Theo một cuộc thăm dò ý kiến người dân, Hoa Kỳ đang để mất dần Đông Nam Á vào tay Trung Quốc. Theo đó, khu vực Đông Nam Á có 11 quốc gia thành viên, nhưng chỉ có 3 quốc gia, ở đó đa số người dân ủng hộ và thích Hoa Kỳ, đó là Philippines, Việt Nam và Campuchia. Đa số người dân ở những nước còn lại thì thích và ủng hộ Trung Quốc. Thậm chí, ở các quốc gia theo Hồi giáo, người ta còn căm ghét nước Mỹ.
Lãnh đạo các nước ASEAN chụp ảnh chung với Tổng thống Mỹ ngày 12/05/2024
Truyền thông quốc tế đưa tin, phát biểu tại Diễn đàn Hương Sơn, Trung Quốc, hôm 13/9, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam – Đại tướng Phan Văn Giang, đã khẳng định chính sách đối ngoại 4 không, đồng thời kêu gọi tôn trọng chủ quyền Việt Nam.
Điều này được đánh giá là không có gì mới, chỉ là sự nhắc lại những điều mà các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam từng tuyên bố, về chính sách quốc phòng và đối ngoại của Việt Nam. Những chính sách này nhằm cân bằng mối quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc.
Trước đó ít ngày, Bộ trưởng Phan Văn Giang đã đến thăm Hoa Kỳ trong 2 ngày, từ ngày 8 đến 9/9, sau chuyến thăm Philippines. Vấn đề hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ, cũng như Việt nam – Philippines, đang được giới quan sát và phân tích quốc tế hết sức quan tâm. Đồng thời có những câu hỏi được đặt ra, rằng, đây có phải là dấu hiệu cho thấy, bước "chuyển động" trong chính sách quốc phòng của Việt Nam hay không?
Ngày 13/9, Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh – một Hội nghị đối thoại an ninh khu vực thường niên do Trung Quốc thiết lập, kể từ năm 2016, khai mạc. Diễn đàn năm 2024 này có sự tham dự của các bộ trưởng quốc phòng và các quan chức, từ hơn 100 quốc gia, với chủ đề "Cùng xây dựng hòa bình, cùng chia sẻ tương lai".
Phát biểu của Tướng Giang về việc kêu gọi các bên "tôn trọng chủ quyền của Việt Nam", không đề cập trực tiếp, cụ thể đến quốc gia nào, nhưng có lẽ, ông muốn "ám chỉ" nước láng giềng phương Bắc. Vì Việt Nam chỉ có tranh chấp chủ quyền nhiều nhất với Trung Quốc, trên Biển Đông, cũng như đã nhiều lần cáo buộc về việc Bắc Kinh đưa tàu chiến, tàu hải cảnh, tàu nghiên cứu, xâm phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á, đang cản trở vị thế của Mỹ trong khu vực. Trong bối cảnh, Hoa Kỳ đang mất dần vị thế ở khu vực này, thì sự suy yếu của Mỹ luôn là cơ hội cho Trung Quốc.
Theo một số ý kiến, các chuyến thăm Philippines và Mỹ gần đây của Bộ trưởng Giang, đã cho thấy, những nỗ lực trong việc hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia này có chung mục tiêu, chống lại sự lấn lướt của Trung Quốc trên Biển Đông.
Điều đó đã bất chấp làn sóng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang gia tăng, do sự phát động của Ban Tuyên giáo Trung ương Việt Nam. Làn sóng này cho thấy, cảm tính chống Mỹ của Ban Đảng, cũng như của những tướng lĩnh quân đội, đang gia tăng ở Việt Nam.
Theo kết quả thăm dò ý kiến người dân mới nhất của Viện Chính trị có trụ sở tại Singapore, nước Mỹ vẫn nhận được sự ủng hộ rất cao ở Philippines, là 83% dân chúng; và Việt Nam là 79% dân chúng. Trong khi, sự ủng hộ đối với Trung Quốc cao hơn ở các quốc gia còn lại, kể cả Thái Lan, vốn là một đồng minh của Mỹ.
Tỷ lệ vừa kể đã cho thấy, số đông người Việt Nam và Philippines không có cảm tình, thậm chí là lo ngại về thái độ "ỷ mạnh" để ăn hiếp các quốc gia yếu hơn của Bắc Kinh, ngày càng gia tăng.
Xin nhắc lại, trước sức ép quyết liệt của phe tướng lĩnh quân đội, và bóng dáng của Bắc Kinh đứng đằng sau, việc Tổng bí thư Tô Lâm vẫn không kiểm soát và điều hành được phe quân đội, là điều đáng lo ngại cho hệ thống chính trị của Việt Nam, trong thời điểm hiện nay.
Trà My
Bilahari Kausikan : Tập đã mắc 3 sai lầm trong chính sách đối ngoại
Ken Moriyasu, Nguyễn Thị Kim Phụng, Nghiên cứu quốc tế, 19/10/2022
Cựu quan chức ngoại giao hàng đầu Singapore nói rằng Bắc Kinh đã tính toán sai về sự suy yếu của Mỹ.
Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ cố gắng kéo dài nhiệm kỳ của mình với tư cách là nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Tại đại hội toàn quốc của Đảng cộng sản Trung Quốc khai mạc vào ngày 16/10, Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ cố gắng kéo dài nhiệm kỳ của mình với tư cách là nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã thay đổi đáng kể sau 10 năm cầm quyền của ông, chuyển sang một lập trường tự tin và quyết đoán hơn so với những người tiền nhiệm.
Nikkei Asia vừa có cuộc trò chuyện với cựu đại sứ Bilahari Kausikan, nguyên thư ký thường trực Bộ Ngoại giao Singapore, về phong cách của nhà lãnh đạo Trung Quốc và diễn biến tình hình căng thẳng Mỹ-Trung trong những năm tới.
Kausikan cũng từng là đại diện thường trực của Singapore tại Liên Hiệp Quốc và đại sứ tại Nga. Ông hiện là Chủ tịch Viện Nghiên cứu Trung Đông tại Đại học Quốc gia Singapore.
Dưới đây là bản biên tập của cuộc phỏng vấn.
Đại sứ Bilahari Kausikan
Hỏi : Ông đánh giá chính sách đối ngoại của Tập Cận Bình như thế nào ?
Đáp : Trung Quốc đã phạm phải ba sai lầm rất cơ bản. Sai lầm lớn đầu tiên là họ đã từ bỏ cách tiếp cận ‘ẩn mình chờ thời’ của Đặng Tiểu Bình quá sớm. Điểm khởi đầu là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Nó dẫn đến sự khoe khoang quá mức. Đây là một sai lầm không thể sửa chữa bởi một khi anh đã khoe khoang, thì sau đó, dù anh có im lặng đi chăng nữa, mọi người vẫn sẽ không quên những gì anh đã nói.
Sai lầm thứ hai cũng xảy ra vào khoảng năm 2008. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thực sự bắt đầu tin vào tuyên truyền của họ. Họ cho rằng Mỹ nói riêng và phương Tây nói chung đang trên đà suy yếu tuyệt đối và không thể phục hồi được. Mỹ có thể đang suy yếu một cách tương đối và họ có rất nhiều vấn đề, đó là sự thật. Nhưng sự suy yếu ở đây là tương đối, không phải tuyệt đối.
Khoảng một tháng trước, Giáo sư Đại học Bắc Kinh Vương Tập Tư (Wang Jisi) đã trả lời một cuộc phỏng vấn, trong đó ông đưa ra một lập luận rất quan trọng. Ông nói rằng đừng tin là Mỹ đang suy yếu tuyệt đối ; Mỹ chỉ suy giảm tương đối so với Trung Quốc vì Trung Quốc đang phát triển ; Mỹ vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối so với các nước lớn khác.
Vương rất dũng cảm khi dám nói ra điều đó, bởi vì nó mâu thuẫn trực tiếp với những gì sếp của ông đã nói – rằng phương Đông đang trỗi dậy.
Sai lầm thứ ba là mối quan hệ đối tác ‘không giới hạn’ với Nga. Nga sẽ là ‘cục nợ vĩnh viễn’ đối với Trung Quốc. Nga sẽ ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc có thể có được một phần năng lượng giá rẻ, nhưng như chúng ta thấy, Trung Quốc đang lo lắng về việc bị vướng vào rắc rối ở thời điểm có quá nhiều vấn đề kinh tế trong nước và tăng trưởng đang chậm lại.
Đó là những sai lầm lớn về vĩ mô.
Hỏi : Là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, ông nhận xét thế nào về đường lối ngoại giao chiến lang của Bắc Kinh ?
Đáp : Các nhà ngoại giao nên biết cứng rắn nếu cần, để đạt được mục tiêu của họ. Ngoại giao không phải chỉ là làm người tốt và lịch sự. Đây là điều tôi thường nói với các nhà ngoại giao trẻ của đất nước mình. Công việc của các bạn là thúc đẩy lợi ích quốc gia của Singapore. Tất nhiên, hãy cứ tốt bụng và lịch sự, nhưng nếu bắt buộc thì vẫn phải cứng rắn, sử dụng bất kỳ phương tiện nào cần thiết, ngay cả khi điều đó có nghĩa là bạn trở thành kẻ xấu. Nhưng vấn đề là các bạn làm vậy để thúc đẩy mục tiêu của mình.
Đối với ngoại giao chiến lang, tôi không thấy có lợi ích nào của Trung Quốc được thúc đẩy. Thực tế thì, tôi nghĩ rằng những lợi ích đó còn bị thiệt hại. Tuy nhiên, các chiến lang thực ra đang nói chuyện với những người ngồi ở Bắc Kinh, chứ không nhất thiết là với người ngoài.
Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi thăm Quốc hội Đài Loan ở Đài Bắc, vào ngày 3/8. © Reuters
Hỏi : Khi Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi đến thăm Đài Loan, nhóm diều hâu – với đại diện là các nhà ngoại giao chiến lang – đã khiến nhiều công dân Trung Quốc mong đợi một hành động nào đó nhắm vào máy bay của Pelosi, điều đó rất nguy hiểm. Ông nghĩ thế nào về chuyện này ?
Đáp : Pelosi có nên đến thăm Đài Loan hay không là một vấn đề khác. Chuyến đi của bà không đạt được điều gì, ngoại trừ việc kích động nhiều cảm xúc. Nhưng anh nói đúng, xung đột có thể tình cờ xảy ra. Khi anh kích động quần chúng thì đến một lúc nào đó, anh sẽ thấy mình mắc kẹt trong những lời tuyên truyền của chính anh. Nếu anh không đáp ứng được kỳ vọng của mọi người, anh sẽ trông như một kẻ yếu thế.
Hỏi : Liệu căng thẳng Mỹ-Trung có sẽ là tin tức chủ đạo trong 10 năm tới ?
Đáp : Anh vừa nói là 10 năm. Còn tôi nghĩ sẽ lâu hơn thế nữa. Căng thẳng Mỹ-Trung sẽ là đặc điểm cấu trúc mới, làm tâm điểm cho các quan hệ quốc tế. Ví dụ tương tự là tình quan hệ quốc tế đã xoay quanh quan hệ Mỹ-Xô suốt hơn 40 năm trong Chiến tranh Lạnh. Nhưng tôi cho rằng quan hệ Mỹ-Trung phức tạp hơn quan hệ Mỹ-Xô.
Tôi không thích thuật ngữ ‘Chiến tranh Lạnh mới.’ Nó thể hiện sai bản chất của mối quan hệ này. Mỹ và Liên Xô từng dẫn đầu các hệ thống riêng biệt, và đó là cuộc cạnh tranh giữa các hệ thống. Về cơ bản, đó là một cuộc cạnh tranh nhị phân, A hoặc B. Hai hệ thống gần như không có kết nối với nhau.
Trong mối quan hệ Mỹ-Trung, cả hai nước đều là những bộ phận quan trọng của một hệ thống duy nhất. Họ được kết nối với nhau, và với Nhật Bản, Singapore, Châu Âu, cũng như với tất cả các quốc gia khác, thông qua một hiện tượng mới – đó là chuỗi cung ứng với mức độ phức tạp và phạm vi mà tôi không nghĩ rằng chúng ta đã từng chứng kiến trong lịch sử.
Với tôi, rất khó để tin rằng mạng lưới này có thể tách thành hai hệ thống riêng biệt. Sẽ có sự tách biệt một phần. Nó đã xảy ra trong lĩnh vực công nghệ, internet, nhưng tôi không nghĩ sẽ có sự tách biệt hoàn toàn. Cái giá là quá đắt.
Tôi có thể cho anh một ví dụ. Chúng ta đều biết chất bán dẫn là một điểm yếu lớn của Trung Quốc. Và tôi nghĩ người Trung Quốc sẽ rất, rất khó để bắt kịp. Thậm chí tôi có thể nói rằng Trung Quốc gần như không thể bắt kịp với các công nghệ cao cấp vì ranh giới phân loại vẫn đang dịch chuyển. Những gì được xem là cao cấp ngày hôm nay sẽ không còn là cao cấp sau một năm nữa.
Tuy nhiên, lý do cơ bản khiến họ rất khó bắt kịp và phải mất rất nhiều thời gian để bắt kịp là tất cả hoặc hầu hết các bộ phận quan trọng nhất của chuỗi cung ứng đều do Mỹ, bạn bè, hoặc đồng minh của Mỹ kiểm soát. Một số loại vật liệu, một số loại hóa chất đang nằm trong tay Nhật Bản. Các loại máy công cụ để thiết kế là của người Hà Lan. Các loại máy công cụ khác lại thuộc về các nước Châu Âu khác. Các nhà chế tạo chất bán dẫn lớn đang nằm ở Đài Loan, Hàn Quốc, và Mỹ. Và còn rất nhiều bộ phận nhỏ lẻ khác, và những bộ phận quan trọng nhất do Mỹ kiểm soát
Mặt khác, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ 40% sản phẩm bán dẫn. Làm sao có thể cắt giảm 40% sản lượng của công ty mà không gây ra tổn hại nghiêm trọng ? Cạnh tranh trong cùng một hệ thống khó hơn nhiều so với cạnh tranh giữa các hệ thống. Anh chỉ cần cắt kết nối của Liên Xô với mọi thứ. Nhưng anh thực sự không thể làm điều đó với Trung Quốc. Anh cần phải phân định rõ ràng hơn.
Thứ hai, tôi không nghĩ rằng cuộc cạnh tranh sẽ kết thúc một cách rõ ràng. Tại sao ? Bởi vì người Trung Quốc có thể muốn thống trị hệ thống duy nhất này, còn người Mỹ muốn duy trì sự thống trị của mình. Nhưng không ai trong số họ muốn phá hủy nước còn lại, bởi vì tiêu diệt một bên đồng nghĩa với phá hủy toàn bộ hệ thống, và cái giá phải trả sẽ rất đắt.
Thế nên cạnh tranh Mỹ-Trung sẽ kéo dài hơn nhiều so với Chiến tranh Lạnh, đó là điểm mấu chốt. Chúng ta sẽ phải học cách sống chung với nó.
Hỏi : Chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden đang chuẩn bị sử dụng các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và sàng lọc đầu tư để Trung Quốc không đuổi kịp và vượt qua Mỹ về các công nghệ chủ chốt. Ông nghĩ sao về điều này ?
Đáp : Giờ đây, chúng ta phải cẩn trọng xem xét loại chất bán dẫn nào mình sẽ bán cho Trung Quốc. Anh chỉ nên bán cho Trung Quốc loại chất bán dẫn chỉ có thể dùng trong máy giặt. Điều đó tốt thôi, tại sao lại không ? Nhưng đừng bán cho họ những thứ có thể được sử dụng trong tên lửa dẫn đường chính xác. Mọi chuyện sẽ trở nên rất, rất phức tạp. Rất, rất kỹ thuật. Từng trường hợp phải được nghiên cứu kỹ càng.
Điều tôi đã nghe từ các công ty công nghiệp – bao gồm các công ty công nghiệp Nhật Bản và các công ty công nghiệp Đức – là dù họ vẫn làm việc ở thị trường Trung Quốc, nhưng họ sẽ không ngây thơ. Không thể nói rằng, ‘Tất cả các công ty Nhật Bản sẽ quay về Nhật Bản, sẽ đến Singapore, Việt Nam". Điều đó chỉ đơn giản là không thể. Ngay cả khi anh muốn làm điều đó, sẽ phải mất rất nhiều năm. Đó không phải là việc có thể được thực hiện nhanh chóng.
Ken Moriyasu
Nguyên tác : "Xi’s China has made 3 foreign policy mistakes : Bilahari Kausikan", Nikkei Asia, 12/10/2022
Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 19/10/2022
**************************
Ba sai lầm của Tập Cận Bình trong chính sách đối ngoại
Ken Moriyasu, Thanh Hà, RFI, 12/10/2022
Trước thềm Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc 2022, cựu đại sứ Singapore Bilahari Kausikan nêu bật ba sai lầm trong chính sách đối ngoại của ông Tập Cận Bình. Bài nhận định được đăng trên báo tài chính Nhật Asia Nikkei ngày 12/10/2022.
Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình. Ảnh ngày 15/09/2022 tại Samarkand, Uzbekistan AP - Alexandr Demyanchuk
Là một nhà ngoại giao lão luyện, nguyên là thứ trưởng ngoại giao Singapore, đại sứ Singapore tại Moskva, ông Bilahari Kausikan đánh giá : về phong cách, ông Tập Cận Bình trong thập niên cầm quyền vừa qua đã "quá tự tin và hung hăng". Về thực chất nhà lãnh đạo quyền lực nhất tại Trung Quốc từ sau Mao Trạch Đông đến nay đã phạm ba sai lầm "nghiêm trọng" trong chính sách đối ngoại.
Sai lầm cơ bản thứ nhất là đã quá "hấp tấp" từ bỏ cách tiếp cận của Đặng Tiểu Bình, theo phương châm "ẩn mình để chờ thời". Với khủng hoảng tài chính thế giới 2008 Trung Quốc đã thực sự khẳng định vị trí của mình trên bàn cờ thế giới về kinh tế và đã lầm tưởng là có thể dễ dàng qua mặt nước Mỹ nói riêng, phương Tây nói chung.
Sơ hở thứ hai bắt nguồn từ đánh giá sai lệch về "biến cố khủng hoảng tài chính 2008" : Bắc Kinh tự ru ngủ với giả thuyết là phương Tây đang suy đồi và sẽ không vươn dậy được trở lại. Nhà ngoại giao Singapore, Bilahari Kausikan ghi nhận phương Tây chỉ "đổ dốc một cách tương đối. Đó không phải là một sự sụp đổ tuyệt đối". Mãi đến gần đây, giáo sư của Đại học Bắc Kinh, Wang Jisi mới nhìn nhận điều đó. Hơn nữa dù rằng Mỹ có lao dốc "đi xuống", so với Trung Quốc, nhưng cũng phải hiểu rằng, chưa chắc là Hoa Kỳ đã "đổ dốc". Trong khí đó thì Trung Quốc là một quốc gia đang vươn lên và đang "trỗi dậy" và vẫn theo chuyên gia Trung Quốc này, thì "trong nhiều lĩnh vực Hoa Kỳ vẫn chiếm thế thượng phong một cách tuyệt đối". Tiếc rằng "thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng" và "sự thật đó không vừa ý ông Tập Cận Bình".
Sai lầm thứ ba trong 10 năm lãnh đạo đất nước ông Tập đã mắc phải, theo quan điểm của nhà ngoại giao Singapore và cũng từng là đại sứ tại Moskva này, là khi Bắc Kinh tuyên bố "tình bạn vô bờ bến" với Nga. Theo ông Bilahari Kausikan, Nga sẽ vĩnh miễn mang nợ Trung Quốc và sẽ càng lúc càng lệ thuộc vào Bắc Kinh. Như đã thấy, Trung Quốc có thể mua năng lượng của Nga với giá rẻ nhưng đồng thời càng lúc càng lo lắng khi mà chiến tranh Ukraine gây khó khăn cho kinh tế của Trung Quốc và tăng trưởng của quốc gia đông dân này bị chậm lại.
Ken Moriyasu
Nguyên tác : Xi's China has made 3 foreign policy mistakes : Bilahari Kausikan, Nikkei Asia, 12/10/2022
Thanh Hà lược dịch
Nguồn : RFI, 12/10/2022
Tiếp theo loạt bài Dự báo Chính sách Đối ngoại của chính quyền Biden (31/12-3/1/2021) và Tuần trăng mật của Biden : Vai trò Bộ Tứ và Xoay trục 2.0 (29/3/2021) trên trang Nghiên cứu Quốc tế, bài này cập nhật tiếp về các bước triển khai chính sách đối ngoại của chính quyền Biden với Trung Quốc và khu vực Indo-Pacific.
Chính quyền Biden coi Trung Quốc "là thách thức địa chính trị lớn nhất thể kỷ 21" (tuyên bố của Ngoại trưởng Anthony Blinken)
Ngay khi còn đang tranh cử, Joe Biden đã chú trọng đến vấn đề nhân sự. Chiến dịch của ông đã tập hợp được hàng ngàn chuyên gia giỏi, được bố trí vào các tiểu ban như "túi càn khôn". Tuy Joe Biden đã 78 tuổi, đi lại hay vấp cầu thang, và có tật nói lắp nên rất ít khi họp báo, nhưng ông là một chính trị gia lão luyện. Với hơn ba thập niên hoạt động nghị trường, tám năm làm phó tổng thống thời Obama, và bốn năm quan sát chính quyền Trump, nay ngồi vào ghế tổng thống thứ 46 của Mỹ, chắc ông thừa biết phải làm gì và làm như thế nào.
Ngay trong tuần trăng mật (100 ngày), Biden đã thông qua được gói cứu trợ lịch sử 1.900 tỷ USD để khắc phục dịch bệnh và môi trường, và đang thúc đẩy thông qua gói cứu trợ khổng lồ 3.000 tỷ USD để kiến thiết hạ tầng, giáo dục và đào tạo. Điều đó chứng tỏ kinh nghiệm lão luyện của ông tại nghị trường, biết chọn khâu trọng yếu để tháo gỡ. Vì vậy, Biden đã tự tin tuyên bố sẽ hoàn thành tiêm chủng vaccine cho người lớn vào cuối tháng năm chứ không phải cuối tháng bảy như đã dự kiến. Kinh tế cũng bắt đầu khởi sắc.
Người ta nói rằng muốn biết chính sách đối ngoại thế nào, hãy nhìn vào cách sắp xếp nhân sự chủ chốt của "Team Biden". Đó là Jake Sullivan (Cố vấn An ninh Quốc gia), Anthony Blinken (Ngoại trưởng), và Kurt Campbell (Điều phối viên chính sách Indo-Pacific). Đó là "bộ ba xe, pháo, mã" của "Team Biden" để điều hành chính sách đối ngoại, vẫn theo tầm nhìn Indo-Pacific, nhằm "xoay trục 2.0" sang Châu Á. Tuy họ cũng có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, nhưng không cực đoan như phái "diều hâu".
Ở cấp thấp hơn, Biden đã bổ nhiệm Ely Ratner làm trợ lý đặc biệt cho Bộ trưởng Quốc phòng Loyd Austin, và vừa đề cử đại sứ Daniel Krittenbrink làm trợ lý ngoại trưởng đặc trách khu vực Đông Á-Thái Bình Dương. Đó là những vị trí then chốt để định hình chính sách đối ngoại, tập trung đối phó với Trung Quốc ở khu vực Indo-Pacific, đồng thời chứng tỏ vị trí chiến lược quan trọng của Việt Nam và Biển Đông trong bàn cờ địa chính trị khu vực.
***
Hầu hết Team Biden là quan chức chuyên nghiệp, từng phục vụ chính quyền Obama. Ratner từng làm trợ lý cho phó tổng thống Joe Biden trong Nhà trắng, Blinken và Campbell từng làm trợ lý cho ngoại trưởng Hilary Clinton tại Bộ Ngoại giao, Sullivan từng làm cố vấn cho Hilary Clinton tranh cử tổng thống. Họ là đồng nghiệp, chia sẻ tầm nhìn và quan điểm, nên dễ đồng thuận và hợp tác. Điều đó khác với thời Trump khi các nhân vật chủ chốt thường bất hòa và mâu thuẫn, hay lộ tin cho báo chí, bị Trump thay như thay áo.
Hầu hết Team Biden là các học giả có tên tuổi, thuộc các trung tâm nghiên cứu chính sách (think tanks) như Center for a New American Security (CNAS), Council on Foreign Relations (CFR), Brookings Institution, và the Asia Group… Ví dụ, Kurt Campbell và Jake Sullivan đã từng cộng tác viết chung các bài quan trọng về chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia. Kurt Campbell là kiến trúc sư đề xuất chiến lược "xoay trục sang Châu Á" dưới thời Obama.
Team Biden chú trọng đến kết nối liên ngành và phối hợp hành động (interoperability) giữa đối nội và đối ngoại, giữa các bộ/ngành với nhau (như kinh tế/thương mại với an ninh/quốc phòng). Joe Biden đã thông báo (ngày 10/2) việc thành lập "Nhóm đặc nhiệm về Trung Quốc" (China Task Force) tại Bộ Quốc phòng, gồm 15 chuyên gia từ các bộ phận, do Ely Ratner đứng đầu, trong vòng 4 tháng phải xem xét và đề xuất chiến lược và phương thức đối phó với các thách thức từ Trung Quốc, cũng như tác động tới quan hệ Mỹ-Trung.
Team Biden chú trọng củng cố đồng minh và đối tác, dựa trên các hiệp ước cũ và cơ chế mới như "Bộ Tứ" (Quad) gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc, và "Bộ Tứ Mở rộng" (Quad Plus) với Hàn Quốc, Việt Nam, Tân Tây Lan (Quad+3). Tại Hội nghị cấp cao đầu tiên của "Bộ Tứ" (12/3) các vị lãnh đạo đã có tuyên bố chung và chương trình hành động cụ thể nhằm tăng cường vai trò Bộ Tứ và từng bước thể chế hóa với các "tổ công tác" (working groups). Bộ Tứ cam kết giúp Ấn Độ sản xuất hai tỷ liều vaccine J&J cho khu vực Indo-Pacific.
Văn phòng của Kurt Campbell là bộ phận lớn nhất tại NSC, với 17 chuyên gia, gồm 3 giám đốc phụ trách về Trung Quốc. Có thể nói đó là trung tâm điều phối chính sách về Trung Quốc theo chiến lược "Indo-Pacific Tự do và Rộng mở" (FOIP), chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan khác, như "Nhóm Đặc nhiệm về Trung Quốc" của Ely Ratner (tại Bộ Quốc phòng), và Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương Daniel Krittenbrink (tại Bộ Ngoại giao), cũng như các cơ quan liên quan khác (như USTR).
Gần đây, Chính quyền Biden đã điều động một số nhân sự đáng chú ý. Để chuẩn bị Hội nghị cấp cao "Bộ tứ" (năm 2021), Mira Rapp-Hooper, cố vấn hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao, đã được điều động sang Hội đồng An ninh Quốc gia. Để tăng cường vai trò của USAID nhằm hỗ trợ đồng minh và đối tác, Biden đề cử Samantha Power, cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, đứng đầu cơ quan này, và là thành viên NSC. Để thay đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Biden đề cử Marc Knapper, phó trợ lý ngoại trưởng đặc trách Nhật Bản và Hàn Quốc.
***
Ưu tiên quan trọng mà Jake Sullivan thường đề cập là chính sách đối ngoại phục vụ người Mỹ trung lưu, và khôi phục quan hệ đồng minh và đối tác, đã bị chính quyền Trump coi thường và làm rạn nứt. Theo Sullivan, "Nỗ lực đó phải bắt đầu từ trong nước". Khác với chính sách thời Trump, nay Mỹ có thể huy động thế giới đứng sau lưng trong các vấn đề đối ngoại và an ninh quốc gia. Mỹ có thể tập hợp đồng minh và đối tác chống tham nhũng và chiếm đoạt, buộc các chế độ độc tài phải chịu trách nhiệm về minh bạch và pháp quyền.
Hai đảng Cộng hòa và Dân chủ tuy bất đồng về nhiều vấn đề, nhưng đạt "đồng thuận lưỡng đảng" về chính sách với Trung Quốc. Với tầm nhìn Indo-Pacific, lấy "Bộ Tứ" làm nòng cốt để đối phó với các thách thức từ Trung Quốc tại Đài Loan và Biển Đông, gần đây là tại vùng đá Ba Đầu (Whitsun Reef). Chính sách cứng rắn hơn với Trung Quốc (từ 7/2020) là một di sản mà chính quyền Biden kế thừa. Team Biden tuy khác với Team Trump về phong cách, nhưng nhất quán về lợi ích cốt lõi, coi Trung Quốc "là thách thức địa chính trị lớn nhất thể kỷ 21" (tuyên bố của Ngoại trưởng Anthony Blinken).
Quan hệ Việt-Mỹ tuy triển vọng phát triển tốt đẹp, nhưng dưới thời Biden vẫn có ba trở ngại. Một là thặng dư thương mại tăng nhanh (khoảng 65 tỷ USD năm 2020) dù cáo buộc "Việt Nam thao túng tiền tệ" vừa được chính quyền Biden gỡ bỏ. Hai là nếu Việt Nam mua nhiều vũ khí Nga, có thể bị Mỹ trừng phạt theo đạo luật CAATSA. Ba là vấn đề nhân quyền ngày càng nhạy cảm, sẽ được chính quyền Biden chú trọng hơn. Tuy chính quyền Biden sẽ nhân nhượng Việt Nam vì tính toán chiến lược, nhưng chắc cần "có đi có lại".
Trên cơ sở "đồng thuận lưỡng đảng", chính quyền Biden kế thừa chính sách của chính quyền Trump, tăng cường hợp tác với Việt Nam để đối phó với Trung Quốc. Quan hệ Việt-Mỹ sẽ tiếp tục phát triển tốt hơn trên cơ sở "đối tác toàn diện", mà "trên thực tế" (de facto) đã là "đối tác chiến lược", tuy đến nay vẫn chưa được chính thức hóa. Trong khi Việt Nam cần Mỹ làm đối trọng với Trung Quốc, nhưng lại không muốn "chọn phe" thì Mỹ coi Việt Nam như "một trong các đối tác quan trọng nhất" (theo đại sứ Daniel Krittenbrink).
Trước khi rời Việt Nam về nhận nhiệm vụ mới (trợ lý ngoại trưởng đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương), Đại sứ Daniel Krittenbrink nhấn mạnh "Việt Nam cũng như ASEAN sẽ đóng vai trò trung tâm trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ". Ông dùng ngạn ngữ để nhắn nhủ thông điệp rằng quan hệ đối tác Việt Nam và Mỹ là "bạn tốt trong hoạn nạn" (a friend in need is a friend indeed) và chỉ bầu trời mới là giới hạn (the sky is the limit) cho quan hệ song phương.
Bài viết này xem xét chính sách đối ngoại và ngoại giao của Trung Quốc trong khuôn khổ lý thuyết địa tâm lý học, một loại lý thuyết có thể được định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và thái độ của một dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những kinh nghiệm trong quá khứ, quá trình lịch sử, cấu trúc văn hóa và cấu trúc xã hội.
Tóm tắt
Bài viết này xem xét chính sách đối ngoại và ngoại giao của Trung Quốc trong khuôn khổ lý thuyết địa tâm lý học, một loại lý thuyết có thể được định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và thái độ của một dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những kinh nghiệm trong quá khứ, quá trình lịch sử, cấu trúc văn hóa và cấu trúc xã hội. Bài viết làm sáng tỏ những thành phần quan trọng có khả năng định hình tâm lý địa chất học Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua và tác động của nó đối với hành vi chính sách đối ngoại của Bắc Kinh. Điều nghịch lý là một mặt, Trung Quốc nói về chống chủ nghĩa bá quyền nhưng mặt khác lại thực hiện bá quyền khi đối phó với các nước láng giềng và ngoại vi của chính mình. Có một vài ví dụ cho thấy thái độ hiếu chiến của Trung Quốc khi khẳng định vị thế bá chủ khu vực không thể thách thức, trong khi về mặt tâm lý học, Trung Quốc lại không chuẩn bị trước tâm lý chịu sự can thiệp của các cường quốc ngoài khu vực tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Được kích thích bởi chủ nghĩa dân tộc và tham vọng thống trị, Trung Quốc quyết tâm trở thành bá chủ khu vực cho dù Mỹ có cố gắng bao vây quốc gia này thông qua các liên minh cân bằng. Ngoài ra, Trung Quốc cũng kiên quyết thay đổi luật chơi để nỗ lực thúc đẩy và dần định hình những lợi ích quốc gia cốt lõi của mình. Về phần Mỹ, Trung Quốc đã có kế hoạch chi tiết để đối phó vớ các chiến thuật bắt nạt của Mỹ.
Từ khóa : Địa Tâm lý học, mô hình hành vi, giới cầm quyền, hội chứng Vương quốc Trung tâm, chủ nghĩa dân tộc, văn hóa chiến lược, niềm tự hào văn hóa, hệ thống thiên hạ, bá quyền
1. Giới thiệu
Sự trỗi dậy đầy ngoạn mục của Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế và quân sự trong vài thập kỷ qua chủ yếu được thúc đẩy bởi lòng quyết tâm của chủ nghĩa dân tộc và tham vọng chính trị, mục tiêu là đóng một vai trò được thừa nhận và có ảnh hưởng trong việc định hình các diễn biến của hệ thống quốc tế. Trung Quốc đã sẵn sàng để cạnh tranh với Mỹ về quyền lực và sự thống trị với tư cách là một chủ thể toàn cầu, có lẽ là "đẩy Mỹ ra khỏi Ấn Độ-Thái Bình Dương và cạnh tranh trên vũ đài toàn cầu" [1]. Chẳng hạn, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã "đăng đàn" bằng việc khởi động dự án tham vọng và vĩ đại nhất, Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) ; hay thành lập các thể chế mới như Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), và Ngân hàng Phát triển Mới dưới biểu ngữ BRICS nhưng thực chất thuộc sự bảo trợ của mình. Những sáng kiến này đồng bộ với việc thực hiện Giấc mộng Trung Hoa về phục hưng đất nước. Tương tự như vậy, Trung Quốc đang hiện đại hóa mạnh mẽ các hệ thống quân đội "mang tính tấn công" đạt đẳng cấp thế giới vào năm 2050 [2].
Trên thực tế, hoạt động chính trị trong nước và các mối quan tâm về an ninh nội bộ của Trung Quốc rất quan trọng trong việc định hình và thể hiện nhận thức của Trung Quốc về trật tự thế giới, mang đặc trưng "sự phụ thuộc lẫn nhau phức hợp" [3]. Trong bối cảnh đó, bài viết cố gắng xem xét chính sách đối ngoại và ngoại giao của Trung Quốc thông qua quan điểm của địa tâm lý học. Địa tâm lý học có thể được định nghĩa là lăng kính địa lý về mô hình hành vi và thái độ của một dân tộc đối với các dân tộc khác, bắt nguồn từ những trải nghiệm trong quá khứ, quá trình lịch sử, cấu trúc văn hóa và cấu trúc xã hội. Theo đó, bài viết tìm cách làm sáng tỏ các thành phần chính định hình khung địa tâm lý học Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua cũng như ảnh hưởng của nó tới hành vi chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Mở đầu, lý thuyết địa tâm lý học [4] sẽ được đưa ra, mặc dù ngắn gọn nhưng giúp kết nối với cách tiếp cận của Trung Quốc khi đối phó với các cường quốc.
2. Thuyết địa tâm lý học địa lý (Geopsychology Theory-GT)
Học giả người Đức Willy Hellpach đã sử dụng thuật ngữ "Geopsyche" [5] trong công trình đột phá của mình. Được đào tạo cơ bản về bác sĩ y khoa và tâm lý học môi trường, ông đã giải thích rõ ràng những tác động của các vật thể tự nhiên như trái đất, mặt trăng và mặt trời đối với con người và môi trường xã hội. Tuy nhiên, ông không xem xét địa tâm lý học một cách khoa học và toàn diện. Ông cũng không dự tính áp dụng nó vào quan hệ quốc tế. Tương tự, Ronald W. Scholtz, một nhà toán học và tâm lý học, đã khám phá cách nhận thức của con người bị ảnh hưởng bởi các điều kiện môi trường. Scholtz và Hellpach đã nghiên cứu "màu sắc và hình dạng của phong cảnh" ảnh hưởng đến hành vi của con người, trong khi trong chính trị quốc tế, hành động của con người vượt qua biên giới quốc gia và thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong bối cảnh này, địa tâm lý học được cấu thành từ trạng thái tinh thần và kiểu hành vi của các nhà lãnh đạo cầm quyền và chế độ toàn trị, bao gồm quần chúng của một khu vực cụ thể hoặc quốc gia. Nói cách khác, địa tâm lý học mang dấu ấn của những nhận thức chung, định kiến, chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo, sắc tộc và kinh nghiệm lịch sử.
Nhìn chung, địa tâm lý học phản ánh môi trường văn hóa xã hội trong một khu vực địa lý nhất định. Nói cách khác, có sự liên kết giữa các môi trường và tâm lý đại chúng. Hơn nữa, khung nhận thức của mỗi xã hội khác nhau giữa các vùng, hoặc quốc gia, tùy thuộc vào cấu trúc xã hội và sự nuôi dưỡng văn hóa của quần chúng và các chủ thể cầm quyền hoặc phi nhà nước - những người tiếp thu "các quy tắc và định hướng giá trị" do cộng đồng hoặc nhóm địa phương sống trong một "môi trường xã hội hóa" vận hành [6].
Về ý nghĩa, địa tâm lý học là một la bàn chính sách hay ngọn hải đăng trong các hành trình của chính sách đối ngoại. Nó đặt ra để lấp đầy lỗ hổng kiến thức trong các lý thuyết quan hệ quốc tế chính thống (IR) thống trị ở phương Tây vốn phần lớn bỏ qua vai trò của kinh nghiệm lịch sử, giá trị xã hội và văn hóa, và hệ thống niềm tin của các xã hội châu Á và các tác nhân khu vực trong việc hình thành hành vi chính sách đối ngoại. Điều này đặc biệt đúng với Nam Á, Trung Đông và Đông Bắc Á. Trên thực tế, địa tâm lý học vẫn là một "người anh em bị ghẻ lạnh" thuộc nhánh của IR, điều này không có nghĩa nó không thuộc tâm lý học. Trong bối cảnh này, Joshua Kertzer và Dustin Tingley thuộc Đại học Harvard đã phát hiện ra một sự chuyển đổi đáng kể của tâm lý học chính trị (PS) trong IR. Họ đã xác định các lĩnh vực nghiên cứu chính về sự phát triển ở PS – "Sự dâng trào mối quan tâm về cảm xúc và nhận thức, sự tăng lên của các lý thuyết thông tin tâm lý về dư luận ở IR, một chương trình nghiên cứu non trẻ [tác động của IR đối với cá nhân] [được gọi là] 'hình ảnh đảo ngược đầu tiên', và công trình sinh học thần kinh và tiến hóa" [7]. Tuy nhiên, tâm lý chính trị không đủ chẩn đoán sự phức tạp của địa tâm lý học của các tác nhân nhà nước và phi nhà nước.
Các nhà lý luận IR bị chia rẽ sắc về tính hợp lệ và độ tin cậy của các mô hình IR. Có lẽ, họ đã không thể đưa ra những lời giải thích súc tích, rõ ràng và thuyết phục về lý do tại sao hành vi chính sách của giới tinh hoa quốc gia và quốc tế không thể được nghiên cứu một cách khoa học. Chẳng hạn như, Kenneth Waltz lập luận rằng các quốc gia không chỉ quan tâm đến việc bảo tồn phần quyền lực của họ mà còn mở rộng và củng cố nó với ý định thay thế cấu trúc quyền lực hiện tại, cho dù bị chi phối bởi một hay nhiều cường quốc. Tuy nhiên, "chủ nghĩa hiện thực mới cũng giống như chủ nghĩa hiện thực cổ điển, không thể giải thích thỏa đáng cho những thay đổi trong chính trị thế giới... Họ cho rằng chủ nghĩa hiện thực mới bỏ qua cả quá trình lịch sử trong đó bản sắc và lợi ích được hình thành cũng như đã bỏ qua nhiều khả năng mang tính phương pháp luận" [8]. Chủ nghĩa hiện thực giả định rằng các quốc gia "nghĩ và hành động theo lợi ích được định rõ là quyền lực." Đó là một tuyên bố chung về tâm lý của các quốc gia. Địa tâm lý học chủ yếu thể hiện đặc thù quốc gia và khu vực - ví dụ, đặc trưng của Trung Quốc trong trường hợp của Trung Quốc [9]. Không phủ nhận rằng các quốc gia hành động để tăng cường quyền lực nhưng tâm lý của họ chỉ ra mức độ và cách tiếp cận theo đuổi quyền lực của họ. Lý thuyết địa tâm lý học (GT) nhằm mục đích nghiên cứu, giải thích và phân tích hành vi của các chủ thể nhà nước chuyên quyền và phi nhà nước, những người có khả năng gây ảnh hưởng đến trật tự toàn cầu và khu vực.
GT là một tập hợp vô số các mối tương quan như địa lý, lịch sử, chủ nghĩa dân tộc, giá trị văn hóa, định hướng tôn giáo, hệ thống tín ngưỡng và niềm tin hình thành nhận thức, quan điểm và cách tiếp cận của các nhà lãnh đạo cầm quyền và các chủ thể phi nhà nước đối với chính trị khu vực và toàn cầu. Ví dụ, các câu chuyện lịch sử là một công cụ nổi bật của "kí ức xã hội", giúp hiểu được tâm lý của giới tinh hoa quốc gia hay đặc biệt là chế độ toàn trị. Nhận thức văn hóa tâm lý, được hình thành trong quá trình xây dựng quốc gia dân tộc, có xu hướng ảnh hưởng đến tâm lý của những người sống trong ranh giới quốc gia. Điều quan trọng cần lưu ý là không chỉ những người có mối quan hệ văn hóa với nhau tạo ra sự hiềm khích đại chúng mà cả chiến tranh cũng được lý tưởng hóa, sự thù địch được thể chế hóa, và xung đột tôn giáo được hợp pháp hóa. Đây là cách các mối quan tâm trừu tượng của văn hóa dần dần biến thành "sự thù ghét hiện đại", và sự cạnh tranh lịch sử được dự đoán là một nhu cầu chính trị để vượt qua đối thủ.
3. Tính thích hợp của thuyết địa tâm lý học
Địa tâm lý học vẫn là một lĩnh vực bị lãng quên trong quan hệ quốc tế (IR). Một phần, nó được cho là do ưu thế của địa chính trị trong thời Chiến tranh Lạnh khi các nhà lý luận IR quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu các liên minh vì ảnh hưởng của nó đối với sự cân bằng quyền lực. Họ nhấn mạnh vào "các điều kiện cấu trúc bên trong mà các quốc gia hành động thay vì đặc điểm của từng quốc gia, chẳng hạn như các thể chế chính trị trong nước của họ" [10]. Có lẽ, họ đã quá bận tâm nghiên cứu về các tranh chấp liên bang được quân sự hóa nên không thể suy ngẫm về hiệu quả của địa tâm lý học như là một phương thức quản lý khủng hoảng ở cấp độ khu vực và toàn cầu. Hơn nữa, các học giả phương Tây đã tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu các tổ chức Liên Hợp Quốc và Bretton Woods, là các thể chế chủ yếu phục vụ cho lợi ích quân sự và an ninh trong việc tối đa hóa quyền lực hơn là hỗ trợ một nhà nước đạo đức [11] trong chính trị lưỡng cực.
Tình cờ là ngành IR đã trải qua sự chuyển đổi căn bản với sự kiện bi thảm xảy ra ngày 9/11. Các học giả IR tham gia vào các nghiên cứu về ý thức hệ, quân sự và an ninh, giờ đây có trách nhiệm lớn hơn trong việc hiểu thấu đáo các kiểu đe dọa mới xuất phát từ các chủ thể phi quốc gia và toàn trị - những người có khả năng tác động đến quỹ đạo của kiến trúc an ninh khu vực và toàn cầu ngày nay. Henry Kissinger, thuộc trường phái tư tưởng hiện thực, đồng ý rằng khái niệm cân bằng quyền lực truyền thống không còn có thể định nghĩa các "khả năng" hay "nguy cơ" nữa [12]. Theo nhận thức của ông, các mô hình quốc tế cũ đang sụp đổ và các giải pháp cũ không còn khả thi do ảnh hưởng của công nghệ và truyền thông khiến mọi người nhận thức được những gì đang diễn ra trên thế giới. Bởi vậy, GT là một nỗ lực để thu hẹp khoảng cách kiến thức hiện có trong các lý thuyết IR bằng cách làm sáng tỏ các đặc điểm khác biệt của một khu vực về địa lý, lịch sử, dân tộc, tôn giáo, văn hóa (đặc biệt về phương diện văn hóa), và thế giới quan của giới tinh hoa quốc gia và các chủ thể cá nhân. Nó có khả năng phân tích các nguyên nhân cơ bản của xung đột, bạo lực và chiến tranh trong trật tự thế giới hiện tại cũng như đóng vai trò là kim chỉ nam nhằm giảm thiểu cường độ tương tác của vô số xung đột. Sự thích đáng của nó có thể được tóm gọn như sau.
Đầu tiên, các mô hình chủ đạo của IR như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa kiến tạo đã không thể đưa ra những lý do chính đáng về nguyên nhân gốc rễ của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như phong trào ly khai, nội chiến, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và xung đột tôn giáo trên khắp thế giới. Ngược lại, GT giúp hiểu cách những lực lượng quyết định chủ nghĩa dân tộc, những bất bình lịch sử và văn hóa định hình các cách tiếp cận chính sách và chiến lược của các chế độ độc đoán ; trong khi đối phó với cái gọi là quyền bá chủ siêu cường trong bối cảnh thời kỳ bá quyền đã kết thúc trong một trật tự thế giới phụ thuộc lẫn nhau.
Thứ hai, GT rất hữu ích trong việc tìm hiểu chính sách đối ngoại và hành vi ngoại giao của các chế độ toàn trị như ở Trung Quốc và Triều Tiên, do tính không khả thi của mô hình lựa chọn hợp lý trong quá trình ra quyết định của họ.
Thứ ba, chủ nghĩa hiện thực cấu trúc, chủ nghĩa tự do mới và chủ nghĩa kiến tạo đã không thể chẩn đoán và chi tiết hơn về cách hành xử của các tác nhân phi nhà nước bạo lực đôi khi đe dọa và thách thức hơn so với các tác nhân nhà nước.
4. Các thành tố của địa tâm lý học Trung Quốc
Địa tâm lý học của giới cầm quyền và quần chúng Trung Quốc, củng cố các hành vi và thực tiễn chính sách đối ngoại của đất nước, đã được hình thành từ lịch sử về nỗi nhục quốc gia, hội chứng Vương quốc Trung tâm, niềm tự hào văn hóa, chủ nghĩa dân tộc, văn hóa chiến lược và diễn ngôn chống bá quyền [13].
4.1. Nỗi đau từ sự ô nhục
Địa tâm lý học của Trung Quốc chủ yếu bắt nguồn từ quá khứ lịch sử, đáng chú ý là sự sỉ nhục [14] mà quốc gia này phải nếm trải dưới bàn tay của các đế quốc và các cường quốc phương Tây vào thế kỷ 19, kéo dài cho đến giữa thế kỷ 20 khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) vào tháng 10 năm 1949. Bị coi thường bởi các "hiệp ước bất bình đẳng" đáng khinh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nung nấu tư duy nạn nhân hóa do các thế lực ngoại bang gây ra ngay từ cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839-1842) - một thất bại tâm lý sâu sắc của các hoàng đế nhà Thanh - qua nhiều cuộc xâm lược của châu Âu đối với Trung Quốc, cho đến Chiến tranh Nhật Bản-Trung Quốc (1937-1945) [15]. Trong bối cảnh này, Kerry Brown nhận định :
Trong phần lớn thời kỳ hiện đại, người Trung Quốc đã thua trong cuộc chiến về sự hiện đại. Về khía cạnh này, thời kỳ từ năm 1839 trở đi là một thất bại thảm hại đến nỗi đã được nhắc đến trong ghi chép lịch sử gần đây là "thế kỷ ô nhục." Những vết thương từ lịch sử này và cảm giác là nạn nhân mà nó mang lại rất sâu sắc đối với tâm lý người Trung Quốc hiện đại. Điều này ít nhất giải thích sự mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc đương đại - được xây dựng dựa trên những câu chuyện xung quanh và sự bất công mà nhiều người Trung Quốc nhìn thấy trong đó [16].
Zheng Wang, giáo sư Trường Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Seton Hall, New Jersey, nhận xét rằng, nỗi nhục của quốc gia đã thổi bùng "ngọn lửa cần thiết để Trung Quốc trỗi dậy như một con phượng hoàng từ đống tro tàn và vượt qua phương Tây trong nhiệm vụ tìm kiếm vinh quang" [17]. Hơn nữa, giới lãnh đạo Trung Quốc đã khai thác nó thành một câu chuyện lịch sử, xây dựng hình ảnh kháng chiến và thắng lợi của quốc gia như một sự tôn trọng. Ví dụ, bài phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình tại lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng vào tháng 9 năm 2015 là một chiến lược được tính toán kỹ lưỡng để hồi sinh và lưu giữ ký ức đại chúng về cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc chống lại sự xâm lược của Nhật Bản. Tập Cận Bình tuyên bố : "Ngày hôm nay là một ngày sẽ mãi mãi khắc sâu trong ký ức của mọi người trên toàn thế giới. Bảy mươi năm trước, nhân dân Trung Quốc đã chiến đấu kiên cường trong 14 năm, giành được chiến thắng vĩ đại trong Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhật Bản, đánh dấu chiến thắng toàn diện của Chiến tranh chống phát xít thế giới. Vào ngày đó, thế giới một lần nữa được ban phước bởi ánh mặt trời của hòa bình" [18]. Ông nói thêm :
Chiến thắng của người dân Trung Quốc trong Chiến tranh kháng chiến chống Nhật là chiến thắng đầu tiên hoàn toàn do Trung Quốc giành được trong cuộc kháng chiến chống xâm lược từ nước ngoài trong thời hiện đại. Chiến thắng vĩ đại này đã nghiền nát âm mưu của các nhà quân phiệt Nhật Bản thực dân hóa và nô lệ hóa Trung Quốc, chấm dứt nỗi nhục quốc gia của Trung Quốc về những thất bại liên tiếp dưới bàn tay của những kẻ xâm lược ngoại bang. Chiến thắng vĩ đại này cũng tái lập Trung Quốc thành một quốc gia lớn trên thế giới và giành được sự tôn trọng của tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới đối với người dân Trung Quốc. Chiến thắng vĩ đại này mở ra triển vọng tươi sáng cho sự đổi mới vĩ đại của đất nước Trung Quốc và đưa đất nước Trung Quốc cổ đại vào một hành trình mới sau khi giành được độc lập [19].
Các tuyên bố trên phản ánh rõ ràng tư duy của giới lãnh đạo Trung Quốc đã "khắc cốt ghi tâm" các giai đoạn lịch sử nhục nhã, đấu tranh và chiến thắng, góp phần hình thành địa tâm lý của Trung Quốc đối với thế giới bên ngoài, đặc biệt là những kẻ xâm lược trong quá khứ như Nhật Bản mà Trung Quốc coi là đối thủ địa chính trị tại Đông Á và Đông Nam Á. Tâm lý bài Nhật ăn sâu vào xã hội Trung Quốc cho đến ngày nay. Giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng lo ngại về sự hợp tác địa chiến lược giữa Nhật Bản và Mỹ trong việc hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thomas J. Christensen cũng ủng hộ quan điểm này, viết rằng "các di sản lịch sử và sự căm thù dân tộc làm trầm trọng thêm tình trạng khó xử về an ninh trong quan hệ Trung-Nhật" [20]. Tuy nhiên, "sự ngờ vực bắt nguồn từ lịch sử và dựa trên bản năng của Trung Quốc đối với Nhật Bản" [21] đã dẫn đến việc nảy sinh những hiềm khích trong mối quan hệ của họ. Trung Quốc rất nhạy cảm về việc xâm lược trong quá khứ của Nhật Bản. Christensen giải thích thêm : "Sự từ chối của Nhật Bản đối với việc đáp ứng thỏa đáng các yêu cầu của Trung Quốc là Tokyo thừa nhận và xin lỗi về quá khứ đế quốc của mình - ví dụ, bằng cách sửa đổi sách giáo khoa lịch sử trong các trường công - đã giúp lưu giữ sự ác cảm tự nhiên của Trung Quốc đối với Nhật Bản" [22].
Tại thời điểm quan trọng này, chế độ Tập Cận Bình quyết tâm xoa dịu các cử tri trong nước bằng cách đưa ra lời hứa "siêu cường Trung Quốc", một lời hiệu triệu đối phó với các tình thế khó khăn địa chính trị mới ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Vì điều này, Chủ tịch Tập Cận Bình đã khuyến khích công dân Trung Quốc ghi nhớ những ký ức cay đắng còn đó về việc họ bị các thế lực xâm lược như Nhật Bản đối xử tàn bạo như thế nào. Ông nhấn mạnh : "Dù có trở nên hùng mạnh như thế nào, Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm bá quyền hay bành trướng. Trung Quốc sẽ không bao giờ gây ra đau khổ cho bất kỳ quốc gia nào khác. Người dân Trung Quốc quyết tâm theo đuổi mối quan hệ hữu nghị với tất cả các quốc gia, giương cao kết quả của Cuộc kháng chiến nhân dân Trung Quốc chống lại sự xâm lược của Nhật Bản và Cuộc chiến chống phát xít thế giới, và đóng góp nhiều hơn cho nhân loại" [23]. Lối nói khoa trương này đưa đến một thông điệp chính trị cho quần chúng rằng, Trung Quốc có khả năng tự tái lập thành một quốc gia vĩ đại để đảm bảo một trật tự thế giới không có bá quyền [24].
4.2. Hội chứng Vương quốc Trung tâm
Trong quá khứ, Shi Jie (1005-45) đã định nghĩa Vương quốc Trung tâm một cách oai hùng : "Trời ở trên, đất ở dưới, và giữa trời và đất chính là Trung Quốc [zhongguo]. Những kẻ ngoại vi là nước ngoài [tứ di/si yi]. Nước ngoài thuộc về bên ngoài [wai] trong khi Trung Quốc thuộc về bên trong [nei]. Do đó, trời và đất có thể phân biệt bên ngoài với bên trong" [25]. Điều gì đã dẫn đến nhận thức kiêu ngạo này ? Robert Gamer giải thích rằng trong phần lớn lịch sử của mình, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có rất ít liên hệ hoặc tương tác với các khu vực bên ngoài biên giới phía tây Trung Quốc, với sự cô lập đã thúc đẩy niềm tin của họ vào "vị trí của ‘Vương quốc Trung tâm’ trong vũ trụ" [26]. Tương tự, Samuel King giải thích : "Trung Quốc được bảo vệ ở phía tây bởi các sa mạc gần như vô tận, ở phía tây nam bởi dãy núi Himalaya và ở phía đông bởi các đại dương bao la. Được ngưỡng mộ nhưng thường bị tấn công bởi 'những kẻ man di mọi rợ' (barbarians) từ vùng đất cao nguyên bán khô cằn ở phía bắc và phía tây, và bị ngăn cách khỏi các trung tâm văn minh khác bởi đại dương, sa mạc và núi non, Trung Quốc dần dần phát triển một ý thức độc đáo về vị trí của mình dưới gầm trời" [27]. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, tâm lý các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ kiên quyết thấm nhuần tâm lý "Vương quốc Trung tâm". Đầu tiên, mặc dù bị cuốn vào giữa những hạn chế trong nước đối với sự phát triển kinh tế và sự hội nhập ngày càng tăng với trật tự kinh tế toàn cầu, thế giới quan của Trung Quốc về cơ bản dựa trên đặc điểm của Trung Quốc [28]. Nó bị kích thích bởi hình ảnh bản thân Trung Quốc buộc phải đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình kiến trúc toàn cầu thay vì phụ thuộc vào bất cứ cường quốc nào. Thứ hai, giữa những yếu tố khác, địa tâm lý học của Trung Quốc về nhận thức vai trò của mình trong chính trị thế giới được xác định bởi lịch sử đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hình thành tư tưởng và hành vi của Trung Quốc về chiến tranh và hòa bình. Trong thế giới quan của Trung Quốc, "phương thức chủ quyền lãnh thổ" của trật tự thế giới đã bị phương Tây và Nhật Bản áp đặt lên.[29] Trên thực tế, Trung Quốc khẳng định rằng khái niệm chủ quyền của họ không thể được hiểu một cách đúng đắn thông qua các lăng kính hay khái niệm phương Tây.
Nguyên tác : China's Foreign Policy Behaviour : Understanding through the Lens of Geopsychology, Questia, International Journal of China Studies,12/2019
Ngô Minh Anh, thực tập sinh Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao, dịch
Trần Quang, hiệu đính
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 26/05/2020
....
Tiến sĩ B.M. Jain, Giáo sư Khoa học Chính trị, Tổng Biên tập Tạp chí Asian Affairs, Ấn Độ. Ông đã giảng dạy các lớp đại học và sau đại học về chính phủ và chính trị ở Ấn Độ và Nam Á, quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của các cường quốc, ngoại giao, kiểm soát vũ khí, giải trừ quân bị, toàn cầu hóa, quản trị toàn cầu và nhân quyền. Ông đã viết hơn hai mươi cuốn sách và nhiều bài báo bao gồm : South Asia Conundrum : The Great Power Gambit (Lexington Books, 2019), China's Soft Power Diplomacy in South Asia (Lexington Books, 2017) và "India-Pakistan Engagement with the Greater Middle East : Implications and Options". Bài viết được đăng trên International Journal of China Studies.
[1] Oriana Skylar Mastro, "The Stealth Superpower", Foreign Affairs, tháng 1-2/2019
[2] "Xi Calls for Building a Strong Army", English.Gov.CN, 27/10/ 2017
[3] Robert O. Keohane and Joseph Nye, Power and Interdependence, Boston : Longman, 2012, paperback, fourth edition.
[4] Một phần của cuốn sách sắp tới trong Geopsychology Theory Building in International Relations, Lexington Books/Rowman and Littlefield, Lanham, MD, 2020.
[5] Willy Hellpach, Geopsyche, Leipzig : Engelmann, 1911.
[6] -
[7] Joshua D. Kertzer and Dustin Tingley, "Political Psychology in International Relations : Beyond the Paradigms", Annual Review of Political Science, Vol. 21, 2018, 1-23
[8] W. Julian Korab-Karpowicz, "Political Realism in International Relations", Stanford Encyclopedia of Philosophy, Summer 2018
[9] Xem Joseph Tse-Hei Lee, Lida V. Nedilsky and Kelvin C.K. Cheung, China’s Rise to Power : Conceptions of State Governance (New York : Palgrave MacMillan, 2012) ; Weixing Hu, Gerald Chan và Daojiong Zha, "Understanding China’s Behavior in World Politics : An Introduction" trong Weixing Hu, Gerald Chan and Daojiong Zha, China’s International Relations in the 21st Century : Dynamics of Paradigm Shifts (Maryland : University Press of America, 2000) ; Zhiqun Zhu, China’s New Diplomacy (Surrey : Ashgate, 2013).
[10] John R. Oneal, "Transforming Regional Security through Liberal Reforms," in T.V. Paul (ed.), International Relations Theory and Regional Transformation (Ch. 7, pp. 158-180), Cambridge : Cambridge University Press, 2012.
[11] Xem Robert O. Keohane, After Hegemony : Cooperation and Discord in the World Political Economy. Princeton, N.J : Princeton University Press, 1984 ; Mearsheimer, John J., The Tragedy of Great Power Politics (New York, NY : W.W. Norton, 2014).
[12] Henry Kissinger, World Order (Penguin Press, 2014).
[13] Đối với một nghiên cứu sâu sắc về cách giải thích khác nhau về bá quyền, chống bá quyền và bài bá quyền, xem Owen Worth, Rethinking Hegemony (London : Palgrave Macmillan, 2015).
[14] Jonathan D.T. Ward, China’s Vision of Victory (North Carolina : Atlas Publishing, 2019) ; Evelin Gerda Lindner, monograph on Toward a Theory of Humiliation, 2001.
[15] Xem Robertson Scott, The Creation of Modern China, 1894-2008 : The Rise of a World Power (London : Anthem Press, 2016).
[16] Kerry Brown, "The True Deficit with China is Not With Trade – But Knowledge", Diplomat, 2/10/2017
[17] Zheng Wang, Never Forget National Humiliation : Historical Memory in Chinese Politics and Foreign Relations (New York : Columbia University Press, 2012), p. 77. Xem thêm Edgar Snow, China’s Long Revolution (London : Penguin Books Ltd, 1973).
[18]htpp://news.xinhuanet.com/english/201-09/03/c_134583870.htm , truy cập ngày 28/12/2017.
[19] Ibid. Xem Shogo Suzuki, "The Importance of ‘Othering’ in China’s National Identity : Sino-Japanese Relations as a Stage of Identity Conflicts", The Pacific Review, Vol. 20, No. 1, 2007, pp. 23-47. Suzuki cho rằng "bản sắc dân tộc của Trung Quốc hiện đại được đặc trưng bởi ý thức là ‘nạn nhân' sâu sắc, phát sinh từ sự tương tác hỗn loạn của nó với xã hội quốc tế, và Nhật Bản đóng vai trò quan trọng như một 'nhân tố khác' giúp nâng cao hình ảnh bản thân Trung Quốc như là một 'nạn nhân'" (p. 23).
[20] ‘China, the U.S.-Japan Alliance, and the Security Dilemma in East Asia’, p. 26.
[21] Ibid., p. 27.
[22] Ibid., p. 27.
[23] Ibid.
[24] William A. Callahan, "Chinese Visions of World Order : Post-Hegemonic or a New Hegemony ?", International Studies Review, Vol. 10, No. 4 (Dec., 2008), pp. 749-761 ; William A. Callahan and Elena Barabantseva, eds., China Orders the World : Normative Soft Power and Foreign Policy, Baltimore, Johns Hopkins University Press, 2011.
[25] Trích trong Song Xianlin and Gary Sigley, "Middle Kingdom Mentalities : Chinese Visions of National Characteristics in the 1990s," Communal/plural Journal of Transnational & Cross-Cultural Studies, Vol. 8, No. 1 (2000), p. 53.
[26] Robert E. Gamer, "International Relations", trong Robert E. Gamer, pp. 179-80.
[27] Trích trong Zheng Wang, Never Forget National Humiliation : Historical Memory in Chinese Politics and Foreign Relations, New York : Columbia University Press, 2012, p. 72.
[28] Xem David Shambaugh, China Goes Global : The Partial Power, New York : Oxford University Press, 2013 ; Henry Kissinger, On China, New York : Penguin Press, 2011, and Reprint edition, 2012.
[29] Xem Florian Schneider, "Reconceptualising World Order : Chinese Political Thought and its Challenge to International Relations Theory," Review of International Studies, Vol. 40, No. 4 (2014) : 683-703.
Dựa theo chính sách "can dự phức hợp" được thực hiện kể từ năm 2014, Thái Lan đã cân bằng quan hệ giữa các khu vực và quốc gia như EU, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước láng giềng Đông Nam Á.
Tóm tắt
* Thái Lan đã áp dụng cách tiếp cận "can dự phức hợp" đối với các quan hệ quốc tế trong một nỗ lực nhằm đạt được các mục tiêu an ninh và sống sót về kinh tế sau cuộc đảo chính quân sự tháng 5/2014.
* Bangkok cũng nêu bật mối quan hệ an ninh-quân sự với Mỹ trong khi ưu tiên sự can dự kinh tế với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
* Đồng thời, Thái Lan can dự với Châu Âu thông qua các thỏa thuận kinh doanh để bù đắp cho thực tế là sự tiếp xúc chính trị giữa Thái Lan và Châu Âu đã bị hạn chế kể từ cuộc đảo chính.
* Tuy nhiên, những thất bại chính trị và các yếu tố kinh tế hạn chế khả năng can dự đáng kể của Thái Lan với các nước láng giềng ở Đông Nam Á lục địa.
Giới thiệu
Ngày 25/7/2019, Chính phủ Thái Lan đã trình bày tuyên bố chính sách đối ngoại của mình trước Quốc hội. Tuyên bố nói rằng nước này sẽ tiếp tục đóng vai trò mang tính xây dựng trong cộng đồng quốc tế, cân bằng quan hệ với tất cả các nước và tăng cường sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau và lợi ích của nhau. Trên thực tế, chính sách này giống như chính sách của chính quyền quân sự trước, cũng do Thủ tướng đương nhiệm Prayut Chan-ocha lãnh đạo với tư cách là người đứng đầu chính quyền quân sự lên nắm quyền vào tháng 5/2014. Dưới thời chính quyền quân sự đó và chính phủ được thành lập sau cuộc bầu cử tháng 3/2014, Thái Lan đã tìm kiếm sự hợp tác kinh tế với tất cả các khu vực trên thế giới, trong đó có cả Châu Âu, Trung Đông và Nam Á. Họ cũng thúc đẩy và tăng cường tính trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực, đồng thời tìm kiếm sự hợp tác để đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống trong các lĩnh vực như an ninh mạng, buôn người và tội phạm xuyên quốc gia.
Bài viết này thảo luận về phương hướng chính sách đối ngoại của Thái Lan dưới thời Chính quyền Prayut bằng cách áp dụng khái niệm "can dự phức hợp" để xem xét cách thức chính phủ xử lý những thách thức địa chính trị tại thời điểm các cường quốc cạnh tranh, hợp tác và xung đột với nhau. Cả những vấn đề trong nước lẫn những thay đổi nhanh chóng về địa chính trị đã khiến Thái Lan phải đối mặt với những thách thức đối với hiệu quả của chính sách đối ngoại. Vào tháng 1/2020, Bộ Ngoại giao Thái Lan đã buộc phải rút lại phát ngôn sai của chính Ngoại trưởng nước này về vụ Mỹ ám sát Tướng Qassem Soleimani của Iran trong một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái. Vị Ngoại trưởng này đã nói rằng Thái Lan, một đồng minh hiệp ước của Mỹ, đã được thông báo trước về vụ tấn công này. Tháng 2/2020, Bộ Ngoại giao Thái Lan đã phải ra một tuyên bố bảo vệ quyết định của Tòa án Hiến pháp về việc giải tán đảng Tương lai mới sau những chỉ trích mạnh mẽ của Canada, Liên minh Châu Âu (EU) và Mỹ về hành động trên của tòa án. Tuy nhiên, bất chấp những chỉ trích như vậy, các mối quan hệ quân sự và an ninh của Thái Lan với Mỹ ngày càng chặt chẽ hơn. Đây là sự thật dù Thái Lan được cho là đang đi vào quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc và vật lộn để đóng một vai trò trong tiểu khu vực Đông Nam Á lục địa.
Sự can dự phức hợp
Có khả năng "can dự phức hợp" là cách tiếp cận với chính sách đối ngoại được áp dụng sau cuộc đảo chính tháng 5/2014, khi chính phủ được giới lãnh đạo quân đội hậu thuẫn sử dụng nhiều cách khác nhau để quản lý quan hệ và cân bằng giữa các cường quốc đối địch là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu, Nga, Hàn Quốc và Ấn Độ. Khi tìm kiếm vai trò của mình trong khu vực, Thái Lan phải đối mặt với một tình huống trong đó các cường quốc này vừa hợp tác vừa xung đột. Sự can dự phức hợp có đặc trưng là "không ép buộc, trao đổi cởi mở ở nhiều cấp và trên nhiều lĩnh vực. Đó là sự theo đuổi mang tính chiến lược các mối quan hệ hợp tác dựa trên sự hiểu biết chung, cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau".
Theo Giáo sư khoa học chính trị và quan hệ quốc tế trường ĐH Delaware Alice Ba, quan trọng hơn là sự can dự phức hợp cũng giống trường hợp quan hệ ASEAN-Trung Quốc ở chỗ nó không yêu cầu các nước phải có cùng các giá trị tự do để có được các mối quan hệ quan trọng. Các chính sách và nền tảng của Chính quyền Prayut hiện tại, vốn có nguồn gốc từ một cuộc đảo chính quân sự, biểu thị nhiều giá trị phi tự do. Mặc dù cuộc bầu cử năm 2019 đã cải thiện được thứ bậc chỉ số dân chủ của Thái Lan từ chế độ đang chuyển đổi dân chủ sang chế độ dân chủ chưa hoàn thiện, nhưng tranh cãi chính trị giữa giới cầm quyền và những người bất đồng chính kiến, cũng như các sự kiện như giải tán đảng đối lập Tương lai mới vào ngày 21/2/2020 đã châm ngòi sự chỉ trích mạnh mẽ từ phương Tây - đáng chú ý là từ Mỹ và EU. Đồng thời, Thái Lan cũng cần phải can dự với các nước phương Tây trong một loạt lĩnh vực.
Để tránh xung đột, Bộ Ngoại giao Thái Lan đã cố không sử dụng những từ ngữ gay gắt để bảo vệ phán quyết của tòa án đối với đảng Tương lai mới. Họ chỉ đơn giản nói rằng Thái Lan vẫn cam kết với các giá trị dân chủ và đa nguyên chính trị. Họ nói thêm : "Chúng tôi tin tưởng tất cả bạn bè của Thái Lan, hoàn toàn tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, ủng hộ việc thực thi luật tối cao của đất nước chúng tôi cũng giống như những gì chúng tôi đang làm với tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế". Thái Lan và Mỹ đã theo đuổi sự can dự đầy đủ ở tất cả các cấp kể từ khi Chính quyền Donald Trump nhậm chức vào năm 2017. Đại sứ mới của Mỹ tại Thái Lan, Michael DeSombre, chính trị gia đầu tiên được bổ nhiệm vào vị trí đó trong nhiều thập kỷ, cuối cùng đã đến Bangkok vào cuối tháng 1/2020, hơn một năm sau khi người tiền nhiệm của ông rời đi vào cuối năm 2018. Trong các phiên điều trần trước Thượng viện Mỹ, DeSombre tuyên thệ rằng ông sẽ ưu tiên mở rộng quan hệ kinh tế và giúp Thái Lan bảo vệ chủ quyền và an ninh, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng rằng các thể chế dân chủ Thái Lan sẽ được củng cố.
Thái Lan tập trung chủ yếu vào quan hệ với Mỹ nhằm tăng cường các quan hệ an ninh và quân sự. Thủ tướng Prayut, người kiêm chức Bộ trưởng Quốc phòng, đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung 2020 với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark T. Esper vào tháng 11/2019. Tuyên bố này cam kết hợp tác, tăng khả năng tương tác, hiện đại hóa quân đội, chia sẻ thông tin và mở rộng các cuộc tập trận và huấn luyện. Sau tuyên bố này là những chuyến thăm của các sĩ quan quân đội cấp cao của Mỹ tới Thái Lan, trong đó có chuyến thăm của Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, Đô đốc John Aquilino. Đô đốc Aquilino là một trong những vị khách đặc biệt tham dự lễ rước thuyền hoàng gia ở Bangkok vào tháng 12/2019. Tổng tư lệnh Lục quân Thái Lan Tướng Apirat Kongsompong cũng ưu tiên quan hệ quân sự với Mỹ kể từ khi nhậm chức vào năm 2018, thường xuyên gặp gỡ các đối tác Mỹ và mua vũ khí hạng nặng từ Mỹ. Ông đã gặp người đồng cấp, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ James McConville lần đầu tại Bangkok vào tháng 9/2019 và lần thứ hai tại Washington vào ngày 26/2/2020. Trong nhiệm kỳ của Tướng Apirat, Lục quân Thái Lan đã mua 60 xe thiết giáp Stryker trị giá 175 triệu USD. Lô 10 xe đầu tiên đã đến Thái Lan vào tháng 9/2019. Trong tháng đó, Washington cũng đã đồng ý bán cho Thái Lan các máy bay trực thăng tấn công hạng nhẹ AH-6i trị giá 400 triệu USD.
Trong khi Mỹ chỉ trích gay gắt về chính trị cuộc đảo chính năm 2014, và một số hoạt động cũng như hỗ trợ quân sự đã bị ngừng, nhưng việc mua sắm vũ khí Mỹ dù bị trì hoãn nhưng chưa bao giờ dừng lại. Trong thập kỷ qua, Mỹ đã bán số thiết bị quân sự trị giá hơn 1,7 tỷ USD cho Thái Lan, bao gồm máy bay trực thăng Black Hawk và Lakota, hệ thống tên lửa không đối không, nâng cấp máy bay chiến đấu phản lực F-16 của Thái Lan, và các hệ thống tên lửa hải quân và ngư lôi.
Không giống như trong mối quan hệ với Mỹ, Thái Lan đang tìm kiếm không gian để can dự với EU. Sau cuộc đảo chính năm 2014, khối này đã đình chỉ các chuyến thăm cấp cao tới Thái Lan, việc ký kết Thỏa thuận hợp tác và đối tác EU-Thái Lan và các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại tự do cho đến tháng 10/2019, sau khi một chính phủ được bầu lên. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Thái Lan đã tìm cách để Thủ tướng Prayut đi thăm Anh và Pháp vào tháng 6/2018, tập trung vào các thỏa thuận kinh doanh trong khu vực tư nhân. Kết quả của chuyến công du đến Pháp là việc Airbus Commercial Aircraft và Thai Airways International ký thỏa thuận thành lập một cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa và đại tu máy bay trị giá hàng tỷ baht tại sân bay U-Tapao ở Thái Lan, ngay cả khi ở Pháp có một nhóm nhỏ người Thái Lan bất đồng chính kiến đã biểu tình phản đối chế độ Prayut. Dù còn cần thời gian mới có thể can dự đầy đủ với cả khối EU, Ngoại trưởng Don Pramudwinai đã đến thăm Luxembourg và Anh trong khoảng các ngày 11-14/2/2020 để tìm kiếm sự hợp tác nhiều hơn, đặc biệt là về các vấn đề kinh tế. Chuyến thăm Anh đã đánh dấu kỷ niệm 165 năm quan hệ ngoại giao giữa Bangkok và London và chính thức hóa các kế hoạch đàm phán hiệp định thương mại tự do sau khi Anh rời khỏi EU (Brexit).
Sự can dự dễ chịu
Thái Lan thấy dễ chịu hơn khi tương tác với các nước Đông Á - Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc - so với các nước phương Tây, khi xét tới việc các nước Đông Á không đưa ra nhận xét gay gắt về chính trị nội địa Thái Lan và chủ yếu tập trung vào lợi ích kinh tế chung. Thái Lan trở nên gần gũi hơn với Trung Quốc trong tất cả các lĩnh vực, đáng chú ý nhất là sau cuộc đảo chính năm 2014. Bangkok coi quan hệ với Bắc Kinh là một khu vực dễ chịu cho sự can dự chính trị, an ninh và kinh tế. Để đạt được mục đích đó, Thái Lan trung thành với chính sách "Một Trung Quốc" và tuân thủ các yêu cầu của Bắc Kinh về việc dẫn độ những người Trung Quốc chống đối.
Giới tinh hoa Thái Lan đã nhận thấy rằng nước này cần phải tận dụng sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhiều dự án phát triển, ví dụ như Hành lang kinh tế phía Đông và tàu cao tốc đang được kết nối với sáng kiến "Vành đai và Con đường" của Trung Quốc. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Thái Lan kể từ năm 2013, với kim ngạch thương mại hai chiều là 61 tỷ USD trong năm đó và tăng lên 77,5 tỷ USD trong năm 2019. Các nhà đầu tư Trung Quốc đã chiếm vị trí đầu trong các bảng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan năm 2019, được Bộ Đầu tư Thái Lan cấp các đặc quyền khuyến khích đầu tư trị giá 8,5 tỷ USD. Nền kinh tế Thái Lan ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc và nhanh chóng bị tác động khi Trung Quốc suy thoái. Chẳng hạn, Tổng cục Du lịch Thái Lan ước tính số lượng du khách Trung Quốc đến Thái Lan sẽ giảm mạnh do dịch Covid-19. Gần 11 triệu du khách Trung Quốc mang lại cho Thái Lan khoản thu nhập 17 tỷ USD trong năm 2019.
Trong những năm gần đây, Bangkok đã mua thêm vũ khí hạng nặng của Trung Quốc, bao gồm tên lửa KS1C năm 2016, xe tăng chiến đấu chủ lực VT-4 năm 2017, tàu ngầm S26T năm 2017 và xe bọc thép năm 2018. Ngoài ra, số lượng các cuộc tập trận và huấn luyện chung tăng lên. Tuy nhiên, theo cựu Tư lệnh Lục quân Thái Lan, Đại tướng Sonthi Boonyaratglin, sự can dự như vậy sẽ không mang lại sự thay đổi đáng kể nào trong các vấn đề quân sự hoặc an ninh. Quân đội Thái Lan đã tìm kiếm các nguồn trang thiết bị bổ sung trong một thời gian dài, ít nhất là kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, để duy trì các năng lực của mình trong khi chỉ phải chi trả các mức giá phải chăng để mua được các trang thiết bị có chất lượng. Đại tướng Sonthi nói : "Tôi không nghĩ rằng chúng tôi sẽ chuyển phe vì chúng tôi đã quen thuộc với các hệ thống vũ khí của NATO". Ông nói thêm rằng không cần phải đề cập đến một sự thay đổi trong học thuyết quân sự mà quân đội Thái Lan đã áp dụng từ người Mỹ và đã đi theo trong nửa thế kỷ. Các cuộc huấn luyện và tập trận quân sự với Trung Quốc, chẳng hạn như cuộc tập trận mang tên Strike, đã tăng lên trong những năm gần đây, nhưng chúng vẫn chưa thực sự có ảnh hưởng đối với các hoạt động quân sự của Thái Lan. Cuộc tập trận Hổ Mang Vàng hàng năm giữa Mỹ và Thái Lan vẫn là cuộc tập trận quân sự quốc tế lớn nhất ở Đông Nam Á.
Với tình trạng bất ổn ở Thái Lan, trong bối cảnh một Trung Quốc đang trỗi dậy và sự xích mích giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Thái Lan không muốn chứng kiến sự suy tàn của Nhật Bản, vốn là nước thúc đẩy chính cho nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của họ trong nửa thế kỷ. Các nhà đầu tư Nhật Bản từ lâu đã áp dụng chiến lược "Thái Lan +" để mở rộng chuỗi cung ứng sang các nước khác có chi phí thấp và chính trị ổn định ở Đông Nam Á lục địa. Sự bất ổn chính trị sau cuộc đảo chính năm 2014 ở Thái Lan là một quan ngại lớn của Nhật Bản và có khả năng đã ảnh hưởng đến lòng tin của người Nhật vào đất nước này. Tuy nhiên, Thái Lan đã nỗ lực đáng kể để xây dựng lại lòng tin. Và họ đã xoay sở để đạt được đồng thời một số mục tiêu khi các nhà đầu tư Trung Quốc và Nhật Bản ký một dự án chung xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc kết nối ba sân bay lớn Suvarnabhumi, Don Mueang và UTapao vào tháng 10/2019.
Bangkok tin rằng không nên bỏ lại bất kỳ bên tham gia quan trọng nào ở Đông Á. Do đó, Thái Lan và Hàn Quốc đã ký 6 bản ghi nhớ trong chuyến thăm chính thức của Tổng thống Moon Jae-in tới Bangkok vào tháng 9/2019 về các lĩnh vực như thành phố thông minh, công nghiệp 4.0, quản lý nước và vận tải đường sắt. Hiệp ước hợp tác tình báo quân sự có ý nghĩa đáng kể đối với Hàn Quốc vì Seoul đã giới hạn trao đổi thông tin tình báo với Nhật Bản trong bối cảnh diễn ra tranh chấp thương mại giữa hai nước.
Cho dù tuyên bố rằng toàn bộ khu vực Nam Á đều quan trọng, nhưng Thái Lan chủ yếu can dự với Ấn Độ. Tuy nhiên, cuộc họp của Ủy ban Hợp tác song phương chung Thái Lan-Ấn Độ vào ngày 10/10/2019 đã không mang lại kết quả thực sự nào ngoài tuyên bố rằng cả hai bên "nên tăng cường hợp tác song phương trên mọi phương diện cũng như sự cộng tác cụ thể giữa hai khu vực nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương". Sự bổ sung cho nhau giữa chính sách Hướng Tây của Thái Lan và chính sách Hướng Đông của Ấn Độ, vốn nhằm tăng can dự và kết nối bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không, dường như không thể mang lại những kết quả cụ thể.
Sự can dự không phù hợp
Để đóng vai trò dẫn đầu ở Đông Nam Á lục địa, Chính quyền Prayut sau năm 2014 đã áp dụng chiến lược CLMVT (nhóm các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam và Thái Lan) để can dự với các nước láng giềng trong lưu vực sông Mekong. Chính quyền Prayut cũng khôi phục Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong (AMECS) như một cơ chế then chốt để tương tác với các dự án phát triển trong tiểu vùng. Kể từ khi được Chính quyền Thaksin Shinawatra khởi xướng năm 2003, ACMECS chưa bao giờ làm tốt vai trò là một công cụ chính sách đối ngoại của Thái Lan. Bất ổn chính trị trong nước trong giai đoạn 2006-2014 làm suy yếu cơ hội thành công của nó. Tuy nhiên, chiến lược này đã trở lại tâm điểm khi Thái Lan tổ chức hội nghị thượng đỉnh ACMECS lần thứ 8 tại Bangkok vào tháng 6/2018. Chính quyền Bangkok được quân đội hậu thuẫn muốn cải thiện hình ảnh quốc tế của Thái Lan và nâng cao danh tiếng của họ như là một nước bảo trợ cho chủ nghĩa đa phương trong tiểu vùng. Hội nghị thượng đỉnh đã đạt được một kế hoạch tổng thể cho giai đoạn 2019-2023 nhấn mạnh ba mục tiêu : kết nối liền mạch cơ sở hạ tầng ; đồng bộ hóa các đạo luật và quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, đầu tư và tài chính ; phát triển thông minh và bền vững đồng thời bảo vệ môi trường. Một năm sau, Chính phủ Thái Lan đã đóng góp 200 triệu USD trong 5 năm cho ACMECS nhằm hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dự án trong kế hoạch tổng thể trên. Thái Lan đóng góp 2/5 trong số 500 triệu USD ban đầu được phân bổ cho Quỹ ACMECS. Bốn nước khác có liên quan sẽ cùng nhau đóng góp 100 triệu USD cho quỹ này, trong khi nhóm tìm kiếm 200 triệu USD còn lại từ các đối tác như Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ.
Thực tế là ACMECS không thể là công cụ hữu hiệu để Thái Lan đóng vai trò đáng kể trong phát triển tiểu vùng vì tất cả các đối tác này đều có công cụ riêng để thúc đẩy mục tiêu đó. Nhật Bản đã khởi xướng chương trình Hợp tác Mekong-Nhật Bản vào năm 2008, bên cạnh phần đóng góp chính trong Chương trình tiểu vùng sông Mekong mở rộng do Ngân hàng phát triển Châu Á tài trợ. Mỹ đã khởi xướng Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong vào năm 2009. Hàn Quốc cũng có chương trình hợp tác giữa Hàn Quốc và Mekong kể từ năm 2011. Trung Quốc đã khởi động Hợp tác Lan Thương-Mekong vào năm 2016. Và chương trình Hợp tác Mekong-Ganga của Ấn Độ thực sự đã có từ năm 2000. Các đối tác này đều hùng mạnh và giàu có hơn Thái Lan, và sự hiện diện cũng như các dự án của họ có thể dễ dàng làm lu mờ ACMECS. Do đó, Thái Lan đã xác định lại địa vị của mình là một bên tham gia có thể kết nối tất cả các sáng kiến này, với Bangkok đóng vai trò là trung tâm kết nối các nước ngoài khu vực với tiểu vùng. Khi điều này xảy ra, Thái Lan có khả năng là một điều phối viên, chứ không phải là nhà lãnh đạo mà họ khao khát trở thành.
Kết luận
Sự can dự phức hợp đã làm khá tốt chức năng là một phương tiện để Thái Lan có các quan hệ với một thế giới đang thay đổi. Nó cho phép Chính quyền Bangkok sau năm 2014 tương tác với các đối tác theo nhiều cách khác nhau, trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều cấp độ khác nhau. Cho dù các nước phương Tây chỉ trích những diễn biến chính trị trong nước của Thái Lan mạnh mẽ như thế nào, nước này vẫn có chỗ để tìm cách đạt được mục tiêu của mình. Yêu cầu cơ bản đối với việc sử dụng sự can dự phức hợp trong chính sách đối ngoại là họ phải hoạt động ở một loạt cấp độ và kênh can dự cũng như với các mục tiêu rõ ràng và theo đuổi các lợi ích được xác định rõ.
Sự can dự với Mỹ và Trung Quốc là một ví dụ. Thái Lan không cần phải lựa chọn giữa hai siêu cường đối thủ này, vì những thế mạnh khác nhau của họ có thể mang lại lợi ích cho Thái Lan theo những cách khác nhau. Sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ có thể đã suy giảm trong những năm gần đây vì sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng sức mạnh quân sự của nước này chưa bao giờ suy yếu. Nhờ sự phóng khoáng của Chính quyền Trump, Washington đã tạo cơ hội cho Bangkok làm suy yếu chế độ dân chủ. Các tuyên bố chỉ trích và những sự trì hoãn trong mua sắm vũ khí hạng nặng từ Mỹ đã không ảnh hưởng nhiều đến Thái Lan. Trung Quốc có thể cung cấp các vũ khí hạng nặng thay thế như xe tăng và xe bọc thép, và Thái Lan có thể lợi dụng tăng trưởng kinh tế của nước này. Sự can dự phức hợp cũng cho phép Thái Lan duy trì các mối quan hệ kinh tế với EU thông qua đầu tư tư nhân, ngay cả khi tiếp xúc chính trị bị hạn chế.
Cho dù cách tiếp cận này tương đối thành công nhưng nó cũng có những hạn chế. Những thất bại chính trị đã cản trở nỗ lực của Thái Lan trong việc có một vai trò trong cộng đồng quốc tế. Chẳng hạn, ACMECS được cho là một cơ chế hiệu quả mà qua đó Thái Lan có thể đóng những vai trò quan trọng trong tiểu khu vực Đông Nam Á lục địa. Tuy nhiên, một thập kỷ xung đột chính trị trong nước đã ngăn cản Bangkok theo đuổi chiến lược này, và việc này đã làm suy yếu sáng kiến đến mức nó khó có thể khôi phục.
Supalak Ganjanakhundee
Nguyên tác : Thailand’s ‘Complex Engagement’ Approach in Foreign Policy : A Balancing Act, ISEAS, 31/03/2020
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 06/05/2020
Supalak Ganjanakhundee là nghiên cứu viên cao cấp trong Chương trình Nghiên cứu Thái Lan thuộc Viện ISEAS - Yusof Ishak, và cựu biên tập viên của The Nation (Bangkok). Bài viết được đăng trên ISEAS
Trung Quốc đã cố gắng giải quyết một cách thận trọng mối quan hệ với Mỹ, đồng thời triển khai sức mạnh kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Dịch Covid-19 đã làm trầm trọng thêm căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ và đặt ra những câu hỏi về vai trò lãnh đạo toàn cầu của Bắc Kinh.
Dịch Covid-19 đã làm trầm trọng thêm căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ và đặt ra những câu hỏi về vai trò lãnh đạo toàn cầu của Bắc Kinh.
Hỏi : Mối quan hệ Mỹ-Trung đã tác động như thế nào tới phản ứng trước dịch Covid-19 ?
Đáp : Trong bối cảnh virus SARS-CoV-2 lan rộng, sự mất lòng tin giữa Mỹ và Trung Quốc đã gây trở ngại cho sự phối hợp toàn cầu cần thiết cho một cuộc khủng hoảng như vậy. Cả hai nước đều phải chịu trách nhiệm vì đã không hợp tác với nhau. Sự thiếu minh bạch của Bắc Kinh về mức độ nghiêm trọng thực sự của dịch bệnh do những chỉ thị chính trị và quan ngại kinh tế đã thổi bùng lên mối nghi ngờ ngay từ đầu. Trước khi Covid-19 bùng phát tại Mỹ, Washington đã đề nghị cung cấp viện trợ và những sự trợ giúp mà Trung Quốc đã miễn cưỡng chấp nhận, và các chuyên gia y tế Mỹ cuối cùng đã được phép tham gia phái đoàn của Tổ chức y tế thế giới (WHO) tới Trung Quốc. Sau đó, Bắc Kinh đã chỉ trích Mỹ vì là một trong những quốc gia đầu tiên áp đặt các biện pháp hạn chế đi lại đối với những người đến từ Trung Quốc.
Trong khi đó, chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã theo đuổi những chính sách - đều xuất phát từ thái độ từ chối can dự nói chung - đã khiến Mỹ không được chuẩn bị tốt đểứng phó với đại dịch. Dưới thời các chính quyền trước đây, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ duy trì sự hiện diện đáng kể trên thực địa tại Trung Quốc. Các chuyên gia y tế cộng đồng Mỹ đã thiết lập mối quan hệ với những đồng nghiệp người Trung Quốc và xây dựng những quy trình đã được sử dụng khi dịch SARS bùng phát vào năm 2002 và 2003. Chính quyền Trump đã rút lại phần lớn sự hiện diện đó.
Hầu như không có lý do gì để trông đợi động lực này thay đổi khi mà giờ đây Trung Quốc dường như đang kiểm soát được virus, trong khi tốc độ lây lan ở Mỹ lại đang gia tăng. Trong tháng 2/2020, Thượng nghị sĩ Tom Cotton đã đưa ra những tuyên bố không có căn cứ rằng virus có thể bắt nguồn từ một phòng thí nghiệm của Trung Quốc hay được sử dụng như một vũ khí sinh học. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã khẳng định Trung Quốc đã có công làm giảm bớt mối đe dọa toàn cầu. Bộ Ngoại giao Trung Quốc thậm chí còn tuyên bố virus SARS-CoV-2 không có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Hỏi : Dịch bệnh bùng phát sẽ tác động như thế nào tới thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung ?
Đáp : Khó có thể đánh giá mức độ tác động mà Covid-19 sẽ gây ra đối với thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 vốn bắt đầu có hiệu lực vào tháng 2/2020. Gần đây, Bắc Kinh đã khẳng định rằng họ có ý định thực hiện thỏa thuận này đến cùng. Mặc dù đã có những mối quan ngại rằng Bắc Kinh có thể không thể đáp ứng được cam kết mua thêm 200 tỷ USD giá trị hàng hóa trong 2 năm, nhưng phần lớn cam kết này được phân bổ vào giai đoạn sau, vì giá trị hàng hóa được lên kế hoạch mua sắm trong năm 2020 chỉ ở vào khoảng 75 tỷ USD. Nếu phải đối mặt với khó khăn, Bắc Kinh có thể viện tới các điều khoản bất khả kháng trong thỏa thuận, như những gì Tổng công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc đã làm để hủy bỏ một số hợp đồng khí đốt hóa lỏng.
Về phần mình, Chính quyền Trump đã gửi đi những thông điệp lẫn lộn về thỏa thuận này. Cố vấn kinh tế Nhà Trắng Larry Kudlow cho biết virus có thể trì hoãn các thương vụ nông sản cũng như những phương diện khác của thỏa thuận. Tuy nhiên, Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer và Bộ trưởng Nông nghiệp Sonny Perdue lại bác bỏ nhận định của Kudlow. Thay vào đó, họ xác nhận rằng Trung Quốc đang có những bước tiến trong cam kết mua hàng nông sản và đang nới lỏng những hạn chế thương mại khác. Trong một tuyên bố chung, Perdue cho biết họ "hoàn toàn trông đợi sự tuân thủ đầy đủ các phần của thỏa thuận".
Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin cũng đưa ra khẳng định tương tự vào ngày 23/2 khi cho rằng Covid-19 sẽ không gây bất kỳ ảnh hưởng nghiêm trọng nào đối với thỏa thuận giai đoạn 1, dù ông có đề cập rằng dịch bệnh bùng phát có thể khiến các cuộc đàm phán về giai đoạn 2 bị trì hoãn. Tuy nhiên, khi được hỏi vào ngày 3/3 liệu Chính quyền Mỹ có xem xét đình chỉ thuế quan đối với Trung Quốc và Châu Âu hay không, Mnuchin thừa nhận rằng chính quyền sẽ "xem xét tất cả các phương án" khi tác động kinh tế của dịch Covid-19 trở nên rõ ràng hơn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tờ Thời báo Hoàn cầu nhanh chóng nhận định rằng việc đình chỉ thuế quan sẽ là một bước ngoặt trong cuộc chiến thương mại.
Nếu một trong hai bên gặp khó khăn trong việc đáp ứng các cam kết, thì dịch Covid-19 có thể đưa ra một lối thoát. Khi cuộc đua tranh cử Tổng thống Mỹ bước vào giai đoạn nước rút, Trump có khả năng sẽ làm tất cả những gì có thể nhằm ngăn không cho thỏa thuận này tan vỡ hay bị bêu riếu như là một thất bại. Bắc Kinh cũng muốn duy trì thỏa thuận này nhằm tránh khỏi việc trở lại với các mức thuế quan cũng như bầu không khí bất ổn gia tăng như trước đây, nhất là trong bối cảnh những nỗ lực kích thích nền kinh tế Trung Quốc.
Hỏi : Covid-19 có ý nghĩa như thế nào đối với sáng kiến "Vành đai và Con đường" ?
Đáp : Đã xuất hiện những tin tức chi tiết về tình trạng chậm trễ đáng kể của các dự án cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI) ở Bangladesh, Indonesia, Nepal và Sri Lanka do dịch Covid-19. Các biện pháp hạn chế đi lại đã ngăn không cho các công nhân Trung Quốc trở lại các công trường BRI ở nước ngoài, trong khi việc đóng cửa các nhà máy Trung Quốc cung cấp máy móc và nguyên liệu thô cho các dự án BRI đã cản trở tiến độ của các dự án này. Những sự chậm trễ này có thể gây thêm căng thẳng đối với các quốc gia vốn đã phải vật lộn với gánh nặng nợ nần.
Hơn nữa, thế bế tắc kinh tế của Trung Quốc trong quý I/2020 chắc chắn sẽ buộc chính phủ phải có phản ứng, có khả năng là dưới hình thức cắt giảm lãi suất, đẩy mạnh cho vay và áp dụng các biện pháp kích thích tài khóa. Ngay cả nếu nền kinh tế hồi phục, thì chính phủ cũng sẽ phải đối mặt với sức ép đầu tư nguồn lực ở trong nước thay vì nước ngoài.
Bất chấp những bước lùi đáng kể, khả năng là Bắc Kinh sẽ không từ bỏ BRI trong tương lai gần. Tương tự như vai trò trung tâm của thỏa thuận thương mại đối với nghị trình của Trump, BRI là biểu tượng của sự nổi lên của Trung Quốc như là một nước lớn và là dự án đặc trưng của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Ngân hàng phát triển Trung Quốc gần đây đã đưa ra một tuyên bố về các kế hoạch hỗ trợ các công ty BRI bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Các quốc gia được hưởng lợi từ những cơ hội đầu tư và phát triển to lớn mà BRI mang lại, chẳng hạn như Campuchia, cũng đã lên tiếng bảo vệ Trung Quốc khi dịch bệnh bùng phát. Thủ tướng Campuchia Hun Sen, nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến Bắc Kinh sau khi dịch Covid-19 bùng phát, đã chỉ trích các quốc gia khác vì đã áp dụng những biện pháp hạn chế nghiêm ngặt đối với người đến từ Trung Quốc, đồng thời tiếp tục duy trì biên giới mở. Đáp lại, Tập Cận Bình nói với Hun Sen : "Một người bạn trong lúc hoạn nạn là một người bạn thực sự".
Một khi dịch bệnh được kiểm soát, các quốc gia vẫn đang phải vật lộn tìm cách phục hồi sau những cú sốc kinh tế có liên quan có thể lấy sự bùng phát này làm cái cớ để loại bỏ những dự án không thành công hoặc không được lòng người dân về mặt chính trị. Trái lại, Bắc Kinh có thể tìm ra những cơ hội mới để mở rộng dấu ấn của BRI tại các quốc gia tìm cách thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hỏi : Dịch bệnh bùng phát gây ra những thách thức kinh tế lớn nào đối với Trung Quốc và Mỹ ?
Đáp : Bắc Kinh ngày càng quan ngại về thiệt hại lâu dài đối với nền kinh tế Trung Quốc cũng như với vai trò then chốt của nước này trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang cố gắng đạt được sự cân bằng phù hợp giữa việc khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh và ngăn chặn khả năng số ca bệnh tăng đột biến khi người dân trở lại làm việc. Tuy nhiên, trong bối cảnh các nhà kinh tế cảnh báo về tình trạng suy thoái toàn cầu, các nhà hoạch định chính sách về kinh tế và ngân hàng trung ương đã bắt đầu phối hợp phản ứng. Nhưng nếu căng thẳng Mỹ-Trung ngăn không cho hai nước hợp tác chặt chẽ như trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, thì hiệu quả của bất kỳ phản ứng toàn cầu nào cũng có thể bị hạn chế nghiêm trọng.
Ở Mỹ, dịch Covid-19 đã làm khuếch đại những lời kêu gọi xa lánh Trung Quốc. Dịch bệnh bùng phát đang làm gia tăng mối quan ngại của các tập đoàn đa quốc gia có chuỗi cung ứng đặt tại Trung Quốc, mà trong số đó nhiều tập đoàn đã chứng kiến công việc kinh doanh bị hạn chế do sự thiếu minh bạch và những biện pháp cực đoan, được áp dụng nhanh chóng của Bắc Kinh. Những công ty đang cân nhắc việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng vì cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung có khả năng sẽ càng cảm thấy quyết định của họ là hợp lý và đẩy nhanh kế hoạch. Chẳng hạn, Apple được cho là có ý định dịch chuyển chí ít là một phần dây chuyền sản xuất các sản phẩm của họ (trong đó có AirPod và Apple Watch) sang Đài Loan do những thách thức mà dịch Covid-19 gây ra. Ở Washington, các nghị sĩ Quốc hội Mỹ đã tận dụng dịch bệnh bùng phát để kêu gọi giảm bớt sự phụ thuộc của Mỹ vào Trung Quốc đối với thuốc men, vật tư y tế và các trang bị quan trọng khác.
Hỏi : Phản ứng của Trung Quốc trước dịch Covid-19 có thể làm thay đổi vị thế của nước này trong cộng đồng quốc tế như thế nào ?
Đáp : Dịch Covid-19 đã thổi bùng lên những mối quan ngại ở Mỹ và các quốc gia phương Tây khác về sức ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Bắc Kinh trong các thể chế quản trị toàn cầu then chốt. Sự thiếu minh bạch của Trung Quốc khi dịch bệnh mới bắt đầu bùng phát có thể đặt ra nhiều câu hỏi hơn nữa về khả năng sẵn sàng đảm nhận vai trò lãnh đạo toàn cầu ở quy mô mà Tập Cận Bình đã hình dung.
Những cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng trước đây như SARS, Ebola và bệnh bò điên đã buộc Tổ chức y tế thế giới (WHO) phải đối phó với các quốc gia đang tìm cách tạo thế cân bằng giữa những quan ngại về sức khỏe và những hậu quả kinh tế và chính trị. Việc Trung Quốc gia tăng sức ảnh hưởng trong các thể chế quốc tế đã khuếch đại những mối lo ngại đó và dẫn tới những câu hỏi về việc liệu WHO có thể thực sự đóng vai trò trọng tài trung lập trong thời kỳ khủng hoảng hay không.
Trong giai đoạn đầu bùng phát dịch bệnh, các nhà quan sát đã chỉ trích WHO vì sự chậm trễ trong việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp về y tế công cộng đối với đợt bùng phát này - một quyết định mà một số nhà ngoại giao cho rằng là do sức ép từ phía Bắc Kinh. Hơn nữa, Đài Loan đã không được phép tham dự các cuộc họp và giao ban khẩn cấp của WHO về cuộc khủng hoảng này, dù đã có phản ứng nhanh chóng nhằm ngăn chặn sự lây lan của virus.
Cuộc khủng hoảng này cũng có thể khiến Bắc Kinh càng cảm thấy cần thiết phải tiếp tục xây dựng những thể chế quản trị toàn cầu song song của riêng mình. Theo thông tin từ trang tin Axios, các tổ chức tư vấn Trung Quốc đã nêu ra ý tưởng về một "tổ chức y tế toàn cầu do Trung Quốc dẫn dắt cạnh tranh với WHO".
Bất luận đợt bùng phát dịch Covid-19 diễn ra như thế nào, rõ ràng tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng này đã làm gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ vốn dĩ đã phức tạp giữa Mỹ và Trung Quốc, đồng thời nêu bật những câu hỏi về vị thế của Trung Quốc trong một thế giới ngày càng kết nối lẫn nhau.
Paul Haenle
Nguyên tác : How has the U.S.-China Relationship impacted the Response to the Coronavirus ?
Minh Anh giới thiệu
Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 20/03/2020
Paul Haenle là Giám đốc Trung tâm Carnegie- Tsinghua. Bài viết được đăng trên Viện Carnegie vì Hòa bình Quốc tế
Vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính, ngoài vai trò một phép thử đối với ‘bản lĩnh Đảng cộng sản Việt Nam’ cùng châm ngôn ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’, còn là một thước đo thú vị về quyền lực thực chất của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng trong các chính sách đối ngoại của đảng cầm quyền ở Việt Nam.
Trọng lượng quyền lực của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng trong các chính sách đối ngoại của đảng cầm quyền ở Việt Nam nặng tới cỡ nào trong vụ Bãi Tư Chính ?
Đến đầu tháng 10 năm 2019, đã tròn ba tháng kể từ ngày Trung Quốc điều tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 và các tàu hộ vệ cho tàu này xâm phạm Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền, nhưng lực lượng cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vẫn chưa một lần dám nổ súng cảnh cáo. Trong khi đó, toàn bộ chóp bu Việt Nam từ Nguyễn Phú Trọng trở xuống vẫn kiên định ‘câm như hến’ mà không một lần dám nêu tên Trung Quốc, càng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới ‘văn dốt, võ dát’ này dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
Chỉ đến Hội nghị trung ương 11 của đảng cầm quyền, trong bài phát biểu khai mạc vào sáng ngày 7/10/2019, ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng mới hé môi đề nghị Trung ương đảng "phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông ; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt".
Một hiện tượng đặc biệt là bài phát biểu trên của Trọng đã lập tức tạo ra hiệu ứng ‘mở miệng’ : chỉ ít tiếng đồng hồ sau lời huấn thị trên, một số tướng quân đội như Thượng tướng Võ Tiến Trung, nguyên là giám đốc Học viện Quốc phòng, Thiếu tướng Nguyễn Minh Hoàng, Đại biểu Quốc hội, Phó Chính ủy Quân khu 7 ‘bỗng dưng’ lên tiếng về vụ Bãi Tư Chính và về chính sách linh hoạt khôn khéo của ‘đảng và nhà nước ta’.
Còn trước đó, hầu hết các tương quân đội đều mất dạng.
Cơ quan duy nhất đóng góp tiếng nói về vụ Bãi Tư Chính trước đó là Bộ Ngoại giao. Tuy nhiên nhiên bất chấp thành tích của bộ này với vài lần gửi công hàm phản đối Trung Quốc, nhưng không có gì chứng minh đây là hành động được trao trực tiếp cho đại sứ Trung Quốc, cùng bốn chục lần ‘kịch liệt phản đối’ của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao, thất bại ngoại giao và quốc tế vận vẫn quá ê chề đối với giới chóp bu Việt Nam : cho tới nay chính thể độc tài ở Việt Nam hoàn toàn cô độc trong cuộc đối chọi với ‘đảng anh’ Trung Quốc trren Biển Đông.
Tín hiệu bật đèn xanh về ‘phân tích và dự báo tình hình Biển Đông’ của Nguyễn Phú Trọng để từ đó kéo theo làn sóng ‘mở miệng’ của một số tướng quân đội, và có thể sẽ là lục tục các cơ quan khác như tuyên giáo, chính phủ… cho thấy độ tập quyền về chủ trương đối ngoại của ‘đảng và nhà nước ta’ đã đổ dồn vào cá nhân ông Trọng.
Từ sau khi ‘tiếp quản’ cái ghế chủ tịch nước của kẻ quá cố là Trần Đại Quang vào tháng 9 năm 2018, có thể nói Nguyễn Phú Trọng đã vun đắp cho ông ta một độ tập trung quyền lực lớn đến mức hiếm có trong lịch sử triều đại cộng sản Việt Nam, thậm chí có thể so sánh với quyền lực thời Lê Duẩn.
Vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính cùng cái cách đối phó từ ‘ngậm miệng’ đến ‘mở miệng’ có thể phác ra một quy luật : Nguyễn Phú Trọng tập quyền trên ghế chủ tịch nước và tổng bí thư bao nhiêu thì ông ta cũng độc quyền trong chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam bấy nhiêu.
Cho tới nay, nhiều dư luận cho rằng Trọng nắm phần quyết định nhân sự cấp ủy viên bộ chính trị và ủy viên trung ương đến 90% trong Bộ Chính trị.
Trong bối cảnh tập quyền đó, khái niệm ‘tập thể Bộ Chính trị quyết định’ về thực chất chỉ mang tính hình thức.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 11/10/2019