Vấn đề giá điện vẫn gây cản trở phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam
Vào giữa tháng 5 vừa qua, thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã thông qua Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, thường được gọi tắt là Quy hoạch Điện 8. Đây là kế hoạch đã được chờ đợi từ lâu, nhưng việc thông qua đã bị chậm trễ.
Một nhà máy điện mặt trời tại Mũi Né, Việt Nam. © AP
Ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo
Điểm đáng chú ý trong Quy hoạch Điện 8 đó là Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhất là điện gió và điện Mặt trời, để sản xuất điện, với mục tiêu là các nguồn điện này sẽ đạt tỷ lệ 30,9-39,2% vào năm 2030. Mục tiêu xa hơn là hướng tới đạt tỉ lệ năng lượng tái tạo 47% theo cam kết của Việt Nam với quốc tế về chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Quy hoạch cũng đề ra mục tiêu là đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo sẽ lên đến 67,5 - 71,5%.
Hiện giờ, theo số liệu của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), công suất của nguồn điện từ năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) đến cuối năm 2021 đã lên đến gần 20.700 MW, chiếm gần 30% tổng công suất lắp đặt nguồn điện. Đây là một tỷ trọng khá cao, nhưng lại có một nghịch lý là Việt Nam có nguy cơ thiếu điện, nhất là vào mùa cao điểm nắng nóng như hiện nay.
Từ đầu 2023 đến nay, EVN liên tục báo động "tình trạng nguy cấp về cung ứng điện", cụ thể họ cảnh báo hệ thống điện miền Bắc sẽ gặp tình trạng không đáp ứng được nhu cầu trong các tháng 5, tháng 6. Hiện các hồ thủy điện đang trong tình trạng thiếu nước, nhiều hồ đã về đến "mực nước chết", gây khó khăn trong vận hành và cung ứng điện.
Trước mắt, chính quyền thủ đô Hà Nội đã phải lấy một quyết định triệt để trong mùa nắng nóng bất thường hiện nay : tắt hết đèn đường ở hai phần ba thành phố kể từ 11 giờ tối, để tránh cho hệ thống cung cấp điện bị quá tải, vào lúc mà người dân sử dụng quá nhiều điện cho máy lạnh và quạt điện. Biện pháp tiết kiệm điện này có thể kéo dài đến cuối tháng 8.
Cản trở chính : Giá điện
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nghịch lý thiếu điện ở Việt Nam đó là vấn đề giá điện sản xuất từ các năng lượng tái tạo (điện gió và điện Mặt trời). Mức giá mà EVN đưa ra bị xem là không đủ để bù đắp vào những chi phí của các nhà đầu tư.
Trả lời phỏng vấn RFI ngày 22/05/2023, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt, nhận định :
"Nói chung giá như thế là còn quá thấp. Mới cách đây ít hôm, có đàm phán lại để cho tăng lên một ít, nhưng vẫn không đủ, nhất là bây giờ năng lượng tái tạo phải chuyển sang điện gió ngoài khơi, vì điện gió trên bờ cũng đã khai thác khá nhiều rồi. Nhưng đối với điện gió ngoài khơi, giá mua là 2.200 đồng/kWh thì rõ ràng là chưa được. Nói chung, giá điện là một trong những cản trở.
Điện cho người dân thì không có vấn đề gì, vấn đề là điện cho sản xuất, bởi vì trong tổng sản lượng điện tiêu thụ thì điện cho sản xuất chiếm đến gần hai phần ba. Không giải quyết được vấn đề này thì rất là gay go. Điện tốn nhiều đó là cho sản xuất. Phải quy hoạch lại sản xuất, chế biến theo hướng lành mạnh. Phải tăng điện sản xuất như thế nào để các doanh nghiệp dùng điện nhiều thấy là sản xuất không có lãi nữa.
Giá điện Việt Nam vẫn còn quá thấp, trong khi đầu tư tốn kém nhiều nên giá thành cao hơn. Không thể không giải quyết được. Nhưng giải quyết thì phải có lộ trình, chứ không thể một lúc mà làm được.
Vấn đề giá là phải phân biệt giá bán điện cho ai. Giá đối với người dân, nhất là đối với người dân nghèo, đối với nông nghiệp, hay đối với các dịch vụ như khách sạn, thì không có vấn đề gì, nhưng điện cho mấy anh sản xuất, nhất là mấy anh sản xuất "quá đáng", ví dụ như sản xuất thép để xuất khẩu. Công nghiệp chế biến cũng không quản lý được theo chất lượng.
Hiện nay ở Việt Nam không rõ nhất là chuyện đó, tức là khi nói đến tăng giá điện thì chính phủ cứ nói là không được, vì như thế là ảnh hưởng đến đời sống của dân. Nhưng còn đối với những doanh nghiệp sản xuất thép để xuất khẩu thì ảnh hưởng thế nào ? Bây giờ phải giải quyết, mà cái đó mới là quan trọng, chứ còn giá điện tiêu dùng cho người dân có tăng lên ít nhiều cũng không sao. Vấn đề là giá cho công nghiệp chế biến, nhất là những công nghiệp chế biến mà gần như là xuất khẩu điện giá rẻ ra nước ngoài".
Khó khăn về thủ tục
Giáo sư Phạm Duy Hiển lưu ý là các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn gặp nhiều khó khăn về thủ tục để có thể được hưởng giá điện sản xuất từ các năng lượng tái tạo theo quy định của nhà nước :
"Lâu nay vẫn có cái gọi là giá FIT, tức là giá mua điện gió, điện Mặt trời bao giờ cũng cao hơn mặt bằng giá, để khuyến khích phát triển các năng lượng này. Theo các nghị quyết như nghị quyết 31, đại khái là đến ngày 30/12/2021, nếu doanh nghiệp nào hoàn thành báo cáo thì sẽ được hưởng giá đó, còn sau đó thì không được.
Vừa rồi có bổ sung thêm quy định là anh phải báo cho biết là đã hoàn thành công trình theo đúng hồ sơ. Bây giờ đang cãi nhau về việc hồ sơ quá phức tạp, không ai làm kịp. Đây là vấn đề đang rất là vướng mắc. Bây giờ các doanh nghiệp đang kêu trời : bắt tôi nộp hồ sơ mà hồ sơ thì phức tạp quá, không thể hội đủ được !
Cho nên, nói về nguyên tắc, Quy hoạch 8 là như thế, nhưng trên thực tế, việc giải quyết có rất nhiều khó khăn".
Nhu cầu điện cho sản xuất : Có hợp lý ?
Nhìn rộng hơn vấn đề giá điện ở Việt Nam, giáo sư Phạm Duy Hiển cho rằng phải xem xét lại sự hợp lý của mức cầu về điện năng ở Việt Nam, chứ mức cung không thể tiếp tục đáp ứng như hiện nay :
"Về vấn đề cung cầu, anh chỉ nói đến "cung" thôi, "cung" chưa đủ thì phải tăng thêm, không ai nghĩ đến "cầu", không ai tìm hiểu tại sao để cho có một nhu cầu như vậy. Có những anh sản xuất ra để xuất khẩu chủ yếu là nhờ giá điện rẻ. Anh có nhu cầu thì tôi phải thỏa mãn. Tức là người ta chỉ nói đến cái cung thôi, chứ chưa ai để ý là cái cầu vẫn còn sai sót. Cái cầu bao giờ cũng đi trước một bước, tức là anh cần bao nhiêu thì tôi phải thỏa mãn bấy nhiêu. Trong cái gọi là "tăng trưởng xanh", cái "cầu" đó có đúng không ? Cho nên bây giờ phải giải quyết vấn đề đó.
Tất cả báo chí, tất cả các nhà kinh tế thảo luận về vấn đề này chỉ nói làm sao cho có đủ điện. Quy hoạch đó là dựa trên cách làm : mỗi năm dự báo tăng trưởng bao nhiêu. Mỗi một tăng trưởng GDP như thế thì tăng trưởng điện là bao nhiêu. Và có cái gọi là hệ số đàn hồi. Thông thường, trước đây, tăng trưởng của Việt Nam là khoảng 6 hoặc 7%, nhưng tăng trưởng điện năng là khoảng 11 hay 12%, tức là gần gấp đôi. Quy hoạch 8 cũng dựa trên nguyên tắc tăng trưởng kinh tế đó, chỉ có điều là nó đi cụ thể hơn : nông nghiệp thì như thế nào, công nghiệp này, công nghiệp kia thì như thế nào, chế biến, dịch vụ thì ra sao. Nhưng vẫn dựa trên tăng trưởng, và như thế tức là tôi không cần biết là cái "cầu" ấy đúng hay sai".
Nói cách khác, chính phủ Hà Nội vẫn chưa tìm ra được một con đường thích hợp để đi đến trung hòa carbon, thông qua việc phát triển năng lượng tái tạo, mà không ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
Đây là vấn đề đã được tờ báo Nhật Nikkei Asia nêu lên trong một bài báo đăng trên mạng ngày 02/02/2023. Thách thức đối với chính phủ Việt Nam, theo Nikkei Asia, là tìm cách đưa đất nước tránh xa nhiên liệu hóa thạch, nhưng vẫn giữ giá điện ở mức thấp. Nhu cầu điện đã tăng khoảng 10% một năm do tăng trưởng kinh tế cao. Nhu cầu dự kiến sẽ tăng gấp đôi so với mức hiện tại vào năm 2030 và gấp 5 lần vào năm 2050.
Tại hội nghị khí hậu COP26 của Liên Hiệp Quốc vào năm 2021, thủ tướng Phạm Minh Chính đã hứa Việt Nam sẽ đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2050. Kế hoạch ban đầu đã bị hủy bỏ khi chính phủ quyết định tìm một nguồn năng lượng để thay thế than đá, vốn vẫn chiếm 50% sản lượng điện hiện nay.
Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine vào tháng 2 năm ngoái đã gây thêm khó khăn cho Việt Nam. Giá của khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), vốn được kỳ vọng là nguồn năng lượng chính theo kế hoạch mới, đã tăng vọt do tác động của chiến tranh Ukraine.
Chính phủ Hà Nội vẫn giữ nguyên quyết định năm 2016 từ bỏ việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân năm. Nhưng trong khi đó, quy mô của các loại năng lượng tái tạo lại có giới hạn cho nên Việt Nam có rất ít lựa chọn cho nguồn điện chính. Khuôn khổ hành động của Việt Nam càng hạn hẹp vì chính phủ vẫn yêu cầu giá điện không được quá cao.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 06/06/2023
Nỗi oan chôn chặt 40 năm của một gia đình vì pháp luật lỏng lẻo (RFA, 26/04/2019)
Một gia đình bị bắt oan, bị tù oan rồi được thả đã không thể kêu oan suốt 40 năm qua vì luật lúc bấy giờ không quy định phải cấp giấy trả tự do cho người bị tạm giam.
Các nạn nhân đến nhận và xem lại quyết định đình chỉ vụ án ở Viện Kiểm sát Tây Ninh hôm 4/4/2019. Photo courtesy of thanhnien
Bị bắt, bị tra tấn, được thả
Chỉ trong hai đêm gần cuối tháng 7 năm 1979, một gia đình tám người ở Tây Ninh đang yên ấm bỗng tan nát bởi bị nghi liên quan đến "vụ cướp năm chỉ vàng" tại nhà máy xay xát ở ấp Bùng Binh, xã Đôn Thuận, H.Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh.
Tám người bị bắt gồm vợ chồng ông Nguyễn Thành Nghị, bà Võ Thị Thương cùng con trai Nguyễn Văn Dũng (sinh năm 1961) ; vợ chồng ông Hồ Long Chánh, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan với bào thai 5 tháng tuổi ; vợ chồng ông Nguyễn Văn Chiến, bà Nguyễn Thị Lan ; ông Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1958 là em bà Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Ông Nguyễn Văn Dũng sinh 1961 (Dũng nhỏ) nhớ lại :
"Cũng 40 năm rồi từ cái đêm 26-27/7/1979. Chỉ trong một đêm mà tám người trong thân tộc đau khổ cho tới bây giờ, tan nát đổ vỡ. Cả gia đình ly tán, con cái nhà cửa mất hết, tha phương cầu thực khắp nơi làm thuê làm mướn kiếm sống. Biết kêu ai vì mình là dân không rành về luật pháp. Đến bây giờ mọi người cũng trong hoàn cảnh khó khăn, bà già thì 94 tuổi rồi".
Trong quyết định đình chỉ điều tra của cả tám người đều ghi bị nhục hình nên khai không đúng sự thật và bị tù oan.
Tại buổi gặp gỡ từng nạn nhân với đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao sáng 25/4 vừa qua, những nạn nhân vẫn nhớ như in tên của những người đã đánh họ. Luật sư Phạm Công Út, một người trong nhóm luật sư đại diện cho bảy nạn nhân khẳng định :
"Từng nạn nhân thì họ đều khai đích danh hai ông Phùng Văn Tiết và Nguyễn Văn Rức đã dùng nhục hình với họ một cách tàn nhẫn để buộc họ phải nhận một cái tội mà họ không hề gây ra. Đây là cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự của hai người này. Vấn đề còn lại là thời hiệu. Trước mắt là cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can".
Ông Phùng Văn Tiết và Nguyễn Văn Rức là công an của đội Điều tra Công an huyện Trảng Bàng lúc bấy giờ.
Trò chuyện với RFA, ông Dũng sinh năm 1958 (Dũng lớn) cho rằng họ dùng nhục hình vì chuyên môn họ không có, sự phán đoán, nhận định sự việc không có cộng với tính độc đoán, mơ hồ họ bắt oan. Ông nhấn mạnh người dùng nhục hình với ông phải chịu trách nhiệm với ông vì chiếm đoạt tất cả tương lai sự nghiệp của ông.
Đại diện phía nguyên đơn (Luật sư Phạm Công Út) tại một phiên tòa. Photo courtesy of baomoi
Sau hơn 3 năm 9 tháng, ngày 11/05/1983, cả gia đình được thả nhưng chỉ duy nhất một người có quyết định đình chỉ điều tra là ông Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1958. Bảy người còn lại mang mặc cảm bị can suốt bao năm qua. Đến nay một người đã mất là ông Nguyễn Thành Nghị, người cao tuổi nhất đã 94, người nhỏ tuổi nhất cũng đã 58.
Ông Dũng lớn cho biết lý do vì sao chỉ mình ông có được quyết định đình chỉ lúc được thả :
"Anh là người duy nhất nhận quyết định đình chỉ. Những người kia được thả vào buổi sáng, anh được thả khoảng hơn hai giờ chiều chứ không cùng lúc. Mới đầu anh cũng nghĩ mình không cần giấy tờ gì cả và mừng như chim sổ lồng. Nhưng vì anh là quân nhân nên anh sực nhớ mình phải có giấy tờ gì để chứng minh với đơn vị là mình là người bị oan nên anh quay lại nhờ quản giáo cho xin miếng giấy trả tự do chứ anh cũng không biết nó là giấy gì. Sau này anh mới biết đó là quyết định đình chỉ điều tra".
Vì sao không thể kêu oan ?
Trò chuyện với RFA, Luật sư Phạm Công Út nhớ chi tiết số phận từng con người. Ông chậm rãi kể rằng khi được thả ra sau 1.386 ngày bị giam cầm họ trở về nhà thì nhà đã mất, ruộng không còn. Họ trắng tay không còn gì ngoài tiếng đời là một gia đình bất lương. Họ xấu hổ, đau đớn, tủi nhục rời bỏ xứ sở lưu lạc để trốn tránh thân phận ‘bị can’, nhưng họ không thể kêu oan vì họ không có giấy tờ gì chứng minh mình bị oan :
"Thời điểm năm 1983 chưa có Bộ luật tố tụng hình sự, tất cả áp dụng bằng sắc luật 03/1976. Sắc luật lúc đó rất sơ sài và hệ thống bộ máy tư pháp chưa hoàn thiện nên việc tống đạt một văn bản tố tụng không có biên bản ký nhận.
Bên cơ quan giam giữ thì do luật pháp chưa hoàn thiện, không quy định thủ tục thả người bị giam thì phải đưa giấy tờ và phải ký tên. Chỉ một mình ông Dũng yêu cầu quyết định ra tù để về trình báo đơn vị do biến mất mấy năm trời. Còn bảy người kia như những con chim sổ lồng, họ không dám đòi hỏi gì hết, họ chỉ mơ ước tự do mà thôi.
Họ không có gì chứng minh họ bị oan nên họ không có cơ hội kêu oan. Chữ nghĩa thì không biết, tiền bạc thì không có".
Theo luật sư Phạm Công Út thì khi truyền thông trong và ngoài nước cũng như dư luận lên tiếng mạnh mẽ thì bảy người còn lại nhận được bảy bản photocopy quyết định đình chỉ được ký từ năm 1983.
Luật sư Trịnh Vĩnh Phúc (một trong các luật sư đại diện) cùng ông Nguyễn Văn Dũng (Dũng lớn) Photo courtesy of dantri
Vì trước đây chỉ có mình ông Dũng lớn có giấy tờ khi được thả nên chỉ mình ông có thể kêu oan, đòi bồi thường. Ông đã kiện, yêu cầu bồi thường hơn 10,4 tỉ đồng nhưng qua 2 cấp xét xử là Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh chỉ chấp nhận bồi thường 615 triệu đồng. Ông Dũng đang khiếu nại bản án trên. Ông cho biết khi giải quyết bồi thường không thỏa đáng thì ông đưa ngay ra tòa với mục đích lên tiếng cho những người còn lại :
"Mục đích anh đưa ra tòa để lên tiếng cho những người bị bắt chung trong vụ án này là thân tộc họ hàng, anh em ruột của anh".
Ông Dũng nhỏ cho biết sau khi được thả vài năm cũng từng nghĩ đến chuyện đi kêu oan nhưng vô vọng :
"Mấy năm đầu có lên Viện kiểm sát hỏi thì họ nói giờ chưa có luật bồi thường nên về đi khi nào có thì họ gọi. Sau đó ông ở Viện kiểm sát chết rồi cũng không biết gì hết, không biết nhờ ai…
Trước kia thì tuyệt vọng vì tiếng kêu không thấu được ở trên. Đơn đi thì có mà đơn về thì không, không một ai trả lời hết. Nhiều năm tuyệt vọng rồi. Khi gặp được các luật sư thì tui tụi hy vọng có ngày mình được giải oan, được trả lại sự công bằng, trả lại quyền công dân".
Bồi thường
Những nạn nhân chúng tôi được trao đổi qua điện thoại đều cho biết trước đây họ chưa bao giờ dám nghĩ đến ngày được minh oan chứ nói gì đến bồi thường. Bây giờ bồi thường với họ bao nhiêu cũng không thể bù đắp những mất mát quá lớn trong cuộc đời họ.
Luật sư Phạm Công Út cũng cho biết nguyện vọng lớn nhất của các nạn nhân là được minh oan một cách công khai :
"Họ đòi hai vấn đề : Thứ nhất phải xin lỗi công khai tại địa phương nơi cư trú ; phải cải chính trên báo chí trong ba số liên tiếp, báo trung ương và báo địa phương mà trường hợp này họ chỉ định báo Thanh Niên vì đã đồng hành cùng họ phủi lớp bụi thời gian của vụ án. Báo địa phương là báo tây Ninh.
Trong bảy người này có ba nơi cư trú. Một là xã Đôn Thuận, huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh. Số còn lại lưu lạc ở hai xã khác thuộc huyện Dầu Tiếng. Viện kiểm sát phải đến những nơi này tổ chức xin lỗi công khai các nạn nhân.
Thứ hai là phải bổi thường danh dự, sức khỏe, uy tín của họ bằng tiền và trả lại tài sản mất mát bằng hiện kim theo quy định của Nhà nước".
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh cho biết đã nhận được đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin lỗi công khai của cụ bà 94 tuổi Võ Thị Thương. Photo courtesy of Thanhnien
Bà Võ Thị Thương năm nay đã 94 tuổi bày tỏ nguyện vọng của mình với luật sư là bà muốn được minh oan để ngày bà về nơi chín suối bà sẽ nói với ông Nguyễn Thành Nghị rằng gia đình mình đã được minh oan. Bà giờ như ngọn nến trước gió không biết sẽ tắt lúc nào. Luật sư Phạm Công Út cho biết các luật sư đã cảnh báo với bên cơ quan làm oan (Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Tây Ninh) rằng phải làm đúng luật. Ông cho biết bất cứ sự chậm trễ nào trong việc minh oan cho người dân khi một trong những người này qua đời, sẽ tạo sự phẫn nộ ghê gớm. Nói về thủ tục minh oan, bồi thường, luật sư Phạm Công Út cho biết :
"Thủ tục bồi thường đã gởi cho bên cơ quan làm oan. Với sáu người còn sống thì bồi thường tính đến ngày 4/4/2019, riêng ông Nguyễn Thành Nghị thì tính đến ngày 23/4/2019 do thủ tục hành chánh.
Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước sửa đổi bổ sung 2015 thì sau khi thụ lý họ chỉ có 15 ngày để xác minh thiệt hại về tinh thần, thể chất, tài sản. Nếu phức tạp thì có thể kéo dài đến 30 ngày hoặc phải thỏa thuận với người bị oan về thời gian xác minh.
Theo luật mới thì bên yêu cầu bồi thường sẽ kèm theo yêu cầu tạm ứng kinh phí bồi thường trong vòng hai ngày làm việc sau khi thụ lý hồ sơ. Tôi hy vọng trong vài ngày tới thì những nạn nhân sẽ được nhận tạm ứng".
Vụ án oan 40 năm đã khép lại nhưng những tổn thất của những nạn nhân thì không thể nào bù đắp được bằng vật chất như lời ông Hồ Long Chánh :
"Quá đau khổ, bây giờ có bồi thường bao nhiêu cũng không thể giải quyết được về tinh thần. Mấy chục năm mất mát từ tinh thần, vật chất, con người…đau cả thể xác lẫn tâm hồn".
Ông nói thêm rằng được minh oan con người trong sáng, trong sạch là một danh dự quá lớn lao và ông mang ơn những luật sư, họ là những đại ân nhân của gia đình ông.
Diễm Thi
********************
Bộ Công thương vừa đề xuất phương án điều chỉnh giá điện vào diện mật trong bối cảnh giá điện đều tăng mạnh hồi hạ tuần tháng 3. Dư lận đặt vấn đề vì sao phải đưa vào diện mật ?
Công nhân Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) đang kiểm tra đồng hồ điện. AFP
Truyền thông trong nước hôm 26/4 cho biết Bộ Công thương mới đây đã gửi công văn tới các bộ, ngành để lấy ý kiến dự thảo Danh mục bí mật nhà nước ngành Công thương, trong đó báo cáo điều hành kinh doanh và phương án chỉ đạo, điều chỉnh giá điện chưa công bố được đóng dấu mật.
Đề xuất vừa nêu của Bộ Công thương vấp phải sự chỉ trích của dư luận, mặc dù Bộ Công thương có giải trình sau 10 năm áp dụng và thực hiện danh mục bí mật được Thủ tướng chính phủ ban hành năm 2008, danh mục bí mật của ngành Công thương đã có sự thay đổi và cần phải thay đổi để phù hợp luật pháp.
Lướt qua trang fanpage các tờ báo mạng của truyền thông quốc nội, hàng chục câu hỏi của độc giả thắc mắc rằng mặt hàng thiết yếu như điện cần gì phải bảo mật khi điều chỉnh giá, vì dù tăng ở mức nào thì người tiêu dùng cũng buộc phải chấp nhận mà không có lựa chọn.
Không ít độc giả còn cho rằng Bộ Công thương đề xuất đưa việc điều chỉnh giá điện vào diện mật là không ổn vì hàng hóa và giá cả cần được công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường ; không những vậy mà Bộ Công thương còn phải có trách nhiệm thông báo cho doanh nghiệp trước khi chính thức áp dụng giá mới để doanh nghiệp không bị thụ động trong việc hoạch định kinh doanh và sản xuất.
Nhà báo tự do Võ Văn Tạo, từ Nha Trang vào tối ngày 26 tháng 4 lên tiếng với RFA rằng có những thông tin cần được đưa vào danh mục bảo mật của quốc gia, của cơ quan, của tập đoàn kinh doanh… là điều hiển nhiên, thế nhưng đề xuất Bộ Công thương đưa ra Dự thảo đệ trình xin điều chỉnh giá điện vào danh mục bí mật khiến cho dư luận rất phẫn uất.
"Có một điều bất hợp lý là Nhà nước để cho ngành điện độc quyền kinh doanh, không có tư nhân nào chen vào được. Trước đây mười mấy năm, có những Đại biểu Quốc hội tại Diễn đàn họp Quốc Hội đã nói thẳng rằng điện là một trong những ngành năng lượng, là ngành ‘lương nặng’, tức là nói láy của ‘năng lượng’ vì lương bổng và chế độ thưởng…rất cao. Bởi vì họ độc quyền, cho nên họ tự có thể quy định chi phí, lương theo ý của họ muốn. Khi họp hành xét duyệt kế hoạch hàng năm thì họ chỉ cần đưa phong bì cho các bộ, ngành liên quan như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ…và kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ được thông qua. Thế thì chỉ có chết dân thôi vì giá điện bao nhiêu là do họ áp đặt lên người dân".
Bộ Công thương, vào ngày 20 tháng 3 năm 2019 thông báo giá điện chính thức tăng thêm 8,36% sau gần 3 năm giá điện không thay đổi. Ngay sau khi thông báo này được phổ biến, Giáo sư-Tiến sĩ Trần Đình Long, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN), hiện là Phó Chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam nhiệm kỳ 2018-2022 cho RFA biết vì sao ngành điện phải tăng giá :
"Gần ba năm vừa rồi Chính phủ không có chủ trương tăng giá điện, dù yếu tố đầu vào quyết định giá thành sản xuất điện năng liên tục tăng. Vì vậy để ngành điện có thể hoạt động hiệu quả và có thể trang trải những chi phí của mình, nên giá điện năm nay bắt buộc phải tăng để kịp với những biến động cùa các yếu tố đầu vào cấu thành giá điện".
Nhà máy Nhiệt điện than Vĩnh Tân 1, ở Bình Thuận. Photo : RFA
Cục trưởng Cục điều tiết điện thuộc Bộ Công thương,ông Nguyễn Anh Tuấn được truyền thông trong nước dẫn lời giải thích nguyên nhân tăng giá điện là do một số yếu tố đầu vào tăng giá như than tăng 2,6-2,7%, khiến phí phát điện tăng thêm 2.000 tỷ đồng. Còn ông Đinh Quang Trí, Phó Tổng giám đốc EVN tuyên bố sau khi tăng giá, EVN sẽ thu về 20.000 tỷ đồng, nhưng lại phải chi hơn 21.000 tỷ đồng và do đó dù tăng giá điện lên 8,36%, nhưng EVN vẫn lỗ 1.000 tỷ đồng.
Giá điện tại Việt Nam được ghi nhận nằm trong nhóm giá thấp so với các nước trong khu vực. Mặc dù ngành điện của Việt Nam có lý do để tính toán tăng giá ở mức 8, 36% cho việc bù lỗ các chi phí đầu vào, tuy nhiên một số chuyên gia kinh tế đã bày tỏ lo lắng rằng việc tăng giá các mặt hàng cơ bản này sẽ đẩy giá nhiều mặt hàng khác lên cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân.
Báo Công thương, vào tháng 12 năm 2018, dẫn nguồn theo tính toán của Tổng cục Thống kê, dự báo dưới tác động của thuế môi trường cho mặt hàng xăng dầu, điều chỉnh giá điện, diễn biến giá cả dịp Tết…sẽ tác động đến Chỉ số tiêu dùng (CPI) quý I/2019 có thể tăng khoảng 3,6 - 3,85% so với cùng kỳ năm 2018, là mức tăng cao.
Bà Bích Lan, một người dân ở Sài Gòn nói với RFA về chi phí trả tiền điện sau khi mặt hàng này tăng giá trong vòng 1 tháng qua :
"Tăng lên ở mức 8% theo luật. Nói chung, những doanh nghiệp sản xuất thì thấy bị ảnh hưởng nhiều, còn tiêu thụ điện dân dụng thì nếu xài nhiều phải trả thêm mấy chục đến 100 ngàn đồng. Xăng và điện tăng lên thì tất cả đều lên. Sắp tới đây lương thực thực phẩm đều lên hết vì siêu thị đã thông báo một số sản phẩm tăng lên mấy chục phần trăm. Hình như người dân được tập huấn dần thành thói quen, một là cầm tiền nhìn chịu đói hoặc hai là cứ nghĩ sức khỏe là trên hết và bấm bụng mà ăn. Ví dụ như hồi xưa ăn 10 con tép, còn bây giờ ăn 5,6 con thì cũng phải ăn".
Ông Trần Tuấn Kiệt, Giám đốc chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh của công ty xuất khẩu gạo Louis Rice, chuyên thu mua, gia công, chế biến, xuất khẩu lúa gạo, cho biết giá điện tăng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty ra sao :
"Tăng giá điện như vậy thì rất là ảnh hưởng và khó khăn lắm cho người nông dân và thương lái mua lúa đem về nhà máy để gia công, rồi doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ví dụ ngày xưa, tôi gia công gạo, ăn 270 đồng của người thương lái mua lúa khô để về nhà máy mình gia công ; bây giờ giá tăng lên, tôi tăng giá thì người ta không chấp nhận. Nói chung là rất khó khăn cho doanh nghiệp và người thu mua".
Tại "Diễn đàn năng lượng Việt Nam : Những thách thức trong đảm bảo an ninh năng lượng gắn với phát triển bền vững", diễn ra trong ngày 9 tháng 8 năm 2018, Phó Tổng Giám đốc EVN, ông Ngô Hải Sơn cho biết tốc độ tiêu thụ điện tại Việt Nam gia tăng bình quân khoảng hơn 12%/năm từ 2003 đến 2018 và dự kiến tốc độ này sẽ tăng trưởng ở mức cao, gần 300 tỷ kWh vào năm 2020 và gần 650 kWh vào năm 2030. Ông Ngô Hải Sơn nhấn mạnh nguồn điện hiện nay đáp ứng chỉ 1/3 mục tiêu, bởi nguyên nhân là do nhiều dự án nguồn điện, nhất là ở khu vực miền Nam bị chậm tiến độ và các nhà máy nhiệt điện than chưa được khởi công xây dựng. Phó Tổng Giám đốc EVN còn nhấn mạnh không loại trừ khả năng Việt Nam bị thiếu điện sau năm 2030 nếu mực nước thủy điện về kém hơn cũng như chưa kịp thời có nguồn mới thay thế…
Truyền thông trong nước trong thời gian gần đây thường xuyên đăng tải ý kiến của một số chuyên gia kêu gọi Nhà nước cần nhanh chóng thị trường hóa để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, không thể tiếp tục độc quyền cho một doanh nghiệp nhà nước duy nhất là EVN dựa trên nền tảng "bao cấp".
Báo mạng Dân Trí, hồi hạ tuần tháng 8 năm 2016, dẫn lời phát biểu của Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam rằng "ngành năng lượng cần đặt mục tiêu thay đổi được cơ chế giá. Đặc biệt, cần thay đổi tư duy vượt lên để thay đổi đẳng cấp. Cùng với đó, cơ chế thị trường cần thay đổi cơ bản nhưng không gây xung đột xã hội bởi giá điện mang tính chính trị rất cao".
Trong khi người tiêu dùng chờ đợi được nghe Bộ Công thương chính thức giải thích vì sao việc điều chỉnh giá điện cần được đưa vào diện mật, rất nhiều "thượng đế" là khách hàng của EVN khắp Việt Nam chia sẻ với RFA rằng họ tiết kiệm tiền điện trong mùa nắng nóng kỷ lục năm 2019 bằng cách tự nguyện tăng ca ở công xưởng, nhà máy hay cùng gia đình thường xuyên đến những nơi có máy điều hòa như siêu thị để trốn nóng.
Hòa Ái
Ngày 1 tháng Mười Hai, 2017, chế độ "thu cùng diệt tận giai đoạn cuối" đã bất chấp tiếng kêu oán thán của nhân dân và khuyến nghị của giới trí thức khi tung ra một cú "móc túi" khiến xây xẩm mặt mặt người nghèo và doanh nghiệp : giá điện tăng vọt 6,08% thành 1.720,65 đồng/1kw, chưa kể thuế VAT.
Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam là cơ quan độc quyền khai thác điện tại Việt Nam. (Hình : Getty Images)
"Giá điện bị ‘đánh úp’ : Người dân kêu trời !" – một ít tờ báo nhà nước lại rền rĩ, trong lúc hai tầng lớp thu nhập trung bình và người nghèo Việt Nam đang oằn mình nặng gánh lo toan về chuyện mưu sinh, vừa phải tiện tặn vừa khốn khó hơn cả những năm trước.
Nhưng cũng như bao lần xăng tăng giá, mọi chuyện có thể sẽ trở thành quen thuộc với chuyện tăng giá điện để trục lợi. Quen thuộc đến nỗi khi chính quyền cai trị đã nắm rõ được tâm lý cam chịu của dân Việt, động tác còn lại chỉ "tăng giá cứ như vặt lông vịt, vặt từ từ để vịt khỏi lêu toáng lên".
Vào lần này, những kẻ "vặt lông vịt" không ai khác là "bạch tuộc EVN" (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) và Bộ công thương – cơ quan chủ quản của tập đoàn này. Từ thời Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng dưới "triều đại Nguyễn Tấn Dũng", Bộ công thương và EVN đã trở thành "sát thủ" với những cú tăng giá "bù lỗ vào dân" và "giết sống" người nghèo trong nạn xả lũ cực kỳ vô trách nhiệm của các hồ thủy điện.
Và cả giới quan chức chính phủ – những cái tên như Vương Đình Huệ và Nguyễn Xuân Phúc…
Còn giờ đây, Vũ Huy Hoàng đã "hạ cánh an toàn" mà chẳng phải chịu một trách nhiệm hình sự nào.
Và Bộ công thương hiện thời vẫn chỉ là những con số tiếp theo – liền với dãy số trước.
Những con số tiền bạc và lợi nhuận…
Trong 2 năm rưỡi qua kể từ lần tăng giá gần nhất 7,5% vào tháng Ba, 2015, nhóm trục lợi chính sách đã vừa âm thầm vừa lộ liễu thực hiện một chiến dịch vận động tăng giá điện. Không ít chiêu trò và thủ đoạn đã được sử dụng.
Ngân hàng thế giới thủ vai gì ?
Chiêu "PR" chính sách độc đáo và có lẽ là thành công nhất là "quốc tế vận" :
Vào quý 1 năm 2015, EVN và Bộ công thương đã "đạo diễn" cho Ngân hàng Thế giới (WB) – tổ chức tài chính quốc tế là chủ nợ của EVN và của con nợ Việt Nam – đưa ra các "khuyến nghị" về tăng giá điện. Điều kỳ lạ là ngay sau đó, các chuyên gia của WB đã phóng ra khuyến nghị về giá điện của Việt Nam sẽ phải tăng tới 40% trong vòng 3 năm tới, tính từ năm 2015 thì mới có thể "cứu" nổi ngành điện. Còn vào năm 2015 đó, WB đã "chỉ đạo" giá điện phải tăng 20% với 6 tháng mỗi lần, tức gấp đôi tỉ lệ 9,5% mà EVN mưu tính.
Nhưng tại sao nhóm trục lợi chính sách lại cần đến WB và khuyến nghị tăng giá điện để "cứu" EVN ?
Sau một thời gian dài bưng bít thông tin, cũng vào quý 1 năm 2015, Thứ trưởng Bộ công thương Đỗ Thắng Hải đã lần đầu tiên phải thừa nhận thế cùng quẫn của "đứa con hoang đàng" của mình : Nếu không tăng và thậm chí không tăng mạnh giá điện, EVN sẽ phá sản !
Nếu không tăng giá "bù lỗ vào dân", phá sản là chắc chắn. Bởi vào những năm 2007-2009, EVN đã trở thành tác nhân gây ra khoản lỗ khủng khiếp lên đến 30.000 tỷ đồng khi đầu tư trái ngành vào bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm. Cho đến năm 2017, hậu quả đầu tư lỗ lã và chôn vốn ấy vẫn chưa được EVN xử lý xong.
Cho đến năm 2017, một khoản nợ khổng lồ lên đến 9,3 tỷ USD của EVN được công bố. Chi tiết cần đặc tả không kém là vốn vay của EVN phần lớn là nợ vay được chính phủ bảo lãnh.
Nhưng 9,3 tỷ USD chưa phải hết. Kết luận của hãng kiểm toán Delotte Việt Nam, đơn vị kiểm toán cho EVN đã nhấn mạnh : Tổng nợ phải trả của tập đoàn này đã lên đến xấp xỉ 487 ngàn tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2015.
Hiện thời, EVN chính là quán quân về "chúa chổm" trong tất cả các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam.
Nếu EVN phá sản, đó sẽ là thất bại ghê gớm đối với cơ chế độc quyền nhà nước "nói mãi vẫn không chuyển" và "ăn của dân không chừa thứ gì". Nhưng trên tất cả, đó sẽ một sự báo oán lớp dân chúng cùng các đời con cháu của họ không biết làm gì nên tội.
Vai trò của Thủ tướng Phúc – EVN ?
Vào cuối tháng Sáu, 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký phê duyệt đề án tái cơ cấu EVN, nhưng đã không có bất cứ một cải cách nào để xóa bỏ vai trò độc quyền tàn hại dân sinh của tập đoàn mà báo chí quốc tế đặt cho biệt hiệu "cậu ấm hư hỏng" này.
Trong đề án trên, EVN vẫn nắm 100% vốn ở các khâu truyền tải, phân phối mà không hề có một chút hơi hướng nào về điều mà giới quan chức hay phủ dụ là "hướng đến thị trường điện cạnh tranh".
Cũng trong đề án trên, nhiều doanh nghiệp tham gia khâu phát điện nhưng chỉ có một đầu mối EVN mua điện và bán điện. Mặt khác, theo quyết định của chính phủ thì nhà nước nắm 100% vốn ở công ty này, như vậy tư nhân không hề có cơ hội để tham gia…
Dung dưỡng độc quyền đã "nối giáo" cho chuyên chế tăng giá điện.
Ngay sau đề án tái cơ cấu EVN được Thủ tướng Phúc ký phê duyệt, nỗi lo sợ thường trực của nhân dân đã biến thành sự thật khi cũng chính thủ tướng này lại ký tiếp quyết định số 24/2017, thay thế quyết định số 69/2013 về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, áp dụng cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện lực và sử dụng điện, có hiệu lực từ ngày 15 tháng Tám, 2017.
Quyết định trên cho phép EVN được tự quyết tăng giá điện hai lần mỗi năm với mức từ 3% đến dưới 5%, Bộ công thương được quyết tăng giá điện từ 5% đến 10%.
Lẽ đương nhiên, nhóm lợi ích điện lực chỉ cần có thế !
Cùng với Bộ công thương là cơ quan chủ quản của "cá mập" EVN, cho đến lúc đó sự nghiệp "lobby tăng giá" của EVN đã thành công bước đầu.
Vì đối với nhóm lợi ích EVN và Bộ công thương mà từ rất lâu rồi người ta vẫn ví là "nhóm cá mập" hay "bạch tuộc", chỉ cần được chính phủ bật đèn xanh tăng giá điện và tăng vài chục phần trăm mỗi năm mà chưa cần đến việc Bộ công thương xin ý kiến chính phủ cho trường hợp tăng giá điện trên 10%, đã đã đủ để "bù giá vào dân".
Theo đó và trong trường hợp "nhân đạo" nhất, EVN sẽ được quyền tự quyết định tăng giá diện dưới 5% và được tăng hai lần một năm, nghĩa là giá điện ngay trong năm 2017 sẽ tăng khoảng gần 10%.
Còn kém "nhân đạo" hơn, không phải EVN mà chính là Bộ công thương sẽ "trảm" dân. Nối tiếp truyền thống "đi đêm" và "bảo kê" từ thời Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, đương kim Bộ trưởng Trần Tuấn Anh của bộ này – nhân vật suýt thành công với người anh em cọc chèo Lê Phước Vũ trong dự án Thép Hoa Sen-Cà Ná ở Ninh Thuận, sẽ có hai lần tăng giá điện trong năm với biên độ gần 10%/lần, để "kết quả dân chúng" bằng tỷ lệ tăng cả năm lên đến gần 20% !
Dường như có một mối quan hệ đáng ngờ, rất đáng ngờ giữa chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với Bộ Công thương và EVN.
Vào lần này, ông Phúc đã phủi tay và để chính Bộ công thương "trảm" dân.
Và "cậu học trò nghèo hiếu học ?"
Một tháng rưỡi trước đêm tăng giá điện, có một cuộc họp của Ban chỉ đạo Điều hành giá của chính phủ. Trong cuộc họp này, khác hẳn với thái độ đầy nét dân túy vào đầu năm 2017 khi hứa hẹn trên mặt báo rằng về khả năng không tăng giá điện trong năm 2017, người được vài tờ báo nhà nước ca ngợi là "cậu thiếu niên nhà nghèo hiếu học và học rất giỏi" – Phó thủ tướng Vương Đình Huệ – đã đổi giọng.
Trong cuộc họp trên, ông Vương Đình Huệ đã yêu cầu "Bộ công thương khẩn trương hoàn thiện phương án điều chỉnh giá điện trình chính phủ quyết định. Trường hợp cần thiết phải tăng giá điện cần cân nhắc điều chỉnh ở mức thấp nhất có thể".
Nhưng điều kỳ lạ là Bộ công thương đã "khẩn trương" đến mức ngay tại thời điểm có yêu cầu trên của ông Vương Đình Huệ, bộ này đã hoàn thành phương án tăng giá điện với "kịch bản thấp nhất có thể" là giá điện sẽ tăng 6,08%.
Hơn 6% là một tỷ lệ tăng cao và hoàn toàn có thể kích thích lạm phát tăng vọt, trong bối cảnh kinh tế ngập ngụa suy thoái và đời sống người dân ngày càng khốn khó, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam ngày càng tăng cao.
Mặc dù giới lãnh đạo EVN và Bộ công thương cho rằng việc tăng giá điện chỉ khiến chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng chưa tới 0,1% và không làm giảm GDP, nhưng trong thực tế từ năm 2011, một nhóm chuyên gia đã dựa trên mô hình giá Leontief với hệ số được cập nhật năm 2007 để xác định nếu tăng giá điện 5% sẽ làm CPI tăng thêm khoảng 0,3% và khiến GDP giảm 0,04%.
Câu chuyện Bộ công thương đã hoàn thành phương án tăng giá điện với "kịch bản thấp nhất có thể" là giá điện sẽ tăng 6,08% – trùng với chỉ đạo của ông Vương Đình Huệ – để một tháng rưỡi sau đó đã bất ngờ công bố tăng giá điện đúng tỷ lệ 6,08%, cho thấy đây là một kịch bản đã được giới lãnh đạo ngành công thương, EVN và chóp bu chính phủ tính sẵn để đưa xã hội và người tiêu dùng vào thế đã rồi.
Cùng lúc, một chiến dịch vận động khác được PR trên mặt báo chí nhà nước, lấy ý kiến một số chuyên gia "phản biện trung thành" và đưa ra những nhận định thuần túy có lợi cho nhóm trục lợi chính sách, chẳng hạn như : "ngành điện đã ‘kìm hãm’ tăng giá trong vòng 2 năm qua và đây là áp lực rất lớn lên hoạt động đầu tư. Do đó, việc cân nhắc điều chỉnh giá điện là điều không thể tránh, nhất là trong bối cảnh cần cung cấp đủ điện phục vụ cho các chỉ tiêu phát triển kinh tế của chính phủ…".
Cần nói thêm, trong một lĩnh vực khác hẳn điện lực là chủ đề nhân quyền, người cùng với Thủ tướng Phúc có dấu hiệu "bảo kê" cho Bộ công thương và EVN tăng giá điện – Phó thủ tướng Vương Đình Huệ – đã trở thành tiêu điểm bị giới báo chí quốc tế và mạng xã hội bình luận chỉ trích : ngay trước cuộc đối thoại nhân quyền EU – Việt Nam vào đầu tháng Mười Hai, 2017, lời đề nghị "không nên đưa các lĩnh vực khác như nhân quyền vào EVFTA" của ông Vương Đình Huệ đã thêm một lần nữa làm cho những quan chức Tây Âu theo chủ trương đối thoại mềm dẻo mà thiếu hẳn độ cứng rắn cần thiết phải nhận một bài học "đời đổi – não không đổi" từ phía giới quan chức Việt Nam.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : Người Việt, 10/12/2017