản đều khốn đốn vì dầu lửa trong khi Liên Xô, mà nguồn lợi chủ yếu là xuất khẩu dầu, bỗng dưng thấy thu nhập của mình tăng gấp bốn, năm lần. Liên Xô đã sử dụng ưu thế giai đoạn này và khí thế của chiến thắng Việt Nam để ào ạt tiến công khắp nơi. Các lực lượng cộng sản chiếm chính quyền tại Campuchia, Lào, Afghanistan, Ethiopia, Angola, Nicaragua và nhiều nước Châu Phi khác. Liên Xô cũng tài trợ cho nhiều cuộc chiến tranh giải phóng tốn kém khác tại khắp nơi. Để làm hậu thuẫn cho các cuộc tiến công này, họ phung phí đại bộ phận tài nguyên vào việc chế tạo vô số vũ khí : bom nguyên tử, tàu ngầm, chiến xa. Nhưng cuộc tiến công này đã không đánh gục được khối tư bản, và khi cuộc khủng hoảng dầu lửa chấm dứt, Liên Xô hoàn toàn tuyệt vọng. Gorbachev không phải là người chủ trương giải thể Liên Xô và khối cộng sản, nhưng khi lên nắm quyền tại Liên Xô năm 1985, ông không còn chọn lựa nào khác.
Cho tới nay, nhiều người vẫn mừng rằng cuộc thư hùng giữa hai khối tư bản và cộng sản đã không đưa đến thế chiến. Sự thực thì đã có thế chiến, nhưng là một thế chiến giới hạn ở một số địa phương, trong đó mặt trận Việt Nam là chính. Tình hình không thể khác, nghĩa là không thể có chiến tranh trực tiếp giữa Mỹ và Liên Xô, vì một mặt Liên Xô biết rõ sức mạnh hơn hẳn của võ khí hạt nhân Mỹ và mặt khác Hoa Kỳ thấy không cần thế chiến cũng sẽ thắng được Liên Xô. Nhưng phải nói đã có chiến tranh giữa hai khối tại Việt Nam và cuộc chiến đã kết thúc một cách kỳ cục : khối cộng sản đã toàn thắng trong hiệp đầu nhưng bị chấn thương tới mức không còn đủ sức tiếp tục các hiệp sau, và cuối cùng đành bỏ cuộc.
Trong cuộc chiến Việt Nam, người Mỹ không phải chỉ đã đạt được mục tiêu chiến lược mà họ còn thắng lợi cả về mặt tâm lý. Trong những năm can thiệp vào Việt Nam, họ đã chứng tỏ được bản chất dân chủ tự do thực sự của họ và đã chinh phục được cảm tình người Việt (dù hơi muộn màng). Hiện nay tại Việt Nam không còn ai thù ghét Mỹ, trái lại mọi người đều mong mỏi một sự hợp tác tích cực hơn với Hoa Kỳ. Nếu có được một cái nhìn bao quát và sáng suốt hơn, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã phải thấy rằng chiến thắng của họ chỉ là một nước cờ trong một ván cờ, chẳng có gì để tự cao tự đại và tự hào.
Từ 1967-1972 khi người Mỹ còn bảo trợ miền Nam thì cộng sản đã không làm gì được miềm Nam dù hy sinh rất lớn như cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu thân 1968 hay Mùa hè đỏ lửa 1972. Số phận miền Nam chỉ kết thúc khi người Mỹ đã chiến thắng ở Indonesia và muốn chia rẽ hai quốc gia cộng sản lớn nhất là Nga và Trung Quốc bằng cách bỏ Việt Nam để bắt tay với Trung Quốc.
Trong trò chơi này, Mỹ-Trung đều là kẻ thắng cuộc, chỉ có Việt Nam là thất bại. Có lẽ khi những khúc mắc lịch sử được làm sáng tỏ, những người "quan tâm" đề tài này có thể được "an ủi" vì lý do thất bại là chấp nhận được (do sự sắp đặt của một cường quốc) và có thể "hài lòng" khi sự hi sinh của miền Nam góp phần làm nên một cú đấm thép khiến khối cộng sản ngã gục hoàn toàn trên thế giới. Khi tâm lý thua cuộc đã được xoa dịu, thì chúng ta nên dành một khoảng tĩnh lặng để suy nghĩ về đất nước.
Chúng ta đã được gì, mất gì ? Người Việt Nam đã chết nhiều nhất trong cuộc chiến tranh này, đất nước bị phá hủy, lòng người chia rẽ và thù hận. Đất nước bị tụt hậu bi đát thê thảm trên mọi lĩnh vực và đã hình thành nên một cộng đồng người Việt hải ngoại đông đảo rải đều khắp thế giới sau những cuộc vượt biên bằng đường biển tang thương nhất trong lịch sử nhân loại (Vietnamese boat people).
Chúng ta đã bị lợi dụng trở thành những quân cờ để rồi chuốc lấy mọi khổ đau và bất hạnh. Đất nước gục ngã vì chúng ta kém cỏi trong tư tưởng và vì sự vắng mặt của trí thức trong thời khắc lâm nguy của dân tộc. Chúng ta đã chẳng có một tư tưởng, một dự án chính trị và một đội ngũ chính trị thực thụ nào để dẫn dắt con tàu quốc gia vượt qua những chặng đường sóng gió nhất. Con thuyền không có thuyền trưởng và đội ngũ đó đã bị ngoại bang kéo lê mọi phía và rồi cuối cùng đất nước rơi vào tay một băng đảng khủng bố mà mục tiêu của nó là xóa bỏ quốc gia, đảo lộn các giá trị tốt đẹp của con người, đất nước bị coi như là một thứ cướp được, là chiến lợi phẩm để chiếm lấy rồi chia sẻ cho các thủ lĩnh của nó. Người dân bị coi là kẻ thù nếu có hành động và lời nói đe dọa sự hưởng thụ, ăn trên ngồi trốc của chúng. Không ai nhìn ra được điều đó vào thời điểm đó và có thể nhìn ra nhưng cũng không làm gì được vì cô độc. Tất cả đều quay cuồng vào cuộc nội chiến "nồi da xáo thịt".
Vừa đi vừa suy tư trên con đường quanh hồ Hoàn Kiếm tôi nhìn về phía xa xa rồi ngẫm nghĩ và hy vọng, rồi một ngày nào đó, khi đất nước được hưởng một nền dân chủ thái bình
Không ! Lịch sử sẽ không thể lặp lại. Chúng ta sẽ không tranh luận thêm về cuộc chiến này nữa mà coi đó là một bài học truyền đời. Chúng ta cần đứng dậy để cùng nhau xây dựng và tìm kiếm một tư tưởng chính trị đứng đắn, cùng nhau xây dựng một đội ngũ chính trị thực sự để cùng nhau thay đổi chế độ độc tài nhằm phục hồi lại mọi giá trị tốt đẹp của con người và dân tộc Việt Nam. Chúng ta sẽ xây dựng lại đất nước và Việt Nam sẽ cất cánh…
Vừa đi vừa suy tư trên con đường quanh hồ Hoàn Kiếm tôi nhìn về phía xa xa rồi ngẫm nghĩ và hy vọng, rồi một ngày nào đó, khi đất nước được hưởng một nền dân chủ thái bình, khi quá khứ và những nỗi oan ức được giải quyết sòng phẳng và hợp lý chúng ta sẽ có cơ hội đi dọc những con đường đầy hoa thơm ngát để ăn năn và hồi tưởng lại về chặng đường lịch sử khổ đau mà dân tộc ta đã trải qua…
Việt Hòa
(02/10/2017)
Buổi ra mắt và thảo luận về phim "The Vietnam War" đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử : Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
Trong bức ảnh chụp ngày 28/4/1965, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tiến vào một ngôi làng tình nghi do Việt Cộng kiểm soát gần tp Đà Nẵng trong chiến tranh Việt Nam. Phim tài liệu10 tập của đạo diễn Ken Burns về cuộc chiến sẽ bắt đầu được công chiếu ngày 17/9/2017 trên đài PBS. (AP Photo/Eddie Adams)
Trong cử tọa ngồi hầu như chật kín cả hội trường, người ta ghi nhận sự hiện diện của nhiều giới chức trong quân đội và chính phủ, các cựu chiến binh, lãnh đạo doanh nghiệp, các nhà lập pháp và nhân viên quốc hội, cũng như truyền thông báo chí. Mở đầu sự kiện, đạo diễn Ken Burns đã gây hào hứng lập tức khi ông mời các cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam có mặt trong cử tọa hãy đứng dậy. Nhiều người đàn ông tóc điểm sương đứng lên. Hội trường òa vỡ với những tiếng vỗ tay không dứt. Ngay sau đó nhà đạo diễn mời những người từng tham gia phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam đứng lên, một số người đã ôm chầm các cựu chiến binh, những người mà họ từng nguyền rủa và ruồng bỏ trong cao trào phản chiến. Cử tọa lại òa vỡ với nhiều tràng vỗ tay vang dội.
Đạo diễn Ken Burns tiết lộ rằng khi bắt đầu cuộc hành trình chông gai để thực hiện dự án này, những người đầu tiên mà hai đạo diễn tìm đến là Thượng nghị sĩ McCain, và ông Kerry, lúc đó cũng là một Thượng nghị sĩ.
"Chúng tôi nói chúng tôi cần sự giúp đỡ của hai ông, nhưng chúng tôi sẽ không phỏng vấn, mặc dù câu chuyện của hai người được kể lại trong phim, tự nó đã đầy kịch tính. Chúng tôi cho rằng vì hai ông còn là những nhân vật của công chúng, như ông Kissinger, như Jane Fonda, Daniel Ellesberg, chúng tôi tránh phỏng vấn họ mà chọn những người khác. Nhưng tôi tin rằng Lynn và tôi đã không thể hoàn thành bộ phim này mà không có sự giúp đỡ của hai ông".
Những clip mà đạo diễn Burns chọn cho công chiếu để giới thiệu bộ phim thực hiện cùng với đạo diễn Lynn Novick, nêu bật những sự chia rẽ sâu sắc và tình trạng hoang mang trong xã hội Mỹ trong và sau cuộc chiến. Những hình ảnh, đoạn phim tài liệu sống động của thời chiến chen lẫn với các cuộc phỏng vấn thực hiện hồi gần đây hơn với tất cả những người thuộc mọi bên trong cuộc xung đột, gợi lại những kinh hoàng trên chiến trường Việt Nam, sự phẫn nộ tột độ thể hiện trong các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, về hậu quả bi thương của cuộc chiến, chiến tranh đầu tiên của người Mỹ không kết thúc trong chiến thắng. Kết thúc là đoạn clip khá dài về những sự xúc động mà Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam gợi lên cho mãi tới ngày hôm nay, phơi bày những vết thương sâu đậm vẫn chưa lành hẳn, gần nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc.
Nên rút ra bài học nào từ chiến tranh Việt Nam ? Thượng nghị sĩ John McCain :
"Tôi nghĩ đây là thời điểm đúng lúc để kể lại Chiến tranh Việt Nam, sau một cuộc xung đột, phải có một thời gian để những cảm xúc dịu bớt, nhường chỗ cho một cái nhìn khách quan hơn, và như thế chúng ta mới nắm được câu chuyện nó thực sự xảy ra như thế nào. Tôi tin nó đúng lúc đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới đang xáo trộn như bây giờ. Có thể chúng ta sẽ nhìn lại cuộc xung đột tại Việt Nam để bảo đảm chúng ta không lặp lại những sai lầm đã phạm trong cuộc chiến đó. Bài học rút ra là, chúng ta phải đảm bảo các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự phải thành thực với công chúng, và tránh thi hành lệnh nhập ngũ chỉ nhắm vào các thành phần có thu nhập thấp".
Ông McCain, cựu tù binh chiến tranh từng bị giam cầm ở nhà tù Hỏa Lò, tiết lộ ông thường xuyên tới thăm Đài Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, nơi ghi khắc tên tuổi của 58,000 binh sĩ Mỹ đã nằm xuống trên chiến trường Việt Nam. Ông cho biết là thường đến vào sáng sớm hoặc giấc chiều tối, chỉ để bắt tay và trò chuyện với những cựu chiến binh và tưởng nhớ các đồng đội đã ra đi.
"Những người trẻ tuổi này phải hy sinh mạng sống bởi vì lãnh đạo thiếu tài năng và bị hủ hóa - Chúng ta cần các nhà lãnh đạo có khả năng lãnh đạo, giúp vạch ra một lộ trình dẫn tới chiến thắng để chúng ta không bao giờ còn phải hy sinh tính mạng của các quân nhân vào một cuộc chiến không có lối thoát".
Cựu Ngoại trưởng John Kerry, một chiến binh từng được trao nhiều huân chương, kể cả Chiến Thương Bội Tinh, thì nêu bật tầm quan trọng của các nỗ lực ngoại giao.
"Bài học mà chúng ta rút ra thật đáng giá. Chúng ta phải biết chúng ta đang làm gì, phải thành thực với dân chúng, chiến tranh phải là giải pháp cuối cùng sau khi đã khai thác triệt để giải pháp ngoại giao. Tất cả những điều đó đều đúng cho chiến tranh Việt Nam và đúng cho tất cả mọi sự lựa chọn mà bây giờ chúng ta đang đối mặt".
Ông Kerry nói nếu có một điều gì có thể giúp hàn gắn những sự chia rẽ trong xã hội Mỹ, khiến những người theo phong trào phản chiến có thể ôm lấy các cựu chiến binh đã cầm súng chiến đấu tại Việt Nam, thì đó là phim tài liệu Chiến tranh Việt Nam của Ken Burns và Lynn Novick.
Một cựu chiến binh cũng từng được trao Chiến thương Bội tinh như ông Kerry, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel ca ngợi những nỗ lực của ông McCain và Kerry trong việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ông nói phim The Vietnam War sẽ có ảnh hưởng sâu rộng không những ở Hoa Kỳ mà còn ở cả Việt Nam.
"Tôi chưa xem hết phim, nhưng đã xem khá nhiều. Tôi tin rằng nó đại diện cho và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng đáng kể tới xã hội của chúng ta và cả Việt Nam nữa. Bộ phim này là bộ phim hấp dẫn, có tính thuyết phục nhất, đầy đủ nhất, trung thực nhất khi kể lại câu chuyện về chiến tranh Việt Nam".
Ông Hagel nói tuy xem phim khơi lại những vết thương cũ, nhưng là điều có ích, nhất là cho các thế hệ lãnh đạo tương lai của nước Mỹ.
"Vâng, xem phim rất là đau lòng, nhưng rất quan trọng cho các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Mỹ phải hiểu được những hậu quả của chiến tranh và những hậu quả của các quyết định của chúng ta. Có thể chúng ta không bảo đảm được là tất cả các quyết định đều đúng nhưng bộ phim này sẽ mang lại cho chúng ta một kích thước khác".
Một chi tiết có lẽ sẽ gây rất nhiều chú ý đối với khán giả Việt Nam là biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, khi nhiều thường dân bị cộng sản Bắc Việt thảm sát, có người bị chôn sống, đã được nhắc đến trong phim. Đây có lẽ là phim tài liệu có tầm cỡ đầu tiên của Mỹ nhắc đến vụ thảm sát ở Huế.
Bà Duong Vân Mai Elliott, tác giả cuốn "The Sacred Willow" về 4 thế hệ của một gia đình Việt Nam, được các nhà làm phim yêu cầu cộng tác và xuất hiện nhiều lần trong phim. Bà có gia đình ở cả hai bên chiến tuyến, nói bà kinh ngạc khi thấy đạo diễn Ken Burns nhắc đến biến cố Tết Mậu Thân.
"Tôi xem tôi rất là sửng sốt, tôi cũng nói với ông (đạo diễn Burns) đây là lần đầu tiên mà một người ngoài Bắc đã tham chiến, công nhận vụ thảm sát ở Huế xảy ra năm Mậu Thân 1968. Tôi rất là ngạc nhiên. Nếu mà ông ấy phỏng vấn như thế này cách đây mười mấy năm thì chưa chắc họ đã dám nói như vậy, nhưng mà lúc ông phỏng vấn thì tôi thấy họ nói trung thực lắm".
Thẩm phán Phan Quang Tuệ, từng phục vụ tại Tòa án Di trú San Francisco nay đã về hưu, cũng xuất hiện trong phim. Ông nhận xét :
"Nhìn qua những bộ phim đã có, tôi thấy không có phim nào có thể trung thực hơn, và tôi không nghĩ là tương lai sẽ có một cuộn phim nào khác nữa vì cho tới khi phim này ra thì đã 42 năm sau cuộc chiến. Hai, ba thế hệ đã lớn lên, cuộn phim này ghi lại trung thực lịch sử, không phải của cuộc chiến mà qua cái lịch sử cuộc chiến đó, lịch sử Việt Nam, Nam cũng như Bắc. Tôi thấy điều cần làm là phải phổ biến rộng rãi phim này ở Việt Nam".
Chiến tranh Việt Nam, hơn 4 thập niên sau, vẫn là một chủ đề hóc búa cho một phim tài liệu, và chắc chắn trong những ngày tới, "The Vietnam War" sẽ còn gây rất nhiều tranh cãi tại Hoa Kỳ, tại Việt Nam và trong các cộng đồng người Việt hải ngoại khắp nơi.
Phim tài liệu 10 tập "The Vietnam War" của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick sẽ lần lượt được công chiếu trên đài PBS, bắt đầu từ ngày Chủ nhật 17 tháng 9.
Hoài Hương
Nguồn : VOA, 16/09/2017
Phim tài liệu Chiến tranh Việt Nam - Phỏng vấn Đạo diễn Lynn Novick
Ken Burns and Lynn Novick
Hơn 42 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhiều người vẫn bị giằng xé vì cuộc chiến không dứt gây tranh cãi này. Nhiều người bình thường thuộc tất cả các bên tham chiến, bị hoàn cảnh đẩy đưa vào cuộc chiến, vẫn bị dằn vặt bởi những dấu hỏi lớn về những nguyên do dẫn tới chiến tranh và kết cuộc bi thảm của nó, với hàng triệu người chết, nhiều triệu người khác mang thương tật hoặc chấn động tâm lý vĩnh viễn. Ngoảnh nhìn quá khứ, họ tự hỏi liệu cái giá mà tất cả các bên – kể cả bên thắng cuộc, phải trả, có quá đắt ? Liệu có hay không một giải pháp không đổ máu cũng có cơ may mang lại hòa bình, độc lập, tự quyết cho Việt Nam ? Và, nên rút ra bài học nào để tránh lặp lại lịch sử ?
Đạo diễn Ken Burns, bên trái, Trent Reznor, Atticus Ross và đạo diễn Lynn Novick, bên phải, nói về phim tài liệu "Chiến tranh Việt Nam" trên đài PBS trước Hội các nhà phê bình phim truyền hình ở Pasadena, California. Ảnh chụp ngày 15/1/2017.
Phim tài liệu 10 tập, dài 18 tiếng "The Vietnam War, Chiến tranh Việt Nam" của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick sắp ra mắt khán giả trên kênh truyền hình PBS, khởi sự từ ngày 17/9/2017. Đạo diễn Lynn Novick đã dành cho VOA-Việt ngữ một cuộc phỏng vấn sau khi trở về từ Việt Nam, nơi nhiều trích đoạn của tập phim tài liệu được trình chiếu trước một số cử tọa chọn lọc, kể cả một số người xuất hiện trong phim. Mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa Hoài Hương và đạo diễn Lynn Novick sau đây.
*****************
VOA : Tập phim tài liệu này đã mất tới 10 năm mới hoàn tất. Đây là một câu chuyện bi tráng đòi hỏi một nỗ lực làm việc phi thường. Xin bà cho biết kết quả của những nỗ lực đó, bộ phim tài liệu này đã có những đóng góp nào mới để kể lại câu chuyện về chiến tranh Việt Nam ?
Lynn Novick : Đạo diễn Ken Burns và tôi tin rằng chúng tôi đã kể lại câu chuyện về chiến tranh Việt Nam theo cách chưa từng được kể trước dây, bởi vì phim tài liệu của chúng tôi trình bày quan điểm của những chứng nhân đã trải qua cuộc chiến từ cả 3 bên tham gia : người Mỹ, và người Việt, thuộc cả bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc. Cho tới nay, chưa ai làm điều đó. Về phương diện đó, chúng tôi đã đưa ra những góc nhìn mới về chiến tranh Việt Nam, một câu chuyện cực kỳ phức tạp và bi tráng.
VOA : Thưa như bà nói, phim tài liệu này kể lại chiến tranh Việt Nam theo một cách mới khác với các phim tài liệu trước đây. Bà so sánh như thế nào phim tài liệu này với phim tài liệu "Vietnam : A Television History" của Stanley Karnow ?
Lynn Novick : Tôi nghĩ rằng chúng tôi không ở trong vị thế để nêu lên những khác biệt hay tương đồng giữa hai phim tài liệu đó. Tôi chỉ có thể nói rằng nhiều năm đã trôi qua từ khi bộ phim tài liệu có tính dấu mốc của Karnow ra đời tiếp theo sau cuộc chiến. Thời ấy, bộ phim của Karnow đã đẩy xa biên cương của truyền thông báo chí, nhưng những nhà làm phim không thể có cái nhìn lịch sử như chúng ta bây giờ khi ngoái nhìn lại quá khứ. Nhiều năm đã trôi qua, bao nhiêu điều đã xảy ra, và đối với những người sống qua cuộc chiến, cái nhìn của họ đã biến đổi, lịch sử Hoa Kỳ và lịch sử Việt Nam cũng có những chuyển biến, quan hệ hai nước đã đổi cũng như trải nghiệm của những người Mỹ gốc Việt, mố tương quan giữa họ với Việt Nam bây giờ và Việt Nam ngày trước cũng khác đi nhiều. Bây giờ chúng ta được tiếp cận nhiều nguồn tài liệu hơn nhờ những trao đổi học thuật giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Một khác biệt nữa là phim của Karnow phần lớn nhìn lại lịch sử theo cách nhìn từ trên xuống, nghĩa là qua quan điểm của những nhân vật đã từng làm những quyết định quan trọng về cuộc chiến. Ngược lại, phim tài liệu của chúng tôi nhìn lịch sử từ dưới lên, qua lăng kính của những người bình thường đã trải qua cuộc chiến, mang ra đối chiếu với những gì diễn ra trong Tòa Bạch Ốc, trong Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, và trong Dinh Tổng thống ở Sài Gòn.
Ảnh tư liệu.
VOA : Về mặt tài liệu, trong quá trình nghiên cứu, các nhà làm phim lần này có được tạo điều kiện để tra cứu những hồ sơ, tài liệu đặc biệt mà trước đây chưa hề được phổ biến ?
Lynn Novick : Tôi có thể nói là lần này, chúng tôi được tiếp cận nhiều tài liệu từ các kho lưu trữ tài liệu về chiến tranh Việt Nam. Các trung tâm lưu trữ trên khắp thế giới đều mở cửa cho phép chúng tôi tiếp cận các tài liệu trên mạng của họ, trong đó có các hãng tin đã gửi các đoàn quay phim sang Việt Nam để tường trình về cuộc chiến. Chúng tôi đã lục lọi kho lưu trữ của họ để tìm ra những thước phim bị lãng quên từ lâu, chúng tôi cũng được nhiều cá nhân cho phép sử dụng hình ảnh, âm thanh và video riêng tư của gia đình họ. Mạng internet cho phép chúng tôi tìm tài liệu hữu hiệu, thế cho nên chúng tôi có thể tìm ra những tài liệu mà thế hệ đi trước không sao tìm được, vì chưa có internet. Quan trọng hơn, chúng tôi có thể tra cứu các băng ghi âm các mẫu đối thoại mà nhiều Tổng thống Mỹ cho ghi lại, từ Tổng thống Kennedy, Tổng thống Johnson, nhất là Tổng thống Nixon. Chúng ta được nghe các nhà lãnh đạo này thảo luận những gì diễn ra ở Việt Nam thời đó, và nghe họ cân nhắc nên làm gì. Trong khi một số tài liệu đó đã được công bố trong độ 10, 15 năm trở lại đây, rất khó khai thác để gạn lọc thông tin và tìm ra một khoảnh khắc thực sự gây ấn tượng, một khoảnh khắc mà khi xem qua, khán giả không thể nào quên được. Chúng tôi có sự hướng dẫn của các chuyên gia để làm việc này.
VOA : Thưa bà, trong chiến tranh những hành động tàn bạo thường xảy ra, và cả hai bên đều phạm những tội ác. Truyền thông quốc tế tốn rất nhiều giấy mực để nói về vụ thảm sát ở Mỹ Lai do một đơn vị quân đội Mỹ thực hiện, nhưng dường như giới truyền thông về phần lớn, đã bỏ qua, hoặc tường trình qua loa và một cách không trung thực về vụ thảm sát Tết Mậu Thân năm 1968 do người cộng sản miền Bắc thực hiện. Phim tài liệu của bà và đạo diễn Ken Burns nhắc đến vụ thảm sát ở Huế, mà có người tố cáo là một hành động diệt chủng. Mặc dù Hà nội chưa bao giờ công nhận vụ thảm sát này, trong phim tài liệu này, lần đầu tiên có người bên thắng cuộc thừa nhận vụ thảm sát khi hàng ngàn người, cả thường dân vô tội, bị hành quyết và chôn tập thể. Theo một số nguồn tin, một số người có thể đã bị chôn sống. Xin bà cho biết bà và đạo diễn Burns đã cân nhắc như thế nào và quyết định đưa vụ thảm sát ở Huế vào bộ phim tài liệu này ?
Lynn Novick : Vâng, chiến tranh là một hoạt động đáng ghê sợ, đã xảy ra từ khi có loài người. Và trong chiến tranh, có khả năng xảy ra những hành động nhân bản cũng như phi nhân bản. Không một bên nào trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào giữ độc quyền về tội ác. Điều đó cũng đúng ở Việt Nam như trong Đệ nhị, Đệ nhất Thế chiến, hay bất cứ cuộc chiến tranh nào khác. Chúng tôi muốn làm một phim tài liệu nói lên sự thật, tường trình một cách trung thực những gì đã xảy ra. Thật không đúng nếu chúng ta chỉ đề cập đến hành động tội ác của một bên, trong khi bỏ qua hành động tội ác của phía bên kia trong cuộc chiến. Chúng tôi muốn tìm hiểu chiến tranh và những tình huống trong đó những hành động tội ác xảy ra, có thể xảy ra, và đã xảy ra. Đó là lý do vì sao chúng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ trước những gì đã xảy ra ở Huế, cũng như không thể làm ngơ những gì đã xảy ra ở Mỹ Lai. Chúng tôi không so sánh hành động nào ác độc hơn hành động nào, mà chỉ muốn khán giả xem phim hiểu rõ những gì đã thật sự xảy ra và vì sao.
Ảnh tư liệu.
VOA : Bà vừa sang Việt Nam để trình chiếu và thảo luận về phim tài liệu Chiến tranh Việt Nam cho một số cử tọa. Xin được hỏi nói chung bộ phim đã được đón nhận ra sao ?
Lynn Novick : Vâng, tôi vừa trở về cách đây vài ngày, ở Việt Nam chúng tôi trình chiếu một số đoạn đáng chú ý nhất cho những người đã xuất hiện trong phim, khoảng 20 nhân chứng đã chia sẻ quan điểm với chúng tôi. Chúng tôi cũng có 7 buổi chiếu phim cho công chúng, và ngoài ra tổ chức một số buổi chiếu phim riêng dành cho các nhà văn, các sử gia và giới quan tâm. Có thể nói, phản ứng của mọi người nói chung hết sức tích cực, bộ phim gây rất nhiều chú ý, nhất là họ muốn biết chúng tôi kể lại chiến tranh Việt Nam như thế nào.
VOA : Vâng, đối với những người đã sống qua chiến tranh, chứng kiến những gì xảy ra trong chiến tranh, họ có những nhận xét gì ?
Lynn Novick : Tôi có ghi lại ý kiến của một số người trên máy tính. Xem nào, để tôi coi lại vì muốn dẫn lời họ một cách thật chính xác. Họ nói họ chưa bao giờ được xem một bộ phim nào trình bày cuộc chiến như phim tài liệu của chúng tôi. Chúng tôi nhận được rất nhiều lời khen về sức mạnh của bộ phim, cách biên tập, tính trung thực và sự thành thực, sẵn sàng và thẳng thắn trình bày chiến tranh nó tàn bạo đến mức nào, với bạo lực và những tàn phá, những đau thương và gian khổ của con người ở mọi bên cuộc chiến. Họ nói được lắng nghe quan điểm của tất cả các bên là một điều mới. Nhiều người bình luận rằng đây không phải là cách mà chiến tranh Việt Nam được kể lại ở Việt Nam, họ nói chiến tranh thường được kể như một cái gì trừu tượng, và cái giá phải trả không được đề cập. Chính vì vậy mà một số cảnh trong phim đã gây sốc và bất an cho nhiều người. Một số người tiếp xúc với chúng tôi, nói rằng rất quan trọng là người Việt Nam ở trong nước phải xem những gì thực sự xảy ra. Một điều mà tôi cảm nhận một cách là sâu sắc là khi được nghe nhiều người nói câu chuyện của chúng tôi đã giúp bên thắng cuộc hiểu hơn về những gì xảy ra ở bên thua cuộc, và nhận ra kích thước nội chiến của chiến tranh Việt Nam. Nhiều gia đình đã bị chia rẽ vì chiến tranh, họ hiểu được qua trải nghiệm của chính mình, rằng còn phải làm rất nhiều mới có thể đi đến hòa giải, và có thể phim tài liệu của chúng tôi có thể đóng góp phần nào khi trình bày cho cả hai bên phía bên kia đã gian khổ đau thương như thế nào.
VOA : Câu hỏi cuối, 10 năm để thực hiện phim là một thời gian khá dài trong đời. So sánh chính mình khi khởi sự dự án, và Lynn Novick của 10 năm sau ? Nói cách khác, dự án này đã thay đổi bà như thế nào ?
Lynn Novick : Ken và tôi bàn luận với nhau rất nhiều về điều này, bởi vì cả hai chúng tôi đều cảm nhận những thay đổi sâu sắc nơi chính mình sau trải nghiệm này, một phần là do phải làm việc những tài liệu đen tối, phải đối diện với những đau đớn tột cùng của con người, với sự dã man và tàn bạo của chiến tranh, và tính phi nhân của một số hành động xảy ra trong chiến tranh, nhưng điều mà tất cả những ai cộng tác với chúng tôi thực hiện phim tài liệu này đều chia sẻ, là sự cảm kích đối với những người đã sẵn lòng chia sẻ câu chuyện của họ với chúng tôi. Thấu hiểu trải nghiệm của họ một cách sâu sắc, biết họ đã trải qua những gì, và chứng kiến sức chịu đựng của họ trước một thảm họa ở tầm mức này, mà vẫn phấn đấu để tiếp tục sống và đóng góp, thật đáng ngưỡng mộ, không có lời để diễn tả cho hết.
*****************
The Vietnam War, Chiến tranh Việt Nam sẽ được trình chiếu lần đầu tiên vào ngày 17/9/2017 trên kênh truyền hình PBS. Bộ phim hoàn tất sau 10 năm dài là phần kết của bộ ba phim tài liệu của đạo diễn Ken Burns về các cuộc chiến tranh mang tính dấu mốc trong lịch sử Hoa Kỳ, thứ nhất là phim tài liệu về cuộc nội chiến Mỹ, thứ hai là phim tài liệu về Đệ nhị Thế Chiến, và thứ 3 là Phim Chiến tranh Việt Nam. Hai bộ phim sau có sự cộng tác của đạo diễn Lynn Novick.
Hoài Hương thực hiện
Nguồn : VOA, 06/09/2017
Một cựu Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa cho rằng việc nói chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là 'tay sai' của Mỹ là một sự 'cáo buộc' và cần phải nhìn nhận vấn đề trong một tổng thể khách quan hơn của bối cảnh chiến tranh lạnh mà tại miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến kết thúc vào tháng 4/1975 cũng có sự ủng hộ, hậu thuẫn của nước ngoài.
Ông Bùi Diễm là Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trong giai đoạn từ 1967-1972
Ý kiến này được ông Bùi Diễm, Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ trong thời kỳ 1967-1972 đưa ra khi phản ứng trước quan điểm trên truyền thông quốc tế của nhà chủ biên bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' được Viện sử học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, công bố trong nước thời gian gần đây.
Trao đổi với BBC Tiếng Việt hôm 23/8/2017, ông Bùi Diễm nói :
"Mình phải nhìn Việt Nam trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh lạnh thời bấy giờ, người Mỹ mà can thiệp vào vấn đề Việt Nam là do chính sách gọi là 'be bờ' chống lại sự lan tràn của cộng sản xuống miền Nam Việt Nam.
"Nếu mà nói tới sự giúp đỡ của người Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, thì người ta cũng phải nói tới sự có mặt của những quân đội Trung Cộng ở miền Bắc trong suốt trận chiến tranh, những quân đội đó không tham gia vào trận chiến đối với miền Nam, nhưng đã giúp những người ở miền Bắc có tất cả sự dễ dàng để người miền Bắc có thể mang quân đội để mà tấn công miền Nam Việt Nam.
Cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, ông Bùi Diễm bình luận về bộ sách 'Lịch sử Việt Nam'.
"Vì vậy cho nên những lời buộc tội rằng miền Nam Việt Nam dưới quyền, dưới ảnh hưởng của người Hoa Kỳ, thì chúng ta cũng phải nhìn lại vấn đề dưới khía cạnh một cuộc Chiến tranh lạnh một bên là Mỹ quốc và một bên kia là thế giới cộng sản, có cả Liên Xô và có cả Trung Cộng lúc bấy giờ".
Ý kiến trên của cựu Đại sứ Bùi Diễm được đưa ra sau khi được hỏi về một bài báo trênRFA Tiếng Việt từ Hoa Kỳ trích dẫn ý kiến của Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, Tổng chủ biên bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' bình luận về việc vì sao các nhà biên soạn sử dụng tên gọi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thay thế cho tên gọi 'Ngụy quân, ngụy quyền'.
Ông Cường được RFA dẫn lời nói : "Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả".
"Thứ hai, quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây".
"Nhưng về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn", Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường nói với ban Việt ngữ Đài Châu Á Tự do.
Vì sao cần Việt Nam Cộng Hòa ?
Giáo sư Vũ Minh Giang bình luận về Bộ sách Lịch sử Việt Nam 15 tập do Viện Sử học mới công bố.
Về lý do vì sao các nhà biên soạn sách lịch sử của Việt Nam ở trong nước thời gian qua và hiện nay có sự thay đổi về cách gọi tên chính quyền Việt Nam Cộng Hòa như trên, cựu Đại sứ Bùi Diễm nói :
"Nhà cầm quyền Việt Nam bây giờ có nói đến vấn đề nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa, điều đó tôi nghĩ cũng là một sự thực lịch sử không ai chối cãi được,
"Có lẽ bây giờ những nhà cầm quyền ở Việt Nam cần đến những điều đó để nói cho rõ rằng Hoàng Sa hay là Trường Sa là của Việt Nam để có thể... tranh đấu với những người Trung Quốc, Trung Cộng về những vấn đề đó, cho nên mới trở lại nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa", ông Bùi Diễm nhận xét.
Cũng hôm 23/8, Giáo sư Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, bình luận với BBC về lựa chọn sử dụng tên gọi của nhóm biên soạn bộ sách sử của Viện Sử học Việt Nam, ông nói :
"Trong lịch sử Việt Nam có nhiều thực thể lịch sử mà cách trình bày, cách gọi tên như thế nào đó là quyền của mỗi người, cái đó không có một quy ước nào là phải gọi thế này, hay gọi thế kia, nhưng với một bộ lịch sử mà có tính khoa học cao và nhất là tới đây có những bộ sử mà nó đảm bảo tính chuẩn quốc tế của nó, thì bớt đi những từ biểu cảm khi nói về các thực thể lịch sử, thì tính chất khoa học cao lên.
"Chẳng hạn như đối với thực thể chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì gọi đúng tên, định danh là như thế, tôi cho rằng nó đúng với những thực thể lịch sử ấy, thay vì việc thể hiện sự biểu cảm trong các danh xưng.
'Những người thích, yêu thì nói một kiểu, còn những người không thích thì nói một cách, thì đấy là cách, quyền của mỗi người khi mà gọi danh xưng ấy. Nhưng đã viết vào một bộ sử mà có tính chuẩn tắc, khoa học, nên sử dụng những từ hạn chế biểu cảm, đấy là quan điểm của tôi".
Hôm 24/8, một nhà phổ biến kiến thức phổ thông và chủ trương các dự án về sách hóa nông thôn và tủ sách cho các dòng họ ở Việt Nam, ông Nguyễn Quang Thạch, đưa ra bình luận về một số 'nét mới' trong bộ 'Lịch sử Việt Nam' mới công bố hôm 18/8, trong đó có gọi cuộc chiến 17/2/1979 ở Biên giới phía Bắc Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam và việc từ bỏ cách gọi 'Ngụy quân, ngụy quyền' như trên đã đề cập, ông nói :
"Thứ nhất gọi tên cuộc chiến với Trung Quốc đúng như bản chất của nó là tốt, để cho học sinh và giáo viên thấy được rằng sống bên một quốc gia mạnh mà luôn luôn có tư tưởng bành trướng như Trung Quốc, thì chúng ta phải làm cho dân tộc mình mạnh lên để song tồn với họ.
"Thứ hai là nói về Việt Nam Cộng Hòa mà không gọi 'Ngụy quân, ngụy quyền' nữa, thì đấy làm cho người Việt ở trong nước người ta sẽ gắn kết với nhau hơn, không tạo ra những xung đột, mối nguy không đáng có, tương tự như khi người ta phổ biến nghiên cứu khoa học của họ mà xác thực các triều đại này làm được việc này, việc kia, hay chưa làm được..., thì việc ấy là việc tốt", ông Nguyễn Quang Thạch nói với BBC.
'Một thiếu sót lớn và xúc phạm với liệt sĩ'
Hôm 24/8, tại một Bàn tròn thứ Năm của BBC Tiếng Việt nhân bộ sách 15 tập được công bố và được truyền thông đưa tin khá rầm rộ ở Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, một trong các khách mời và là nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Hán - Nôm, đưa ra một vài nhận xét từ một số chi tiết cho tới phương pháp luận khái lược khi soạn thảo, ông nói :
"Sự kiện Gạc Ma năm 1988 mà không được đưa vào bộ sử này thì đây là một thiếu sót vô cùng lớn lao và là một sự xúc phạm lớn đối với những người đã hy sinh cho Tổ Quốc để bảo vệ biển đảo, chủ quyền của đất nước...
"Một vài điểm khác nữa, một bộ sử dù là bất cứ một cá nhân hay là một đơn vị, cơ quan nào tổ chức, thì điều đầu tiên phải tuân thủ là viết sử phải viết đúng sự thật và nếu như có những sự thật viết ra rồi mà chưa tiện công bố, thì gác lại, chứ không được viết một cách sai lạc hoặc là khác đi.
"Vì vậy cho nên bộ sử này dù có công nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hay không công nhận Việt Nam Cộng Hòa, có gọi cuộc chiến tranh chống Trung Quốc là chiến tranh chống xâm lược hay không, thì sự thực lịch sử cũng đã tồn tại rồi.
"Và ngay những sự kiện 1975 cũng vậy, dù là các nhà sử học, những người viết sử hay là tập thể viết sử mà viết như thế nào, thì sự thực lịch sử đã tồn tại và với một thời đại Internet như hiện nay, mọi người có thể vào tất cả các văn khố để có thể đọc, vậy thì không ai có thể trốn tránh, hay lảng tránh được...
"Vấn đề thứ hai là vì đây là một tác phẩm sử học, một bộ sử học được biên soạn ròng rã trong chín năm trời bởi hàng chục, hàng trăm người ở trong một cơ quan khoa học hàn lâm như vậy, vì vậy cho nên chúng ta phải nhìn nhận bộ sử này đúng như nó là một bộ sử và trước hết bởi vì sự tôn trọng đối với lịch sử, chứ chúng ta tránh tình trạng là chỉ thấy một vài từ thay đổi mà đã thấy một điều gì đấy như là rất cảm tính.
"Tôi cho rằng hãy nhìn bộ sử này với tinh thần rất nghiêm khắc của một người đọc một bộ sử, trước hết là như vậy, rồi mới nói đến rằng nó có những từ ngữ nọ, từ ngữ kia, nó làm cho tinh thần dân tộc được chấn hưng lên, hay là một sự vui mừng, một sự hy vọng hòa hợp v.v...
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, là Tổng Chủ biên bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' 15 tập do Viện Sử học Việt Nam biên soạn.
"Tất cả những cái đó tôi cho là mang tính chất cảm tính, còn những nhà khoa học đọc bộ sử này, trước hết người ta đọc bằng một con mắt lạnh lùng của nhà sử học và nhìn nhận bộ sử ấy như một đối tượng để người ta xem xét, vì vậy bộ sử 15 tập này mới được tái bản và có sửa chữa, cho nên nó vẫn đang trong hành trình để đi đến với mọi người đọc, cho nên chúng ta cần phải có nhiều thời gian hơn nữa để đọc bộ sử này", Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nói với Bàn tròn của BBC hôm 24/7/2017.
Được biết, bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' do Viện Sử học Việt Nam soạn thảo được hoàn thành sau chín năm với hơn 30 nhà nghiên cứu sử học tham gia, có độ dầy hơn 10 nghìn trang, đây được coi là bộ 'thông sử' quy mô 'chưa từng thấy' từ trước tới nay ở Việt Nam phản ánh lịch sử nước này từ khởi thủy cho đến những năm 2000, theo truyền thông Việt Nam.
Mời quý vị bấm vào đây để theo dõi một cuộc Tọa đàm Bàn tròn của BBC Tiếng Việt với tựa đề "Bộ sách 'Lịch sử Việt Nam' - vấn đề & ý kiến" với các khách mời tham gia gồm nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Nhã từ Sài Gòn, Đại tá Phạm Hữu Thắng, Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, nhà nghiên cứu Dân tộc học từ Paris, Pháp, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán - Nôm từ Hà Nội và nhà bình luận, phân tích gia Nguyễn Xuân Nghĩa, từ Hoa Kỳ.
Quốc Phương thực hiện
Nguồn : BBC, 27/08/2017
Nếu Lịch sử biết nói thì thời gian 43 năm lặng lẽ trôi qua sẽ bảo các nhà viết sử cộng sản Việt Nam rằng : "Vì kiêu ngạo và nhát gan mà đảng cầm quyền đã lỡ một chuyến tầu".
Bộ "Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10.000 trang đã không còn dùng từ "ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn" để chỉ chính thể Việt Nam Cộng Hòa trước 1975.
Tại sao ?
Vì rằng đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã để mất chính nghĩa chủ quyền quốc gia ở Biển Đông ngay khi quần Hoàng Sa bị quân Trung Quốc đánh chiếm từ tay Hải quân của Việt Nam Cộng Hòa ngày 19/01/1974.
Thời đó, chính quyền miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã không dám hé răng phản đối Bắc Kinh vì sợ mất viện trợ và bị cắt đường tiếp vận vũ khí của Nga và các nước Đông Âu cộng sản cho miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa đi qua lãnh thổ Trung Quốc.
Bây giờ, 43 năm sau, bộ sách "Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10.000 trang đã không còn dùng từ "ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn" để chỉ chính thể Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Và khi làm việc này, Đảng Cộng sản Việt Nam nhắm đạt được 2 điều :
Thứ nhất, việc công nhận Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam là một thực thể chính trị, song song với nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975 "có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc", theo quan điểm của giới nghiên cứu Việt Nam.
Thứ hai, mở ra một cánh cửa mới trong nỗ lực hòa giải, hòa hợp dân tộc giữa hai miền Nam-Bắc nói chung và giữa đảng cầm quyền cộng sản Việt Nam với ngót 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nói riêng.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách nói với báo chí trong nước rằng : "Đây là tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ sử học. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử".
Phó Giáo sư Cường cho rằng : "Vấn đề Việt Nam Cộng Hòa trong các bộ sử tới sẽ phải nêu rõ hơn, khi đây là một thực thể tồn tại ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm. Có một sự gối nhau khi năm 1954 có thể chế nữa gọi là Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm truất Bảo Đại để làm quốc trưởng, rồi trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống...
Thời gian trước, nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nhiều người vẫn quen gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng trong bộ sách gọi trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Theo ông Cường, lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận" (VnExpress 19/8/2017).
Vẫn theo VnExpress, ông Cường nói thêm : "Khi viết tập 12, giai đoạn 1954 đến 1965, chúng tôi cũng có những tranh luận rằng có nên dùng "ngụy quân, ngụy quyền" như trước đây không ? Từ lâu, giới nghiên cứu đã cho rằng không nên dùng, nói hay viết cũng đều không sai, nhưng mang hơi hướng miệt thị. Trong bối cảnh hoà hợp dân tộc thì có những cách gọi cần thay đổi. Khái niệm dùng trong văn bản khoa học nên có sự khách quan, trung tính nên cuối cùng qua vài buổi tranh luận, tổ biên soạn quyết định dùng từ quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn".
Trên lãnh thổ Việt Nam từng tồn tại những thực thể chính quyền. Thời chống Pháp (1945-1954) ngoài chính thể là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì ở các đô thị lớn thuộc vùng tạm chiếm, Pháp đã thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau Hiệp định Genève, ở miền Nam cũng có chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Dĩ nhiên, thực thể này không chính danh, không hợp pháp.
Ngoài nói thẳng tính chất phụ thuộc về mặt chính trị của chính quyền ấy, bộ sử cũng không né tránh khi viết về những thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội ở những vùng chiếm đóng. Thậm chí, thừa nhận nền kinh tế hàng hóa miền Nam khi ấy phát triển hơn ở miền Bắc kế hoạch hóa tập trung ; hay chính quyền ấy cũng có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, khi Trung Quốc ra tay đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974...".
Trong câu nói này, ông Giáo sư Cường đã "tiền hậu bất nhất". Một mặt ông bảo "lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận" nhưng ông lại cho rằng nói hay viết (ngụy quân, ngụy quyền) cũng đều không sai.
Tại sao nó "đúng" và như vậy là không "mang hơi hướng miệt thị" hay sao ?
Ông còn"nửa tỉnh nửa say" khi nói "chính quyền Việt Nam Cộng Hòa" được thành lập ở miền Nam sau Hiệp định Genève 1954, không chính danh, không hợp pháp.
Tại sao "không chính danh" và "không hợp pháp" khi Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) là một thực thể chính trị độc lập, có một chính quyền do dân bầu, có Hiến pháp và được 78 Quốc gia công nhận ?
Trong khi, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1954 đến năm 1976 cũng là nhà nước độc lập nhưng không do dân bầu và chỉ quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam .
Nhưng trong đầu lãnh đạo đảng và các nhà khoa bảng Cộng sản Việt Nam thì chỉ có nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mới "chính danh" và "hợp pháp" trên toàn lãnh thổ.
Bằng chứng như cái loa tuyên truyền của Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) từng xuyên tạc : "Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể "Việt Nam Cộng Hòa" đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một "sáng tạo" thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).
Trong khi đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.
Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng Hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó !" (VOV, ngày 23/04/2015).
Lu loa như thế chỉ đúng nửa sự thật. Bởi vì từ sau Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hay liên hiệp Quốc-Cộng 1946, và Quốc hội có dân bầu đầu tiên 1946, dù nhiệm kỳ cho đến 1960 mới chấm dứt, nhưng lực lượng phá hoại của Đảng Cộng sản Việt Nam do hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn chỉ huy đã tìm mọi cách để đánh phá hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để chiếm độc quyền cai trị.
Bằng chứng đã được ghi trong Bách khoa toàn thư mở : "Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn , sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại : "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này".
Như vậy, dù có "chính danh" trên giấy tờ nhưng chính phủ liên hiệp ban đầu đã thay hình đổi dạng bằng một Chính phủ và Quốc hội đảng cử dân bầu của riêng Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó cho đến ngày được gọi là "thống nhất đất nước chính thức", sau cuộc tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 và sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ động xâm lược Việt Nam Cộng Hòa từ 1955 đến tháng 4/1975, cái "chính danh" của Quốc hội đảng cử dân bầuvà nhà nước do đảng độc quyền lãnh đạo chưa bao giờ là "của dân, do dân và vì dân" như nhà nước tuyên truyền.
Lời Nguyễn Cơ Thạch
Nhưng tại sao Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc đã không dám phản đối Trung Quốc khi Bắc Kinh xua quân đánh chiềm Quần dảo Hoàng Sa tháng 1/1974 ?
Ông Dương Danh Dy, một chuyện gia về Trung Hoa của Việt Nam đã trích lời Thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch vào thời điểm xẩy ra vụ Hoàng Sa để trả lời cho thắc mắc này.
Báo Tuần Việt Nam của Bộ Thông tin và truyền thông cộng sản Việt Nam, trong số ra ngày 6/1/2014 viết : "Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, 19.1.1974, có một băn khoăn của nhiều người là tại sao lúc đó Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại không lên tiếng.
Có phải chăng như sử gia Nguyễn Đình Đầu đã nghĩ rằng tình đồng chí giữa những người Cộng sản lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ ?
TuanVietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện.
Phóng viên : Có một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại không lên tiếng phản đối ?
Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia ?
Dương Danh Dy : Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt - Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.
Ông Thạch, vốn rất quý tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn :
"Dy ơi, sao cậu dại thế ! Đất nước đã thống nhất chưa ? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn ?
Cậu có biết rằng viện trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi qua đường nào ? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ...
Thế mà bây giờ, vì cái chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn".
Lúc đó, ông Thạch chỉ nói cho tôi đến thế thôi, và tôi cũng thông".
Ông Dy "thông" nhưng lịch sử thì không vì vào năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Trung Hoa Chu n Lai nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.
-----------------
Trong một dịp khác, lời nói của ông Dương Danh Dy còn được phổ biến trên Internet nhận định rằng : "Việc không nói để không ảnh hưởng tới sự nghiệp thống nhất đất nước thì rõ rồi. Nhưng việc không nói còn làm cho Ban Lãnh đạo Trung Quốc chủ quan, nghĩ rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa coi nhẹ vấn đề biển đảo mà không tìm cách đánh chiếm luôn quần đảo Trường Sa nữa"…
Rất tiếc dự đoán về ý đồ của Trung Quốc ở Trường Sa của chuyên gia Dương Danh Dy không hoàn toàn đúng. Thay vì "đánh chiếm hết", Trung Quốc đã làm chủ 7 đảo quân sự được tân tạo từ các bãi đá có vị trí chiến lược ở Trường Sa để đe dọa trực tiếp Việt Nam.
Đó là : đá Châu Viên, đá Chữ Thập, cụm đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Tư Nghĩa, đá Vành Khăn và đá Xu Bi.
Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc sẽ chỉ dừng chân ở 7 vị trí này.
Như vậy, qua lời ông Nguyễn Cơ Thạch, ai cũng thấy rõ việc bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đối với đảng và chính phủ miền Bắc khi Hoàng Sa bị Trung Quốc đánh chiếm năm 1974 không quan trọng bẳng việc phải đánh phá để chiếm Việt Nam Cộng Hòa !
Bây giờ, có sáng mắt ra cũng đã quá muộn vì dù sách sử mới có nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa thì Hoàng Sa và một phần Trường Sa cũng đã nằm trong tay Trung Quốc.
Cho nên nếu Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã (thời Việt Nam Cộng Hòa ở lại) cho rằng"Việc thừa nhận này (Việt Nam Cộng Hòa)có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam"(Tuổi Trẻ online, ngày 20/08/017)thì cũng chi là mong ước mà thôi.
Bởi vì khi Phi Luật Tân mời Việt Nam tham gia vụ kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế năm 2013 để bác bỏ chủ quyền tự nhận của Bắc Kinh trong hình Lưỡi Bò (hay đường 9 đọan), chiếm ¾ diện tích trên 3 triệu cây số vuông biển đảo ở Trường Sa thì Việt Nam không dám làm.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã cũng nói với báo Tuổi Trẻ rằng : "Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục".
Nhưng tại sao phải mất tới 43 năm, kể từ khi Trung Quốc dùng võ lực đánh chiếm quấn đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, từ tay Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, sách sử của nhà nước cộng sản Việt Nam mới biềt nhìn nhận có một Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam để có lợi về mặt chủ quyền biển đảo ở Biển Đông nói chung và Hoàng Sa nói riêng ?
Tiến sĩ Nguyễn Nhã còn lạc quan, theo tường thuật của Tuổi Trẻ : "Trong cái nhìn triển vọng về việc thừa nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa, ông Nhã cũng lưu ý rằng "Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam Cộng Hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt".
Không chỉ thế, theo ông Nhã, "... Thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển".
Quả là nhiêu khê đấy. Nếu chỉ cần tập sách sử biết nhìn nhận có một chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam từng kiểm soát chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa mà Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại được chính nghĩa để vận động toàn dân hy sinh bảo vệ lãnh thổ thì rẻ quá.
Nhưng cái gía mà nhà nước cộng sản Việt Nam phải trả cho hòa hợp, hòa giải dân tộc với người Việt Nam Cộng Hòa trong và ngoài nước còn cao gấp vạn lần hơn.
Còn cao hơn, nếu cụm từ "ngụy quân ngụy quyền" chỉ có gía trị trên trang sách mà trong đầu thì không.
Chỉ lỡ một chuyến tầu thôi mà khổ thế đấy.
Phạm Trần
(23/08/2017)
Việt Nam Hàn Quốc, cái bóng của quá khứ (RFA, 16/06/2017)
Ngày 6 tháng sáu năm 2017, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in vinh danh những người lính Hàn Quốc đã tham gia chiến tranh Việt Nam bên cạnh lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.
Lực lượng viễn chinh của Hàn Quốc đến Việt Nam tháng 3 năm 1965. AFP photo
Việc vinh danh này đã gây ra phản ứng không hài lòng từ phía Việt Nam.
Tuy nhiên sau đó hai bên đều khẳng định tầm quan trọng của quan hệ hai nước và, ngày 15 tháng sáu, bà Lê Thị Thu Hằng phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng lãnh đạo hai nước đã nhận thức được chuyện gác lại quá khứ và hướng về tương lai.
50 ngàn quân tham chiến tại Việt Nam
Theo các số liệu từ các trang mạng của chính phủ Việt Nam đến các trang mạng của người Việt tại hải ngoại, lực lượng Hàn Quốc (còn gọi là Nam Triều Tiên trước đây) tham chiến tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1972, gồm 50 ngàn quân với hai sư đoàn bộ binh là Mãnh Hổ, Bạch Mã, và một lữ đoàn thủy quân lục chiến Thanh Long. Lực lượng này đóng quân dọc duyên hải miền Trung từ Quảng Nam cho đến Nha Trang.
Theo trang Việt báo tại hải ngoại thì những người lính Nam Triều Tiên là những chiến binh rất can đảm, có khả năng thuyết phục dân chúng Việt Nam kêu gọi các du kích cộng sản đầu hàng.
Theo trang Báo Quảng Ngãi của chính phủ Việt Nam thì lính Nam Triều Tiên là những người rất hung hãn, đã gây nên nhiều cuộc thảm sát dân thường tại miền Trung Việt Nam, nhất là tại tỉnh Quảng Ngãi.
Báo mạng Vnexpress của Việt Nam, trong bản tin ngày 15 tháng sáu có trích lời một nhà sử học người Hàn Quốc nói rằng lực lượng Nam Triều Tiên đã thảm sát 9 ngàn dân thường Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam.
Theo nhà báo tự do Võ Văn Tạo, vào năm 1992, ông có hướng dẫn một đoàn cựu chiến binh Nam Triều Tiên thăm lại các căn cứ quân sự của họ tại tỉnh Bình Định. Ông kể lại câu chuyện sau đây :
"Có mấy người lục trong túi ra đưa cho tôi xem mấy cái ảnh chụp hồi đi lính sang Việt Nam, hình trắng đen cỡ 9x12, ngồi trong công sự, đội nón sắt, xung quanh là bao cát, cầm khẩu trung liên theo kiểu thanh niên ấy. Rồi có một ông nói rằng thông cảm nhé, hồi đó Hàn Quốc nghèo quá, phải đi đánh thuê lấy tiền thôi chứ không có thù hận gì với Việt Nam hết. Ông đấy nói thật lòng như thế, tôi cho đó là một lời nói thật".
Nhà báo Võ Văn Tạo nói rằng liên minh quân sự thời chiến tranh Việt Nam giữa Nam Triều Tiên và Hoa Kỳ đã đem về cho Seoul một khoản ngoại tệ lớn, cũng như là một số tiền không nhỏ cho các binh sĩ tham gia cuộc chiến. Theo số liệu của viện ASAN nghiên cứu về Châu Á của Hàn Quốc, thì số tiền mà Seoul thu được trong những năm từ 1966 đến 1969 chiếm từ 7 đến 8% tổng sản lượng quốc dân của quốc gia này trong thời gian đó.
Rắc rối ngoại giao và quan hệ kinh tế ngày càng lớn
Những người lính bị bắt làm tù binh trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh chụp tại một làng, tháng 3/1965. AFP photo
Nhận xét về phản ứng không hài lòng của Việt Nam sau tuyên bố của tân Tổng thống Hàn Quốc, ông Moon Jae-in vào ngày 6 tháng 6 năm 2017, vinh danh những người lính Nam Triều Tiên tham chiến tại Việt Nam, Tiến sĩ Trần Công Trục nguyên trưởng ban biên giới, thuộc Bộ ngoại giao của chính phủ Việt Nam cho rằng :
"Tôi nghĩ rằng phản ứng của phía Việt Nam có nghĩa rằng việc những người lính Hàn Quốc qua đây gây ra những tội ác đối với nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam không thể gọi là những điều được tôn vinh được, bởi vì quan điểm của người Việt Nam, những người chịu những cuộc tàn sát đó, không chấp nhận những người lính đó được vinh danh được".
Ông Võ Văn Tạo, quê tại Quảng Ngãi, từng tham chiến trong hàng ngũ quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam, nhận xét với chúng tôi về thái độ hiện nay của dân chúng vùng Quảng Ngãi về sự có mặt của quân đội Nam Triều Tiên trong quá khứ :
"Nó cũng có nhiều cung bậc, phần lớn, kể cả người già, cho rằng chuyện đã qua rồi không vương vấn gì nữa, cũng còn một số người vẫn nhớ đến và vẫn cay, tức tối với chuyện đó. Còn đa phần thế hệ trẻ thì không biết".
Khi được đặt câu hỏi về lời vinh danh của tân tổng thống Hàn Quốc vào ngày 6 tháng sáu vừa qua đối với các cựu binh từng tham gia chiến tranh Việt Nam, ông Tạo cho rằng đó là một điều rất tự nhiên :
"Đất nước Hàn Quốc có cất đầu lên được cũng nhờ những người đó. Đấy là ông ấy phát biểu cảm ơn họ thì cũng là một tình cảm tự nhiên, đứng về góc độ của họ cũng là rất hợp lý. Mà phía Việt Nam phản ứng căng quá thì không nên. Nếu có hiểu biết kỹ về lịch sử Hàn Quốc, về giai đoạn đó, trên một quan điểm là vị tha và hòa hiếu, thì không nên nổi giận về chuyện này".
Ông Võ Văn Tạo cũng nói là có thể do quan điểm chính trị vẫn còn có sự khác biệt nên Việt Nam mới có những phản ứng như vậy. Ông trích dẫn một diễn văn của Tổng thống Hoa Kỳ Obama, được ông coi là người thân Việt Nam, trong đó ông Obama có ca ngợi những người lính Mỹ đã ngã xuống tại trận đánh Khe Sanh khốc liệt trong chiến tranh Việt Nam.
Bài diễn văn ông Tạo nói đến là bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ thứ nhất của tổng thống Obama vào tháng giêng năm 2009, đã được báo chí Việt Nam dịch sang tiếng Việt nhưng lược bỏ phần nói về những người lính Mỹ.
Hiện nay theo số liệu từ báo Việt Nam Vneconomy, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, một chuyên gia kinh tế sống ở Hà Nội thì hầu như toàn bộ sản phẩm điện thoại thông minh của hãng Samsung của Hàn Quốc đang được làm ở Việt Nam, và hãng này đang sử dụng đến 1000 kỹ sư tin học của Việt Nam.
Ngoài sự phát triển quan hệ kinh tế, theo báo chí Hàn Quốc, nhiều tổ chức dân sự Hàn Quốc đã thực hiện những công việc nhân đạo tại các vùng mà binh lính Nam Hàn tham chiến trước đây như một nỗ lực hàn gắn những vết thương chiến tranh. Điển hình nhất là tổ chức Tôi và Chúng Ta. Tổ chức này đã đến nơi mà lữ đoàn Thanh Long của Nam Hàn trước đây tại Quảng Nam đã gây ra một cuộc thảm sát dân thường để xây cầu và đường sá.
Sau những phát biểu của thứ trưởng bộ ngoại giao Hàn quốc vào ngày 14 tháng sáu, và của người phát ngôn bộ ngoại giao Việt Nam vào ngày 15 tháng sáu, Tiến sĩ Trần Công Trục nói rằng đó là một định hướng đúng đắn, và Hàn Quốc là một quốc gia phát triển rất tốt tại Châu Á có nhiều kinh nghiệm mà Việt Nam cần phát triển tốt mối quan hệ.
Ông Võ Văn Tạo thì cho rằng hai nước cùng là nạn nhân của chiến tranh nên Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng.
Kính Hòa, phóng viên RFA
******************************
Việt Nam - Hàn Quốc nên gác lại quá khứ chiến tranh (RFA, 15/06/2017)
Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Yun Byung-Se (thứ hai, trái) trong buổi làm việc chính thức với đối tác Việt Nam Phạm Bình Minh tại Hà Nội vào ngày 20 tháng 3 năm 2017. AFP photo
Chuyện lời qua tiếng lại về quá khứ tham chiến của quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam dường như đã lắng xuống sau khi các quan chức ngoại giao lên tiếng nói về sự hợp tác giữa hai quốc gia.
Phía Việt Nam thì bà Lê Thị Thu Hằng, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao vào ngày 15 tháng 6 lại được báo chí hỏi về vấn đề liên quan có trả lời rằng Việt Nam mong muốn có quan hệ hữu nghị với tất cả các quốc gia từng tham chiến tại Việt Nam trong đó có Hàn Quốc, và lãnh đạo hai nước đã nhận thức được rằng cần gác lại quá khứ chiến tranh.
Phía Hàn Quốc thì ông Cho June-hyuck, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao khẳng định Seoul rất coi trọng mối quan hệ với Hà Nội.
Hàn Quốc có hai sư đoàn tham chiến cùng quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Báo chí Việt Nam trích tài liệu từ một nhà sử học Hàn Quốc nói rằng quân đội Hàn Quốc đã gây ra các cuộc thảm sát dân thường Việt Nam trong chiến tranh.
Hôm 6 tháng 6 Tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in có nói trong buổi lễ tưởng niệm tử sĩ của nước này rằng những người lính Hàn Quốc tham gia chiến tranh Việt Nam cần được ghi nhớ công lao. Phát biểu này đã gây ra phản ứng không hài lòng từ phía Hà Nội.
Hàn Quốc hiện là nhà đầu tư lớn thứ hai tại Việt Nam với hầu như toàn bộ việc sản xuất điện thoại thông minh của công ty Samsung.