Cuộc tranh luận lớn của Việt Nam về dân chủ
Trien Vinh Le - Trà Mi, danlambao, 19/04/2021
Cải cách chính trị năng động có thể giải quyết xung đột ý thức hệ nội bộ – và giúp phân biệt Việt Nam với Trung Hoa.
"Đổi mới", cải cách kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1980, đã tạo ra cơ hội kinh tế giúp hàng triệu người thoát nghèo. Tuy nhiên, sau ba mươi năm tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện đang phải đối phó với những hệ quả liên quan như suy thoái môi trường, bất bình đẳng và thất thoát tài nguyên quốc gia vì tham nhũng. Hơn nữa, sự phụ thuộc của Việt Nam vào vốn đầu tư nước ngoài mà không tận dụng được tác động lan tỏa của kỹ thuật và quản lý đã không thể làm giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào lao động rẻ và không có tay nghề. Tình trạng nghiêm trọng này càng trở nên trầm trọng hơn do thay đổi dân số, phần lớn vig dân số già đi. Nhiều người lo ngại rằng cái bẫy thu nhập trung bình sẽ bỏ Việt Nam lại phía sau khi sự canh tân thúc đẩy các nền kinh tế phát triển khác cạnh tranh mạnh hơn trên toàn cầu trong thời đại thông tin.
Lấy cảm hứng từ những câu chuyện phát triển của các nước Đông Á đã thu gặt được những lợi ích của việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, có nhiều ý kiến chính thức và không chính thức cho rằng Việt Nam cần một công cuộc đổi mới thứ hai, xoay quanh cải cách chính trị . Nếu các thể chế và thực hành chính trị mới được phép xuất hiện và dẫn đến các cách thức điều hành mới và các ý tưởng chính sách mới, thì nền kinh tế có thể chuyển sang các hoạt động cởi mở hơn và đổi mới hơn dựa trên khoa học và kỹ thuật. Thật thích đáng khi đặt câu hỏi làm thế nào hệ thống chính phủ hiện tại có thể mở ra một kỷ nguyên chuyển đổi kinh tế mới khi mà rất nhiều người ở thượng tần quyền lực hưởng lợi từ mô hình cũ dựa trên khai thác lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Cải cách thể chế đang được tiến hành nhưng thường chỉ ở cấp hành chính, được thúc đẩy bằng cách đơn giản hóa các quy định và luật lệ để tránh chồng chéo và trùng lặp. Các khái niệm như tam quyền phân lập (tức là ba nhánh của chính phủ) hay xã hội dân sự vẫn bị coi là cấm kỵ đối với chính phủ. Mặc dù khái niệm "dân chủ" đã được chính thức đề cập như một trong những ưu tiên chiến lược của Việt Nam – cùng với "công bằng" và "văn minh" – "dân chủ hóa" vẫn là một thuật ngữ nhạy cảm về mặt chính trị vì người ta cho rằng (và lo sợ) rằng nó sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị. và do đó đe dọa sự ổn định của hệ thống độc đảng của Việt Nam. Chính phủ tin rằng chế độ thống nhất chính trị (bề ngoài) như hiện nay là ưu việt và không thể thay đổi.
Trong những năm 1970 và 1980, các quốc gia dân chủ như Nam Hàn và Đài Loan đã cho thấy cách đa nguyên chính trị có thể vượt qua các nút thắt kinh tế. Đồng thời, các mô hình dân chủ xã hội ở các nước scandinavian cho thấy các giá trị xã hội chủ nghĩa và hệ thống dân chủ tương thích và thậm chí hiệu quả như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên, nhà chức trách Việt Nam cho rằng Việt Nam có bối cảnh lịch sử, chính trị và văn hóa độc đáo mà hầu như không mô hình bên ngoài nào có thể áp dụng được. Thật vậy, những trí thức cực đoan suy đoán rằng chính phủ cộng sản Việt Nam không có mô hình nào ngoài mô hình do đảng cộng sản Trung Hoa đang áp dụng.
Điều này đã dẫn đến hố sâu chia rẽ ý thức hệ. Một bên tiếp thu mô hình hiện tại và luôn chỉ ra những khiếm khuyết và thất bại của các nước đã dân chủ hóa. Phe còn lại ủng hộ mô hình chính trị đa nguyên bị các đối thủ ý thức hệ bác bỏ là không phù hợp với Việt Nam. Có thể học được gì từ cuộc tranh luận này?
Quan điểm tĩnh so với động về dân chủ hóa
Có thể nói, cả hai bên của hố chia rẽ ý thức hệ này đều có những hạn chế trong suy nghĩ. Có nghĩa là, cả hai đều coi những thay đổi về thể chế là một quá trình tĩnh hơn là động. Vì Việt Nam là một quốc gia đang trong tiến trình chuyển đổi, việc cải cách thể chế chính trị thích ứng là cần thiết để duy trì sự vận động hướng tới một hệ thống dân chủ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – như đã thấy trong chặng đường lịch sử của rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Đồng thời, các mô hình dân chủ không phải là không có sai sót, như việc bầu cử các nhà lãnh đạo và các đảng phái ở rìa ý thức hệ hệ đã cho thấy ở các nước trên thế giới trong những năm gần đây (ví dụ như ở Mỹ, Brazil và một phần của Đông Âu).
Vì vậy, người dân Việt Nam phải chấp nhận trách nhiệm chung để cân bằng quyền lực và liên tục điều chỉnh hướng đi. Dân chủ là một giá trị phổ quát được chấp nhận vì, ở mức độ thuần túy nhất, nó là hệ thống tốt nhất để bảo đảm một xã hội công bằng và bình đẳng bằng một "chính phủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân", như Abraham Lincoln đã nói.
Về bản chất, một chính phủ đang và cần phản ảnh lợi ích của người dân để bảo vệ quyền của bất kỳ cá nhân nào được tham gia vào đời sống chính trị và cộng đồng. Trong một quốc gia công bằng và bình đẳng, chính phủ bảo vệ các giá trị và thể chế dân chủ. Để đạt được lý tưởng này, xã hội phải quyết tâm và kiên định vượt qua những rào cản trên con đường đi tới dân chủ và thực hiện điều đó bằng các phương tiện hòa bình, hữu ích và công bằng.
Do đó, một cách suy nghĩ năng động về cải cách quản trị là chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào các công việc của đất nước, dù trực tiếp hay gián tiếp. Trên con đường đó, mọi quốc gia văn minh tiến bộ dựa trên hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và kinh tế của mình. Sự cố định với hệ thống hiện tại (gồm cả những lợi ích hiện đang được hưởng lợi từ nó) và việc áp dụng cứng nhắc một mô hình nhất định dựa trên những ý thức hệ cứng ngắt về kinh tế và các mối quan hệ chính phủ-xã hội là một quan hệ tĩnh, tự đánh bại và không phát triển, không có khả năng tạo ra sự linh hoạt cần thiết để hiện đại hóa các thể chế và cơ cấu kinh tế. Ở Việt Nam, cả chính phủ và các đối thủ kiên quyết của họ đều rơi vào hai thái cực trái ngược nhau.
Con đường thực tế tiến phía trước là sự hiểu biết dựa trên sự đồng thuận về sự tiến bộ, công nhận nhiều lợi ích và cung cấp không gian để thể hiện hiệu quả mà không gây ra hậu quả tiêu cực. Trong hoàn cảnh đó, bế tắc của tư duy ý thức hệ có thể bị phá vỡ và tất cả những ý tưởng mới đều có thể được xem xét. Cách tiếp cận này giải quyết các mâu thuẫn đặc trưng của ý thức hệ, hướng cuộc tranh luận từ việc nên chọn mô hình quy định này hay mô hình khác đến cách có thể tạo ra một hệ thống mới kết hợp các khía cạnh được cho là hữu ích và công bằng. Cách đối thoại hiệu quả này giúp mọi bên nói chuyện với nhau một cách trung thực và hiệu quả hơn – một lực lượng ổn định tập trung vào lợi ích chung hơn là những ý thức hệ được bảo vệ và lợi ích tự phục vụ. Các vấn đề liên quan đến tam quyền phân lập, xã hội dân sự và khả năng đa nguyên chính trị cần được thảo luận một cách cởi mở và thông cảm dựa trên thực tế của Việt Nam. Các trí thức Việt Nam và các chủ thể chính phủ có thể chia sẻ tầm nhìn của họ trên toàn cầu về cả những bất ổn và cơ hội trong các nền dân chủ cũng như quá trình dân chủ hóa nói chung.
Những quan hệ mật thiết đến trường hợp Trung Hoa
Bất chấp xu hướng tiến bộ trong việc áp dụng các nguyên tắc dân chủ, chính quyền cộng sản Trung Hoa ngày càng củng cố quyền lực chính trị của họ bằng tính hợp pháp do các thành tựu kinh tế mang lại (đây cũng là một cách lý luận đầy khiếm khuyết). Trung Hoa cũng đang tận dụng lợi thế toàn cầu về tầm cỡ độc đáo của mình, một lựa chọn không có ở Việt Nam. Trong nỗ lực định vị toàn cầu của Trung Hoa, các trí thức Trung Hoa – dù vô tình hay cố ý – buộc phải tuân thủ các ý thức hệ nhân danh lòng yêu nước. Họ thường chọn ủng hộ các nỗ lực của chính phủ nhằm củng cố quyền lực nhà nước và hạn chế sự tham gia của công chúng vào các vấn đề chính sách và chính trị. Những lời kêu gọi khiêm tốn hóa dân chủ trong bối cảnh Trung Hoa dễ dàng bị bóp nghẹt bằng việc kiểm soát thông tin và hạn chế tổ chức chính trị và những hoạt động liên quan.
Do đó, sự ổn định của Trung Hoa phụ thuộc vào việc hạn chế sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị và sự kiểm soát của chính phủ đối với thông tin đối với người dân, với tính chính danh của đảng cộng sản phần lớn đạt được sau nhiều chục năm tăng trưởng kinh tế và gần đây là bằng những các cuộc tấn công địa chính trị (đặc biệt là ở vùng biển phía Nam Trung Hoa, Hong Kong, và Đài Loan). Cách giải quyết này hiện có thể ổn định môi trường chính trị trong nước nhưng chỉ làm tăng khả năng bất ổn ở nước ngoài. Như vậy, chính phủ phải liên tục tăng cường kiểm soát xã hội và chính trị trong nước để ngăn chặn bất kỳ sự mất quyền lực hoặc nhận thức về mối đe dọa đối với quyền lực.
Việt Nam không thể và cũng không cần phải rơi vào tình thế bấp bênh và căng thẳng như vậy.
Trái lại, với việc Việt Nam đã mở cửa và chấp nhận con đường hướng tới dân chủ, thì trí thức, chính quyền và người dân có thể cùng nhau chấp nhận những giá trị của sự tham gia của công dân như một nguyên tắc cai trị trong đó quyền lực của nhân dân là tối quan trọng. Khi đó, trí thức Việt Nam và chính phủ sẽ lấy lại lợi thế riêng của mình – lợi thế của việc thảo luận cởi mở và thiết thực, xét đến tất cả mọi cơ hội khả thi. Điều này sẽ phân biệt Việt Nam với Trung Hoa. Đường đi đến quyền lực chính phủ của hai nước hoàn toàn khác nhau, do nền tảng lịch sử, chính trị và văn hóa khác nhau, như chính phủ đã nêu.
Trien Vinh Le
Nguyên tác : Vietnam’s Great Debate Over Democracy, The Diplomat, 15/04/2021
Trà Mi dịch
Nguồn : dcvonline, 19/04/2021
Trien Vinh Le, Ph.D., là giảng viên cao cấp Trường Chính phủ, Đại học Kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh.
************************
Cuộc đổi mới thứ hai về cải cách chính trị : liệu có khả năng thành hiện thực ?
RFA, 15/04/2021
Tờ The Diplomat vào ngày 15/4 có bài viết với tựa tạm dịch ‘Cuộc tranh luận lớn về dân chủ của Việt Nam’. Nội dung đề cập đến việc Chính phủ Việt Nam cần có một cuộc đổi mới thứ hai về cải cách chính trị ; từ đó có thể giải quyết xung đột ý thức hệ nội bộ và tạo sự khác biệt giữa chế độ cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.
Ảnh minh họa : Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 ngày 30 tháng 1 năm 2021. AFP
Mở đầu bài viết, tác giả đưa ra tác dụng của cuộc đổi mới, cải cách kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1980, đã tạo ra cơ hội kinh tế giúp hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo.
Tuy nhiên, sau ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những hậu quả liên quan đến suy thoái môi trường, bất bình đẳng và thất thoát nguồn lực nhà nước do tham nhũng cùng những hệ quả khác được nói ngày càng nghiêm trọng hơn.
Do đó, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần một Đổi mới thứ hai, xoay quanh cải cách chính trị.
Vẫn theo ý kiến đưa ra trong bài viết, nếu các thể chế và thông lệ chính trị mới được phép xuất hiện và dẫn đến các cách thức điều hành mới và các ý tưởng chính sách mới, thì nền kinh tế có thể chuyển sang các hoạt động cởi mở hơn và đổi mới hơn dựa trên khoa học và công nghệ.
Trao đổi với RFA tối 15/4, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, đưa ra nhận xét như sau :
"Tôi nghĩ rằng Việt Nam bây giờ đã có trình độ cao hơn khá nhiều so với khi bắt đầu đổi mới, Việt Nam cũng hội nhập rất sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế số hóa đang tạo cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn với Việt Nam để chuyển sang nền kinh tế số, xã hội số và chính phủ số.
Tôi nghĩ rằng Việt Nam cần thực hiện các biện pháp tiến hành công cuộc đổi mới lần thứ hai. Trong đó ngoài các điều như tôi đã đề cập trên thì cũng phải đề cập đến những thách thức khác như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, khô hạn ở miền Trung
Vì vậy nên rất cần một chính phủ có hiệu quả, gọn nhẹ và đổi mới, sáng tạo, ủng hộ những ý tưởng đổi mới, có thể tạo ra một rủi ro ở mức độ nhất định nhưng là những công cuộc đổi mới mà Việt Nam rất cần để Việt Nam tiến lên trong cuộc cách mạng 4.0 và hội nhập quốc tế".
Theo The Diplomat, cải cách thể chế đang được tiến hành trong đất nước hình chữ S nhưng thường chỉ ở cấp hành chính, được thúc đẩy bằng cách đơn giản hóa các quy định và luật để tránh chồng chéo và trùng lặp.
Những khái niệm như tam quyền phân lập hay xã hội dân sự vẫn bị coi là cấm kỵ đối với Chính phủ. Mặc dù khái niệm dân chủ đã được chính thức đề cập như một trong những ưu tiên chiến lược của đất nước, cùng với công lý và văn minh, dân chủ hóa vẫn là một thuật ngữ nhạy cảm về mặt chính trị vì người ta lo sợ rằng nó sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị, đe dọa sự ổn định của hệ thống độc đảng ở Việt Nam.
Trong khi đó, Chính phủ được nhận định rằng luôn tin tưởng chắc chắn thể chế thống nhất chính trị hiện nay là ưu việt và không thể thay đổi.
Tác giả bài viết cho rằng cách suy nghĩ năng động về cải cách quản trị là chấp nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia vào các công việc của đất nước, dù trực tiếp hay gián tiếp. Chính phủ cần phản ánh lợi ích của người dân để bảo vệ quyền của bất kỳ cá nhân nào được tham gia vào đời sống chính trị và công cộng.
Từ Sài Gòn, nhạc sĩ Lê Thiệu nêu lên thực tế xã hội Việt Nam hiện nay so sánh với kêu gọi trong bài viết trên The Diplomat :
"Hoang đường, không có khả năng, không thể nào thực hiện được tại vì chế độ của Việt Nam hiện nay là chế độ độc đảng toàn trị. Vừa rồi có một số người dân đi ứng cử hoặc là bị bắt hoặc là bị loại từ vòng hiệp thương nên việc người dân tham gia vào chính trường chính trị là việc hoàn toàn không thể xảy ra, lãnh đạo có thể nói như thế nhưng họ không bao giờ để điều đó xảy ra trong thể chế hiện nay của Việt Nam".
Mới đây, Nhà thơ người Chăm - Đồng Chuông Tử, tên thật là Nguyễn Quốc Huy, bị tạm giữ hôm 7/4 để cơ quan an ninh thẩm vấn sau khi bày tỏ ý kiến cá nhân về việc tự ứng cử Đại biểu Quốc hội để đại diện cho người sắc tộc Chăm ở nghị trường.
Trước đó, ông Lê Trọng Hùng, một người vận động tranh cử đại biểu Quốc Hội cũng bị Công an Hà Nội bắt giữ vào ngày 29/3 với cáo buộc bị cho là "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" quy định tại Điều 117 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
Facebooker Trần Quốc Khánh, 61 tuổi, vào ngày 10/3 cũng bị Công an tỉnh Ninh Bình bắt tạm giam với cáo buộc bị cho là đăng, phát livestream thông tin xuyên tạc, phỉ báng chính quyền Việt Nam. Ông Khánh bị bắt sau khi ông tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV.
Ông Trần Quốc Khánh khi thực hiện Livestream về Nhà nước Pháp quyền trên Facebook hôm 6/3/2021. Courtesy Facebook Tran Quoc Khanh.
Với kinh nghiệm quan sát xã hội hàng chục năm qua, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS (đã giải thể) từ Hà Nội cho hay :
"Người Việt Nam tại nước Việt Nam người ta đã bàn đến đổi mới lần thứ hai, tức đổi mới chính trị từ lâu rồi chứ không phải mới gần đây. Bản thân Đảng cộng sản Việt Nam cũng có lúc nói rằng việc cải cách đi bằng hai chân tức cả kinh tế và chính trị.
Đó là chuyện người ta đã đặt vấn đề, rất đáng tiếc càng ngày tiếng nói như thế càng tàn lụi đi, nhất là trong 5-6 năm qua, kể từ nhiệm kỳ hai của ông Nguyễn Phú Trọng sau khi ông ấy dẹp được những phe phái có thể khác ý kiến với người trong đảng".
Vẫn theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, sự đóng góp của người dân, tiếng nói của người dân tham gia vào những vấn đề lớn của đất nước càng ngày càng bị thui chột.
Tác giả bài viết đăng tải trên The Diplomat cho rằng các trí thức cấp tiến suy đoán rằng chính quyền cộng sản Việt Nam không có mô hình nào ngoài mô hình do Đảng cộng sản Trung Quốc thực hiện.
Theo đó, sự ổn định của Trung Quốc phụ thuộc vào việc hạn chế sự tham gia của người dân vào đời sống chính trị và sự kiểm soát của Chính phủ đối với thông tin, đối với người dân, với tính chính danh của đảng chủ yếu đến từ nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế và gần đây là thông qua các cuộc tấn công địa chính trị, đặc biệt là ở Biển Đông, Hong Kong, và Đài Loan.
Nhà nước Trung Quốc được nhận định phải liên tục tăng cường kiểm soát xã hội và chính trị trong nước để ngăn chặn bất kỳ sự mất quyền lực hoặc nhận thức về mối đe dọa đối với quyền lực.
Tuy vậy, Việt Nam không cần phải rơi vào tình thế bấp bênh và căng thẳng như vừa nêu thông qua việc Việt Nam đã mở cửa và chấp nhận con đường hướng tới dân chủ, thì trí thức, chính quyền và người dân có thể cùng nhau chấp nhận các phẩm chất của sự tham gia của công dân như một nguyên tắc quản lý trong đó quyền lực của nhân dân là tối quan trọng.
Khi đó, trí thức Việt Nam và Chính phủ sẽ lấy lại lợi thế riêng của mình, từ đó lợi thế của thảo luận cởi mở và thiết thực, coi mọi cơ hội khả thi. Điều này sẽ phân biệt Việt Nam với Trung Quốc.
Nhìn nhận về vấn đề vừa nêu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho hay, Việt Nam có theo mô hình cộng sản Trung Quốc nhưng nếu nhìn kỹ tình hình chính trị của Việt Nam bây giờ sẽ thấy dù có vài điểm tương tự nhưng không hề giống hoàn toàn Trung Quốc. Tuy vậy, vấn đề làm thế nào để cho Việt Nam ngày càng có tự chủ, ngày càng phát triển hơn cần được quan tâm nhiều hơn nữa thông qua việc :
"Người dân phải cất tiếng nói nhiều hơn, tiếng nói xây dựng thôi, vạch ra cho họ, cho những người bảo thủ như ông Trọng biết cách làm như vậy là sai cho đất nước và động viên những người bên trong hệ thống có cách nhìn tiến bộ, phát huy tiếng nói của mình. Đấy chúng tôi gọi là đảng vận".
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng khẳng định rằng nếu người dân thờ ơ, không quan tâm, với tư tưởng làm cũng chẳng ăn thua, đằng nào người ta cũng không nghe thì đây là việc làm tiếp tay cho họ không nghe và tiếp tay cho thế lực bảo thủ cứ chây ì ra và không thay đổi.
Nguồn : RFA, 15/04/2021