Trien Vinh Le - Trà Mi, danlambao, 19/04/2021
Cải cách chính trị năng động có thể giải quyết xung đột ý thức hệ nội bộ – và giúp phân biệt Việt Nam với Trung Hoa.
"Đổi mới", cải cách kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1980, đã tạo ra cơ hội kinh tế giúp hàng triệu người thoát nghèo. Tuy nhiên, sau ba mươi năm tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện đang phải đối phó với những hệ quả liên quan như suy thoái môi trường, bất bình đẳng và thất thoát tài nguyên quốc gia vì tham nhũng. Hơn nữa, sự phụ thuộc của Việt Nam vào vốn đầu tư nước ngoài mà không tận dụng được tác động lan tỏa của kỹ thuật và quản lý đã không thể làm giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào lao động rẻ và không có tay nghề. Tình trạng nghiêm trọng này càng trở nên trầm trọng hơn do thay đổi dân số, phần lớn vig dân số già đi. Nhiều người lo ngại rằng cái bẫy thu nhập trung bình sẽ bỏ Việt Nam lại phía sau khi sự canh tân thúc đẩy các nền kinh tế phát triển khác cạnh tranh mạnh hơn trên toàn cầu trong thời đại thông tin.
Lấy cảm hứng từ những câu chuyện phát triển của các nước Đông Á đã thu gặt được những lợi ích của việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, có nhiều ý kiến chính thức và không chính thức cho rằng Việt Nam cần một công cuộc đổi mới thứ hai, xoay quanh cải cách chính trị . Nếu các thể chế và thực hành chính trị mới được phép xuất hiện và dẫn đến các cách thức điều hành mới và các ý tưởng chính sách mới, thì nền kinh tế có thể chuyển sang các hoạt động cởi mở hơn và đổi mới hơn dựa trên khoa học và kỹ thuật. Thật thích đáng khi đặt câu hỏi làm thế nào hệ thống chính phủ hiện tại có thể mở ra một kỷ nguyên chuyển đổi kinh tế mới khi mà rất nhiều người ở thượng tần quyền lực hưởng lợi từ mô hình cũ dựa trên khai thác lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Cải cách thể chế đang được tiến hành nhưng thường chỉ ở cấp hành chính, được thúc đẩy bằng cách đơn giản hóa các quy định và luật lệ để tránh chồng chéo và trùng lặp. Các khái niệm như tam quyền phân lập (tức là ba nhánh của chính phủ) hay xã hội dân sự vẫn bị coi là cấm kỵ đối với chính phủ. Mặc dù khái niệm "dân chủ" đã được chính thức đề cập như một trong những ưu tiên chiến lược của Việt Nam – cùng với "công bằng" và "văn minh" – "dân chủ hóa" vẫn là một thuật ngữ nhạy cảm về mặt chính trị vì người ta cho rằng (và lo sợ) rằng nó sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị. và do đó đe dọa sự ổn định của hệ thống độc đảng của Việt Nam. Chính phủ tin rằng chế độ thống nhất chính trị (bề ngoài) như hiện nay là ưu việt và không thể thay đổi.
Trong những năm 1970 và 1980, các quốc gia dân chủ như Nam Hàn và Đài Loan đã cho thấy cách đa nguyên chính trị có thể vượt qua các nút thắt kinh tế. Đồng thời, các mô hình dân chủ xã hội ở các nước scandinavian cho thấy các giá trị xã hội chủ nghĩa và hệ thống dân chủ tương thích và thậm chí hiệu quả như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên, nhà chức trách Việt Nam cho rằng Việt Nam có bối cảnh lịch sử, chính trị và văn hóa độc đáo mà hầu như không mô hình bên ngoài nào có thể áp dụng được. Thật vậy, những trí thức cực đoan suy đoán rằng chính phủ cộng sản Việt Nam không có mô hình nào ngoài mô hình do đảng cộng sản Trung Hoa đang áp dụng.
Điều này đã dẫn đến hố sâu chia rẽ ý thức hệ. Một bên tiếp thu mô hình hiện tại và luôn chỉ ra những khiếm khuyết và thất bại của các nước đã dân chủ hóa. Phe còn lại ủng hộ mô hình chính trị đa nguyên bị các đối thủ ý thức hệ bác bỏ là không phù hợp với Việt Nam. Có thể học được gì từ cuộc tranh luận này?
Quan điểm tĩnh so với động về dân chủ hóa
Có thể nói, cả hai bên của hố chia rẽ ý thức hệ này đều có những hạn chế trong suy nghĩ. Có nghĩa là, cả hai đều coi những thay đổi về thể chế là một quá trình tĩnh hơn là động. Vì Việt Nam là một quốc gia đang trong tiến trình chuyển đổi, việc cải cách thể chế chính trị thích ứng là cần thiết để duy trì sự vận động hướng tới một hệ thống dân chủ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – như đã thấy trong chặng đường lịch sử của rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Đồng thời, các mô hình dân chủ không phải là không có sai sót, như việc bầu cử các nhà lãnh đạo và các đảng phái ở rìa ý thức hệ hệ đã cho thấy ở các nước trên thế giới trong những năm gần đây (ví dụ như ở Mỹ, Brazil và một phần của Đông Âu).
Vì vậy, người dân Việt Nam phải chấp nhận trách nhiệm chung để cân bằng quyền lực và liên tục điều chỉnh hướng đi. Dân chủ là một giá trị phổ quát được chấp nhận vì, ở mức độ thuần túy nhất, nó là hệ thống tốt nhất để bảo đảm một xã hội công bằng và bình đẳng bằng một "chính phủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân", như Abraham Lincoln đã nói.
Về bản chất, một chính phủ đang và cần phản ảnh lợi ích của người dân để bảo vệ quyền của bất kỳ cá nhân nào được tham gia vào đời sống chính trị và cộng đồng. Trong một quốc gia công bằng và bình đẳng, chính phủ bảo vệ các giá trị và thể chế dân chủ. Để đạt được lý tưởng này, xã hội phải quyết tâm và kiên định vượt qua những rào cản trên con đường đi tới dân chủ và thực hiện điều đó bằng các phương tiện hòa bình, hữu ích và công bằng.
Do đó, một cách suy nghĩ năng động về cải cách quản trị là chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào các công việc của đất nước, dù trực tiếp hay gián tiếp. Trên con đường đó, mọi quốc gia văn minh tiến bộ dựa trên hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và kinh tế của mình. Sự cố định với hệ thống hiện tại (gồm cả những lợi ích hiện đang được hưởng lợi từ nó) và việc áp dụng cứng nhắc một mô hình nhất định dựa trên những ý thức hệ cứng ngắt về kinh tế và các mối quan hệ chính phủ-xã hội là một quan hệ tĩnh, tự đánh bại và không phát triển, không có khả năng tạo ra sự linh hoạt cần thiết để hiện đại hóa các thể chế và cơ cấu kinh tế. Ở Việt Nam, cả chính phủ và các đối thủ kiên quyết của họ đều rơi vào hai thái cực trái ngược nhau.
Con đường thực tế tiến phía trước là sự hiểu biết dựa trên sự đồng thuận về sự tiến bộ, công nhận nhiều lợi ích và cung cấp không gian để thể hiện hiệu quả mà không gây ra hậu quả tiêu cực. Trong hoàn cảnh đó, bế tắc của tư duy ý thức hệ có thể bị phá vỡ và tất cả những ý tưởng mới đều có thể được xem xét. Cách tiếp cận này giải quyết các mâu thuẫn đặc trưng của ý thức hệ, hướng cuộc tranh luận từ việc nên chọn mô hình quy định này hay mô hình khác đến cách có thể tạo ra một hệ thống mới kết hợp các khía cạnh được cho là hữu ích và công bằng. Cách đối thoại hiệu quả này giúp mọi bên nói chuyện với nhau một cách trung thực và hiệu quả hơn – một lực lượng ổn định tập trung vào lợi ích chung hơn là những ý thức hệ được bảo vệ và lợi ích tự phục vụ. Các vấn đề liên quan đến tam quyền phân lập, xã hội dân sự và khả năng đa nguyên chính trị cần được thảo luận một cách cởi mở và thông cảm dựa trên thực tế của Việt Nam. Các trí thức Việt Nam và các chủ thể chính phủ có thể chia sẻ tầm nhìn của họ trên toàn cầu về cả những bất ổn và cơ hội trong các nền dân chủ cũng như quá trình dân chủ hóa nói chung.
Những quan hệ mật thiết đến trường hợp Trung Hoa
Bất chấp xu hướng tiến bộ trong việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, chính quyền cộng sản Trung Hoa ngày càng củng cố quyền lực chính trị của họ bằng tính hợp pháp do các thành tựu kinh tế mang lại (đây cũng là một cách lý luận đầy khiếm khuyết). Trung Hoa cũng đang tận dụng lợi thế toàn cầu về tầm cỡ độc đáo của mình, một lựa chọn không có ở Việt Nam. Trong nỗ lực định vị toàn cầu của Trung Hoa, các trí thức Trung Hoa – dù vô tình hay cố ý – buộc phải tuân thủ các ý thức hệ nhân danh lòng yêu nước. Họ thường chọn ủng hộ các nỗ lực của chính phủ nhằm củng cố quyền lực nhà nước và hạn chế sự tham gia của công chúng vào các vấn đề chính sách và chính trị. Những lời kêu gọi khiêm tốn hóa dân chủ trong bối cảnh Trung Hoa dễ dàng bị bóp nghẹt bằng việc kiểm soát thông tin và hạn chế tổ chức chính trị và những hoạt động liên quan.
Do đó, sự ổn định của Trung Hoa phụ thuộc vào việc hạn chế sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị và sự kiểm soát của chính phủ đối với thông tin đối với người dân, với tính chính danh của đảng cộng sản phần lớn đạt được sau nhiều chục năm tăng trưởng kinh tế và gần đây là bằng những các cuộc tấn công địa chính trị (đặc biệt là ở vùng biển phía Nam Trung Hoa, Hong Kong, và Đài Loan). Cách giải quyết này hiện có thể ổn định môi trường chính trị trong nước nhưng chỉ làm tăng khả năng bất ổn ở nước ngoài. Như vậy, chính phủ phải liên tục tăng cường kiểm soát xã hội và chính trị trong nước để ngăn chặn bất kỳ sự mất quyền lực hoặc nhận thức về mối đe dọa đối với quyền lực.
Việt Nam không thể và cũng không cần phải rơi vào tình thế bấp bênh và căng thẳng như vậy.
Trái lại, với việc Việt Nam đã mở cửa và chấp nhận con đường hướng tới dân chủ, thì trí thức, chính quyền và người dân có thể cùng nhau chấp nhận những giá trị của sự tham gia của công dân như một nguyên tắc cai trị trong đó quyền lực của nhân dân là tối quan trọng. Khi đó, trí thức Việt Nam và chính phủ sẽ lấy lại lợi thế riêng của mình – lợi thế của việc thảo luận cởi mở và thiết thực, xét đến tất cả mọi cơ hội khả thi. Điều này sẽ phân biệt Việt Nam với Trung Hoa. Đường đi đến quyền lực chính phủ của hai nước hoàn toàn khác nhau, do nền tảng lịch sử, chính trị và văn hóa khác nhau, như chính phủ đã nêu.
Trien Vinh Le
Nguyên tác : Vietnam’s Great Debate Over Democracy, The Diplomat, 15/04/2021
Trà Mi dịch
Nguồn : dcvonline, 19/04/2021
Trien Vinh Le, Ph.D., là giảng viên cao cấp Trường Chính phủ, Đại học Kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh.
************************
Cuộc đổi mới thứ hai về cải cách chính trị : liệu có khả năng thành hiện thực ?
RFA, 15/04/2021
Tờ The Diplomat vào ngày 15/4 có bài viết với tựa tạm dịch ‘Cuộc tranh luận lớn về dân chủ của Việt Nam’. Nội dung đề cập đến việc Chính phủ Việt Nam cần có một cuộc đổi mới thứ hai về cải cách chính trị ; từ đó có thể giải quyết xung đột ý thức hệ nội bộ và tạo sự khác biệt giữa chế độ cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.
Ảnh minh họa : Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 ngày 30 tháng 1 năm 2021. AFP
Mở đầu bài viết, tác giả đưa ra tác dụng của cuộc đổi mới, cải cách kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1980, đã tạo ra cơ hội kinh tế giúp hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo.
Tuy nhiên, sau ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những hậu quả liên quan đến suy thoái môi trường, bất bình đẳng và thất thoát nguồn lực nhà nước do tham nhũng cùng những hệ quả khác được nói ngày càng nghiêm trọng hơn.
Do đó, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần một Đổi mới thứ hai, xoay quanh cải cách chính trị.
Vẫn theo ý kiến đưa ra trong bài viết, nếu các thể chế và thông lệ chính trị mới được phép xuất hiện và dẫn đến các cách thức điều hành mới và các ý tưởng chính sách mới, thì nền kinh tế có thể chuyển sang các hoạt động cởi mở hơn và đổi mới hơn dựa trên khoa học và công nghệ.
Trao đổi với RFA tối 15/4, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, đưa ra nhận xét như sau :
"Tôi nghĩ rằng Việt Nam bây giờ đã có trình độ cao hơn khá nhiều so với khi bắt đầu đổi mới, Việt Nam cũng hội nhập rất sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế số hóa đang tạo cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn với Việt Nam để chuyển sang nền kinh tế số, xã hội số và chính phủ số.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam cần thực hiện các biện pháp tiến hành công cuộc đổi mới lần thứ hai. Trong đó ngoài các điều như tôi đã đề cập trên thì cũng phải đề cập đến những thách thức khác như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, khô hạn ở miền Trung
Vì vậy nên rất cần một chính phủ có hiệu quả, gọn nhẹ và đổi mới, sáng tạo, ủng hộ những ý tưởng đổi mới, có thể tạo ra một rủi ro ở mức độ nhất định nhưng là những công cuộc đổi mới mà Việt Nam rất cần để Việt Nam tiến lên trong cuộc cách mạng 4.0 và hội nhập quốc tế".
Theo The Diplomat, cải cách thể chế đang được tiến hành trong đất nước hình chữ S nhưng thường chỉ ở cấp hành chính, được thúc đẩy bằng cách đơn giản hóa các quy định và luật để tránh chồng chéo và trùng lặp.
Những khái niệm như tam quyền phân lập hay xã hội dân sự vẫn bị coi là cấm kỵ đối với Chính phủ. Mặc dù khái niệm dân chủ đã được chính thức đề cập như một trong những ưu tiên chiến lược của đất nước, cùng với công lý và văn minh, dân chủ hóa vẫn là một thuật ngữ nhạy cảm về mặt chính trị vì người ta lo sợ rằng nó sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị, đe dọa sự ổn định của hệ thống độc đảng ở Việt Nam.
Trong khi đó, Chính phủ được nhận định rằng luôn tin tưởng chắc chắn thể chế thống nhất chính trị hiện nay là ưu việt và không thể thay đổi.
Tác giả bài viết cho rằng cách suy nghĩ năng động về cải cách quản trị là chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào các công việc của đất nước, dù trực tiếp hay gián tiếp. Chính phủ cần phản ánh lợi ích của người dân để bảo vệ quyền của bất kỳ cá nhân nào được tham gia vào đời sống chính trị và công cộng.
Từ Sài Gòn, nhạc sĩ Lê Thiệu nêu lên thực tế xã hội Việt Nam hiện nay so sánh với kêu gọi trong bài viết trên The Diplomat :
"Hoang đường, không có khả năng, không thể nào thực hiện được tại vì chế độ của Việt Nam hiện nay là chế độ độc đảng toàn trị. Vừa rồi có một số người dân đi ứng cử hoặc là bị bắt hoặc là bị loại từ vòng hiệp thương nên việc người dân tham gia vào chính trường chính trị là việc hoàn toàn không thể xảy ra, lãnh đạo có thể nói như thế nhưng họ không bao giờ để điều đó xảy ra trong thể chế hiện nay của Việt Nam".
Mới đây, Nhà thơ người Chăm - Đồng Chuông Tử, tên thật là Nguyễn Quốc Huy, bị tạm giữ hôm 7/4 để cơ quan an ninh thẩm vấn sau khi bày tỏ ý kiến cá nhân về việc tự ứng cử Đại biểu Quốc hội để đại diện cho người sắc tộc Chăm ở nghị trường.
Trước đó, ông Lê Trọng Hùng, một người vận động tranh cử đại biểu Quốc Hội cũng bị Công an Hà Nội bắt giữ vào ngày 29/3 với cáo buộc bị cho là "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" quy định tại Điều 117 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
Facebooker Trần Quốc Khánh, 61 tuổi, vào ngày 10/3 cũng bị Công an tỉnh Ninh Bình bắt tạm giam với cáo buộc bị cho là đăng, phát livestream thông tin xuyên tạc, phỉ báng chính quyền Việt Nam. Ông Khánh bị bắt sau khi ông tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV.
Ông Trần Quốc Khánh khi thực hiện Livestream về Nhà nước Pháp quyền trên Facebook hôm 6/3/2021. Courtesy Facebook Tran Quoc Khanh.
Với kinh nghiệm quan sát xã hội hàng chục năm qua, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS (đã giải thể) từ Hà Nội cho hay :
"Người Việt Nam tại nước Việt Nam người ta đã bàn đến đổi mới lần thứ hai, tức đổi mới chính trị từ lâu rồi chứ không phải mới gần đây. Bản thân Đảng cộng sản Việt Nam cũng có lúc nói rằng việc cải cách đi bằng hai chân tức cả kinh tế và chính trị.
Đó là chuyện người ta đã đặt vấn đề, rất đáng tiếc càng ngày tiếng nói như thế càng tàn lụi đi, nhất là trong 5-6 năm qua, kể từ nhiệm kỳ hai của ông Nguyễn Phú Trọng sau khi ông ấy dẹp được những phe phái có thể khác ý kiến với người trong đảng".
Vẫn theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, sự đóng góp của người dân, tiếng nói của người dân tham gia vào những vấn đề lớn của đất nước càng ngày càng bị thui chột.
Tác giả bài viết đăng tải trên The Diplomat cho rằng các trí thức cấp tiến suy đoán rằng chính quyền cộng sản Việt Nam không có mô hình nào ngoài mô hình do Đảng cộng sản Trung Quốc thực hiện.
Theo đó, sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào việc hạn chế sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị và sự kiểm soát của Chính phủ đối với thông tin, đối với người dân, với tính chính danh của đảng chủ yếu đến từ nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế và gần đây là thông qua các cuộc tấn công địa chính trị, đặc biệt là ở Biển Đông, Hong Kong, và Đài Loan.
Nhà nước Trung Quốc được nhận định phải liên tục tăng cường kiểm soát xã hội và chính trị trong nước để ngăn chặn bất kỳ sự mất quyền lực hoặc nhận thức về mối đe dọa đối với quyền lực.
Tuy vậy, Việt Nam không cần phải rơi vào tình thế bấp bênh và căng thẳng như vừa nêu thông qua việc Việt Nam đã mở cửa và chấp nhận con đường hướng tới dân chủ, thì trí thức, chính quyền và người dân có thể cùng nhau chấp nhận các phẩm chất của sự tham gia của công dân như một nguyên tắc quản lý trong đó quyền lực của nhân dân là tối quan trọng.
Khi đó, trí thức Việt Nam và Chính phủ sẽ lấy lại lợi thế riêng của mình, từ đó lợi thế của thảo luận cởi mở và thiết thực, coi mọi cơ hội khả thi. Điều này sẽ phân biệt Việt Nam với Trung Quốc.
Nhìn nhận về vấn đề vừa nêu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho hay, Việt Nam có theo mô hình cộng sản Trung Quốc nhưng nếu nhìn kỹ tình hình chính trị của Việt Nam bây giờ sẽ thấy dù có vài điểm tương tự nhưng không hề giống hoàn toàn Trung Quốc. Tuy vậy, vấn đề làm thế nào để cho Việt Nam ngày càng có tự chủ, ngày càng phát triển hơn cần được quan tâm nhiều hơn nữa thông qua việc :
"Người dân phải cất tiếng nói nhiều hơn, tiếng nói xây dựng thôi, vạch ra cho họ, cho những người bảo thủ như ông Trọng biết cách làm như vậy là sai cho đất nước và động viên những người bên trong hệ thống có cách nhìn tiến bộ, phát huy tiếng nói của mình. Đấy chúng tôi gọi là đảng vận".
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng khẳng định rằng nếu người dân thờ ơ, không quan tâm, với tư tưởng làm cũng chẳng ăn thua, đằng nào người ta cũng không nghe thì đây là việc làm tiếp tay cho họ không nghe và tiếp tay cho thế lực bảo thủ cứ chây ì ra và không thay đổi.
Nguồn : RFA, 15/04/2021
Lời giới thiệu : Tình trạng tham nhũng ở VN tính đến nay đã trở thành trung tâm sự chú ý của tất cả mọi người dân và cũng là mối bận tâm lớn nhất của Đảng và nhà nước. Tham nhũng đã trở thành quốc bệnh quan hệ đến tồn vong của chế đô thì chống tham nhũng đương nhiên cũng phải được coi là quốc sách hàng đầu, cần đến sự nổ lực đồng bộ của toàn đảng toàn dân. Từ 20 năm nay, nhiều luật lệ, chỉ thị về phòng chống tham nhũng đã được ban hành, cùng với biết bao tiếng nói đóng góp của các vị nhân sĩ trí thức, nhưng thực tế quốc bênh tham nhũng chẳng được đẩy lùi mà còn có biểu hiện ngày càng tăng năng đến mức vô phương cứu chửa.
Tình trạng các giải pháp đã đưa ra hoặc đã thực thi đều tỏ ra vô hiệu kể cả việc "đốt lò", chúng tôi thiết tha mong muốn xã hội ổn định, nền kinh tế đất nước phát triển nhân dân được hạnh phúc, xin nêu ra sau đây một số quan điểm và giải pháp phòng chống tham nhũng bằng một lộ trình hết sức thực tế và có tính khả thi.
Những ý kiến nêu ra trong bản kiến nghị này có khả năng gây tranh luận, nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn nêu lên để rộng đường tham khảo.
Viet-studies
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ trì Phiên họp 18 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - Ảnh minh họa
***********************
Quan điểm về cải cách chính trị thông qua công cuộc phòng chống tham nhũng
Tham nhũng ở nước ta đã trở thành quốc nạn là một thực tế hiển nhiên bất khả tranh luận mà ai ai cũng phải thừa nhận. Càng đáng ngại hơn khi kết quả của những nỗ lực chống tham nhũng do Đảng và Nhà nước phát động ít nhất từ gần nửa thế kỷ nay cho thấy rất hạn chế nếu chưa muốn nói hoàn toàn vô hiệu : tham nhũng chẳng những không giảm bớt mà còn có chiều hướng gia tăng về quy mô, tính chất và mức độ phổ biến, biểu hiện một cách tinh vi thiên hình vạn trạng vượt khỏi tầm kiểm soát của cả hệ thống chính trị, dẫn đến thực tế số cán bộ tham nhũng từ trung ương đến địa phương bị phát hiện vào tù ngày càng đông đảo, không kể những trường hợp "chưa bị lộ", đã khiến cho dân chúng ban đầu càng hi vọng bao nhiêu thì về sau lại càng thất vọng bấy nhiêu, kể cả chiến dịch "đốt lò" mô phỏng theo mô hình "đả hổ diệt ruồi" của Trung Quốc !
Ở nước ta cũng như tại một số nước Châu Á đang phát triển, ngoài "tham nhũng đất đai", "tham nhũng dự án" rất phổ biến và nổi trội, với những mối lợi cực kỳ hấp dẫn, còn có nạn "tham nhũng quyền lực", "tham nhũng chính trị", mua quan bán chức, điều kiện để thiểu số nhóm lợi ích thủ đắc các quyền lợi vật chất béo bở, với những khối tài sản của chìm của nổi kếch xù và có cuộc sống còn hơn cả đế vương thời phong kiến. Tình trạng này đặc biệt đúng với trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc, hai nước có thể chế chính trị gần giống hệt như nhau.
Trong thực tại Việt Nam, nhìn đâu cũng thấy có nạn tham nhũng, từ tham nhũng lớn đến tham nhũng vặt, "ăn không từ một thứ gì" (lời bà nguyên phó chủ tịch nước NTD). Tình trạng ác hóa đến nỗi, có lần cố Tổng bí thư Đỗ Mười phải than : "Như hiện nay, xin đi học, hay vào bệnh viện đều phải có... tí phong bì". Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói về hiện tượng thoái hóa của một số cán bộ nhà nước : "Nếu có phát hiện thì... hi sinh đời bố, củng cố đời con!"... Cho nên có thể nói, tham nhũng đã và đang trở thành tập tính của toàn thể giới cán bộ đảng viên đang nắm giữ các chức quyền ở mọi ngành hoạt động trong bộ máy Đảng-Nhà nước, diễn ra khắp các cơ quan đoàn thể từ hành chính sự nghiệp đến công an, bộ đội, tư pháp, các ngành hoạt động tri thức về văn hóa-giáo dục-y tế-xuất bản, thâm nhập cả vào trong các hội từ thiện, các chốn chùa chiền, và không loại trừ kể cả những cơ quan trung ương chuyên biệt được đặt ra để phòng chống tham nhũng, … vì thế có khả năng lan tỏa sâu rộng vào quảng đại quần chúng trở thành một hiện tượng quen thuộc hầu như có thể gọi là tập tính của xã hội người Việt.
Tham nhũng tràn lan không chỉ làm mất lòng tin của dân chúng vào các nhà đương cuộc và chế độ chính trị, mà còn làm cho nhân dân điêu đứng, dân khí bại hoại, quốc lực hao mòn, bộ máy hành chính trở nên tê liệt, mất kiểm soát và bất lực, trên bảo dưới không nghe, mọi ý đồ tốt đẹp của quốc gia về kinh tế-xã hội đều bị phá sản, dẫn tới hậu quả tình trạng phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội ngày càng trở nên sâu sắc, các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, lừa đảo cũng gia tăng theo; đạo đức xã hội suy thoái, quan hệ giữa người và người bớt lành mạnh đi, niềm tin vào tương lai cuộc sống của dân chúng bị xói mòn đến mức gần như cạn kiệt.
Với tình trạng quốc bệnh tham nhũng trầm trọng và càng chống càng tăng như hiện nay, nước Việt Nam mà đại diện chịu trách nhiệm là bộ máy cầm quyền hiện hữu, đang giống hệt một con bệnh trầm kha tìm cách kéo dài sinh mệnh bằng thuốc để chờ ngày kết thúc sự sống khi thuốc uống đã không còn hiệu lực. Nói theo cách diễn đạt đông y, phải dùng cả thuốc "bổ" lẫn thuốc "tả", và những vị thuốc trung tính : thuốc bổ là những lời động viên học tập theo lời dạy đạo đức của lãnh tụ tiền bối, đã tỏ ra hoàn toàn vô hiệu trước một cơ địa đã rệu rã không còn khả năng tiếp nhận ; thuốc trung tính có thể ví như những đạo luật, nghị định, chỉ thị về phòng chống tham nhũng, kiểm kê tài sản hoặc những bộ quy tắc ứng xử dành cho cán bộ công nhân viên chức các cấp mà trên thực tế đã trở thành những mớ giấy lộn không thể áp dụng vì cũng không hợp cơ địa ; thuốc "tả" có tính công phạt mạnh mang nhiều độc chất để cứu mạng bệnh nhân vào giờ chót, tương đương với biện pháp bắt bớ "đốt lò" trên diện rộng, nhưng lại là con dao hai lưỡi, có khả năng dẫn người bệnh càng đi nhanh đến chỗ tử vong.
Trong cơn thập tử nhất sinh, cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc đều trở nên mất bình tĩnh, tối mắt không còn thấy con đường chữa trị hợp lý và có thể sẽ làm liều bằng cách cho thuốc ẩu, nếu so sánh với hành động chính quyền của nhà cầm quyền hiện tại thì đó chính là cách họ dùng lực lượng công an và hệ thống tòa án để trấn áp, cầm tù những người dân khiếu kiện nạn tham nhũng đất đai, như đã áp dụng trong trường hợp huy động lực lượng cả ngàn quân công an trấn áp và tiêu diệt công dân/đảng viên 84 tuổi đời 56 tuổi đảng Lê Đình Kình trong vụ án Đồng Tâm hiện vẫn còn đang gây chấn động dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Một cái cách thô bạo chà đạp dân chủ dân quyền, đứng trên luật pháp và công luận mà người ta cho rằng chính là biểu hiện cơn giãy chết của một chế độ chính trị đang suy tàn tự đào mộ chôn mình vì nó đã dám chống lại nhân dân trong nước cùng tất cả những người yêu chuộng công bằng trên toàn thế giới.
Trên thực tế hiện nay, "đốt lò" đã tỏ ra không hiệu quả, vì muốn đốt lò bắt buộc phải dùng các lực lượng công an, thanh tra, kiểm tra, viện kiểm sát, tòa án… trong khi chính những lực lượng này do Đảng cộng sản Việt Nam độc tài toàn trị chỉ đạo đứng trên luật pháp trong một nền tư pháp không độc lập lại là những ổ vi trùng tham nhũng đôi khi còn nặng hơn cả những đối tượng tham nhũng mà nó muốn tiêu diệt, biến công cuộc chống tham nhũng trở thành cái cớ hoặc để tự nâng cao uy tín cá nhân của người chỉ huy trước một đám quần chúng hãy còn hồn nhiên cả tin, hoặc để thanh trừng nội bộ trong cuộc tranh giành quyền lực quyết liệt hình thành cục diện chính trị quả đầu thu tóm quyền lực vào tay một số ít người hoặc nhóm người trong giới chóp bu để chia quyền tham nhũng, điều đặc biệt lộ rõ từ Đại hội XII Đảng cộng sản Việt Nam năm 2016 và nhất là trước thềm Đại hội XIII dự kiến sẽ diễn ra vào đầu năm sau, 2021.
Chống tham nhũng luôn vướng phải cái vòng luẩn quẩn : muốn làm được hiệu quả cần phải có một chính phủ trong sạch lành mạnh, trong khi chính phủ đó đã và đang bị nghiền nát do chính bệnh tham nhũng, trở nên mất kiểm soát và thụ động bất lực. Khá đông trong thành phần cán bộ đảng viên có chức có quyền thật ra họ chẳng muốn cho tình trạng hỗn loạn về luật pháp, hành chính sớm được chấm dứt, để đục nước béo cò, trong chừng mực cho phép là Đảng và chính phủ đó của họ vẫn chưa bị sụp đổ trước khi họ còn có thể kiếm chác được, như thực tế trong vài chục năm nay đã từng chứng tỏ. Chống tham nhũng rốt cuộc vì thế chỉ trở thành khẩu hiệu suông để tuyên truyền chính trị, vì thực tế từ khi "đổi mới" năm 1986 với Đại hội Đảng VI trở đi, tham nhũng trở thành đại dịch, năm sau cao hơn năm trước. Đến nay, theo sự xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế năm 2019, Việt Nam đạt vị trí số 2 trong 5 quốc gia tham nhũng nhất thế giới, chỉ đứng sau Ấn Độ.
Nguyên nhân chủ yếu của quốc nạn tham nhũng, người ta đã phân tích nhiều và ai cũng biết, đó là do lỗi hệ thống, trong điều kiện Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền toàn trị, triệt tiêu dân chủ.
Vì không có dân chủ nên thực tế cho thấy, công an, tòa án, quốc hội, các ban thanh tra (Đảng, Chính phủ), nhà tù… đều không chống được tham nhũng, do tất cả các định chế/tổ chức này đều một giuộc như nhau, không ai độc lập với ai, và đều nằm dưới sự kiểm soát chỉ đạo của một đảng chính trị độc quyền : Tuy Điều 4 Hiến pháp 2013 có nêu rõ "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" nhưng thực tế Đảng lại đứng trên cả nhân dân và luật pháp, làm méo mó công lý, như hàng chục vụ xét xử tham nhũng lớn đã từng chứng tỏ.
Trước tình trạng bi thảm luẩn quẩn tiến thối lưỡng nan này của đất nước, rất nhiều người bức xúc nhưng bi quan cho rằng như thế thì đã hỏng bét tuyệt đối, chống tham nhũng là "kế bất khả thi", chỉ còn cách duy nhất kiên nhẫn chịu đựng chờ cho Đảng cộng sản toàn trị ở Việt Nam sụp đổ, và nếu cứ khư khư không chịu sửa đổi thì trước sau gì nó cũng sẽ sụp đổ, vấn đề chỉ còn là thời gian. Đây là một loại ý kiến rất đáng được chú ý, không thể bỏ qua, và dường như không ít đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã mường tượng ra cái kết quả bi thảm tương tự trong tương lai, nên họ nhắc nhở nhau phải đề cao cảnh giác nguy cơ, tìm cách cứu Đảng (viết ra trong các bài báo trên Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng…, hoặc nói chuyện trong các buổi sinh hoạt cán bộ chủ chốt…), và một số người trong họ khi có điều kiện cũng đã cho con em đi học nước ngoài (dặn ở luôn bên đó đừng về…), gởi tiền ngân hàng nước ngoài, mua nhà nước ngoài, mua quốc tịch nước ngoài…, dợm chân tháo chạy một khi Đảng cộng sản thật sự sụp đổ.
Quan điểm của chúng tôi không phủ nhận hoàn toàn loại ý kiến như vừa nêu trên, nhưng có một hướng nghĩ và niềm tin khác. Căn cứ vào thực tế lịch sử, nền chính trị và thực tiễn xã hội đặc thù Việt Nam, chúng tôi cho rằng công cuộc chống tham nhũng để mở đường cho đất nước tiến lên là còn có tính khả thi và vẫn phải do Đảng cộng sản Việt Nam hiện tại thống nhất giềng mối chủ trì thực hiện, với hi vọng thành công rất lớn, và với điều kiện phải có một quyết tâm chính trị lớn tương đương, bằng con đường cải cách thể chế (gọi tắt "cải chế") theo hướng dân chủ hóa đời sống xã hội.
Trong bản tuyên bố quan điểm này, chúng tôi thấy không cần mất thì giờ đưa ra những giải pháp chống tham nhũng cụ thể, vì những giải pháp như vậy đã được bàn thảo quá đầy đủ trên báo chí, trong bài viết của các vị nhân sĩ trí thức tâm huyết, trong các cuộc hội thảo ở các cơ quan báo chí, trường đại học, viện nghiên cứu, và nhất là tại diễn đàn Quốc hội, từ suốt mấy chục năm nay, mà các nội dung cơ bản cũng đã được thể hiện phần lớn trong Luật phòng chống tham nhũng 2018, trong các nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị liên quan vấn đề do Đảng-Nhà nước ban hành rồi. Vấn đề cốt lõi và có tính quyết định là làm sao phải thực hiện cho đúng những điều đã ghi trong các loại văn bản kể trên, mà chúng tôi dù có cố nghĩ thêm cũng không hơn được. Nếu cần, chúng ta có thể tham khảo thêm kinh nghiệm phòng chống tham nhũng có sẵn rất hiệu quả của Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… là được, và tài liệu tham khảo thì có đầy, không phải mất công kiếm đâu xa.
Tựu trung và đại khái cũng chỉ là : Những người lãnh đạo đất nước phải trong sạch, gương mẫu, bởi một lẽ đơn giản gói gọn trong chân lý bất di bất dịch "Thượng bất chính, hạ tắc loạn", "Thượng chính, hạ nghiêm" ; thực hiện nguyên tắc công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ; khi phát hiện các vụ việc tham nhũng phải tập trung xử lý và xử lý nghiêm khắc, trừng trị thích đáng kẻ tham nhũng ; chống tham nhũng từ trên xuống, từ trong ra và không có vùng cấm.
Điều chúng tôi sắp trình bày thậm chí cũng không muốn lặp lại ngay cả những điều vừa ghi lại ở trên, đã quá nhàm, vì điều kiện tiên quyết thứ nhất ("thượng chính, hạ nghiêm") là đúng tuyệt đối, nhưng điều kiện tiên quyết này, chúng ta phải thừa nhận một thực tế cay đắng và đau lòng, là đất nước chúng ta, ít nhất cũng trong hiện tại, hầu như không còn có "Thượng chính" nữa rồi, sau 45 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu như đã làm dưới chế độ độc đảng toàn trị dung túng cho các phần tử đặc quyền, vốn là căn nguyên của tham nhũng. Lý do : Các nhà lãnh đạo cấp cao phần lớn tay đều đã "nhúng chàm", ở những mức độ khác nhau ; kẻ liêm chính, ngay thẳng, nhiều lý tưởng ít thủ đoạn và có đủ tài đức nếu không chịu quy ẩn nghỉ hưu sớm thì cũng không thể nào trèo lên đến vị trí chỉ huy cao có đầy đủ thực quyền ; thảng hoặc có vị nào liêm khiết được đưa vào các tổ chức chống tham nhũng thì trước sau cũng phải từ chức hoặc bị loại trừ… Một số người ban đầu rất lý tưởng muốn phục vụ nhân dân, nhưng khi tham gia lâu vào bộ máy độc quyền đạt địa vị cao thì cũng trở nên biến chất thành quan tham, thụ động hoặc tích cực. Đây là một thực tế hùng hồn sinh động, mà nếu không can đảm thừa nhận, mọi giải pháp đưa ra để phòng chống tham nhũng ở Việt Nam trong điều kiện độc đảng cầm quyền đều trở thành lý thuyết suông, vô vọng.
Điều nhận định như trên được nêu ra có nghĩa rằng, chúng ta tạm thời không đòi hỏi điều kiện lý tưởng phải có những nhà lãnh đạo cấp cao đều trong sạch, vì đây là điều không thể có được trong một bộ máy cầm quyền đã và đang bị thối nát gần như tột độ. Cũng có nghĩa rằng chúng ta tạm thời chấp nhận một số kẻ xấu cầm quyền không trong sạch đã được ăn no, giàu có lên nhờ tham nhũng trong hàng ngũ "tứ trụ" và trong một số cấp trung gian từ chức bộ trưởng trở xuống, miễn tất cả họ đồng loạt nhận thức ra được tình hình mới, rằng từ nay trở đi họ không chỉ phải dừng hành vi tham nhũng lại mà còn phải ra tay điều trị quốc bệnh tham nhũng, chẳng cần bằng sáng kiến gì mới mà chỉ cần bằng cách nghiêm minh thực thi những luật pháp do chính Đảng của họ đặt ra, bởi nếu không thì bản thân họ cũng sẽ bị nhân dân nguyền rủa lật đổ cùng với Đảng độc tài của họ. Người dân Việt Nam giờ đây đòi hỏi sự "cải chế" cũng do chính Đảng cộng sản Việt Nam hiện tại lãnh đạo, bằng con đường dân chủ hóa đời sống xã hội, thực thi đúng những điều Hiến pháp 2013 quy định cho phép, trong đó có : Điều 4 nêu rõ "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" ; Điều 7 : "Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ bỏ phiếu kín" ; Điều 25 : "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định"…
Một trong những giải pháp được đưa ra để chống tham nhũng từ lâu và hiện nay là kiểm kê tài sản cán bộ (mới nhất là Nghị định 130/2020/NĐ-CP ban hành ngày 30/10/2020), thì việc này, tuy không thể không làm, nhưng theo quan điểm của chúng tôi, cũng lại không khả thi và không thể được coi là giải pháp cơ bản. Bởi một lẽ đơn giản, trong điều kiện Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo, bất cứ người đầy tớ nào của nhân dân trở nên giàu có cũng đều nhờ tham nhũng ít nhiều, chứ không bằng đồng lương, thể hiện dưới mọi hình thức từ tinh vi đến trắng trợn, nên bảo họ kê khai tài sản trung thực là điều hầu như không thể được. Cố Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng phát biểu trước diễn đàn Quốc hội hồi tháng 12/2004 : "Khi đề bạt cán bộ thì bắt khai tài sản, nhưng họ rất khôn khi để cho con đứng tên, vợ đứng tên... Thành ra đặt vấn đề thu hồi tài sản bất chính là rất khó". Nguyên Phó thanh tra Chính phủ Vũ Phạm Quyết Thắng khi đó cũng nói : "Nếu bây giờ kê khai, nhiều công chức đang có sẽ hóa ra không có tài sản, vì họ đã ‘gửi’ cho cháu chắt hết rồi".
Cho đến hiện nay, cả khi tội phạm tham nhũng bị phát hiện và đã bị đem ra xét xử trừng trị, người phạm tội bị phạt tù vài tháng hoặc vài năm, thì những quyền lợi mà dân chúng bị mất về hành vi tham nhũng do họ gây ra trên thực tế cũng không lấy lại được, nên chỉ còn lại chuyện ở tù trừ ; hoặc một số cấp dưới liên quan vụ việc đứng ra ở tù đại diện cho cấp trên để chuẩn bị cho một chiến thuật hạ cánh an toàn tập thể trong một nền tư pháp thiếu hẳn sự độc lập trong các khâu điều tra, xét xử.
Với những tình trạng được miêu tả như trên, phải thẳng thắn nhận định rằng, nếu vẫn cứ tiếp tục bằng những biện pháp cũ truyền thống như học tập nghị quyết, cổ động nêu gương lãnh tụ, phê bình kiểm điểm, thanh tra kiểm tra, cảnh cáo kỷ luật, đình chỉ công tác, thậm chí bắt bớ bỏ tù..., nạn tham nhũng vẫn khó bị đẩy lùi, nếu như cái điều căn bản là toàn bộ hệ thống chính trị-kinh tế do đặc điểm và những khuyết tật bên trong của nó mà tệ nạn tham nhũng phát sinh, không được điều chỉnh một cách đúng mức cần thiết.
Về sự bất lực của hệ thống, rất nhiều quan chức hiện nay đã công khai thừa nhận, như chính cố Thủ tướng Phan Văn Khải trước đây khi vừa rời khỏi chính trường cũng có lần phát biểu trả lời phỏng vấn trước Quốc hội: "Rất nhiều lần tôi nói cả hệ thống chính trị chứ không chỉ hệ thống hành chính của chúng ta có vấn đề, cần phải cải cách, chấn chỉnh, nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực, chống cho được tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu...".
Cùng một ý như trên nhưng Tiến sĩ Lê Đăng Doanh thì lại có lối nói thực tế dễ hiểu hơn : "Chỉ trừng phạt thôi thì người này đổ, người khác sẽ lên. Cơ chế nếu không thay đổi thì người mới lên sẽ... tệ không kém, thậm chí còn ‘cáo’ hơn anh trước".
Xét bối cảnh lịch sử cụ thể Việt Nam, từ hoàn cảnh chiến tranh, bao cấp, ăn độn, thiếu thốn mọi bề trong một nền kinh tế khép kín nay chuyển sang kinh tế thị trường, vậy nên hiện tượng tham nhũng-đặc quyền lan rộng trong tầng lớp cán bộ (vốn cũng là những con người bằng xương bằng thịt và biết tham lam chứ chẳng phải thánh nhân) tuy thể không phê phán và tìm cách ngăn chận nhưng cũng cần được nhìn nhận lại một cách khoan dung, nhân bản, khách quan và chân thật hơn, như một tất yếu lịch sử, và như một hiện tượng mà thực tế sinh động của đời sống không cho phép tránh khỏi, phủ nhận, chứ không phải chỉ có một mặt tiêu cực như mọi người thường nghĩ. Nói cách khác, trong điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam thời cận-hiện đại, trải qua hai đợt chiến tranh, không xuất hiện quốc bệnh tham nhũng mới là chuyện lạ !
Theo cách nhìn nhận của chúng tôi, lịch sử "trùng trùng duyên khởi", nhân này tạo ra quả nọ thành một chuỗi diễn biến liên tục và khách quan đôi khi vượt khỏi quyền kiểm soát của con người. Lũ "âm binh" được tạo ra lập được thành tích trong thời kỳ chiến tranh giờ đây được sống trong thời bình, chuyển sang kinh tế thị trường, họ đã biết đòi quyền được hưởng thụ các điều kiện vật chất, là một thực tế khách quan cận nhân tình, trong điều kiện quản lý lỏng lẻo của bộ máy nhà nước, vừa do thiếu tri thức khoa học lãnh đạo vừa có sự cố ý dung túng của Đảng cộng sản Việt Nam tập trung quyền lợi cho các đảng viên đồng chí của mình, vì thế họ khó thể không xâm phạm đến lợi ích của quần chúng nhân dân dưới dạng tham nhũng tham ô đủ kiểu. Tuy nhiên, xét cho cùng, vẫn có thể coi tài sản tích lũy do tham nhũng trong điều kiện chuyển đổi lịch sử khách quan như trên là gần giống với giai đoạn tích luỹ tư bản ban đầu bằng phương thức bóc lột của chủ nghĩa tư bản man rợ (capitalisme sauvage), tuy được chiếm hữu vô kỷ luật vì không tôn trọng khế ước chung xã hội nhưng khách quan nó sẽ trở thành đồng vốn được tái đầu tư vào trong xã hội, để phát triển kinh tế, mang lại lợi ích và công ăn việc làm cho người lao động. Thời gian bóc lột man rợ của tầng lớp đặc quyền "tư sản đỏ" này ở Việt Nam đã kéo dài ít nhất 45 năm, (từ 30.4.1975), tính ra đã đủ, và như có người đã nói, người cộng sản của bên thắng cuộc "không thể cứ mài mãi lịch sử ra để mà sống" ; họ phải biết khôn và biết chỗ dừng lại đúng lúc, nếu muốn được tồn tại yên ổn, được sự chấp nhận lâu dài của người dân. Kết quả là đến lúc này, tất cả những tài sản tích luỹ được không kể nguồn gốc của bất kỳ ai, của con cháu cán bộ nhà nước hay của nhà doanh nghiệp, đều tất nhiên sẽ được phân tán trở lại vào các công trình đầu tư hợp pháp được tổ chức lại trên những nền tảng hoàn toàn mới của thể chế kinh tế-chính trị sẽ được tái cấu trúc hợp lý hơn theo hướng tư nhân hóa các hoạt động kinh tế hầu có thể xoá dần tệ nạn tham nhũng một cách căn cơ và lâu dài.
Từ những thực tế sinh động và trên cơ sở nhận thức vấn đề một cách khách quan như trên, chúng tôi mạnh dạn đề nghị thực hiện các gợi ý như sau đây, chúng tôi xin thử nêu ra chỉ với tính cách tham khảo : Đối với một số người "lỡ" đang bị ngồi tù về tội tham nhũng, cần động viên gia đình họ nộp bớt lại một phần tài sản cho quốc gia dưới hình thức nhà cửa hoặc tiền mặt để chuộc tội và để được phóng thích. Số tài sản quốc gia nhận lại được sẽ được công khai minh bạch cho dân biết, rồi giao cho một ủy ban đặc trách của chính phủ quản lý, với người đứng đầu trong sạch, từ đó phân bổ ra để cung ứng cho các chương trình thuộc an sinh xã hội phục vụ người nghèo. Đối với một số "đại gia" giàu sụ nhờ tham nhũng mà vì lý do nào đó chưa bị xử án vào tù, cũng sẽ không truy tố mà áp dụng biện pháp động viên tương tự, tạo điều kiện để họ dùng tiền vào công việc từ thiện, cấp học bổng cho học sinh nghèo, hoặc tài trợ, đầu tư cho các công trình phúc lợi như xây cất bệnh viện, trường học, cầu cống, chùa chiền, trại nuôi trẻ mồ côi… Các loại đối tượng này, mặc dù không truy tố nhưng vẫn phải nắm. hồ sơ lý lịch tham nhũng của họ; trong thời gian nhất định, cấm họ không được ra nước ngoài định cư để giữ lại nguồn tiền tiêu dùng và nguồn vốn đầu tư trong nước ; nếu họ không "cải hóa tự tân" hướng thiện, tiếp tục vi phạm luật pháp để trục lợi bất chính, lúc đó sẽ ra tay trừng trị nặng theo đúng luật mới dành cho tội phạm tham nhũng, cũng chưa muộn.
Do hoàn cảnh đặc biệt riêng của mỗi nước, chúng ta nhất định không rập khuôn theo phương châm "đả hổ diệt ruồi" kiểu Trung Quốc, mà áp dụng chính sách nhân hậu "tiên lễ hậu binh", trước thuyết phục sau cưỡng chế, trước động viên sau mới dùng tòa án, bỏ qua lỗi cũ và chỉ tính tội mới, chính là để ổn định nhân tâm và dung hòa lợi ích giữa các bên, trong đó người dân cũng được lợi theo, và ta sẽ lấy quyền lợi của nhân dân làm luật pháp tối thượng.
Vì công cuộc phòng chống quốc bệnh tham nhũng vốn không thể tách rời khỏi việc cải chế, nên cần thiết phải tính toán đến những bước đi ôn hòa, tiệm tiến và có tính hiện thực khả thi về mặt chính trị, tránh trường hợp có thể gây nên tình trạng động loạn mới, dẫn đến mất kiểm soát kiểu mới. Tại đây, xin được nhắc lại bằng cách tóm tắt ý chính một số đề nghị đã nêu trong bản tuyên bố quan điểm của câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng hồi cuối tháng 10/2020 vừa qua, đó là việc cần phải gấp rút cải chế về đất đai và về tư pháp.
Theo chúng tôi, một trong những nội dung cải chế có tính đột phá khẩu để ổn định tình hình chính trị hiện nay và phòng chống được tham nhũng là cần khởi đầu từ việc sửa đổi chính sách sở hữu về đất đai, vì đây là một trong những trung tâm điểm của những vụ tham nhũng phổ biến gây nên tình trạng động loạn xã hội uy hiếp sự tồn tại của chế độ từ trước tới nay. Quy định "Đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý" ghi trong Hiến pháp 2013 (Điều 53) và trong Luật Đất đai 2003 (Điều 5) cần được xem xét sửa chữa. Đây cũng là một ý quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ đề cập trong phiên họp Quốc hội ngày 10/11/2020 vừa qua, nói trúng vào thực chất vấn đề mà chúng tôi hết sức hoan nghênh ủng hộ.
Vấn đề cốt lõi thứ hai, đó là việc tiến hành cải cách tư pháp, bằng cách để cho tư pháp độc lập với chính quyền, vì hoạt động xét xử của tòa án phải công minh, đúng pháp luật, không có sự can thiệp tùy tiện của Đảng thì mới chống được nạn đặc quyền và trừ được quốc bệnh tham nhũng một cách hiệu quả. Với tình trạng thiếu tính độc lập của ngành tư pháp như trước nay, nạn tham nhũng chẳng những không bị trừng trị đích đáng theo đúng pháp luật mà còn phát triển ngày càng tăng nặng cả về số lượng lẫn quy mô vụ án. Trong khi chưa tiện nói đến đa nguyên đa đảng và tam quyền phân lập một cách rạch ròi, chúng tôi coi việc cải cách tư pháp theo hướng nêu trên như một động thái mở đầu tương đối nhẹ nhàng của quá trình cải chế, theo hướng đi từ cái cụ thể đến cái tổng quát, để dần được mở rộng thêm.
Để đảm bảo cải cách tư pháp hiệu quả, cần phát động một phong trào toàn Đảng toàn dân thực thi hiến pháp, vì chỉ có thông qua con đường thực thi đúng các điều khoản đã ghi trong hiến pháp, quốc gia mới được trị yên theo pháp luật và nhờ thế các quyền công dân mới được bảo vệ, các giá trị dân chủ mới được nảy nở, điều kiện chủ yếu để khắc phục quốc bệnh tham nhũng thúc đẩy đất nước và xã hội tiến lên.
Công việc tiếp theo là phải tu chính hiến pháp, bầu lại Quốc hội theo thể thức thật sự dân chủ (không có nạn cơ cấu, hiệp thương… như một thể thức xếp đặt sẵn trước), sửa lại một số điều luật trong những luật sẵn có, soạn thêm một vài luật mới cho phù hợp với đường hướng cải chế, đổi mới chủ nghĩa xã hội, thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa lần thứ hai cũng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Ngoài ra, để khống chế quốc bệnh tham nhũng, chúng tôi xin đề nghị thêm một số việc cần làm, cụ thể như sau:
- Thực hiện đầy đủ và trên thực chất các quyền tự do của công dân như Hiến pháp 2013 đã ghi, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí, biểu tình, lập hội... (Điều 25 Hiến pháp). Cho phép tư nhân ra báo và ra nhà xuất bản, hoạt động theo khuôn khổ của Luật Báo chí và Luật Xuất bản ; đặc biệt coi báo chí là "đệ tứ quyền", một công cụ hữu hiệu để phản biện, điều chỉnh các hành vi chính quyền, trong đó có việc phát hiện, tố cáo và bài trừ tham nhũng, như tất cả các nước văn minh đã làm rất thành công. Để cho báo chí thật sự được tự do, đề nghị sáp nhập Ban Tuyên giáo Trung ương vào Bộ Thông tin và truyền thông, biên chế nhân sự của Ban Tuyên giáo cũng được gộp chung vào Bộ này, hình thành đội ngũ hùng hậu và chất lượng cao để tập trung lo phát triển các sự nghiệp đích thực về văn hóa (chứ không chỉ làm những việc tuyên truyền giả dối không còn ai tin như từ trước tới nay…).
- Về kinh tế, phải tiếp tục thực hiện quá trình phi quốc doanh hóa, tiến tới một nền kinh tế cơ bản là tư nhân, để mỗi tài sản đều có chủ hẳn hoi, hầu tránh được nạn ăn cắp và lãng phí.
- Giảm hẳn một số hạng mục dự án công trình thuộc loại chưa cấp bách (thà ít mà tốt !), trừ trường hợp đối với trường học, bệnh viện (đang thiếu). Trước mắt cấm tuyệt một số loại công trình vô ích như xây dựng các tượng đài, cổng chào… ở các địa phương tỉnh, huyện, xã… Việc làm này vừa để tránh nạn tham nhũng xen vào xà xẻo của công, vừa để tập trung vào quỹ lương nhằm tăng lương đáng kể cho đội ngũ cán bộ công chức từ nhân viên cấp phường xã đến chủ tịch nước... Tăng lương là một trong những giải pháp cơ bản nhất mà mọi quốc gia văn minh đều đã áp dụng để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người công chức nhà nước, góp phần hạn chế được nạn tham nhũng. Đối lại, hạn chế được quốc bệnh tham nhũng thì ngân sách nhà nước được bảo vệ, quỹ lương cũng sẽ được tăng lên, nhờ vậy mà việc tăng lương phổ biến cho cán bộ công nhân viên là có tính khả thi.
- Tùy theo tình hình thực tế cho phép, giải thể dần dưới hình thức bán lại cho tư nhân những tổ chức kinh doanh thuộc các cơ quan đơn vị của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, để giữ được tính khách quan và bình đẳng giửa các thành phần kinh tế. Ngành Công an chỉ chuyên lo trật tự an ninh, ngành Quốc phòng chỉ chuyên lo Bảo vệ tổ quốc.
- Mở các đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi từ các cơ quan, trường học xuống tận tổ dân phố các phường xã trên toàn quốc về phòng chống tham nhũng.
- Giảm bớt tối đa các khẩu hiệu/bích chương/panô vô ích tốn kém, thay vào đó là khẩu hiệu "Toàn Đảng toàn dân kiên quyết phòng chống tham nhũng… dán các nơi công cộng, trong phòng làm việc thuộc các cơ quan Đảng, nhà nước.
Ngày 27 tháng 11 năm 2020
Trân trọng
Lê Thân
(Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng)
Tại hội thảo quốc tế "Quản trị kinh tế hướng tới một nhà nước kiến tạo" vừa được tổ chức vào ngày 13/6/2017 tại Hà Nội, đại diện chính phủ Việt Nam nói rằng đặc trưng của nhà nước kiến tạo Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế hơn cải cách chính trị.
Hà Nội trang trí trên đường phố kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh chụp hôm 25 tháng 1 năm 2017. AFP photo
Theo đuổi mục tiêu "nhà nước kiến tạo"
Khái niệm "nhà nước kiến tạo phát triển" được nhà nghiên cứu Chalmers Ashby Johnson đưa ra từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước khi nhà nghiên cứu này ghi nhận sự phát triển thần kỳ ở đất nước Mặt Trời Mọc, với vai trò rất quan trọng của Nhà nước Nhật Bản.
Khái niệm "nhà nước kiến tạo phát triển" du nhập vào Việt Nam qua thông điệp đầu năm 2014 của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, với chủ trương của Chính phủ Hà Nội lúc bấy giờ là nhà nước điều hành quản lý về mặt vĩ mô và pháp luật cũng như kiến tạo những cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp và doanh nhân tại Việt Nam.
Kể từ khi nhậm chức vào cuối tháng 7 năm 2016, tân Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc cũng khẳng định xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển nhằm kiến tạo phát triển cho đất nước.
Với mục tiêu của Chính phủ do tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắm tới, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, hồi trung tuần tháng Giêng năm 2017 có một bài phân tích nhà nước kiến tạo phát triển cần phải làm gì. Bài phân tích nêu rõ nhà nước phải tạo ra được hệ thống khuyến khích để các nguồn lực của xã hội được tập trung đầu tư cho các mục tiêu phát triển, đồng thời nhà nước tạo ra khuôn khổ thể chế và mọi điều kiện cần thiết để từng người dân có thể dễ dàng làm ăn và mưu cầu hạnh phúc. Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và Quốc hội Việt Nam cần thực hiện những yêu cầu như thế của một nhà nước kiến tạo phát triển.
Từ Sài Gòn, nhà quan sát tình hình Việt Nam-Tiến sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng nêu lên quan điểm của ông liên quan đến chính sách "nhà nước kiến tạo phát triển" mà Chính phủ Việt Nam đang thực hiện :
"Cải cách kinh tế đương nhiên phải dẫn tới một số cải cách thể chế, trong đó có những cải cách mang tính chất chính trị. Đặc biệt đối với một nhà nước độc đảng thì càng phải cải cách về mặt chính trị. Chuyện họ nói cải cách chính trị từ từ, thật ra họ đã từ từ 30 năm rồi. Đã quá lâu ! Và bây giờ vẫn từ từ. Nhưng thật ra thực tế về kinh tế và những tiềm năng khủng hoảng kinh tế không chờ họ. Và Hội nghị Trung ương 5 vào tháng 5 vừa rồi thì lại một lần nữa Trung ương Đảng đưa ra Nghị quyết về Hoàn thiện nền Kinh tế Thị trường Định hướng Xã hội Chủ nghĩa, vẫn tiếp tục ‘cái đuôi : Xã hội Chủ nghĩa’. Như vậy bây giờ nếu không cải cách chính trị, có nghĩa không cắt đuôi ‘Định hướng Xã hội Chủ nghĩa’ thì làm sao có được một nền kinh tế thị trường đầy đủ theo quy chế thị trường ?".
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng lập luận chủ trương của Chính phủ Hà Nội ưu tiên tăng trưởng kinh tế hơn cải cách chính trị là một sai lầm nghiêm trọng vì thế giới chỉ chấp nhận cơ chế kinh tế thị trường. Ông Phạm Chí Dũng trưng dẫn các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á Châu kể cả Nhật Bản cho vay hay cho tín dụng không hoàn lại đối với Việt Nam đều không chấp nhận chính sách kinh tế thị trường mà gắn kết "Định hướng Xã hội Chủ nghĩa" của Việt Nam.
Từ gốc độ bên ngoài nhìn vào bối cảnh kinh tế chính trị hiện thời của Việt Nam, Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa nhận định điều tiên quyết Hà Nội cần phải làm là phải giải quyết vấn đề chính trị thì sẽ dẫn theo thay đổi về kinh tế. Từ Hoa Kỳ, ông Nguyễn Xuân Nghĩa lên tiếng :
"Giải quyết vấn đề chính trị trước tiên hết. Tức là làm sao chấp nhận chuyện giới hạn vai trò của đảng. Thứ hai là mở rộng vai trò của Quốc hội, ít nhất trong hoàn cảnh hiện nay, chưa nói đến một tương lai nào đó mờ mịt mà người dân được phép bầu Quốc hội một cách tự do và thông thoáng.
Giải quyết được chuyện đó thì mới giải quyết được vấn đề kinh tế, vì kinh tế thị trường phát triển một cách lệch lạc nào đó, thì nó gây ra những tai họa ở nơi này nơi kia, ở Việt Nam, ở Trung quốc, tại Hoa Kỳ, chính là do hệ thống chính trị. Nếu không giải quyết hệ thống chính trị và không phá vỡ được đặc quyền của một thiểu số ở trên cùng thì chúng ta sẽ không có kinh tế thị trường".
Ẩn số của lộ trình thực hiện
Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa và thay đổi nền kinh tế quốc doanh sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào đầu thập niên 1990 cho đến nay, nợ công của Việt Nam tiến sát ngưỡng 65% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trong khi doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh không hiệu quả với nhiều dự án thua lỗ nặng nề. Mặc dù vậy, Đảng cộng sản Việt Nam đến giờ vẫn kiên định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế.
Các nhà lý luận cộng sản ở trong nước cũng thừa nhận mô hình "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là không tồn tại. Do đó, các nhà lý luận về kinh tế cho rằng Nhà nước Việt Nam cần thay đổi thể chế thì nền kinh tế Việt Nam mới có thể vận hành theo đúng quy luật của nó và đó cũng là tiền đề và yếu tố trọng tâm để quốc gia phát triển.
Theo Tiến sĩ Phạm Quý Thọ, chuyên gia về chính sách thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư thì tại Hội nghị trung ương 5 diễn ra vào hồi đầu tháng 5 vừa qua, vấn đề cải cách thể chế phải được đặt ra một cách quyết liệt hơn. Thế nhưng, điều này đã không xảy ra.
"Người ta không thể thay đổi một cách đột ngột được. Cái này nó đụng chạm vào rất nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề về sự tồn vong của chế độ".
Chủ trương của chính phủ Hà Nội là xây dựng một chính phủ kiến tạo phát triển, tuy nhiên lộ trình hoạch định để đạt được mục tiêu đề ra vẫn còn là ẩn số. Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phát biểu tại buổi Hội thảo ở Hà Nội hôm 13 tháng 6 rằng ai cũng nói đến nhà nước kiến tạo nhưng không ai làm.