Hậu Thành Đô 3 - Trung Quốc muốn làm chủ luôn cả miền Nam
Phần 3
Muốn làm chủ luôn cả miền Nam Việt Nam
Triển khai chiến lược Sáng kiến Vòng Đai Con Đường của Tập Cận Bình trên toàn cõi Việt Nam
Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được ký kết từ năm 2000 trở lại đây, mốc năm 2020 đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ để mở ra một chu kỳ mới trong quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai Nhà nước cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.
Nhìn lại những gì mà phía Trung Quốc đã thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong suốt 20 năm qua, người Việt có lý do để lo âu về số phận và tương lai của dân tộc và đất nước.
Ba đặc khu kinh tế Vân Đồn - Bắc Vân Phong và Phú Quốc - Ảnh minh họa
Tổng quát những thực hiện từ năm 2000 đến nay
1. Phía Trung Quốc
Đối với Bắc Kinh, chiến lược xây dựng "hai hành lang, một vành đai kinh tế" trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam coi như hoàn tất. Những mục tiêu mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đặt ra cho Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành đúng theo những lộ trình được ghi trong từng giai đoạn của những Tuyên bố chung và Thông cáo chung.
1.1. "Hai hành lang, một vành đai kinh tế"
- Hai tuyến đường bộ và đường sắt, gọi là hành lang kinh tế : Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng đều đã hoàn tất đúng như dự định và đã đi vào hoạt động.
- Vành đai kinh tế trong Vịnh bộ, từ Móng Cái tới Đà Nẵng, đã được tăng cường và củng cố : không nơi nào, không một sinh hoạt kinh tế và dịch vụ nào dọc vùng duyên hải miền Bắc không có bóng dáng người Trung Quốc. Công ty và cơ sở kinh doanh do người Trung Quốc làm chủ mọc lên như nấm và ngày càng lấn át sinh hoạt kinh tế của những cư dân bản địa như buôn bán sỉ và lẽ, nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi heo gà công nghiệp, dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng ăn uống, giải trí, kể cả buôn lậu ma túy và thú quí hiếm.
1.2. Vịnh Bắc bộ, nỗi ám ảnh về an ninh quốc phòng của Bắc Kinh, ngày nay đã được giải quyết.
Sau những thỏa thuận với Đảng cộng sản Việt Nam, Vịnh Bắc bộ đã hầu như trở thành ao nhà của Trung Quốc. Trong suốt 20 năm qua, phía Trung Quốc không ngừng tu chỉnh, sửa đổi nội dung những thỏa thuận về hợp tác cùng phát triển, khảo sát chung, tuần tra chung, tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau. Quan trọng nhất là qua "Thỏa thuận (nhiều lần sửa đổi) giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PetroVietnam-PVN) và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation - CNOOC) liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ", Hải quân Trung Quốc đã hoàn tất việc đo đạc và thiết đặt hệ thống phòng thủ toàn diện trên và dưới mặt biển Vịnh Bắc bộ. Tất cả mọi ra vào Vịnh Bắc bộ của tàu thuyền quốc tế đều phải xin phép Trung Quốc. Cũng nên lưu ý là tàu chiến quốc tế muốn đến thăm Việt Nam chỉ ghé các hải cảng từ Đà Nẵng trở xuống.
1.3. Một toại nguyện khác là an ninh lãnh thổ phía đông-nam của Trung Quốc đã được củng cố : khu vực trái đệm từ Việt Nam đến Myanmar không những đã được thành lập mà còn kết hợp với 4 tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc ở vùng biên giới phía nam để thành một tổng thể mới (hiện chưa có anh xưng chính thức).
Từ sau khi trở thành cường quốc kinh tế số 2 trên thế giới, các cấp lãnh đạo Trung Quốc muốn phục hồi lại hào quang và sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự của thời nha Minh trong quá khứ, đặc biệt là phục hồi lại những lãnh thổ đã mất dưới thời nhà Thanh trong thế kỷ 19.
Đối với người Hán, những sắc dân và lãnh thổ vùng cực nam của Trung Quốc trước kia là những thuộc man và thuộc quốc thần phục Thiên triều phương Bắc. Ngày nay, khi sức mạnh văn hóa, kinh tế và quân sự đã được phục hồi, việc lôi kéo những sắc dân sinh sống dọc vùng biên giới phía nam về lại mẫu quốc là lẽ tự nhiên.
Tại Việt Nam, Bắc Kinh đang tiến hành khôi phục lại khu tự trị biên giới giữa hai nước, gồm 7 tỉnh của Việt Nam : Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc : Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam và lấy đồng nhân dân tệ là kim bản vị trao đổi chính thức.
Khu tự trị này một cách gián tiếp vô hiệu hóa mọi cố gắng phân định và cắm mốc biên giới của Việt Nam, Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc ký ngày 31/12/1999 do đó cũng mất hết nội dung.
2. Phía Việt Nam
Một cách khách quan, sau 20 năm thực hiện những thỏa thuận giữa hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc, mức sống của người dân Việt Nam tại miền Bắc đã được nâng cao so với trước năm 1990, nhiều ngành nghề thu hút đông đảo nhân công phát triển mạnh như may mặc công nghiệp, sản xuất giầy dép, du lịch, nuôi trồng thủy hải sản, chế biến thủy sản…
Danh xưng "cửu vạn" biến mất trong sinh hoạt qua lại biên giới. Vết tích chiến tranh biên giới 1979 đã gần như bị xóa bỏ trong các tỉnh, thành phố bị hư hại trong cuộc chiến như Cao Bằng, Lạng Sơn, Vị Xuyên.
Trung Quốc đã góp phần chính trong việc thay đổi bộ mặt miền Bắc Việt Nam để có dáng bề ngoài phát triển : nhà cửa ẩm mốc và rêu phong trước năm 1990 đã được thay thế bằng những ngôi nhà khang trang bằng vật liệu cứng, nhiều nhà cao tầng đã được xây dựng hàng loạt dọc theo các trục giao thông rộng rãi, hàng quán đông người, hàng hóa sung túc, đông người mua sắm... Người và hàng hóa được vận chuyển nhanh chóng trên các tuyến đường bộ và đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn, Móng Cái - Hạ Long, Lạng Sơn - Hà Nội. Trong nội thành Hà Nội, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đang đi vào hoạt động.
Sự sung túc này không phải do dân cư miền Bắc tạo ra, mà do Đảng cộng sản Việt Nam mượn bàn tay của Trung Quốc thực hiện, qua trung gian những thỏa thuận đã ký như được công bố trong những Tuyên bố chung.
Trong hàng trăm hải đảo dọc vùng duyên hải miền Bắc, đời sống người dân cũng đã có phần khác trước nhờ dịch vụ buôn bán, nuôi trồng thủy hải sản, du lịch khách sạn và ăn uống.
Một hiện tượng khá phổ biến là không nơi nào không có bóng dáng người Trung Quốc, dưới hình thức thương nhân, ngư dân hay khách du lịch. Chỉ riêng tỉnh Quảng Ninh thôi, sinh hoạt của người Trung Quốc đã gần như áp đảo trong thành phố Móng Cái và 49 đảo trực thuộc tỉnh. Người Trung Quốc sống tập trung trong vịnh Bái Tử Long, đặc biệt là huyện Vân Đồn, nơi có Đặc khu kinh tế Vân Đồn. Xa hơn ngoài khơi thành phố Hải Phòng, người Trung Quốc đang xây dựng những khu nghỉ dưỡng trên các đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Hòn Dậu và quần đảo Long Châu. Tàu thuyền vận tài và đánh cá Trung Quốc lưu hành đông nghẹt trong Vịnh Bắc bộ và ven duyên Móng Cái - Hải Phòng.
Khống chế được những đảo lớn của Việt Nam ngoài khơi Vịnh Bắc bộ này, phía Trung Quốc coi như nắm giữ mọi cửa ngỏ ra vào Vịnh Bắc bộ nói chung và vùng duyên hải miền Bắc Việt Nam nói riêng.
Chi tiết thực hiện những thỏa thuận trong từng lãnh vực
Theo nội dung những Tuyên bố chung và Thông cáo chung đã được công bố, sau 20 năm thực hiện, hai Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc đã đạt một số thành quả như sau.
1. Cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước
1.1. Thắt chặt quan hệ giao lưu hợp tác giữa hai Đảng :
- Kế hoạch hợp tác giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc qua các giai đoạn từ 2011 đến 2015 và kế tiếp đã được thực hiện có hiệu quả ;
- Các cuộc trao đổi về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng Đảng, quản lý đất nước ; các cuộc Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, trao đổi kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước đã được tăng cường và tổ chức tốt ;
- Công tác hợp tác đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền đã được mở rộng đến mọi cấp đảng ủy ;
- Các cuộc gặp gỡ cấp Trưởng ban theo cơ chế giao lưu, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và hai Ban Tuyên truyền hai Đảng đã được tổ chức vào những thời điểm thích hợp ;
- Các cuộc giao lưu giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc đã thường xuyên hơn để thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị tích cực ;
- Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc quy hoạch tổng thể và thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa hai nước trên các lĩnh vực được hai bên nhất trí : kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục ;
- Thành lập các Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, Nhóm Công tác về hợp tác tiền tệ, đồng ý tăng cường điều hành, phối hợp giữa các nhóm này và Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và trên các lĩnh vực phát triển toàn diện.
- Trung Quốc giúp Việt Nam đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ; thành lập cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các bộ, ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an ninh…
1.2. Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai quân đội :
- Các cuộc tiếp xúc lãnh đạo cấp cao giữa quân đội hai nước đã được tăng cường cùng với việc thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng hai nước ;
- Các cuộc Đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng quốc phòng vẫn được tiếp tục ;
- Phía Trung Quốc nhận tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ Việt Nam ;
- Nhiều thí điểm tuần tra chung trên biên giới đất liền đã được triển khai vào thời điểm thích hợp ;
- Hải quân hai nước tăng cường hợp tác trong các mặt như tổ chức tuần tra chung trong Vịnh Bắc Bộ và tàu hải quân hai nước thăm viếng lẫn nhau.
1.3. Quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh : chuyên gia pháp luật Trung Quốc cố vấn Bộ Công an và an ninh Việt Nam soạn thảo các dự luật an ninh viễn thông (Luật An ninh mạng được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 12/06/2018), một số luật trong các lĩnh vực phòng chống tội phạm kiểu mới như lừa đảo viễn thông và sắp tới đây giúp trang bị hệ thống theo dõi định hình công dân trên khắp các thành phố lớn.
1.4. Về ngoại giao, phía Việt Nam chính thức cam kết :
- ủng hộ lập trường của Bắc Kinh : chỉ có một nước Trung Quốc và không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan ;
- thực hiện "Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc" ;
- sử dụng các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, thương mại, công an, an ninh, báo chí của hai nước và Ban Đối ngoại trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng…
2. Trên đất liền
Chiến lược củng cố khu vực biên giới phía Nam của Trung Quốc được Bắc Kinh tiến hành với ba nước ASEAN : Việt Nam, Lào và Myanmar. Tại mỗi quốc gia, Bắc Kinh thi hành cùng một chính sách : khuyến khích hình thành một vùng trái độn, gọi là "Khu hợp tác kinh tế qua biên giới", gồm các tỉnh biên giới của quốc gia sở tại với bốn tỉnh và khu tự trị của Trung Quốc : Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Châu và Hải Nam. Với Việt Nam chính sách này mang tên "hai hành lang, một vành đai", theo đó :
2.1. Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt - Trung là cơ chế thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, như :
- tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới ;
- tăng cường hợp tác về cửa khẩu giữa hai nước và cửa khẩu giữa các địa phương : thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới, áp dụng các biện pháp nâng cao mức độ tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới.
2.2. Hai bên đồng ý về phương án tổng thể chung về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới và thúc đẩy các dự án kết nối cơ sở hạ tầng một cách và thiết thực :
- Trung Quốc giúp xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới và tích cực khuyến khích giới đầu tư Trung Quốc vào hai Khu Công nghiệp Long Giang (Tiền Giang) và An Dương (Hải Phòng) ở Việt Nam ;
- xây dựng và chỉ đạo doanh nghiệp hai nước thực hiện tốt các dự án hợp tác như gang thép (Thái Nguyên, VnSteel, Hòa Phát…) và phân đạm (Ninh Bình, Hà Bắc, VinaChem…) do doanh nghiệp Trung Quốc nhận thầu xây dựng tại Việt Nam ;
- thúc đẩy hợp tác trong các ngành nghề nông nghiệp, chế tạo, dịch vụ và các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế, kiểm nghiệm, kiểm dịch, v.v.
2.2. Phía Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư phát triển và phía Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Phía Việt Nam tạo thuận lợi để Trung Quốc thành lập Tổng Lãnh sự quán tại Đà Nẵng, bù lại phía Việt Nam được quyền thành lập Văn phòng xúc tiến thương mại tại Hàng Châu.
Hai bên tạo điều kiện để Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp các nguồn vốn cho các dự án đầu tư kết nối cơ sở hạ tầng, trong đó khuyến khích sự tham gia của các nhà thầu và nhà đầu tư tư nhân Trung Quốc. Phía Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.
Đáng lo ngại nhất là, bất chấp khả năng sản xuất của Việt Nam, phía Trung Quốc sửa đổi "Hiệp định thương mại biên giới Việt - Trung", thúc đẩy thực hiện mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 100 tỷ USD vào năm 2017. Chỉ tiêu này buộc phía Việt Nam phải nhập siêu và nợ Trung Quốc ngày càng nhiều hơn.
2.3. Về văn hóa, giáo dục và du lịch :
- "Thỏa thuận trao đổi giáo dục 2011-2015" cho phép nhân rộng số lượng lưu học sinh Việt Nam sang Trung Quốc học tập.
- Hai nước đã tăng cường các hoạt động giao lưu nhân dân, như Diễn đàn Nhân dân Việt-Trung, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc ; triển khai mạnh mẽ giao lưu hữu nghị giữa thanh thiếu niên, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức nhân dân ; phối hợp tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
- Ban tuyên giáo Việt Nam tăng cường định hướng dư luận và quản lý báo chí, thúc đẩy tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, giữ gìn đại cục quan hệ hữu nghị hai nước, làm cho tình hữu nghị Việt-Trung được kế thừa và phát huy rạng rỡ.
- Phía Trung Quốc đã hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng Cung hữu nghị Việt - Trung vào năm 2017, thành lập Trung tâm văn hóa và vận hành có hiệu quả Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội.
- Hai nước đã ký "Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực Thác Bản Giốc" và "Hiệp định về quy chế tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân" ; giao cho Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt - Trung quyền quyết định xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng cửa khẩu biên giới hai bên, nâng cao mức độ mở cửa hợp tác của các cửa khẩu biên giới hai nước, đặc biệt là tăng cường sự hợp tác giữa các tỉnh/khu biên giới hai bên, thúc đẩy cùng phát triển khu vực biên giới hai nước…
3. Trong Vịnh Bắc bộ
3.1. Vịnh Bắc bộ là vùng biển chiến lược :
Trong hơn 10 Tuyên bố chung và Thông cáo chung, không lần nào Vịnh Bắc bộ bị quên nhắc tới. Đối với Trung Quốc, Vịnh Bắc bộ chính là trọng tâm của sự hợp tác toàn diện giữa hai đảng và hai nước trong khuôn khổ "hai hành lang, một vành đai", vì đó là hậu cứ chiến lược bảo vệ "Vành đai và Con đường" do Tập Cận Bình phát động từ năm 2013 và chính thức thực hiện từ năm 2015.
Cũng nên biết, Vịnh Bắc bộ là nơi được Trung Quốc chọn để xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược (phía tây đảo Hải Nam). Nỗi lo lắng của Bắc Kinh là Việt Nam, nếu không thuyết phục được Hà Nội trong việc phân chia quyền lợi hay quyền lực trong vùng, chiến lược phòng thủ của Trung Quốc trên Biển Đông có thể sẽ bị đe dọa vì Vịnh Bắc bộ là cửa ngỏ ra vào của tàu thuyền Trung Quốc, dân sự cũng như quân sự.
3.2. Nội dung những thỏa thuận :
Hai bên khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" :
- kiểm tra và điều tra liên hợp nguồn lợi thủy sản trong vùng đánh cá chung , tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ ;
- thúc đẩy hợp tác thăm dò, khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ;
- tiếp tục đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ (tức ngoài khơi Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa) và tích cực trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển, sớm khởi động khảo sát chung ở khu vực này ;
- thực hiện các Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng vịnh Bắc Bộ ; nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Những hậu ý của Đảng cộng sản Trung Quốc
1. Về những thỏa thuận trên đất liền
Hiện nay có bao nhiêu người biết được việc chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô - Động Trung để làm gì ? Có bao nhiêu người biết nội dung "Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc" phân chia quyền lợi như thế nào ? Có ai hiểu được hậu ý sâu xa của việc ký kết "Hiệp định tàu thuyền qua lại tự do khu vực cửa sông Bắc Luân", việc xây dựng các cầu qua lại biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu ? Có ai biết có bao nhiêu người Trung Quốc đã sang Việt Nam mua nhà và định cư ?...
Có ai biết lý do nào Đảng cộng sản Việt Nam đã thúc đẩy việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng "bản tệ" (ngôn từ do chính phía Việt Nam sử dụng, nghĩa là lấy đồng nhân dân tệ làm đồng tiền địa phương) ?... Có ai biết việc ký kết "Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên giới" giữa ngân hàng Trung ương hai nước năm 2003 không qua Quốc hội là vi hiến, đe dọa sự độc lập tài chính của Việt Nam ?
Có bao nhiêu người biết Khu công nghiệp An Dương ở Hải Phòng đi vào hoạt động từ lúc nào, sản xuất cái gì và ai được vào khu này đầu tư khai thác ?
Có ai biết Cung hữu nghị Việt - Trung được xây dựng trên khu đất rộng 14.000 m2, với một tổng đầu tư gần 800 tỷ đồng, do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khánh thành hôm 12/11/2017 với mục đích gì ?
Có ai biết dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và tuyến đường bộ cao tốc Móng Cái - Vân Đồn đã ngốn bao nhiêu tiền ngân sách, Việt Nam đã vay mượn của Trung Quốc bao nhiêu tiền và bao nhiêu công nhân Việt Nam được quyền tham gia vào những công trình xây dựng này ?
Có ai hiểu tại sao chỉ những công ty và xí nghiệp Trung Quốc trúng thầu hầu như tất cả những đại dự án và công trình xây dựng hạ tầng cơ sở trên toàn miền Bắc Việt Nam ?
Có ai biết trong suốt gần 10 năm đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng (27/06/2006 – 7/4/2016), ông Nguyễn Tấn Dũng đã thỏa thuận những gì với Trung Quốc và bao nhiêu công ty Trung Quốc đã vào Việt Nam xây dựng cơ sở ?
Và đáng lo âu nhất là có ai biết bao nhiêu đảng viên cấp chính ủy đảng bộ trung ương và địa phương, cấp ủy đảng bộ quân đội, công an, an ninh, sĩ quan cao cấp trong các binh chủng đã được đưa sang Trung Quốc đào tạo về chính trị và đường lối hợp tác ? Có ai biết sau khi về lại Việt Nam những người này đã nắm những chức vụ gì trong những cơ quan và guồng máy đảng, chính quyền, quân đội và công an ? Mỗi năm có bao nhiêu sĩ quan trẻ trong các binh chủng, bao nhiêu thanh niên ưu tú của Việt Nam đã được sang Trung Quốc đào tạo ?
Để trả lời, sau những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc, chỉ riêng một quyết định về đất đai do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 21/08/2006, số 1107/QĐ-TTg, dưới tên gọi "Quy hoạch phát triển của khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020", Việt Nam đã cho phép những người nước ngoài có quyền sử dụng một diện tích đất tổng cộng gần 32.400 ha, trong đó : Danh mục 1 gồm 117 khu công nghiệp (26.823 ha) dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và Danh mục 1 với 27 khu công nghiệp (5.560 ha) dự kiến mở rộng để đầu tư và xây dựng cơ sở. Các danh mục này không bao gồm các khu công nghiệp thuộc các khu kinh tế đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch chung từ trước. Đây là một trong những cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Trung Quốc tràn vào Việt Nam chọn những vùng đất tốt để đầu tư và cho tham nhũng bất động sản trong nước hối mại quyền thế để ăn chia.
2. Về những thỏa thuận trong và ngoài Vịnh Bắc bộ
2.1. Trong Vịnh Bắc bộ :
Trong những Tuyên bố chung, phía Trung Quốc không ngừng nhắc nhở phía Việt Nam phải thực hiện tốt "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Không chỉ riêng về nghề cá (giữ gìn trật tự sản xuất nghề cá bình thường, tích cực triển khai hợp tác nghề cá), phía Trung Quốc còn gợi ý thực hiện "Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung, phấn đấu sớm đạt kết quả thực chất trong hợp tác thăm dò, khai thác chung các cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định Vịnh Bắc Bộ ; bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn trên biển ở Vịnh Bắc Bộ.
Hậu ý của những đề nghị này đã quá rõ ràng :
- Nguồn cá trong Vịnh chắc chắn không còn nhiều vì tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc được trang bị hiện đại hơn đã đánh bắt cạn kiệt, chỉ còn lý do nguồn dầu khí. Nhưng theo những khảo sát gần đây nhất, trữ lượng dầu khí dưới Vịnh Bắc bộ là không đáng kể (1), như vậy chỉ còn lý do quân sự.
- Về quân sự, lo âu của Trung Quốc là dưới lòng biển. Căn cứ tàu ngầm chiến lược của Trung Quốc nằm trong Vịnh Bắc bộ, đúng hơn là trong vịnh Bắc Hải-Thanh Bình, tỉnh Quảng Đông, chứ không phải ở đảo Hải Nam như đồn đoán. Với thỏa thuận cùng khai thác cấu tạo dầu khí vắt ngang Vịnh Bắc bộ, hải quân Trung Quốc có quyền tiến sát vào vùng bờ biển Việt Nam đặt cáp (cable) ngầm dưới dáy biển để phát hiện sự qua lại của tàu thuyền và tàu ngầm, đồng thời cũng để phát hiện thủy lôi của kẻ thù có thể lẻn đặt vào vùng biển này.
Để trấn an phía Việt Nam, Bắc Kinh gia tăng mật độ đàm phán của Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển Việt-Trung. Trong năm 2013, Trung Quốc thực hiện ba dự án tưởng như vô thưởng vô phạt, đó là Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc và Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ. Riêng dự án thứ ba, thoạt nghe tưởng như không quan trọng, là Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocene khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang (chữ Holocene cũng bị viết sai cả lỗi chính tả). Thật ra, nghiên cứu lớp trầm tích dưới lòng đất chỉ là lý cớ, lý do ngoài mặt là dò tìm nguồn khí đốt dưới lòng đất Việt Nam, lý do thật là dò tìm những loại "đất hiếm" (vì Việt Nam đã giao cho một công ty Canada quyền khai thác đất hiếm tại Lai Châu), đó là chưa kể khả năng xây dựng một tuyến phòng thủ quân sự giữa sông Trường Giang (Trung Quốc) và sông Hồng Hà (Việt Nam) khi có chiến tranh.
2.2. Ngoài khơi Biển Đông :
Năm 2013, trong một Tuyên bố chung, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đồng ý : "Khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp tác để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước (PVN và CNOOC), nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực".
Còn giải thích gì nữa ? Chính cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng cộng sản Việt Nam đã đồng ý cùng nhau dò tìm và khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi cửa Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc, tức là ngoài khơi các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa trên Biển Đông. Vụ giàn khoan dầu HD-981 hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc bộ từ ngày 1/5 đến 16/7/2014 gây xôn xao trong dư luận là một thử nghiêm của Trung Quốc đối với cam kết từ phía Việt Nam ; Ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam hoàn toàn im lặng trong suốt thời gian này, những phản ứng của dư luận Việt Nam chỉ là cơn bão trong ly nước. Xâu chuỗi lại những sự kiện xảy ra ngoài khơi Hoàng Sa từ năm 2014 đến nay, các loại tàu thuyền quân sự cũng như dân sự của Trung Quốc tấn công liên tục tàu cá Việt Nam "xâm phạm hải phận" của họ mà không hề gặp phản ứng mạnh nào từ phía Việt Nam, ngoài những lời lên án bâng quơ và quen thuộc của người phát ngôn Bộ Ngoại giao. Trong những ngày sắp tới, khi thời tiết trên Biển Đông ổn định, Bắc Kinh sẽ còn cho nhiều tàu thuyền thăm dò địa chất khác tiến sâu và tiến sát vào vùng biển độc quyền kinh tế của Việt Nam dò tìm và đo đạc. Những sự kiện này phù hợp với thỏa thuận duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên giữa hai Đảng về vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, từ tầm cao chính trị và chiến lược, kịp thời chỉ đạo xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển để bảo vệ đại cục.
Nhiều câu hỏi được đặt ra là Việt Nam đang chơi trò gì khi ủng hộ tự do hàng hải ngoài khơi Biển Đông, mời tàu chiến quốc tế đến thăm Việt Nam, mua vũ khí của Mỹ, hợp tác quân sự với Nhật Bản và Ấn Độ ? Gián diệp nhị trùng hay là chỉ giản dị là trung gian mua vũ khí của Mỹ và phương Tây để giao lại cho Trung Quốc mỗ xẻ ?
3. Về những thỏa thuận thành lập Khu tự trị vùng biên giới mở rộng
Việc tăng cường hợp tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam đã được chuẩn bị từ năm 2000, ngay sau khi ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền với Việt Nam năm 1999, nhưng chỉ chính thức được đề cập đến trong Tuyên bố chung ngày 21/06/2013. Đây là một chủ trương lớn của Trung Quốc để củng cố an ninh vùng biên giới phía nam và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc đến 3 quốc gia ASEAN liên quan : Việt Nam, Lào và Myanmar. Trong hợp tác này, Việt Nam là đối tác quan trọng nhất về diện tích đất và dân cư, dưới tên gọi mới là "Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc".
Hội nghị lần thứ 9 Ủy ban Công tác Liên hợp giữa 4 tỉnh biên giới của Việt Nam và Khu tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc)
Theo Kế hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước, việc điều hành định chế hành chính mới này sẽ do Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới phụ trách. Phía Việt Nam cung cấp mặt bằng, phía Trung Quốc đảm nhiệm công tác xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cơ quan hành chính và thương mại địa phương nhằm thúc đẩy các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển, cụ thể là hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…
Các khu hợp tác kinh tế qua biên giới này làm nhớ lại Khu tự trị Thái-Mèo (1955-1962), những quan lại địa phương tự quyền ký kết những văn kiện xin sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Không hiểu bị thúc đẩy bởi động cơ nào mà Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay lại chấp nhận những thỏa thuận như loại này, một hình thức tái lập tình trạng sứ quân thời Đinh Bộ Lĩnh, mỗi thủ lãnh địa phương là một lãnh chúa độc lập với trung ương. Có thể nói đây là một hình thức sang nhượng chủ quyền lãnh đạo đất nước cho Trung Quốc, nếu không muốn nói là một hành động bán nước có chủ trương.
Một thí dụ cụ thể là ngày 22/03/2019, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn tổ chức đăng cai Chương trình gặp mặt đầu xuân năm 2019 và Hội nghị lần thứ 10 Ủy ban công tác liên hợp giữa bốn tỉnh biên giới Việt Nam là Cao Bằng, Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn và Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) lần thứ tư. Tại hội nghị, "hai bên nhất trí" (tức hai cấp lãnh đạo địa phương chứ không phải trung ương) tiếp tục tăng cường hợp tác, giao lưu hữu nghị ; đi sâu hợp tác thiết thực các lĩnh vực trọng điểm ; tăng cường giao lưu hợp tác các cấp ủy đảng và đơn vị trực thuộc của các bên ; tăng cường giao lưu đối ngoại nhân dân để củng cố nền tảng hữu nghị và tăng cường hợp tác quản lý biên giới, cùng xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị. Ðồng thời (nên lưu ý) bốn tỉnh biên giới của Việt Nam cũng ký kết 7 thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Khu ủy khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Hai bên nhất trí duy trì cuộc gặp mặt đầu xuân trở thành hoạt động hằng năm ; duy trì các cơ chế giao lưu, hợp tác hiện có, tăng cường hơn nữa các hoạt động giao lưu, trao đổi đoàn các cấp, thúc đẩy quan hệ giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả hơn... (2).
Cho tới nay (tháng 6/2019) không ai biết phía Trung Quốc đã và đang xây dựng những gì trên toàn lãnh thổ miền Bắc. Chỉ sau khi xảy ra sự cố, dư luận trong nước mới hay biết sự thật. Thí dụ như vào cuối tháng 11/2018, báo Soha.vn loan tin "Trung đoàn 921 về Yên Bái : Su-22 đoàn Không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc" (3), dư luận trong nước mới giật mình khám phá an ninh khu vực biên giới phía Bắc đang bị đe dọa. Rồi nếu không có phát biểu của Thiếu tướng Sùng Thìn Cò, Phó tư lệnh quân khu 2, tại diễn đàn Quốc hội ngày 30/05/2019 lên tiếng báo động : "Nhiều sông, suối ở biên giới đang bị ô nhiễm" (4), không ai hay biết nạn ô nhiễm môi trường trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc do nước thải độc hại từ các khu công nghiệp, chế xuất… của Trung Quốc đổ vào các sông suối xuyên biên giới chảy về Việt Nam đã nguy ngập đến dường nào. Đó là chưa kể Việt Nam đã cùng Trung Quốc thác Bản Giốc từ một vài năm trở lại đây.
Nhìn chung, quyền lãnh đạo 7 tỉnh khu vực biên giới phía Bắc đang vuột khỏi tầm tay của Đảng cộng sản Việt Nam. Nỗi lo của 20 cựu sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014 và 97 triệu dân Việt Nam là có cơ sở : Đảng cộng sản Việt Nam đang tự nguyện hiến 7 tỉnh biên giới Việt Nam thành một khu tự trị của Trung Quốc "như Nội Mông, Tây Tạng hay Quảng Tây". Nếu vì bất cứ một lý do nào, bị xúi giục hay tự nguyện, dân cư trong 7 tỉnh này xuống đường yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý xin sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, phản ứng của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ ra sao ? (Việc Quốc hội Việt Nam trì hoãn Luật biểu tình không phải vì lo sợ sự chống đối của giới đối lập và nghiệp đoàn mà vì lo sợ những cuộc biểu tình của dân cư 7 tỉnh biên giới phía Bắc).
Cũng theo dự phóng này, cố vấn Trung Quốc trong các Nhóm công tác biên giới đang xúc tiến ráo riết để trong một tương lai không xa hội nhập các tỉnh biên giới của Việt Nam, Lào và Myanmar vào các tỉnh biên giới phía nam của Trung Quốc. Nhiều giả thuyết cho rằng Quảng Ninh có thể sẽ hội nhập vào tỉnh Quảng Đông hay Hải Nam, 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang vào tỉnh Quảng Tây, trong khi 3 tỉnh còn lại là Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên sẽ cùng với 3 tỉnh biên giới của Lào là Phongsali, Udongsai, Luangnamtha và bang Kachin của Myanmar sẽ cùng hội nhập vào tỉnh Vân Nam.
Qua chủ trương kết hợp những tỉnh biên giới Việt Nam và Trung Quốc, chỉ tốn vài chục tỷ USD, Trung Quốc có thể thu tóm những vùng lãnh thổ chiến lược và kinh tế rộng lớn nhất và tốt nhất của Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Cột mốc năm 2020 đang lừng thừng đi tới…
Động cơ và hệ lụy của những thỏa thuận đã ký với Trung Quốc
Ai là thủ phạm trong việc chuyển nhượng chủ quyền lãnh đạo đất nước ?
Chắc chắn không phải là Trung Quốc. Phía Trung Quốc không có gì để giấu, tất cả những việc gì họ muốn, đã đang và sẽ làm ở Việt Nam đều công khai và tuân hành đúng theo luật pháp và cách tổ chức của chế độ cộng sản Việt Nam, nghĩa là Đảng cộng sản quyết định, Quốc hội hợp thức hóa bằng luật pháp, Chính phủ thi hành. Phía Trung Quốc chỉ thực hiện đúng những gì họ đã hứa, đã ký và công bố.
Chính Đảng cộng sản Việt Nam mới là thủ phạm chuyển nhượng chủ quyền đất nước cho Trung Quốc qua việc ký kết những thỏa thuận với Trung Quốc trong âm thầm và không muốn dư luận trong nước, kể cả trong Đảng biết.
Nhưng tại sao Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam lại dễ dàng ký kết những thỏa thuận có thể dẫn đến mất chủ quyền và bất lợi cho Việt Nam ?
Có nhiều lý do để giải thích :
- Vì lo sợ mất địa vị lãnh đạo, do đó phải nhờ Trung Quốc bảo hộ. Mất quyền lãnh đạo là mất tất cả : địa vị, quyền thế và bỗng lộc do địa vị mang lại ; đáng lo nhất là mất tính mạng do trả thù báo oán.
- Vì tưởng có thể lợi dụng được sự giúp đỡ của Trung Quốc để phát triển (không cần phải bỏ công và bỏ của cũng vẫn có bộ mặt phát triển như thiên hạ), qua đó tranh thủ được niềm tin đảng viên và sự kính phục của dân chúng.
- Vì tưởng nhượng bộ và chiều lòng Trung Quốc thì sẽ không còn bị hiếp đáp và mất thêm lãnh thổ.
- Cuối cùng vì khờ khạo và lòng tham : nắm vững tâm lý và trình độ kiến thức của những đối tác Việt Nam (Bộ chính trj và Trung ương Đảng cộng sản), những cố vấn Trung Quốc đã biết khai thác bằng tiền, bằng gái đẹp, bằng hứa hẹn địa vị để khuyến dụ những người có trách nhiệm chấp thuận tất cả những điều kiện do phía Trung Quốc đưa ra.
Một vài thí dụ về sự khờ khạo : phía Trung Quốc vẽ ra bức tranh thật đẹp về phồn vinh và phát triển tại những nơi mà họ muốn đến xây dựng cơ sở và khai thác tài nguyên, như các tỉnh khu vực biên giới, thành phố dọc bờ biển Vịnh Bắc bộ, các thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, hay tại các tỉnh trên Tây Nguyên, Đồng Nai, Tiền Giang và Kiên Giang ; họ còn đề nghị xây xa lộ cao tốc, đô thị thông minh để mời gọi những cấp lãnh đạo Việt Nam ký kết chấp thuận. Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, từ trung ương đến địa phương, đều bị mê hoặc và chấp thuận tất cả, có nhiều bộ trưởng còn sử dụng danh xưng "giữ gìn đại cục" để chỉ trích những ai chống đối.
Gần đây nhất là khu đô thị Thủ Thiêm, ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, trong một lúc cao hứng đã khai toẹc ra rằng muốn nhờ Trung Quốc biến Thủ Thiêm thành Phố Đông (Pudong như Thượng Hải). Điều này cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam đang tìm mọi cách chiếm lại Thủ Thiêm từ tay Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh để giao lại cho phía Trung Quốc thực hiện ước mơ đó, kể cả vay nợ và nhượng luôn quyền quản trị trong một thời gian dài.
Cái bẫy mà cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị sa vào trước đó là hình ảnh "Người hùng đem lại phồn vinh cho Việt Nam" : thành lập nhiều đại công ty có tầm vóc quốc tế kiểu những chaebol của Đại Hàn, tăng vốn cho Tập đoàn PVN mở rộng tầm hoạt động ra nước ngoài (Venezuela), cho những đại gia bất động sản vay tiền từ các Ngân hàng đầu tư do Trung Quốc cung cấp vốn. Để đáp trả, Nguyễn Tấn Dũng cho phép Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác bô-xít Đắc Nông (2005) gây ô nhiễm môi trường, vào Tiền Giang lập Khu công nghiệp Long Giang (2007) gây ô nhiễm sông ngòi, Formosa Hà Tĩnh (2008) gây ô nhiễm bờ biển phía bắc miền Trung, xây dựng đường ống sông Đà (2009) liên tục bị vỡ, nhà máy đạm Ninh Bình (2011) để rồi bỏ hoang, nhiệt điện than… dọc vùng biển miền Nam gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường... Nói chung tất cả những đại dự án chủ trương lớn của Đảng cộng sản Việt Nam đang là những tai họa về môi trường và ngân sách quốc gia.
Với những số tiền khổng lồ (hàng chục tỷ USD) được Trung Quốc cho vay, thay vì dùng vào đầu tư nghiên cứu phát triển những quan chức cao cấp trong Đảng cộng sản Việt Nam lập hồ sơ giả để rút tiền bỏ vào túi riêng. Nhưng những quan tham nhũng lại quên một điều then chốt : Trung Quốc không cho ai một cái gì và cũng không cho không một cái gì và họ cũng không có luôn sự rộng lượng của Ông già Noel. Giới đầu tư Trung Quốc không bao giờ làm từ thiện hay nghĩ tới từ thiện. Họ là những người thực dụng : bỏ tiền ra để mua một món hàng chứ không cho không hay làm từ thiện. Họ là những người chi tiền, do đó tự coi có quyền tuyệt đối trên những số tiền đã bỏ ra. Ai đánh cắp hay sử dụng sai trái những đồng tiền đó chắc chắn phải bị trừng phạt : giới giang hồ có luật Thiên địa hội, doanh nhân Trung Quốc có Ủy ban Kiểm tra trung ương do Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo.
Nhìn lại những vụ án chống tham nhũng gần đây, gọi là "đốt lò", rồi những luật đất đai, luật đặc khu, luật an ninh mạng, luật lao động… tất cả đều diễn ra một cách có hệ thống, đúng theo thứ tự thời gian, và ngày càng thúc bách, cho dù ông Nguyễn Phú Trọng có bị đột quỵ hay không. Xâu chuỗi lại những sự kiện, người ta dễ dàng nhận xét những sự kiện này đang diễn ra theo một lộ trình đã được quyết định từ bên kia biên giới phía Bắc đưa sang.
Trong năm 2018 và những tháng đầu năm 2019, Đảng cộng sản đã xử nhiều vụ án lớn, trong đó có nhiều cán bộ, sĩ quan cao cấp trong Bộ Chính trị, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và nhiều bộ ngành khác bị điều tra và tống giam. Ai cũng mừng vì tưởng rằng vị Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng quyết tâm diệt trừ tham nhũng, "lò nóng lên rồi, củi tươi vào cũng phải cháy".
Nhưng ai bị cháy ? Soi kỹ lại từng vụ việc, những thanh củi bị đốt toàn là những người đã từng nắm giữ những chức vụ liên quan đến những nguồn lợi mà phía Trung Quốc đã bỏ tiền ra nhưng không được sử dụng đúng mục tiêu và nay, qua trung gian Đảng cộng sản Việt Nam, muốn thu hồi lại. Tại sao chỉ Vinashin, Vinalines, PVN, MobiFone-AVG, BIDV, Casino, bất động sản Đà Nẵng… bị truy tố mà không xảy ra ở những công ty hay cơ quan nào ở những địa phương khác ?
Kiểm điểm lại danh sách những người bị bắt, tất cả đều dính líu không nhiều thì ít đến những số tiền mà phía Trung Quốc đã đổ vào Việt Nam, đặc biệt là dưới thời nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, để xây dựng hạ tầng cơ sở chuẩn bị cho sự hiện diện lâu dài của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, qua các định chế ngân hàng, tập đoàn bất động sản, du lịch, khách sạn và giải trí… Đó là những Ngân hàng OceanBank, Sacombank, DAB, VNCB, BIDV, những đại công ty quốc doanh TKV, EVN, PVN, PetroLimex, VinaShin, VinaLines…
Trên đất nước này, từ Bắc vô Nam, không nơi nào không có tham nhũng qui mô ở cấp cao và nạn ăn cắp tiền công quỹ. Chỉ cần khui ra một vài dự án xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư phát triển dọc các vùng biên giới miền Bắc, miền Trung và miền Nam dư luận sẽ dựng tóc gáy nếu biết những số tiền thực sự bị biển thủ hay đánh cắp. Những quan tham rất dễ nhận diện : chỉ cần nhìn vào dinh thự, cơ ngơi địa ốc, nhà cửa, nội thất và cách ăn xài của con cháu họ là biết. Nhưng hiện nay chỉ những quan tham và những người đối lập nào động chạm đến quyền lợi của người Trung Quốc mới bị trừng trị. Một sự kiện đáng chú ý là sự giàu sang của những quan địa phương trong 7 tỉnh biên giới - thể hiện qua các dinh thự, biệt phủ được xây dựng một cách lộ liễu ở những khu đất vàng giữa thành phố hay trong những khu rừng thuộc vườn quốc gia - không hề được báo chí nhắc tới và cũng không ai dám đụng tới.
Song song với lãnh vực quốc doanh, nhiều tập đoàn tư nhân Trung Quốc đã bỏ tiền tài trợ những đại gia bất động sản ở Việt Nam như VinGroup, NovaLand, FLC Group, SunGroup… thay mặt họ chọn những vùng đất tốt, đắc địa để xây dựng cơ ngơi, nhà cửa và cơ xưởng sản xuất. Phương thức hợp tác với những đại gia Việt Nam xem ra có vẻ thành công vì những người này biết đút lót đúng người, đúng chỗ để thâu tóm những vùng đất béo bỡ cho những chủ đầu tư. Những vùng đất béo bỡ là gì ? Đó là những khu đất vàng, đất tốt giữa trung tâm thành phố, cạnh những bờ biển đẹp, những trục giao thông lớn, nhà ga, phi cảng, bến sông, bến cảng, thuận hợp phong thủy… để xây cơ sở, địa ốc, nhà cửa.
Tại sao những chủ sòng bạc, đặc biệt là sòng bài công nghệ cao cũng bị đưa vào lò ? Tại vì tổ chức casino sòng bài, cờ bạc là nghề của người Hoa ; Hồng Kong và Mã Cao trước kia là thiên đường của những sòng bạc quốc tế. Nhớ lại Mạc Cửu thế kỷ 17, một người Hoa gốc Quảng Đông chạy loạn nha Minh xuống Hà Tiên tị nạn, tại đây Mạc Cửu đã xây dựng cho mình một thế lực lớn bao gồm nhiều lãnh địa dọc bờ biển Vịnh Thái Lan nhờ tổ chức sòng bạc. Tất cả những quân cướp biển địa phương đều đến Hà Tiên tiêu xài tiền bạc trong những sòng bài do Mạc Cửu làm chủ. Ngày nay, trong những đặc khu nhượng cho Trung Quốc quyền quản lý 99 năm như Boten, Sihanoukville, sinh hoạt cờ bạc rất là năng động, những chủ sòng bài đều là người Trung Quốc. Những sòng bài ở Boten (Bắc Lào) là để thu hút nguồn tiền do buôn lậu nha phiến mang lại, tại Sihanoukville để thu hút nguồn tiền của người bản địa giàu có trong Vịnh Thái Lan. Hai ông tướng công an Việt Nam, mờ mắt trước những số tiền khổng lồ thu được, đã không biết điều đó nên đã bị bắt và bị tước đoạt hết mọi quyền lợi (chắc chắn là bị "kẻ lạ" tố cáo). Qua những vụ bắt bớ này, thông điệp của phía Trung Quốc đã rất rõ ràng : không ai có được quyền tranh giành tổ chức cờ bạc với người Trung Quốc.
Tại sao đánh lớn vụ PVN và AVG ? Rất dễ hiểu : Trong những Tuyên bố chung, Bắc Kinh muốn Việt Nam chia phần trong việc khai thác tài nguyên dầu khí dưới Biển Đông, và muốn hệ thống truyền thông Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc, qua Hoa Vi. Dưới thời "Đồng chí X", PVN đã tỏ ra cứng đầu không ăn chia với các công ty offshore Trung Quốc mà còn kết cấu với các công ty dò tìm quốc tế khác khai thác thềm lục địa. Về truyền thông trên mạng, chính Thủ tướng Việt Nam, Phúc nổ, ca ngợi kỹ thuật cao của Hoa Vi và mong muốn hợp tác để học hỏi kinh nghiệm.
Trở lại với những tập đoàn bất động sản tư nhân do tư sản Trung Quốc chống lưng, thời vàng son của tiền bạc dễ dàng đang chấm dứt. Để thực hiện chiến lược Sáng kiến vành đai con đường sau cột mốc 2020, Bắc Kinh muốn doanh nghiệp Trung Quốc trực tiếp vào Việt Nam đầu tư xây dựng cơ sở mà không cần phải qua trung gian những tập đoàn bất động sản tư nhân Việt Nam do họ cấp vốn và cấp phương tiện dựng lên như trước. Thật ra Trung Quốc không muốn Việt Nam có những đại gia đầy quyền lực, họ đang nhờ bàn tay của Đảng cộng sản để loại trừ như vụ bắt giữ Phạm Nhật Vũ (em trai đại gia Phạm Nhật Vương, VinGroup), đang điều tra những Mường Thanh, Vạn Thịnh Phát, Quốc Phương Gia Lai, FLC, SunGroup…
Đà Nẵng là một thí dụ điển hình khác, vụ bắt giữ Vũ nhôm cho thấy giới đầu tư Trung Quốc không còn muốn qua trung gian quan chức địa phương để xây dựng cơ sở khai thác dịch vụ du lịch và khách sạn, họ muốn liên lạc thẳng với những cán bộ đảng ủy địa phương. Tất cả những mục tiêu chiến lược trên địa bàn Đà Nẵng đều đã thành tựu : Tổng lãnh sự quán Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo sinh hoạt của những xí nghiệp lớn của người Trung Quốc tại Đà Nẵng vàn bán đảo Sơn Trà, trong tương lai sẽ lấn ra đảo Lý Sơn.
Có thể nói gần như toàn bộ những đảng viên có địa vị và quyền lực trong Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, từ trung ương đến địa phương là những tay sai đắc lực cho thế lực đồng tiền. Quốc hội Việt Nam chỉ là cơ quan ăn theo và có nhiệm vụ hợp thức hóa và hợp lệ hóa những quyền lợi của phía Trung Quốc tại Việt Nam.
Cái gì sẽ xảy ra sau năm 2020 ?
Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ký thêm những thỏa mới với Trung Quốc bất lợi cho Việt Nam
Như đã nói, Sáng kiến Vành đai Con đường và Tập Cận Bình đã chính thức đi vào hoạt động năm 2015. Trong suốt giai đoạn từ 2015 đến 2018, chuyên gia Trung Quốc trong những Nhóm công tác đã ráo riết làm việc với những đối tác Việt Nam từ các cấp đảng cao nhất đến các cấp bộ, ngành liên quan, đặc biệt là những Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Giao thông và vận tải, Giáo dục…
Trước mắt có hai công tác lớn dọn đường cho những nhà đầu tư lớn của Trung Quốc đến từ Hoa Nam vào Việt Nam khai trương cơ sở kinh doanh và thương mại một cách đại trà : thuê bao dài hạn 3 đặc khu kinh tế và xây dựng đường bộ cao tốc và đường sắt Bắc-Nam. Phía Trung Quốc đã chuẩn bị sẵn tiền, phương tiện và người tham gia xây dựng ; họ đang chờ phía Việt Nam cung cấp đất và tạo điều kiện pháp lý để hợp thức hóa sự hiện diện lâu dài của người Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam, qua những luật mà Quốc hội Việt Nam sắp ban hành. Thời gian thực hiện dự trù bắt đầu vào năm 2019. Vấn đề còn lại là chọn thời điểm nào để ra một Tuyên bố chung. Thời điểm đó được dự trù vào dịp Diễn đàn Sáng kiến Vành đai Con đường lần thứ hai họp tại Bắc Kinh từ ngày 25 đến 27/04/2019. Nhưng không may cho Tập Cận Bình (nhưng là cái may cho dân tộc Việt Nam) : Dự Luật đặc khu bị "dân chúng bất mãn" chống đối nên phải gác lại. Ông Nguyễn Phú Trọng, cấp lãnh đạo cao nhất Việt Nam, bị đột quỵ không thể đi phó hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đi thay nhưng không phải là cấp lãnh đạo tối cao đủ tư cách để thay mặt Tổng bí thư - Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng ra một Tuyên bố chung có tầm quan trọng quyết định đến tương lai Việt Nam với Tổng bí thư - Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Nhưng cho dù có thế nào đi chăng nữa, Bắc Kinh sẽ làm áp lực với Hà Nội để bộ Luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, gọi tắt là Luật đặc khu, sớm được Quốc hội Việt Nam thông qua.
1. Ba đặc khu kinh tế
Tháng 6/2018, sau khi hay tin Quốc hội Việt Nam thảo luận về Dự Luật đặc khu kinh tế, quy định cho nhà đầu tư nước ngoài quyền thuê đất dài hạn trong 99 năm, một làn sóng phẫn nộ xảy ra tại khắp nơi, hàng chục ngàn người đã xuống đường biểu tình chống Luật đặc khu.
Theo nhận xét riêng, tin về Dự Luật đặc khu và những cuộc biểu tình đều do Đảng cộng sản tung ra và tổ chức. Ai tung tin, ai vận động tổ chức biểu tình, và nhằm mục đích gì, người đó chỉ có thể là chính quyền hay Đảng cộng sản Việt Nam. Làm sao có thể qui tụ một cách bất ngờ trong một ngày số người biểu tình đông đảo lên đến hàng chục ngàn người và xuất hiện đồng loạt tại nhiều tỉnh thành lớn với những ban rôn đã in sẵn bằng chữ lớn nếu không có chuẩn bị trước ? Có thể Đảng cộng sản muốn đo lường phản ứng của người dân trước một hành động mang tính "bán nước" quá lộ liễu đến như vậy.
Từ đó dư luận trong nước mới biết Đảng cộng sản Việt Nam muốn qua công cụ trung gian là Quốc hội để biểu quyết hợp thức hóa Dự Luật đặc khu (6 chương, 88 điều) để thỏa mãn yêu sách cho người nước ngoài thuê ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc trong 99 năm. Mặc dầu chính quyền cộng sản Việt Nam cứ loanh quanh, biện bạch cải chính, mọi người đều biết ba đặc khu này chỉ dành riêng cho Trung Quốc. Trong vụ việc này, cái vô lý là Dự luật đặc khu viết rất rõ ràng và chi tiết cách điều hành của đặc khu sau khi cho thuê, như thể chính quyền Việt Nam là người trực tiếp điều hành mọi sinh hoạt trong đặc khu. Vấn đề là sau khi cho thuê 99 năm, người nước ngoài có toàn quyền sử dụng vùng đất đó theo những mục tiêu đã khai báo trước, chính quyền Việt Nam lấy tư cách gì để vào can thiệp ? Cũng như chủ nhà làm sao có quyền chỉ đạo người thuê cách sử dụng điện nước, đi lại và sinh hoạt sau khi cho thuê ?
Chỉ riêng đặc khu Vũng Áng Hà Tĩnh với 228 km2 diện tích và thời hạn cho thuê 70 năm, sau khi Formosa Hà Tĩnh (33 km2) gây ra sự cố ô nhiễm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng phải chờ hơn 10 ngày sau mới được vào tham quan, vì đây là khu công nghiệp có yếu tố nước ngoài không thuộc thẩm quyền của chính quyền Việt Nam, và khi được vào thăm ông Trọng cũng chỉ đi thăm những nơi người nước ngoài muốn cho đi thăm và không dám nhắc tới vụ cá chết hàng loạt.
Tại sao Trung Quốc chọn ba địa điểm này ? Hoàn toàn vì những mục tiêu chiến lược phục vụ cho kế hoạch Sáng kiến Vành đai Con đường của Tập Cận Bình. Kế hoạch này đã được Tổng bí thư - Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình công bố tại Kazakhstan tháng 9/2013 và chính thức khởi động năm 2015.
Hậu ý kinh tế của Trung Quốc trong những đặc khu kinh tế này là để xây dựng cơ sở và hãng xưởng với lực lượng nhân công đến trực tiếp từ Trung Quốc sản xuất hàng hóa ngay trên lãnh thổ Việt Nam, rồi sau đó xuất khẩu sang những quốc gia khác với nhãn "Made in Vietnam", như vậy Trung Quốc sẽ không còn bị chỉ trích là hàng Trung Quốc dán nhãn Việt Nam. Không một người Việt Nam nào được hưởng lợi trong những thương vụ này, kể cả chính quyền cộng sản Việt Nam, vì tất cả đều do người Trung Quốc trực tiếp quản lý và điều hành.
1.1. Đặc khu kinh tế Vân Đồn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, là quần đảo lớn nhất khu vực miền Bắc, diện tích 2.171,33 km2 (đất liền 581,83 km2) và mặt biển 1.589,5 km2, tập hợp hơn 600 hòn đảo lớn nhỏ. Với ưu thế, Vân Đồn được đánh giá là có những tiềm năng nổi trội để xây dựng một Đặc khu của miền Bắc.
Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương xây dựng Đề án thành lập đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh theo Thông báo số 108-TB/TW ngày 01/10/21012.
Từ năm 2007, Trung Quốc đã cho Việt Nam vay vốn để xây dựng Đặc khu kinh tế Vân Đồn, với mục tiêu trên danh nghĩa là thúc đẩy phát triển kinh tế ở Quảng Ninh, nhưng trong thực tế là chuẩn bị mặt bằng để giao cho Trung Quốc thuê dài hạn 99 năm. Ông Phạm Minh Chính, cựu bí thư Quảng Ninh, còn đề nghị tăng thời hạn cho Trung Quốc thuê lên 120 năm (5). Đảng cộng sản Việt Nam hy vọng qua việc cho thuê này, Trung Quốc sẽ biến Vân Đồn thành một trung tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao và dịch vụ cao cấp, một trung tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế với một khu thương mại phi thuế quan (6). Phục vụ giao thông cho Khu kinh tế Vân Đồn có Cảng Vạn Hoa và Sân bay quốc tế Vân Đồn, do Tập đoàn SunGroup xây dựng và được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khai trương ngày 31/12/2018.
Trong thực tế, đặc khu kinh tế Vân Đồn đã nằm trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc từ lâu rồi, vấn đề còn lại chỉ là hành chính, nghĩa là hợp thức hóa sự hiện diện của người Trung Quốc trên vùng đất này bằng Luật đặc khu.
Vân Đồn là nơi xuất phát bằng đường biển chiến lược Sáng kiến Vành đai Con đường và cũng là nơi gần những căn cứ hải quân chiến lược của Trung Quốc, đặc biệt là căn cứ tàu ngầm chiến lược Nam Hải (Quảng Đông). Không ai biết Trung Quốc sẽ xây dựng những gì trong đặc khu Vân Đồn sau khi được quyền sử dụng 99 năm. Nếu xảy ra xung đột trên Biển Đông, Vân Đồn chắc chắn sẽ là một căn cứ phòng thủ hỗ trợ hải quân Trung Quốc.
1.2. Bắc Vân Phong là một khu kinh tế nằm ở phía bắc Vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, với một diện tích rộng 1500 km², trong đó phần trên biển rộng tới 800 km². Khu này được thành lập vào năm 2006 với mục tiêu trở thành một hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị - công nghiệp - dịch vụ - du lịch của khu vực Nam Trung Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ và là một đầu mối giao lưu quốc tế, trung tâm du lịch quan trọng của Việt Nam.
Đây là một đặc khu kinh tế tổng hợp gồm hai khu : Khu phi thuế quan gồm : khu cảng trung chuyển container quốc tế là chính, khu hậu cần cảng và khu trung tâm thương mại – tài chính. Còn khu thuế quan gồm khu cảng trung chuyển dầu, cảng chuyên dùng, cảng tổng hợp, khu du lịch, khu công nghiệp, khu dân cư đô thị và khu hành chính.
Trung Quốc dự trù sẽ xây dựng đặc khu kinh tế này thành một biểu tượng thu hút sự nễ trọng của những quốc gia ASEAN khi hợp tác với Trung Quốc. Hiện nay hàng chục ngàn "du khách Trung Quốc" đến Nha Trang đang chờ được vào đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong làm việc.
Về chiến lược, Bắc Vân Phong là một hải cảng ven bờ xa Trung Quốc nhất về phía nam. Nếu có xảy ra xung đột trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ biến Bắc Vân Phong thành một căn cứ tiếp liệu hậu cần ho tàu thuyền của họ hoạt động trên Biển Đông, đồng thời cũng là căn cứ do thám sự ra vào của các tàu chiến Việt Nam và quốc tế trong vịnh Cam Ranh.
1.3. Đặc khu kinh tế Phú Quốc gọi tắt là Đặc khu Phú Quốc là một huyện của tỉnh Kiên Giang ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km².
Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập ngày 22/5/2013, theo quyết định số 31/2013/QĐ-TTg. Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập khi quyết định này có hiệu lực từ ngày 10/07/2013. Khu này được quy hoạch làm một trung tâm kinh tế biển tổng hợp mạnh của cả nước và sẽ là một đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, tức chính quyền Hà Nội.
Tiềm năng kinh tế và du lịch của khu kinh tế này rất lớn nhờ có một bờ biển đẹp và nhiều hải cảng nước sâu. Trung Quốc dự trù sau khi có toàn quyền sử dụng đặc khu kinh tế này, bộ mặt của Phú Quốc sẽ được cải đổi để trở thành tụ điểm du lịch vùng biển cao cấp nhất Đông Nam Á.
Về chiến lược, đặc khu kinh tế này được Trung Quốc dành cho các mục tiêu kinh tế và dịch vụ du lịch triển khai Sáng kiến Vành đai Con đường của Tập Cận Bình, vì Sihanoukville không phải là một cảng nước sâu nên tàu thuyền lớn không thể vào neo đậu được. Hơn nữa Trung Quốc đang biến Sihanoukville thành một căn cứ quân sự.
Việc ông Nguyễn Phú Trọng xuống Kiên Giang tham quan trong tháng 4/2019 vừa qua không phải tình cờ, ông có sứ mệnh thuyết phục "lãnh chúa địa phương" Nguyễn Thanh Nghị, con trai trưởng của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chấp thuận để cho Trung Quốc thuê đảo Phú Quốc làm đặc khu kinh tế trong 99 năm, một khi luật đặc khu được Quốc hội thông qua.
1.4. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam muốn thỏa mãn yêu sách thuê ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc của Trung Quốc trong 99 năm ?
Để trả lời câu hỏi này, có lẽ cũng nên tìm hiểu cách cho vay của Trung Quốc. Khác với các định chế tài chính quốc tế, cho vay qua ngân hàng với những điều kiện và khả năng thanh khoản cùng những lãi suất rõ ràng, phía Trung Quốc cho vay theo kiểu tiệm cầm đồ hay chơi hụi. Người vay tiền phải thế chấp một món hàng tương với số tiền muốn vay, khi trả không được thì chủ nợ siết món hàng thế chấp, đó là trường hợp của Sri Lanka với cảng Hambantota nhượng cho Trung Quốc 99 năm, hay nước Tajikistan (Trung Á) với một phần lãnh hồ rộng hơn 1000 km2 trong tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan trên cao nguyên Pamirs đã được chuyển giao cho Trung Quốc để trả các khoản nợ. Chính vì thế, phải hiểu cho Trung Quốc thuê bao 99 năm là một hình thức bị siết nợ hay cấn nợ. Việc một ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức trung ương, ông Phạm Minh Chính đề nghị cho Trung Quốc thuê 120 năm (5) là một thái độ tôi đòi, nịnh bợ đáng khinh bỉ.
Đối với Việt Nam và những quốc gia Đông Nam Á khác, Trung Quốc cho vay kiểu chơi hụi : muốn vay bao nhiêu cũng được nhưng sau khi hốt hụi rồi thì phải trả tiền lời lẫn vốn cho những người cho vay với những lãi suất rất cao cho tới khi người tới cho vay cuối cùng thu hồi vốn (hốt hụi) mới chấm dứt. Nhưng với Việt Nam, người cho vay cuối cùng này sẽ không bao giờ hết vì phía Trung Quốc luôn đẻ ra những đề án mới buộc Việt Nam phải vay thêm. Một thí dụ, sau khi "trúng thầu" tất cả những dự án xây đường bộ và đường sắt tại miền Bắc, Trung Quốc đang đề nghị qua hình thức "đấu thầu" xây dựng đường bộ và đường sắt cao tốc Bắc Nam, và những dự án đại trà kế tiếp…
Sự gian manh của phía Trung Quốc mà nhiều người tưởng là tốt bụng muốn giúp những quốc gia yếu kém hơn vay tiền bằng cách khuyến khích vay càng nhiều càng tốt, dưới hình thức thương vụ để PIB của quốc gia được vay gia tăng đáng kể. Trung Quốc khuyến khích Việt Nam gia tăng thương vụ từ 10 tỷ USD năm 2010 lên 100 tỷ USD năm 2017, sự sai biệt giữa hai con số này trong khoảng thời gian 7 năm là những khoảng nợ khổng lồ mà Việt Nam phải vay của Trung Quốc.
Nếu không trả được nợ thì sao ? Thì phải thế chấp ! Việc Tổng bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng hối thúc Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân sớm thông qua những dự luật bất lợi cho nền độc lập và chủ quyền đất nước khiến dư luận suy đoán là để khất nợ, hay trừ nợ. Chấp thuận cho Trung Quốc thuê ba đặc khu kinh tế trong 99 năm là một hình thức cấn nợ, hay bị siết nợ/ Hiện nay tổng số nợ này phải cao gấp ba lần khoảng nợ mà Sri Lanka đã vay của Trung Quốc.
Sắp tới đây dư luận Việt Nam sẽ còn sửng sốt trước những tin Trung Quốc yêu cầu Việt Nam nhường cho họ quyền xây xa lộ cao tốc Bắc Nam để vận chuyển người và hàng hóa nhanh xuống miền Nam. Những yêu cầu này chắc chắn sẽ được chấp thuận vì, như đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam muốn nhờ Trung Quốc vẽ cho mình bức tranh phồn vinh do đó sẽ dành cho người họa sĩ toàn quyền chọn sơn và cảnh vật. Chưa hết, xây dựng xong xa lộ cao tốc, phía Trung Quốc sẽ còn đòi thêm quyền xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam, cảng sông Biên Hòa, phi cảng Long Thành, các khu đô thị thông minh Thủ Thiêm, Long Hưng, Long Tân (Biên Hòa), rồi quyền sở hữu nhà đất…
Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây đã hoàn thành đưa vào khai thác - Ảnh an toàn giao thông
Tham vọng, nếu không muốn nói âm mưu, của Trung Quốc tại Việt Nam là muốn làm chủ toàn bộ sinh hoạt kinh tế của miền Nam, loại trừ thế lực kinh tế và ảnh hưởng văn hóa của người Hoa miền Nam, Đài Loan, Nhật Bản và Đại Hàn, và làm chủ luôn vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long.Việc cố ý trì trệ thanh khoản 100 triệu USD cho nhà thầu Nhật Bản để tiếp tục công trình xây dựng hệ thống đường sắt nội thành Thành phố Hồ Chí Minh là một thí dụ. Ai cũng thấy hậu ý của Bắc Kinh, qua trung gian Đảng cộng sản Việt Nam, là muốn hất cẳng Nhật ra khỏi miền Nam để giao cho Trung Quốc quyền xây dựng độc tôn những hệ thống đường sắt nội thành Thành phố Hồ Chí Minh và trong tất cả tỉnh thành phố khác ở miền Nam Việt Nam.
2. Việt Nam sau năm 2030
Nhưng tham vọng của Bắc Kinh trên lãnh thổ Việt Nam không dừng ở đó, họ muốn chơi lá bài trường kỳ, nghĩa là đảm nhiệm luôn công tác trồng người (bách niên chi kế mạc như thụ nhân). Hiện nay Trung Quốc đang nhắm vào thế hệ thanh thiếu niên sinh sau năm 2000, tức những thế hệ không dính líu gì tới quá khứ chiến tranh và tranh chấp với Trung Quốc trong những thập niên 1970 và 1980. Một việc làm âm thầm nhưng bền bỉ của Nhóm công tác văn hóa trong Bộ giáo dục là sửa đổi lại các sách giáo khoa về phần lịch sử có tranh chấp với Bắc triều, loại bỏ tiếng Anh và thay thế bằng tiếng Quan thoại như sinh ngữ 1. Thời gian đang ưu đãi Trung Quốc vì những thế hệ Cách mạng tháng 8, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đang mai một dần và biến mất. Những thế hệ lớn lên trong chiến tranh Việt Nam - Hoa Kỳ và Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đang cầm quyền không có ưu tư nào về chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc, con cháu của họ không có lý tưởng, chỉ biết tới quyền và tiền.
Có lẽ chính vì vậy, trong lần xuất hiện ngày 16/05/2019 tại Hội nghị Trung ương 10 tại Hà Nội, ngoài ba câu hỏi về định chế : "Có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước hay không ? Đổi mới chính trị có phải là đổi mới chế độ chính trị không ? Có cần phải sửa đổi điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam hay không ?", ông Nguyễn Phú Trọng còn đặt thêm một hỏi có vẻ bâng quơ nhưng qua đó đã phác họa viễn ảnh của một nước Việt Nam mới : "Vậy chúng ta định hướng, hình dung ra nước ta vào năm 2030 sẽ là thế nào ? Đến năm 2045, nước ta sẽ như thế nào ?" (7).
Năm 2030 là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 2045 là kỷ niệm 100 năm ngày cướp chính quyền trong Cách Mạng Tháng 8. Lời nói của một người biết mình đang gần đất xa trời luôn luôn thành thật. Ông Nguyễn Phú Trọng có lẽ là người thấy rõ tương lai Việt Nam qua hai mốc thời gian này. Những gợi ý kỷ niệm 100 năm chỉ là lý cớ, lý do thật sự là bước vào ngưỡng cửa hai mốc thời gian này nước Việt Nam sẽ thuộc về ai và mang tên gì.
Sự lệ thuộc vào Trung Quốc hiện nay mọi người đều rõ, từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh đến văn hóa và giáo dục, không có lãnh vực nào không có dấu ấn bàn tay Trung Quốc. Những cố gắng biện bạch ông Nguyễn Phú Trọng và Đảng cộng sản Việt Nam đang muốn thoát Trung để xích lại gần Mỹ chỉ xuất phát từ những người ở ngoài Đảng hay chống lại đảng cộng sản. Còn những thành phần cán bộ, đảng viên trong guồng máy cai trị, lực lượng vũ trang, kể cả những người đã về hưu hay đang ở tù về tội tham nhũng, đều răm rắp trung thành và chấp hành những mệnh lệnh của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cũng không phải tình cờ danh xưng "tộc Kinh" được báo chí trong nước nhắc tới và đề cao từ năm 2013 (8). Gần đây, tháng 5/2018, một nhóm người Hoa lục địa âm mưu thành lập một cộng đồng tộc Kinh ở một thành phố ngoại ô phía đông Paris nhưng bị cộng đồng người Pháp gốc Việt địa phương phản đối nên đã thất bại. Rất nhiều người lo ngại nước Việt Nam sau này bị đổi tên thành "Khu tự trị người Kinh" hay "Khu hành chính đặc biệt Việt Nam".
Có lẽ phía Trung Quốc đã chuẩn bị khá kỹ càng sự hội nhập Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng của họ. Trong những lần viếng thăm Trung Quốc, ngoài Bắc Kinh các cấp lãnh đạo tối cao trong Đảng cộng sản Việt Nam đều được mời tham quan 4 tỉnh và khu tự trị dọc vùng biên giới phía nam Trung Quốc như : năm 2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được mời thăm tỉnh Hải Nam, nơi có một cộng đồng tộc Kinh sinh sống ; năm 2011, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời tham quan tỉnh Quảng Đông ; năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng được mời tham quan tỉnh Quảng Đông, nơi thiết lập bản doanh của Ủy ban chỉ đạo song phương Việt Nam-Trung Quốc ; năm 2015 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm tỉnh Vân Nam ; năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được mời thăm Khu tự trị người Choang (Tráng) thuộc tỉnh Quảng Tây, nơi có tộc Kinh Tam Đảo sinh sống, và Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông ; năm 2017, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời tham quan tỉnh Chiết Giang thuộc vùng bờ biển phía đông Trung Quốc ; năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang được mời thăm tỉnh Phúc Kiến… Khi mời tham quan những địa danh này, Bắc Kinh muốn cho những cấp lãnh đạo Việt Nam thấy tương lai của Việt Nam sẽ như thế nào khi gắn kết với Trung Quốc.
Trong viễn ảnh từ 5 năm đến 10 năm tới, nếu Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục cầm quyền và nếu sức mạnh kinh tế của Trung Quốc cứ vẫn như hiện nay, chủ quyền Việt Nam sẽ do Trung Quốc nắm giữ và Đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn là một đảng thừa hành, một đảng quan lại tay sai được Bắc Kinh ủy nhiệm cầm quyền. Người Việt Nam nào chấp nhận tương lai đó ?
Phải nghĩ gì về Ban lãnh đạo Đảng cộng sản cầm quyền hiện nay ? Khôn ngoan vì biết lợi dụng Trung Quốc để tạo cho mình bộ mặt phát triển ? Khờ khạo vì bị Trung Quốc lừa đảo để chiếm đoạt hợp pháp nhiều phần lãnh thổ ? Là những hậu duệ, con cháu Hồ Quí Ly đến lúc phải dâng vùng đất đang chiếm đóng cho mẫu quốc ? Phản bội đất nước, phản lại quyền lợi của dân tộc để được Trung Quốc nuôi dưỡng và bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng cộng sản ? Tự nguyện chuyển nhường quyền lãnh đạo và điều hành đất nước có phải là bán nước không ?
Phải làm gì để thay đổi số phận lệ thuộc ?
Chờ đợi Đảng cộng sản Việt Nam công bố nhân sự lãnh đạo mới sau Đại hội 13 để bình luận cho qua ngày ? Hay phải đi tìm một kết hợp chính trị mới để thay đổi nguyên trạng ?
Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (9) của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên có thể là một tài liệu xây dựng đất nước chưa hoàn hảo, nhưng ít ra cũng là những đề nghị hữu ích để những người Việt còn quan tâm đến đất nước tham khảo và đào sâu những khái niệm và biến những lý luận thành hành động.
Trái với lầm tưởng của nhiều người, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên không phải là tập hợp của những trí thức khoa bảng mà là sự kết hợp của những người còn quan tâm đến tương lai đất nước và dân tộc. Đến với Tập Hợp là đến với tình tự dân tộc trong tình anh em tìm lại để cùng nhau thực hiện Giấc mơ Việt Nam chung, trong đó mọi người và mỗi người đều có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau.
Nguyễn Văn Huy
(1) "Về việc phát hiện dầu tại vịnh Bắc Bộ", Nhân Dân điện tử, 17/09/2010
(2) PV, "Hợp tác giữa các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc", Nhân Dân điện tử, 23/03/2019
(3) Bình Nguyên, "Trung đoàn 921 về Yên Bái: Su-22 đoàn KQ Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc", Soha.vn, 24/11/2018
(4) "Tướng Sùng Thìn Cò : Nhiều sông, suối ở biên giới đang bị ô nhiễm", VnExpress, 30/05/2019
(5) Cát Linh, "Phạm Minh Chính và Đặc khu Vân Đồn", RFA tiếng Việt, 19/06/2018
(6) Lan Hương, Hồng Nhung, "Xây dựng Đặc khu Vân Đồn : Khát vọng đổi mới", Báo Quảng Ninh, 01/06/2018
(7) Trần Đình Thu, "Ba câu hỏi, nhiều thông điệp của ông Nguyễn Phú Trọng", BBC tiếng Việt, 19/05/2019
(8) Vương Văn Quang, "Dân tộc Kinh ở Quảng Tây", Nghiên cứu lịch sử, 30/05/2013, Phạm Hoàng Quân dịch
(9) Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, "Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai", Thông Luận, 04/02/2017
Thời gian đang ưu đãi Trung Quốc vì những thế hệ Cách mạng tháng 8, chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ đang dần mai một và biến mất. Những thế hệ lớn lên trong chiến tranh và hiện nay đang cầm quyền không có ưu tư nào về chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc, con cháu của thế hệ này đang thay thế cha anh cầm quyền chỉ biết tới quyền và tiền.
---------------------------
Mục lục
73 Năm Nhìn Lại : Miền Nam trong những ngày định mệnh tháng Tám và Chín 1945
Không có lực lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh niên Tiền phong làm lực lượng xung kích, qua sự lừa đảo tập thể những người trẻ chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của miền Nam này và họ đã thành công, giống hệt như ở Hà Nội, họ đã lợi dụngvà cướp ngang cuộc biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng hội Công chức, được tổ chức để mừng độc lập và ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim, không phải để ủng hộ Việt Minh.
Việt Minh sử dụng lực lượng Thanh niên Tiền phong như lực lượng xung kích
- "Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Sài Gòn, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị".
Huỳnh Văn Phương, Đệ Tứ
Tổng Giám Đốc Công An Nam Kỳ
- "Thấy hôn ! Tôi không ăn có với kỷ niệm tưng bừng mà "xin cho tôi can", đừng nói quá lắm về tài giỏi mà như ông bà ta biểu, "nói năng phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa".
Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn mà thắng lợi là cũng nhờ có cơ hội, điều kiện giúp cho nó mà thôi.
Coi, tôi là người tổ chức cướp chính quyền mà thiệt ra tôi có làm được gì nhiều đâu".
Nguyễn Văn Trấn, Hung thần Chợ Đệm
(Hồi Ký Viết cho Mẹ và Quốc hội)
"…Người Việt Nam nào đảm đương được và có hy vọng thành công, chúng tôi sẵn lòng tán trợ… Nghĩa là lúc nào chúng tôi cũng vẫn đặt nền độc lập quốc gia lên trên vấn đề quyền tước…
Giết thì cứ giết nhưng đừng kêu qua là Việt gian".
Hồ Văn Ngà
Chủ tịch Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng
Mặt trận Quốc gia Thống nhứt
"…hàng triệu truyền đơn do Việt Minh tung ra, tự xưng là bạn với Nga, với Tàu, với Mỹ, và với Anh…".
Nguyễn Kỳ Nam
Hồi ký 1925-1964
Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ Lâm
thời sau phiên họp Chính phủ đầu tiên (3/9/1945)
Khi nói tới hai biến cố Việt Minh cướp chính quyền và Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập thời cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1945, những ngày người viết gọi là "định mệnh đầy đau thương của dân tộc Việt Nam", bình thường người ta chỉ nghĩ tới những gì xảy ra ở hai miền Bắc và miền Trung mà ít hay không nói tới những gì xảy ra ở miền Nam. Đây là một thiếu sót vô cùng quan trọng cần phải được điều chỉnh.
Bài này nhằm phần nào bổ khuyết cho sự thiếu sót kể trên với phần mở đầu nói về sự khác biệt giữa xứ Nam Kỳ và hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tiếp theo là những gì đã xảy ra ở Nam Kỳ trong những ngày những ngày định mệnh này.
***************
1. Khác biệt giữa Nam kỳ với Bắc kỳ và Trung kỳ
Khác với Bắc kỳ và Trung kỳ, Nam kỳ từ sau hai năm 1862 và 1867, rồi 1874 đã là thuộc địa của người Pháp, do đó nằm ngoài thẩm quyền cai trị của Hoàng đế Việt Nam và Triều đình Huế, từ đó bị tách rời khỏi hai phần còn lại của đất nước. Nhưng đó chỉ là về lý thuyết. Trên thực tế người Việt miền Nam vẫn luôn luôn coi mình là người Việt Nam và lúc nào cùng hướng lòng mình về cố quốc, đúng như Nguyễn Đình Chiểu đau đớn triền miên, khắc khoải và thất vọng, tâm sự qua bài thơ viếng Phan Thanh Giản :
Ải Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu
Cho tới ít ra là năm 1954 và nhiều năm sau đó, người Nam vẫn tự nhận mình là Người Việt, còn gọi người Bắc là người Bắc. Họ đã nhiệt tâm và liên tục, bằng cách này hay bằng cách khác, thế hệ này sang thế hệ khác, ủng hộ các cuộc đấu tranh chung cho nền độc lập và Thống nhứt của cả dân tộc, điển hình là các phong trào Đông Du và Duy Tân với các nhà ái quốc tiền bối Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, rồi sau này là vận động hướng về quá khứ của các sinh viên Nam Kỳ "du học" ở Đại học Hà Nội trong nửa đầu của thập niên 1940. Đây là một nét đẹp nằm sâu trong tâm tư của người dân Nam Kỳ đối với hai phần còn lại của nước Việt Nam, nói chung, và đối với cuộc chiến đấu giành độc lập và Thống nhứt quốc gia trong thời gian này, nói riêng.
Về điểm này Luật sư Hoàng Cơ Thụy, tác giả Việt Sử Khảo Luận, người có mặt ở Nam Kỳ trong những ngày này đã viết như sau :
"Dân chúng Nam Kỳ mặc dầu đã Tây hóa rất nhiều, song phản ứng rất hào hứng và đầy thiện cảm với bản tuyên ngôn độc lập của vua Bảo Đại.
[…]
Toàn dân rất xúc động về nạn chết đói thê thảm ở Bắc Việt, nên hô hào tổ chức chở gạo để cứu đói.
Vậy nếu chưa có Thống nhứt về pháp lý, thì đã có Thống nhứt trong tâm hồn" (1).
Điều khác biệt là ở Nam Kỳ giới trí thức du học ở Pháp về đã đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị trong tiền bán thế kỷ 20, bên cạnh hai tôn giáo lớn mang nặng tính cách Việt Nam là Cao Đài và Phật giáo Hòa hảo. Hai tôn giáo này đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng, đặc biệt là quần chúng nông thôn. Nói cách khác, các vận động giải phóng dân tộc ở đây đa dạng hơn ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ rất nhiều. Ảnh hưởng của cộng sản Đệ Tam Quốc Tế với Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Trần Văn Thạch... từ đầu, hay luôn cả ảnh hưởng của Việt Minh sau này, so với nhóm Đệ Tứ của Tạ Thu Thâu có thể nói là rất yếu ớt, không mạnh như ở miền Bắc.
Về sự khác biệt này, Nguyễn Long Thành Nam, tác giả của Phật giáo Hòa hảo trong dòng Lịch sử dân tộc đã ghi nhận như sau :
"Quần chúng miền Nam không bời rời như ở miền Bắc, mà đã thực sự đoàn ngũ hóa trong hai tổ chức tôn giáo quan trọng là Cao Đài và Phật giáo Hòa hảo. Quần chúng đoàn ngũ hóa bao giờ cũng có năng động tính và sẵn sàng để nhập cuộc hơn là quần chúng tâm lý mà không có tổ chức. Các đảng cách mạng xuất hiện tại miền Bắc như Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Duy Dân có thể được sự đồng minh ngưỡng mộ của quân chúng, nhưng không thể chuyển động mau chóng khối quần chúng đó vào đấu tranh, vì chưa thực hiện được bước sơ khởi là đoàn ngũ hóa quần chúng.
Ngoài ra, tại miền Nam các tổ chức cách mạng mang hình thức tôn gíáo, cho nên quy tụ được đông đảo quần chúng, trong khi tại miền Bắc, các tổ chức cách mạng mang hình thức chánh đảng, cho nên sự quy tụ đảng viên giới hạn hơn.
Ngoài hai tổ chức tôn giáo Cao Đài, Phật giáo Hòa hảo ở vào tư thế đã đoàn ngũ hóa và sẵn sàng chiến đấu, tại miền Nam lúc đó còn có phong trào Thanh niên Tiền phong, và vài tổ chức võ trang, tuy ít người nhưng cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để nhập cuộc chiến đấu. Đó là tổ chức Bình Xuyên, tổ chức Nghĩa sĩ đoàn, tổ chức Thanh niên ái quốc đoàn, tổ chức Dân quốc quân của Việt Nam Quốc dân dảng miền Nam, nhóm Đệ Tứ, đảng Quốc gia Độc lập với thành phần trí thức miền Nam.
Riêng đảng Cộng sản đệ tam rất yếu thế tại miền Nam, lúc đó chưa có quần chúng tổ chức, chưa có đơn vị võ trang, chỉ mới có một số cán bộ là Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, sau được tăng cường lớp cán bộ vừa được thả ra từ các khám đường như Lê Duẩn, Phạm Hùng được chỉ thị ở lại miền Nam hoạt động, chớ không về thẳng miền Bắc" (2).
2. Mặt trận Quốc gia Thống nhứt
Trong bối cảnh chánh trị kể trên, ngày 14 tháng 8 năm 1945, năm ngày trước biến cố 19 tháng 8 ở Hà Nội, Mặt trận Quốc gia Thống nhứt được thành lập với thành phần gồm có Việt Nam Quốc gia độc lập đảng, Liên đoàn Giáo chức, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Hòa hảo, Cao Đài, nhóm trí thức Đệ Tứ hay quen gọi là Nhóm tranh đấu...
Cương lĩnh của Mặt trận là chống Pháp, chống thực dân và ngày chính thức ra mắt dân chúng là ngày 21 tháng 8 trong một cuộc biểu tình qui tụ 200.000 người thuộc đủ mọi từng lớp theo lời kêu gọi của người cầm đầu là Hồ Văn Ngà của Việt Nam Quốc gia độc lập đảng kéo tới ủng hộ. Một bản tuyên ngôn cũng được phổ biến trên báo chí. Mặt khác, để phòng ngừa quân Pháp trở lại các tổ chức đấu tranh miền Nam còn thành lập bốn sư đoàn dân quân cách mạng bằng cách võ trang quần chúng do các đoàn thể có khả năng như Phật giáo Hòa hảo, Cao Đài, Việt Nam Quốc dân đảng, Bình Xuyên… tự đảm nhiệm.
Tất cả các nỗ lực kể trên đều không mang lại kết quả mong muốn. Phe cộng sản Đệ Tam đã chờ sẵn và đã mau chóng cướp được chính quyền và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác.
Nhận xét về Mặt trận Quốc gia Thống nhứt vào thời điểm này, tác giả Nguyễn Long Thành Nam, cũng là một tín đồ Hòa hảo rất tích cực đương thời và sau này, đã viết :
"Sơ hở căn bản của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt là không nắm lấy chính quyền trong lúc có phong trào quần chúng ủng hộ như thế. Thành ra chỉ khơi động phong trào, tạo không khí thuận lợi, để cho Việt Minh xen vào phỗng tay trên, tuyên bố thiết lập Lâm ủy Hành chánh Nam bộ lãnh đạo đấu tranh, chỉ bốn ngày sau cuộc biểu tình vĩ đại đó" (3).
Còn Nguyễn Kỳ Nam, ông này đã ghi chi tiết hơn :
"Vừa hay tin Nhựt đầu hàng, ông Hồ Văn Ngà đứng ra kêu gọi các đảng phái chánh trị đoàn kết lại.
Ngày 14 tháng 8, các đảng phái đáp lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà, đoàn kết sau Mặt trận Quốc gia Thống nhứt.
Trong thời kỳ nghiêm trọng nầy, Nhựt đầu hàng, Đồng Minh sẽ đến tước khi giới, Pháp làm sao không "đòi" Nhựt trả chủ quyền cho họ, nên đoàn kết là một phương pháp đấu tranh, một vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
Nhưng dân chúng đặt vấn đề đoàn kết rất giản dị : nắm tay nhau tranh đấu chống Pháp, chống thực dân. Có thế thôi.
Không một ai chịu ngó xa thêm một chút nữa :
- Ai lãnh đạo đoàn kết ?
- Đóng góp vào đoàn kết đến độ nào ?
- Phân công làm sao cho công bằng ?
- Phương pháp đoàn kết trong tinh thần nào ?
Lúc đó các đảng phái quốc gia chỉ nghĩ có 3 mục đích :
- Chống Đế quốc Pháp,
- Chống thực dân,
- Bảo vệ an ninh và bài trừ phản động.
Họ không bao giờ nghĩ đến Cộng sản Đệ tam đang ở trong bóng tối chực cướp công cuộc kêu gọi đoàn kết, thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhứt của cánh Quốc gia. Cho nên sau lời kêu gọi Thống nhứt của ông Hồ Văn Ngà, tức thì tất cả các đảng phái chính trị, tôn giáo nhất tề đứng dậy.
Việt Nam Quốc gia Độc lập đảng, Thanh niên Tiền phong, Nhóm trí thức, Liên đoàn Công chức, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Hòa hảo, Cao Đài giáo v.v…
Đồng thời nhóm Đệ tứ, thường gọi là nhóm Tranh đấu, cũng xin gia nhập Mặt trận.
Một bản tuyên ngôn đăng tải trên các báo Thủ đô.
Đồng bào rất có cảm tình với các đảng chính trị, nên nhiệt liệt hoan nghinh Mặt trận Quốc gia Thống nhứt. Thấy phong trào đang lên cao, Mặt trận liền đứng ra tổ chức một cuộc biểu tình để biểu dương lực lượng quốc gia.
Thế là ngày 21 tháng 8, hai trăm ngàn người gồm đủ các giới nghe theo lời kêu gọi của Mặt trận, tham gia cuộc biểu tình và tuần hành qua các đường lớn.
Như vậy, đến giờ phút nầy, nào thấy có mặt Cộng sản ?
Mà có mặt Cộng sản, chưa chắc có cuộc biểu tình trong vòng trật tự như vậy.
Nếu ngay bây giờ, mà có người lãnh đạo Mặt trận thì chánh quyền đã về Mặt trận Quốc gia Thống nhứt rồi.
Hồ Văn Ngà… lại viết trên mặt báo rằng :
"…Người Việt Nam nào đảm đương được và có hy vọng thành công, chúng tôi sẵn lòng tán trợ…
"Nghĩa là lúc nào chúng tôi cũng vẫn đặt nền độc lập quốc gia lên trên vấn đề quyền tước…" (4).
Cũng về cuộc họp ngày 14 tháng 8, Nguyễn Kỳ Nam cho biết thêm là trong những ngày đầu, tại trụ sở của Mặt trận ở đường Léon Combes, sau này là đường Alexandre de Rhodes, mỗi đêm đều có nhóm họp và có người nói đến Việt Minh. Nhưng Việt Minh là ai ? Ở đâu ? Chẳng một ai biết.
Đại biểu các đảng phái đề nghị nên tìm Đại biểu Việt Minh đặng mời gia nhập Mặt trận.
Phan Văn Hùm (nhóm Tranh đấu) tình nguyện lãnh sứ mạng đi liên lạc với Việt Minh.
Huỳnh Phú Sổ thản nhiên cuời và nói một cách nửa chơi nửa thiệt :
- …thì Việt Minh có đâu đây, chớ cần gì phải kiếm ?
Té ra có Trần Văn Giàu, đứng trong hàng ngũ Đảng Quốc gia độc lập mà không ai ngờ Giàu là Đại biểu Việt Minh ở Nam bộ.
Và mọi người đều biết rõ dĩ vãng của Trần Văn Giàu.
Hồi 1943, Trần Văn Giàu có đến nhờ anh em cho gia nhập và nhờ can thiệp với nhà đương cuộc Nhựt, bảo đảm cho Giàu để anh ta dễ bề hoạt động.
Lúc đó, Giàu bị nhà chức trách truy nã, nên phải bỏ Bà Rịa trốn vào Sài Gòn.
Anh em trong Việt Nam Quốc gia độc lập đảng không thể nhận điều kiện của Giàu mặc dầu Giàu đã cam kết trên giấy trắng mực đen rằng : "Tôi bỏ hàng ngũ Cộng sản về với Quốc gia", Giàu ký tên hẳn hòi trên lời cam kết đó.
3. Lâm ủy Hành chánh xuất hiện
Nhờ len lỏi được vào Mặt trận Quốc gia Thống nhứt để trở thành "một cán bộ được trọng dụng và đắc dụng" (5) như trên, Trần Văn Giàu đã hiểu rõ được nhược điểm không có người lãnh đạo của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt này và lợi dụng cơ hội khi thời cơ đến. Hậu quả là ngày 25 tháng 8, Lâm ủy Hành chánh "tự mình ra mắt đồng bào với Trần Văn Giàu đứng đầu sổ, làm Chủ tịch gồm 9 người, phần đông đều là cán bộ cộng sản" (6).
Theo Nguyễn Kỳ Nam, tất cả xảy ra trong vài ngày sau cuộc biểu tình 21 tháng 8, bắt đầu bằng sự kiện hàng triệu truyền đơn do Việt Minh tung ra, tự xưng là bạn với Nga, với Tàu, với Mỹ, và với Anh… và :
"Ngủ qua một đêm, sáng ngày đồng bào Thủ đô thức dậy lấy làm ngạc nhiên thấy khắp trên đường treo đầu biểu ngữ : "Chánh quyền về Việt Minh".
Không một ai hiểu gì ráo !
Chính các lãnh tụ tham gia trong Mặt trận Quốc gia Thống nhứt cũng ngẩn ngơ…
Họ hỏi với nhau :
- Việt Minh là ai ?
- Ai cho Việt Minh nắm chánh quyền, mà bảo rằng : chánh quyền về Việt Minh ?
Đang lúc bối rối và phân vân ấy, nhiều truyền đơn khác tung ra : Kêu gọi đồng bào tham gia cuộc biểu tình ngày 28 tháng 8… dưới ký tên Việt Minh.
Mặt trận Quốc gia Thống nhứt liền triệu tập Đại hội.
Thì ra thiếu mặt "Thanh niên Tiền phong".
Mà Thanh niên Tiền phong là một lực lượng đáng kể được cảm tình nồng hậu nhất của dân chúng.
Không dự Đại hội của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt, Thanh niên Tiền phong còn dán yết thị, treo biểu ngữ, rải truyền đơn xác nhận, kể từ chiều ngày 22 tháng 8 : "Thanh niên Tiền phong gia nhập Mặt trận Việt Minh".
Bây giờ các lãnh tụ quốc gia mới hiểu ý nghĩa của lá cờ vàng sao đỏ… để sau đổi thành cờ đỏ ngôi sao vàng. Và Phạm Ngọc Thạch, lãnh tụ Thanh niên Tiền phong lại là cán bộ cộng sản.
Thế là, bên cánh Quốc gia mất đi nửa lực lượng.
Uy tín của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt bị tổn thương vì Việt Minh.
Nói đến "Thanh niên Tiền phong", người nhớ kẻ không.
Còn bạn trẻ, thì hầu hết, chỉ nghe nói lại thôi.
Phong trào Thanh niên Tiền phong quả thật là một phong trào quốc gia có một lực lượng hùng hậu, một tinh thần dũng cảm, một hy sinh đáng kể, một chủ trương tân tiến được đồng bào trong Nam triệt để ủng hộ ; vì Thanh niên Tiền phong sẵn sàng hiến thân cho Tổ quốc !
Thanh niên Tiền phong là một phong trào phổ biến sâu rộng trong dân chúng. Nó có một lịch sử vẻ vang mà tất cả mọi người phải công nhận : đó là phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ nhứt trong Nam" (7).
Có điều người lãnh đạo của tổ chức này, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, là người của cộng sản Đệ Tam nằm vùng. Ông này đã lái Thanh niên Tiền phong đi theo hướng khác.
Nguyễn Long Thành Nam cũng ghi nhận sự bất ngờ của người dân Sài Gòn trước sự xuất hiện của Lâm ủy Hành chánh như sau :
"Sáng ngày 25/08/1945, nguời dân Sài Gòn mới thức dậy nhìn thấy một cây trụ lớn sơn màu đỏ chói đặt tại "Bồn Kèn" tức ngã tư đường Charner (Nguyễn Huệ sau này) và Bonard (Lê Lợi sau này) liệt kê danh sách cơ quan chánh quyền miền Nam với danh nghĩa Ủy ban Hành chánh Nam bộ Lâm thời gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh.
Sự xuất hiện thật là đột ngột, báo chí không hề loan tin trước, dân chúng cũng không hề nghe đến một cuộc bầu cử hay chuẩn bị nào. Lại là một cây trụ sơn màu đỏ chói như màu máu, đập vào mắt mọi người qua lại. Đây cũng là một lối đánh úp, đánh du kích của Cộng sản, bất ngờ tạo ra một thay đổi đột ngột như cờ Việt Minh xuất hiện đột ngột tại cuộc biểu tình 17/08/1945 tại Hà Nội, và đặt dư luận cũng như các tổ chức đấu tranh trước một "đã rồi". Những người ngạc nhiên nhất là các chiến sĩ trong cơ quan lãnh đạo Mặt trận Quốc gia Thống nhứt. Họ không hề được tham khảo ý kiến về việc thành lập Lâm Ủy và thành phần của nó, mặc dầu mới vài ngày trước Mặt trận Quốc gia Thống nhứt do sự yêu cầu của Trần Văn Giàu, đã chấp nhận cho Giàu tham gia để có sự đoàn kết rộng rãi mà ứng phó hữu hiệu với thời cuộc.
Thành phần của Lâm ủy Hành chánh Nam bộ gồm có chín ủy viên mà hết bốn ủy viên là cộng sản, bốn ủy viên thân cộng, chỉ có một độc lập.
Trần Văn Giàu, chủ tịch kiêm Ủy trưởng Quân sự.
[…] Tất cả quyền hành đều tập trung vào tay Trần Văn Giàu, nghĩa là vào Độc tài Cộng sản Đệ Tam Quốc tế, chớ không phải là một Chính phủ Liên hiệp (không có một đại diện nào của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt).
Các lãnh tụ Mặt trận Quốc gia Thống nhứt bất bình, nhưng đã quá trễ. Đảng Cộng sản đã đi trước một nước cờ quan yếu. Đồng thời Trần Văn Giàu hạ một đòn độc đâm vào sau lưng Mặt trận Quốc gia Thống nhứt : Phạm Ngọc Thạch, lãnh tụ Thanh niên Tiền phong, ra thông cáo tuyên bố rằng tổ chức Thanh niên Tiền phong đã rút khỏi Mặt trận Quốc gia Thống nhứt và từ nay gia nhập Mặt trận Việt Minh" (8).
Theo Nguyễn Trọng Xuất, trong bài "Một quyết định mang tính lịch sử" in trong Trần Văn Giàu dấu ấn trăm năm, Trần Văn Giàu và phe cộng sản đã bàn tính cướp chính quyền ngay từ giữa tháng 8, trong buổi họp tối ngày 15 tháng 8 của Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do Trần Văn Giàu triệu tập ngay sau khi được tin Nhật Bản đầu hàng, ở Chợ Đệm và lập kế hoạch nổi dậy vào đêm 17 hay 18, đồng thời thành lập Ủy ban Khởi nghĩa gồm 6 người với Trần Văn Giàu làm chủ tịch và Huỳnh Văn Tiểng làm ủy viên thường trực rồi đêm 16 họp Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng để thông qua kế hoạch này. Cuộc họp không suông sẻ vì có hai nhóm đối nghịch nhau về quyết định nổi dậy hay không, khiến Trần Văn Giàu phải cho ngưng lại và đặt câu hỏi "Nếu Hà Nội khởi nghĩa thì trong Nam ta phải làm gì ?". Kết quả là Hội nghị mở rộng họp lại lần thứ hai vào sáng ngày 21 rồi đặc biệt lần thứ ba vào sáng ngày 23, sau khi Tân An thành công cướp được chính quyền một cách suông sẻ, không bị quân Nhật ngăn cản, kèm với tin Đại tá Cédile đã nhảy dù xuống Tây Ninh để cuối cùng đêm 24 quyết định sẽ biểu tình tuần hành vào sáng hôm sau 25 tháng 8, đồng thời thành lập Ủy ban Hành chánh Lâm thời, gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh với Trần Văn Giàu làm Chủ tịch (9).
Cũng trong tác phẩm Trần Văn Giàu dấu ấn trăm năm, Tiến sĩ Sử học Phan Văn Hoàng trong bài "Cùng nhau xông pha lên đàng" cũng cho biết thêm nhiều chi tiết về các hoạt động của cộng sản dưới danh nghĩa Việt Minh và Thanh niên Tiền phong trong những ngày này. Chẳng hạn như trong buổi lễ truy điệu Nguyễn An Ninh ngày 20 tháng 8, do Thanh niên Tiền phong tổ chức, Tôn Đức Thắng, "một thanh niên cách mạng, một đảng viên của Nguyễn Ái Quốc, hiện bị 20 năm tù ngoài Côn Đảo" ngay lúc mở đầu đã được bầu làm chủ tịch danh dự và Phạm Ngọc Thạch là chủ tịch. "Diễn giả là Nguyễn Văn Tạo, một cán bộ cộng sản kỳ cựu".
Mặt khác, căn cứ vào báo Điện Tín, Tiến sĩ Phan Văn Hoàng cho biết thêm là lần đầu tiên người Nam Bộ được nghe tiếng hô "Vạn tuế Việt Minh" là sau buổi lễ truy điệu Nguyễn An Ninh đêm 20 tháng 8 tại rạp Nguyễn Văn Hảo. Đêm hôm sau, cũng tại rạp Nguyễn Văn Hảo, Liên đoàn Công chức tổ chức buổi diễn thuyết với Trần Văn Giàu là diễn giả. Trong buổi diễn thuyết này, Trần Văn Giàu đã đưa ra nhận định của Đảng cộng sản là "Không phải một mình Đảng đem lại sự độc lập cho Việt Nam [mà] cần phải có nhiều đồng bào, nhiều chánh đảng yêu nước tham dự" và "Xét như vậy, Đảng cộng sản mới kêu gọi tất cả các đảng yêu nước, tất cả dân chúng liên hiệp lại làm một Mặt trận để chống bọn đế quốc xâm lăng, để mưu đồ cuộc độc lập hoàn toàn cho nước nhà. Mặt trận ấy là Việt Nam độc lập đồng minh, tức Việt Minh…" bên cạnh nhiều hoạt động khác của Trần Văn Giàu (10).
Hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam thì lại nói hoàn toàn khác. Theo Nguyễn Kỳ Nam :
"Nắm chánh quyền được 5 ngày, từ 25 tới 30 tháng 8, Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ mở phiên nhóm Khoáng Đại hội Nghị, có đủ các Đảng phái Chánh Trị tham gia.
Buổi nhóm đó, có các ký giả.
Tôi không bao giờ quên những câu hỏi và những câu trả lời của Trần Văn Giàu.
Tôi cũng không bao giờ quên khi Trần Văn Giàu mặc áo sơ mi đứng lên, tay mặt đập mạnh vào khẩu súng lục nhỏ mang ở bên hông, để trả lời một câu hỏi của Trần Văn Thạch.
Nghe và thấy vậy, làm sao không sợ ?
Nhứt là người đứng lên trả lời đó là một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Đệ tam.
Không run, không sợ làm sao… khi mà sáng tinh sương ngày 25 tháng 8, từ nhà xuống toà báo, đi qua "Bồn kèn" trước Sạc Ne, tôi trong thấy một trụ lớn và vuông, bốn mặt sơn đỏ lòm, kẻ chữ vàng, danh sách những người được chọn vào Lâm ủy Hành chánh, đứng đầu là Trần Văn Giàu.
Buổi nhóm Khoáng đại Hội nghị hôm đó, Lâm ủy Hành chánh để lộ chân tướng "sát nhơn" rõ rệt.
Tôi nhớ 2 người chất vấn : Huỳnh Phú Sổ và Trần văn Thạch.
Huỳnh Phú Sổ - Phật giáo Hòa hảo - mà cũng là lãnh tụ đảng Việt Nam Vận động hội - tôi sẽ nói sau này.
Bây giờ, tôi xin nói trường hợp của Trần Văn Thạch – nhóm Đệ Tứ - trước.
Thạch chất vấn Giàu :
- Ai cử Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ ?
Thạch chất vấn như vậy là phải, vì như trên đã nói, ngủ một đêm sáng ngày bừng mắt dậy, bỗng dưng thấy danh sách Lâm ủy Hành chánh, kẻ chữ trên một trụ đỏ lòm, không biết ai cử Lâm ủy Hành chánh ? Và cử hồi nào ?
Trần Văn Giàu đứng dậy trả lời :
- Anh Thạch, tôi biết anh muốn nói gì rồi. Anh hỏi : "Ai cử Ủy ban Hành chánh", chớ thật ra trong bụng anh nghĩ : Ta giỏi như vầy mà không ai đem ta vào Lâm Ủy". Vậy tôi xin trả lời : "Chúng tôi tạm thời đảm đương chính phủ. Trong giai đoạn này. Sau rồi, chúng tôi giao lại các anh. Còn trả lời về chánh trị, tôi sẽ gặp anh ở một nơi khác".
Trần Văn Giàu vừa nói câu sau vừa để tay mặt nơi cây súng sáu" (11).
Viết về Trần Văn Giàu và biến cố Việt Minh cướp chính quyền ở miền Nam, phía những người cộng sản, kể cả các nhà nghiên cứu hay sử học đã dùng các từ ngữ vô cùng hoa mỹ như "tinh thần sáng tạo", "chủ động", "bản lĩnh, trí tuệ" để ca ngợi (12). Nguyễn Văn Trấn, một lãnh đạo cộng sản cao cấp đương thời, quê ở Chợ Đệm là nơi Xứ ủy Nam Kỳ họp ba đêm liền, 21, 22 và 23 tháng 8, để sửa soạn cho ngày cướp chính quyền 24 tháng 8, người sau này được cử làm Giám đốc rồi Ủy trưởng Quốc gia Tự vệ cuộc và cũng tự nhận là "Người tổ chức cướp chính quyền ở Sài Gòn", đồng thời được mệnh danh là "Hung thần Chợ Đệm", lại cho biết những chi tiết khác hơn khi ông viết kể lại chuyện này vào năm 1995, tức nửa thế kỷ sau, "để cho rõ vài chuyện lịch sử bị kể méo", theo lời ông, như sau :
"Cái năm 1945 năm mà cái chủ nghĩa háo danh nó làm kỷ niệm rập rình, bắt tôi, trái với lòng hết sức, nhưng vì nợ nuớc phải rập theo.
Rập theo khoe không phải vì công khanh mà để cho rõ vài chuyện lịch sử bị kể méo.
Người tổ chức cướp chánh quyền ngày 25 tháng Tám, ở Sài Gòn là chính tôi đây, chớ tôi không có ai ở trên đầu để tôi làm phó. Sử gia hãy nghe tôi nói lại.
Một buổi chiều (nhớ chắc là ngày 24 chớ không thể là vào ngày khác được, tại nhà số 6 Colombert tôi thay mặt cho Cộng sản, họp với Huỳnh Văn Tiểng mà tôi gọi là người "lãnh đạo Thanh niên Tiền phong của Tân dân chủ đảng", với Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quang, ông Đội Hưng ở Caserne Lelièvre, (gần bên thơ viện), Sơn Xuyên và Chín Bội của Brigade mobile Chí Hòa. Mấy vị lính này là bạn của tôi qua công tác binh vận mà trách bương bả.
Hôm đó tôi nói kế hoạch và phân công. Và cũng muốn làm oai chơi nên đề nghị các đoàn thanh niên của anh em dân chủ chịu trách nhiệm những chỗ quan trọng mà cuộc khởi nghĩa nào của thành phố cũng đền nghĩ tới trước nhứt. Những chỗ đó là : Nhà đèn, Đài phát thanh, Khám lớn, Nhà dây thép, các trại lính.
Đằng anh em kêu, nhiệm vụ như vậy nặng quá, làm không nổi, cho lãnh những chỗ vừa vừa.
Tôi nói vừa vừa là dinh Thống đốc, là đài phát thanh… ?
Có người nào đó nói : hai chỗ đó, lính Nhựt còn cả tiểu đội chớ vừa gì ?
Tôi nói :
Thật ra như mùa lúa chín, ta rung nó rụng thôi. Mà thế lực của ta là : Ở cơ quan, công sở nào cũng có Thanh niên Tiền phong hai màu cờ. Hôm qua cờ vàng hoan hô Khâm sai đại thần. Ngày mai cờ vàng, cờ đỏ sánh đôi hô Việt minh vạn tuế.
[…] Trên chóp nón là chính tôi, chin Bôi và Kiều Tấn Lập.
Và Nguyễn Văn Trấn kết luận :
"Thấy hôn ! Tôi không ăn có với kỷ niệm tưng bừng mà "xin cho tôi can", đừng nói quá lắm về tài giỏi mà như ông bà ta biểu, "nói năng phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa".
Cách mạng tháng Tám ở Sài Gòn mà thắng lợi là cũng nhờ có cơ hội, điều kiện giúp cho nó mà thôi.
Coi, tôi là người tổ chức cướp chính quyền mà thiệt ra tôi có làm được gì nhiều đâu" (13).
Điều cần phải tìm hiểu là trong hồi ký của ông, Nguyễn Văn Trấn đã không hề nói tới ba cuộc họp vô cùng gay cấn để quyết định có nên khởi nghĩa hay không của Thường vụ Xứ ủy ở Chợ Đệm, quê hương ông. Câu hỏi được đặt ra là tại sao ? Xin để các độc giả tự tìm câu trả lời.
Riêng về thế lực của phía quốc gia, Nguyễn Văn Trấn viết :
Cơ sở giai cấp, nền tảng Mặt trận Quốc gia Thống nhứt của chánh quyền khâm sai Nguyễn Văn Sâm, có đó và không phải yếu.
Ông ta nè, hội đồng Bền chủ hãng xà bông Việt Nam nè, Kha Vạng Cân chủ lò đúc "Cân et Vang" nè (xin nói chừng ấy với tánh chất đại biểu trí thức tư sản) ;
Trần Văn Ân, đốc phủ Hoài là trí thức địa chủ và quan lại ;
Vậy mà ít ai dám ngồi lại với Khâm Sai. Họ sợ tiếng collabo (14) với phát xít, mà đồng minh sẽ đối xử là tội phạm chiến tranh.
Cho nên một tiếng hét "đả đảo", ngày 25/8 đủ cho ông Sâm nhào. Ghế bỏ trống. Ta leo lên và dựng "Ủy ban hành chánh Nam Bộ (chớ có đâu mà Ủy ban Nhân dân vô duyên) (15).
Có điều ngay trang sau, Nguyễn Văn Trấn lại viết :
"Sự nghiệp của tôi đã cho phép tôi báo cáo với Ủy ban hành chánh rằng : sự thắng lợi quá dễ dàng và chóng quánh của Việt Minh đã làm cho những đảng phái ngoài vòng cảm tình đã có ý muốn cướp lại nhưng họ đã thôi. Tôi coi cái nguyện vọng ấy, của họ như cái trứng chí lép.
Xin đọc kỹ ba chữ "muốn cướp lại" và các chữ "tội phạm chiến tranh" ở đây và đối chiếu với những gì kể lại bởi phía các người quốc gia về biến cố 25 tháng Tám này, đặc biệt là những lời chất vấn Trần Văn Giàu của Trần Văn Thạch thuộc Nhóm Đệ Tứ và Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật giáo Hòa hảo trên đây trong buổi họp khoáng đại ngày 30 tháng 8, cùng sự sợ hãi của những người tham dự khi thấy Trần Văn Giàu tay phải vỗ vào khẩu súng lục đeo bên sườn bên phải khi trả lời Trần Văn Thạch. Một nghi vấn khác cũng cần phải được đặt ra ở đây là có thật có biểu tình cướp các công sở ở Sài Gòn ngày 25 tháng 8 hay không, vì theo các nhân chứng như đã nói trên đây, thì ngủ một đêm, sáng ra "mới thức dậy nhìn thấy một cây trụ lớn sơn màu đỏ chói đặt tại "Bồn Kèn" tức ngã tư đường Charner (Nguyễn Huệ sau này) và Bonard (Lê Lợi sau này) liệt kê danh sách cơ quan chánh quyền miền Nam với danh nghĩa Ủy ban Hành chánh Nam bộ Lâm thời gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh" ?
Cũng Nguyễn Văn Trấn, khi nói về chức xứ ủy Nam Kỳ của Trần Văn Giàu, có viết về một lớp học do Tạ bá Tòng, một sinh viên con nhà giàu quê Sóc Trăng được cha mẹ cho ra Hà Nội học và tham gia Thanh niên Cứu quốc của Lê Quang Đạo, khi về Sài Gòn tổ chức ở nhà Dược sĩ Trần Kim Quang ở Thị Nghè. Lớp học do "anh Sáu", tức Trần Văn Giàu phụ trách, quy tụ được gần bảy chục đoàn viên thanh niên dân chủ, và :
"Học trò mến thầy lại nghe lịch sử của thầy nữa nên suy tôn anh Sáu là bí thư xứ ủy Nam Kỳ, không biết cái xứ ủy ma nào" (16).
4. Có phải vì Nhật thua nên mới trả lại Nam Kỳ cho Chính phủ Trần Trọng Kim không ?
Nhằm phủ nhận thành tích của Trần Trọng Kim và nội các của ông, có người cho rằng sở dĩ người Nhật quyết định trả lại xứ Nam Kỳ cho Việt Nam là vì họ đã thua, trong đó có Nguyễn Văn Trấn. Nguyễn Văn Trấn căn cứ vào ngày dự trù long trọng làm lễ trả và thu nhận lại xứ này là ngày 14 tháng 8 tại Sài Gòn. Điều này (vì Nhật sắp thua) không đúng vi hai lẽ.
Lẽ thứ nhất ngày 14 tháng 8 là sau ngày 9 tháng 8, ngày quả bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki, sau quả bom thứ nhất được thả xuống Hiroshima ngày 6 tháng 8. Sau đó Nhật Bản mới đầu hàng. Trước đó không ai ngờ chuyện này có thể xảy ra sớm như vậy và dù sớm hay muộn, Nhật cũng phải thua nhưng còn có thể cầm cự được cả năm nữa.
Lẽ thứ hai là quyết định trả lại xứ Nam Kỳ cho Việt Nam đã được Thủ tướng Trần Trọng Kim và Tướng Tsuchihashi chấp thuận cả non một tháng trước đó, ở thời điểm không một ai có thể biết là Mỹ sẽ sử dụng bom nguyên tử, ngoại trừ Tổng thống Truman và các cộng sự viên thân tín nhất của ông. Không những thế nhu cầu giữ nguyên trạng, tránh mọi sư lộn xộn ở hậu phương để cho Quân Đội Nhật rảnh tay đối phó với quân Đồng Minh một khi quân Đồng Minh đổ bộ là một nhu cầu của người Nhật. Chính vì thế mà Tướng Tsuchihashi đã dùng dắng lúc đầu.
Cũng nên để ý là các cuộc điều đình đã được thực hiện từ trước khi Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Bắc giữa Ngoại trưởng Trần Văn Chương và giới chức Nhật. Còn về phía Việt Nam, Hoàng đế Bảo Đại qua bản Tuyên chiếu, ngày 11 tháng 6 năm 1945, tức ngày 21 tháng 5 âm lịch, năm Bảo Đại thứ 20, ngày lễ Việt Nam Thống nhứt Đại Khánh, cho biết ông phải "hành động thận trọng và tuần tự", "sau khi "chính phủ phải dự bị cho xong công cuộc tổ chức việc cai trị các lãnh thổ (đã) được phục hồi và thực hành chủ quyền của chính phủ ta trên các lãnh thổ ấy (hai xứ Bắc và Trung Kỳ)". Lý do là vì trong suốt 80 năm trước đó Nam Kỳ là thuộc địa của người Pháp nên hoàn toàn không thuộc thẩm quyền cai trị của Triều Đình Huế, trái với Bắc và Trung Kỳ là các xứ bảo hộ. Chính vì vậy Nhà Vua đã "cảm ơn quan chức Nhật-bản đã tạm cai quản những lãnh thổ kia từ ngày mồng chín tháng ba dương lịch, và đã sẵn sàng chỉ đợi chính phủ tuân theo ý Trẫm, dự bị hoàn toàn, là sẽ trả lại quyền cai trị tất cả đất nước Việt-nam cho chính phủ Việt-nam" (17). Vấn đề như vậy không đơn giản như phía cộng sản nhận định và tuyên truyền.
5. Dân Miền Nam vẫn còn quý trọng Nhà Vua và tôn trọng vị Khâm sai của Triều đình.
Đây là một thực tại lịch sử khác ta cần phải để ý. Nó giúp ta hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra ở miền Nam không riêng vào thời điểm 1945 mà luôn cả những năm cuối của thập niên 40 của thế kỷ 20. Ít nhất có ba sự kiện đã chứng minh thực tại này.
Thứ nhất : Lễ Hưng Quốc Khánh Niệm 11 tháng 6 năm 1945, ngày Vua Gia Long thống nhứt sơn hà, đã được long trọng cử hành tại Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn, rất đông người tham dự.
Thứ hai : Ngày 3 tháng 7 năm 1945, 38 sinh viên đại diện trường huấn luyện Thanh niên Tiền phong đã ra Huế và đã được Vua Bảo Đại tiếp kiến. Nguyễn Kỳ Nam lúc đó có mặt ở Huế với tư cách đặc ủy viên của Bộ Tư pháp của Luật sư Trịnh Đình Thảo đã kể lại buổi lễ như sau :
"Cuộc tiếp rước đơn giản mà trọng thể tại lầu Kiến Trung, nhà vua không tiếc lời ban khen nồng nhiệt và nhắc nhở trách vụ của thanh niên trong giai đoạn tranh giành độc lập, và kiến thiết quốc gia.
Do đề nghị của Chính phủ Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại ban Sắc, chuần cho Phạm Ngọc Thạch sung chức Xứ trưởng thanh niên và đại diện Bộ trưởng thanh niên Phan Anh ở Nam Kỳ (18).
Thứ ba : Khâm sai Đại thần Nguyễn Văn Sâm, sau khi đã bị Việt Minh ngăn chặn, kể cả bị bắt, khi trên đường đầy gian nan, nguy hiểm, từ Huế vào Sài Gòn nhậm chức vào lúc tình hình đã có nhiều biến chuyển, vẫn được đồng bào Nam Kỳ long trọng đón tiếp.
6. Dân chúng đứng chật hai bên đường từ Đất Hộ (Dakao) về tới đường Lagrandière (Gia Long) dinh Thống đốc để đón mừng vị Khâm sai đầu tiên của triều đình sau tám mươi năm ngoại thuộc
Nguyễn Kỳ Nam, như đã nói ở trên, lúc đó là đặc ủy viên của Bộ Tư pháp của Bộ trưởng Trịnh Đình Thảo trong Chính phủ Trần Trọng Kim, là người tháp tùng Nguyễn Văn Sâm và, vì không tin người tài xế, đã lái xe cho ông này trong đoạn cuối của chuyến vô Sài Gòn nhậm chức, đã ghi lại sự đón tiếp nồng hậu mà vị Khâm Sai này nhận được khi qua khỏi Phan Thiết, tiến vào địa phận Nam Kỳ như sau :
Đường về Nam Bộ, xe Khâm sai qua khỏi ranh Phan Thiết là gặp những khải hoàn môn dựng trước công sở, đón tiếp nồng hậu.
Bây giờ, tôi mới biết mình còn sống.
Tôi ngừng xe lại. Mà xe ngừng ở giữa 2 bên mé rừng làm cho ông Nguyễn Văn Sâm ngạc nhiên.
- Sao anh không chờ tới chỗ đông người…
Tôi mở cái "cốp" xe Ford, lấy lá cờ quẻ ly, đem treo trước đầu xe. Diệp Ba mỉm cười.
- Họ đã xé lá cờ lúc tới Khánh Hòa, tại sao anh còn lá cờ nầy ?
- Tôi "phòng thủ" một lá cờ thứ hai từ lúc còn ở Huế. Từ đây về Sài Gòn sẽ gặp nhiều nơi đón tiếp. Dầu sao cũng là Khâm sai đại thần, phải treo cờ cho người ta biết chớ !
Ông Nguyễn Văn Sâm cười, một nụ cười đau khổ thế nào ! Diệp Ba vui miệng nói luôn :
- Hồi thời xưa, nhà vua đưa Khâm sai đại thần đi trấn nhậm một nơi nào, là tiền hô hậu ủng, hương án đặt hai bên đường, lính tráng oai nghiêm chớ đâu có một chiếc xe Ford trơ trọi như vầy… Lại còn bị nhốt vào khám nữa !
Diệp Ba nói dứt lời, xe tiến tới…một bàn hương án !
Tôi ngừng xe lại, Diệp Ba ngó ra trước nói :
- Cũng có hương án đó !
Đây là Xuyên Mộc. Ông chủ Quận ặc áo rộng đứng trước bàn hương án, với ban Hội tề và vài người lính.
Một giây pháo nổ lẹt đẹt xé tan không khí âm u của khu rừng im lặng, giữa quang cảnh gió mát, cây lá chận ánh sáng mặt trời.
Một quận nghèo nàn làm sao ấy !
Đây là "ải địa đầu" của Nam Bộ.
Dân tình thưa thớt, có mấy chú thợ rừng…Không ai chú ý đến ông Khâm sai Đại thần ! Hơn nữa, Nam Kỳ là thuộc địa, nó mới mang tên "Nam Bộ" đây và bây giờ mới có một Khâm sai đại thần sau tám mươi năm không liên lạc với Triều đình vua chúa.
Nguyễn văn Sâm xuống xe nói chuyện qua loa vì sợ mất thì giờ, đoạn vội vã trở lên xe đặng về Sài Gòn kịp 5 giờ chiều.
Tôi đếm tất cả là 18 người đứng chung quanh bàn hương án !
Ông tỉnh trưởng Phan thiết đánh điện tín về những tỉnh, những quận… mà Khâm sai sẽ trải qua, trên quốc lộ số 1, nên đâu đâu đều chuẩn bị cuộc tiếp rước. Xe chưa vào châu thành Biên hòa, lại gặp một chiêc xe trắc xông có cắm cờ đón giữa đường, ở một nơi vắng vẻ.
Tôi hỏi :
- Sao ? Ngừng hay chạy luôn. Kìa có người đưa tay ra ngoắc xe ngừng lại ; bây giờ liệu sao ?
Diệp Ba cũng còn lưỡng lự. Xe lại gần…
Tôi tốp bớt máy lại, rề rề… chờ.
- Sao ? Ngừng hay… chạy luôn.
Tôi hỏi chưa dứt câu, Diệp Ba vùng la lên :
- Anh Huỳnh Văn Phương mà làm tôi hết hồn… tưởng Việt Minh đón xe bắt ông Khâm sai nữa !
Ông Hỳnh Văn Phương lãnh chức Tổng giám đốc Công an lên trước ở đây, đón ông Nguyễn Văn Sâm đặng hỏi tin tức.
Mọi người đều xuống xe.
Huỳnh Văn Phương và Nguyễn Văn Sâm trao đổi tin tức.
- Tụi nó… dám tuyên truyền Bảo Đại thoái vị rồi.
Tụi nó… đây là Việt Minh.
Ông Huỳnh Văn Phương là chiến sĩ Đệ tứ nắm Công an trong tay, tự nhiên phải coi chừng Cộng sản Đệ tam, từ mọi hành động, từ một lời tuyên truyền.
Huỳnh Văn Phương lại hỏi riêng tôi :
- Anh có nghe Hội đồng Nội các tính thế nào không ? Và ông Đổng lý Văn phòng Bảo Đại có biết gì về Việt Minh không ?
Tôi không giấu một sự thật nào :
- Thủ tướng Trần Trọng Kim không thể lập Nội các nữa được, nên ở đó chờ giờ… Ông đã mướn nhà riêng ở bên kia cầu Trường tiền, đặng khi Việt Minh đến, ông sẽ giao luôn Thủ tướng Phủ ?
Ông Huỳnh Văn Phương coi bộ cương quyết lắm :
- Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Sài Gòn, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị.
Ông Nguyễn Văn Sâm lúc nào cũng bình tĩnh và ôn hòa :
- Để về tới nơi rồi sẽ lo liệu. Ở Hà Nội, Phan Kế Toại chịu đựng không nổi nên đánh điện về Huế xin từ chức.
Huỳnh Văn Phương kể sơ qua những biến chuyển mấy ngày chót. Đoạn cùng nhau trực chỉ Sài Gòn.
Xe của Phương mang cờ Công an, chạy trước mở đường.
Tới Biên Hòa, Thanh niên Tiền phong sắp hàng tiếp rước Khâm sai rất long trọng.
Ông Khâm sai Đại thần đứng trước cờ vàng sao đỏ của Thanh niên Tiền phong, nghiêm chỉnh bằng cách đưa trước ngực… như một chiến sĩ bại trận… hàng cầu nghịch vậy !
Rồi Thủ Đức, Gia Định, Sài Gòn.
Dân chúng đứng chật hai bên đường từ Đất hộ (Dakao) về tới đường Lagrandière (Gia Long) dinh Thống đốc là nơi còn Minoda.
Xe Huỳnh Văn Phương ngừng ở Đất hộ để một mình ông Khâm sai vào Sài Gòn để cuộc tiếp rước không lầm lẫn được. Nhưng tôi quýnh trước số đông dân chúng một lúc một đông thêm. Tôi run : cầm tay chiếc Ford PI (Palais Impérial) mà lòng những hồi hộp làm sao ấy ! (19).
Xin để ý câu nhận định của Huỳnh Văn Phương về lực lượng võ trang của Việt Minh và sự tự tin của ông dựa trên những tin tức mà ông nhận được : "Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Sài Gòn, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị" để đối chiếu với những gì xảy ra sau đó. Quan điểm này phần nào giống quan điểm của Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Đại học Hà Nội Phan Thanh Hòa, chống lại chủ trương ép nhà vua thoái vị nhường quyền cho Việt Minh. Không có lực lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh niên Tiền phong làm lực lượng xung kích qua sự lừa đảo tập thể những người trẻ chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của Miền Nam này của lãnh tụ gốc cộng sản Đệ Tam Phạm Ngọc Thạch và họ đã thành công, gìống hệt như ở Hà Nội, họ đã lợi dụng và cướp ngang cuộc biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng Hội Công Chức.
Điểm khác biệt là ở miền Bắc cuộc chống đối tiếp theo là giữa Quốc gia và cộng sản, còn ở miền Nam có thêm nhóm Tranh đấu Đệ Tứ. Hậu quả là phe Đệ Tứ phần đông là trí thức du học ở Pháp về đã bị tàn sát một cách tàn khốc với các nhân vật danh tiếng như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Dương Văn Giáo, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, vợ chồng Bác sĩ Hồ Vĩnh Ký-Nguyễn Ngọc Sương…
Nên để ý là Bác sĩ Nguyễn Ngọc Sương là thủ lãnh Thanh niên Tiền phong, phía các phụ nữ. Đó là chưa kể tới 64 (?) người ở sông Lòng Sông và không rõ bao nhiêu người trong danh sách trên hai ngàn người của Trần Văn Giàu được nói tới trong hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam, Trần Văn Ân và nhiều nhân vật khác khiến miền Nam mất đi một lực lượng trí thức ưu tú lớn lao, cần thiết để sau này tiếp tục tranh đấu cho nền độc lập, thống nhất và kiến thiết xứ sở.
Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong bài viết nhan đề "Những nhân chứng cuối cùng", đăng trên Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y năm 2010, đã viết về những sự kiện này như sau :
Trong đêm 23 tháng 9 năm 1945, ngày lịch sử mở màng cuộc Kháng chiến Cách mạng Mùa Thu ở Nam bộ, người bị giết đầu tiên, thây phơi trên đường Albert 1er (đường Đinh Tiên Hoàng) là ông Lê Văn Vững, bí thư vùng Sài Gòn-Chợ Lớn của nhóm Tranh Đấu và cũng là người phụ trách phát hành lại báo Tranh Đấu (20). Như vậy người Việt Nam đầu tiên đã bỏ mình trong cuộc Kháng chiến chống Pháp không do thực dân giết mà lại do Tự vệ Cuộc miền Nam thanh toán. Bà vợ của ông Vững đã tận tụy suốt đời nuôi con và mở một tiệm bán bánh mức trên đường Đinh Tiên Hoàng, gần góc đường Hiền Vương. Tiệm trương bảng màu vàng đề tên Lê Văn Vững chữ đỏ, để kỷ niệm người chồng vắn số.
Vài ngày sau 23 tháng 09, 1945 nhà giáo Nguyễn Thi Lợi phụ trách báo Tranh Đấu cũng bị thủ tiêu ở Cần Giuộc, Chợ Lớn. Cuộc khủng bố trắng, săn bắt, ám sát các nhân sĩ ái quốc có uy tín nhưng không thuộc Đảng Cộng sản từ đó đã xảy ra hằng ngày, bắt đầu từ Bùi Quang Chiêu đến Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Luật sư Hồ Vĩnh Ký và vợ là Bác sĩ Nguyễn Thị Sương (nguyên Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong) v.v... Nhà viết báo và cách mạng danh tiếng trong thời kỳ "Đông dương Đại hội," Diệp Văn Kỳ, khi biết rõ ý đồ của Trần Văn Giàu, đã lánh mặt, mặc áo tu lên ở Tha La Xóm Đạo (Trảng Bàng) cũng bị bắt và sát hại trong đêm.
Một nhân tài có tiếng tăm khác bị thanh toán là Luật sư Dương Văn Giáo. Cái chết của ông Giáo có thể có liên can một phần nào đến cấp chỉ huy trực tiếp của ông Trấn, tức ông Trần Văn Giàu, Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam bộ. Số là trước khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 09 tháng 03 năm 1945, ông Trần Văn Giàu cũng như một số lớn các nhà cách mạng khác, đã bị Pháp cầm tù ở Trại Tà Lài (Bà Rá). Có thể vì nhu cầu chánh trị, để chống phá quân đội Nhật, giới cầm quyền Pháp ở Việt Nam đã nhận chỉ thị từ Pháp dàn cảnh để ông Trần Văn Giàu vượt ngục Tà Lài để ra ngoài hoạt động chống Nhật. Khi Nhật đảo chánh Pháp, trong các hồ sơ mật được giữ trong văn khố Sở Mật thám ở Catinat, văn kiện này được người Nhật tìm ra và ông Huỳnh Văn Phương là người được Chánh phủ Trần Trọng Kim cho phụ trách cơ sở bót Catinat đã có tài liệu về việc Trần Văn Giàu gặp gỡ với trùm mật thám Arnoux của Pháp. Trong một phiên họp của Mặt trận Quốc gia Thống nhứt ở nhà vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, đường Phan Đình Phùng, ông Dương Văn Giáo lúc đó từ Thái Lan về, đã rút từ cập da ra tài liệu này cho các người hiện diện xem. Sau khi thảo luận, chính ông Giáo là người đề nghị không công bố tài liệu này để không làm mất uy tín ông Trần Văn Giàu để Mặt trận Việt Minh có thể lãnh đạo hữu hiệu việc chống Pháp lúc đó đang lâm le chiếm trở lại miền Nam. Quyết định sau cùng của buổi hội là giao cho Dương Văn Giáo đến gặp Trần Văn Giàu đặt vấn đề cải tổ Lâm ủy Hành chánh.
Khi Pháp, với sự thỏa thuận của quân đội Anh đang chiếm đóng, làm chủ được Sài Gòn nhưng còn bị bao vây trong thành phố, Dương Văn Giáo đã bị vu cáo là Việt gian và bị xử tử ở Cầu Bến Phân (Gia Định). Phần đông những người hiện diện trong buổi hội lịch sử kể trên như luật sư Hồ Vĩnh Ký và vợ là bà bác sĩ Nguyễn Thị Sương, Huỳnh Văn Phương, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ, Lê Kim Tỵ... sau đó đã lần lượt bị giết chỉ trừ Vũ TamAnh (sau bị Mật vụ chế độ Ngô Đình Diệm giết) và Nguyễn Văn Hướng.
Những người đã bị thủ tiêu không những phần nhiều đã hoạt động chung quanh vùng Sài Gòn, Chợ Lớn mà còn cả nhiều người ở các tỉnh xa ở miền Nam. Danh sách những người này như đã được ghi nhận từ lâu, chỉ chờ có cơ hội là được đem ra thi hành. Ông Trịnh Hưng Ngẫu (người được giới tranh đấu ở Nam biết tiếng không phải chỉ vì ông đã chế biến cho các xe chuyên chở sử dụng lò đốt than gọi là gasogen để thay thế xăng khan hiếm vào thời đó, mà do thành tích ông đã đá vô mông một cò Pháp nhân một cuộc bảo vệ ông Bùi Quang Chiêu từ Bến Nhà Rồng, Khánh Hội về tới nhà ở Phú Nhuận) đã cho biết là trong một cuộc gặp gỡ Trần Văn Giàu ở Thái Lan, ông Giàu đã khoe là ông có danh sách hơn 200 người cần thủ tiêu nhưng chưa thi hành kịp (!).
Một số đông những người này đã bị Tự vệ Cuộc của ông Trấn bắt giam trước khi Lâm ủy Hành chánh của Trần Văn Giàu rút khỏi Sài Gòn đi về miệt Tân An. Ông Trấn đã có đề cập đến việc này trong sách của ông (Xem trang 136) với lời khen (!) "Pháp cho nhảy dù xuống Hội đồng Sâm để giải thoát cho tù nhân mà ta giam ở đó. Có cái tốt là tù nhân không chạy theo Tây". Tù nhân (!) được giao cho Phạm Hùng đem vào kinh Xáng và đi luôn xuống Cà Mau. Một số những người bị giam nầy đã thoát chết khi được ông Nguyễnnhân lúc Sư đoàn này rút lui về Hậu giang. Người may mắn trong trường hợp này là ông Ngô Văn đã kể lại chuyện trong quyển "Viet-Nam, 1920-1945, révolution et contre-révolution sous la domination coloniale" xuất bản ở Pháp.
Định mệnh đầy đau thương và cực kỳbi thảm của miền Nam khởi đầu từ những sự kiện này. Điều đáng tiếc căn bản làvì "mắc lừa bọn du côn" (21),Chính Phủ Trần Trọng Kim đã từ nhiệm và Vua Bảo Đại đã thoái vị quá sớm.
Phạm Cao Dương
(Giáo sư, Tiến sĩ Sử học)
------------------
(1) Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận, Cuốn 4, Từ Đế quốc Việt Nam đến trận Điện Biên Phủ. Paris ; Nam Á (Sudasie), 2002, tr. 1956.
(2) Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa hảo trong dòng Lịch sử dân tộc, Santa Fe Springs, Đuốc Từ Bi, 1981, tr. 308-309.
(3) như trên, tr. 343.
(4) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký "1925-1964". Tập II, Sài Gòn, Nhật báo Dân Chủ Mới xuất bản, 1964, tr. 49-50.
(5) như trên, tr. 78.
(6) như trên, cùng trang.
(7) như trên, tr. 50-52.
(8) Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa hảo…, tr. 346-347.
(9) Nguyễn Trọng Xuất, "Một Quyết Định Mang Tính Lịch Sử", trong Trần Văn Giàu, dấu ấn lịch sử. Thành phố Hồ Chí Minh : Nhà xuất bản Trẻ, 2012, tr. 172-175.
(10) Phan Văn Hoàng, "Cùng Nhau Xông Pha Lên Đàng", trong Trần Văn Giàu, dấu ấn lịch sử, tr. 147- 176.
(11) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký…, đã dẫn, tr. 27-28.
(12) Nguyễn Trọng Xuất, "Tự Vạch Lấy Con Đường Mà Đi", trong Trần Văn Giàu, dấu ấn lịch sử, đã dẫn, tr. 146.
(13) Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội. California, USA : Văn Nghệ Xuất Bản, 1995, tr. 122 - 124.
(14) Trong sách in là "collabo" và chú thích là "cộng tác"
(15) Nguyễn Văn Trấn, như trên, tr. 125.
(16) như trên, tr. 117-118.
(17) "Tuyên Chiếu", trong Tri Tân tạp chí, số 1993, thứ Năm, 25 tháng Sáu 1945, tr. 382.
(18) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký, tr. 71.
(19) Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký, tr. 43-47.
(20) Tờ báo của phe Đệ Tứ.
(21) Lời cựu Hoàng Bảo Đại nói với cựu Thủ tướng Trần Trọng Kim khi hai người gặp lại nhau lần đầu tiên vào năm 1946 và được Trần Trọng Kim ghi lại trong hồi ký của ông (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi. Sài Gòn, Vinh Sơn, 1960, tr. 146).
Phạm Cao Dương là Giáo sư, Tiến sĩ Sử học của một số trường Đại học thời Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Sau 1975, ông là Giáo sư chuyên về Văn hóa và Lịch sử Việt Nam tại một số Đại học Mỹ.