Bất kể khuyến cáo của các chuyên gia kinh tế cả trong lẫn ngoài Việt Nam, giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam vẫn xem tăng trưởng GDP như một thứ trang sức để chứng tỏ sự "sáng suốt và tài tình" của cả cá nhân lẫn hệ thống.
Hình minh họa.
Cả hệ thống chính trị, hệ thống công quyền lẫn hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam đang sôi sùng sục vì... "còn một triệu tỉ đồng chưa được bơm vào nền kinh tế" trong khi sắp hết năm. Có nơi như Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức "đợt thi đua cao điểm 60 ngày nhằm hoàn thành chỉ tiêu giải ngân vốn đầu tư công của năm nay" nhưng đến giờ tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công của Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạt chừng 45% so với kế hoạch(1).
Sở dĩ giới hữu trách quay quắt với việc "thúc cho tiền chạy vào nền kinh tế" vì năm nay, Việt Nam tiếp tục không đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP như dự tính (thay vì tăng trưởng GDP phải là 6,5% nhưng theo ước tính mới nhất thì chỉ đạt được khoảng 5%). Lý do khiến chính quyền Việt Nam sốt ruột, thúc ép giải ngân vốn đầu tư công vì "giải ngân được 95% kế hoạch vốn đầu tư công thì sẽ thúc GDP tăng thêm 1,3%(5).
Bất kể khuyến cáo của các chuyên gia kinh tế cả trong lẫn ngoài Việt Nam, giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam vẫn xem tăng trưởng GDP như một thứ trang sức để chứng tỏ sự "sáng suốt và tài tình" của cả cá nhân lẫn hệ thống. Năm 2018, khi phân tích và lập lại khuyến cáo – đừng chạy theo GDP bằng mọi giá, bà Phạm Chi Lan – một chuyên gia kinh tế nhắc đến điều đã từng xảy ra dưới thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng : Khi nhận ra không thể đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP của năm, chính phủ thúc ép hút thêm một triệu tấn dầu để bán bất kể giá dầu thế giới đang giảm rất mạnh. Tuy bán dầu trong bối cảnh đó sẽ lỗ nặng nhưng bán đi một triệu tấn đầu sẽ đẩy GDP lên. Tương tự, chính phủ bắt ngành than khai thác thêm than dù đang ứ đọng chín triệu tấn than. Chưa kể đến chuyện xào nấu dữ liệu để đạt yêu cầu(3) !
Song những phân tích và khuyến cáo của các chuyên gia vẫn như "nước đổ đầu vịt", từ Ban chấp hành trung ương đảng, đến quốc hội, chính phủ vẫn xem "tăng trưởng GDP" như mục tiêu duy nhất và sẵn sàng vét ngân khố dốc hết vào các dự án đầu tư công để đạt được... "thành tích tăng trưởng" kể cả khi "nhiều bộ, cơ quan trung ương và địa phương giải ngân dưới mức trung bình cả nước, thậm chí xin trả lại vốn kế hoạch năm 2023" và các "ủng hộ viên" như ông Nguyễn Bích Lâm – cựu Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê – buộc phải thừa nhận, đó chính là bằng chứng cho thấy "quy trình phân bổ vốn đầu tư dàn trải theo phương châm ‘cả làng cùng vui’ mà chưa để ý tới thực trạng về môi trường pháp lý, thể chế, năng lực và khả năng hấp thụ vốn đầu tư của một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong thực hiện giải ngân vốn đầu tư công" !
***
Suy thoái, lạm phát vốn đã và đang là vấn nạn toàn cầu nhưng không như nhiều quốc gia khác, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chưa đưa ra được bất kỳ giải pháp nào thật sự hữu ích để hỗ trợ doanh giới, ổn định dân sinh, tạo ra sự hồi phục thật sự sau những biến động do đại dịch Covid 19. Xin nhắc lại vài chuyện liên quan đến Nam Hàn để có cơ sở so sánh về bản chất việc bám đuổi "chỉ tiêu tăng trưởng GDP"...
Tháng 3/2021, song song với việc nới lỏng các biện pháp phòng ngừa Covid-19 vì duy trì các biện pháp có tính cưỡng ép (hạn chế đi lại, cấm ăn uống tại chỗ,…) sẽ gia tăng gánh nặng cho tiểu thương và các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, đồng thời để hỗ trợ các thành phần yếu thếvà giúp nền kinh tế hồi phục, chính quyềnNam Hàn quyết định cấp gói hỗ trợ khẩn cấp lần thứ tưcho những ngườithuộc thành phần yếu thế. Bên cạnh đó chính quyền Nam Hàn đã chi 110 ngàn tỉ Won (tương đương 91 tỉ Mỹ kim) để giúp khoảng 900.000 người làm việc trong lĩnh vực dịch vụ đã mất việcvà thực hiện hàng loạt biện pháp cụ thể để giúp các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, các doanh nghiệp giảm chi phí tuyển dụng, chi phí lao động, hỗ trợ đào tạo nghề nhằm đạt mục tiêu tái tạo 900.000 việc làm ngay trong quý 1/2021 (4).
Tháng 4/2022, khi giá dầu thế giới thăng thiên, chính quyền Nam Hàn công bố ba gói hỗ trợ mới để giảm bớt sức nặng do giá dầu thô leo thang vốn đang đè trên vai doanh giới và dân chúng :Thuế xăng dầu tiếp tục được giảm thêm 10%, nâng tỉ lệ thuế được giảm lên 30%. Công bố mức trợ cấp chi phí xăng dầu cho xe buýt, xe vận tải. Gia hạn việc áp dụng thuế suất là 0% đối với LPG (khí tự nhiên hóa lỏng – loại nhiên liệu đang được nhiều phương tiện vận chuyển cá nhân và vận tải công công tại Nam Hàn sử dụng thay xăng, dầu) đến tháng 7. Công bố kế hoạch trợ cấp trong ba tháng cho xe buýt, xe vận tải, tàu chở hàng ven biển vận hành bằng dầu diesel. Do nhiều taxi và xe vận tải nhẹ (phần lớn có chủ là tiểu thương) sử dụng LPG, ngoài việc gia hạn thuế suất 0%, chính phủ Nam Hàn giảm 30% thuế doanh thu đối với phương tiện giao thông - vận tải dùng LPG.
Để giảm bớt khó khăn cho doanh giới, chính quyền Nam Hàn quyết định áp dụng mức thuế nhập cảng là 0% cho tới cuối 2022 đối với nhôm tấm dùng trong sản xuất pin thứ cấp và xe hơi. Tăng lượng dự trữ sáu loại kim loại khác lên mức 250.000 tấn. Do lượng ngũ cốc nhập cảng từ Ukraine khiếm hụt, chính quyền Nam Hàn tìmnhập thêm bắp từ các nguồn khác, kèm cam kết, nếu giá cả và cung cầu nông sản bất ổn sẽ mở kho dự trữ lương thực để cung cấp cho các chợ bán sỉ trên toàn quốc. Để giảm gánh nặng chi phí sinh hoạt, chính quyền Nam Hàn tuyên bố dành hỗ trợ có tính cách ưu đãi cho những địa phương có biện pháp cụ thể nhằm giữ giá nước sạch, phí xử lý nước thải... ổn định.Thông qua KBS(giống như VTV), chính quyền Nam Hàn đề nghị doanh nghiệp nhanh chóng làm cho việc giảm thêm thuế xăng dầu thể hiện rõ ràng trong giá bán để dân chúng Nam Hàn có thể cảm nhận ngay được hiệu quả của các gói hỗ trợ(5).
Tháng 10 năm nay, ngay sau khi xung đột giữa Hamas và Israel bùng phát, chính quyền Nam Hàn đã tổ chức một cuộc họp bất thường để thảo luận về tác động của cuộc chiến đối với hoạt động xuất cảng của Nam Hàn.Bởi lo ngại xung đột sẽ ảnh hưởng bất lợi đến xuất cảng, hoạt động sản xuất nội địa và rộng hơn là kinh tế - xã hội quốc gia nên chính quyền Nam Hàn đã quyết định thành lập "Nhóm hành động khẩn cấp" để theo dõi, dự báo và khuyến nghị điều chỉnh chính sách. Ngoài các viên chức chính phủ, nhóm còn có đại diện của Hiệp hội Thương mại quốc tế Nam Hàn (KITA), Cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư Nam Hàn (KOTRA), Tổng công ty bảo hiểm thương mại (K-Sure).Nhóm vừa phối hợp với các Tùy viên quân sự của Nam Hàn ở khu vực Trung Đông, vừa thiết lập kênh liên lạc với các doanh nghiệp đã đầu tư vào khu vực này cũng như các doanh nghiệp xuất cảng hàng hóa vào khu vực này để thu thập thông tin, khuyến nghị điều chỉnh chính sách hỗ trợ, đồng thời sẽ tìm kiếm đối tác dự phòng cho các doanh nghiệp Nam Hàn nếu vì chiến tranh không thể duy trì quan hệ với những đối tác hiện tại. K-Sure cũng cam kết sẽ nâng hạn mức bảo lãnh tín dụng xuấ t khẩu lên 1,5 lần, gia hạn bảo lãnh cho các doanh nghiệp bất kể quy mô (nhỏ, vừa hay trung bình). Nếu xảy ra rủi ro, K-sure cam kết sẽ trả chi phí bảo hiểm trong vòng dưới một tháng, quá thời hạn này K-sure sẽ chi trả 80% số tiền thiệt hại.Cho dù xung đột tại Trung Đông chưa ảnh hưởng lớn tới xuất cảng của Nam Hàn nhưng vì khó dự đoán tác động của xung đột, chínhquyền Nam Hàn cam kết sẽ cùng với các cơ quan hữu trách chủ động tìm giải pháp đối phó, không để xung đột tác động tiêu cực đến hoạt động xuất cảng đang được cải thiệndù kim ngạch xuất cảng sang khu vực Trung Đông chỉ chiếm khoảng 3% tổng kim ngạch xuất cảng của Nam Hàn (6).
***
Ngoài chuyện dùng những biến động trên thế giới và khó khăn của kinh tế toàn cầu như thùng rác... để trút toàn bộ trách nhiệm về thực trạng kinh tế - xã hội càng ngày càng bi đát vào đó, tại sao các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền ở Việt Nam không thể làm những chuyện như thiên hạ đã và đang làm mà chỉ quan tâm đến việc phải đạt "chỉ tiêu tăng trưởng GDP" ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 05/12/2023
Chú thích
(2) https://tuoitre.vn/dau-tu-cong-thuc-cho-tien-chay-20230912091454078.htm
(3) https://tiasang.com.vn/dien-dan/khong-nen-chay-theo-gdp-bang-moi-gia-12563/
(4) http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=48976
(6) http://world.kbs.co.kr/service/news_view.htm?lang=v&Seq_Code=60435
Những năm gần đây tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP của Việt Nam trồi sụt, có xu hướng giảm. Các nhà lãnh đạo nỗ lực "ưu tiên tăng trưởng". Trước tình hình không đạt mục tiêu tăng trưởng 6-6,5% ấn định cho năm 2023, trong phiên bế mạc 29/11/2023 của Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 15 ông Chủ tịch Quốc hội phát biểu ‘nhắc lại’ ưu tiên này cho năm 2024 và các năm còn lại nhiệm kỳ 2021-2026.
Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden (trái) và Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng (phải) tại Hà Nội hồi tháng 9/2023. AFP
Tại phiên toàn thể này các Nghị quyết được ban hành về thúc đẩy tăng trưởng, hoàn thiện và thực thi các chính sách cải cách thể chế trong khi ông Chủ tịch nước công du Tokyo để nâng cấp quan hệ Việt Nam-Nhật Bản lên "Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại Châu Á và trên thế giới" và Thủ tướng chính phủ có chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) để … xúc tiến đầu tư.
Có tăng trưởng mới có thêm việc làm, mới có thêm thu nhập, mới nâng cao được mức sống, ổn định xã hội… Hơn thế, có tăng trưởng mới có thể đảm bảo tính chính danh của Đảng cộng sản và chế độ. Những động thái ngoại giao ‘nhích’ lại gần phương Tây hơn của giới lãnh đạo nhằm mục đích kinh tế, trước hết, là ‘cứu’ tăng trưởng thay vì cải cách "đột phá" trong bối cảnh khó khăn tăng trưởng kinh tế, chống tham nhũng căng thẳng ở trong nước và những diễn biến phức tạp trên thế giới. Tuy nhiên, để ‘cứu’ tăng trưởng, theo nghĩa tăng trưởng bền vững, thì "mở cửa" phải gắn liền với "cải cách" thị trường nhất quán trong một chính sách.
Trước hết, mối quan hệ giữa chính sách "mở cửa" và tăng trưởng là quan trọng và tích cực. Muốn đóng cửa với thế giới hãy nhìn Triều Tiên. Chỉ mở cửa về kinh tế thôi sẽ là không biện chứng, thị trường đòi hỏi cải cách thể chế cả kinh tế và chính trị phù hợp. Từ sau Đại hội Đảng cộng sản lần thứ 13 năm 2021 xu hướng mở cửa ‘năng nổ’ hơn với những cuộc đón tiếp lãnh đạo nước ngoài tới thăm dồn dập và tần suất cao những chuyến công du tới các nước có chế độ chính trị khác nhau. Trong đó, việc ‘nhích’ lại gần phương Tây đang tạo dấu ấn, đặc biệt là việc nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc cuối năm 2022, với Mỹ trong tháng 9 và với Nhật Bản mới đây vào cuối tháng 11/2023. Ngoài những ‘toan tính’ địa chính trị như bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh và tự do hàng hải quốc tế, giới lãnh đạo trông chờ nhiều vào mục đích kinh tế, các hiệp định thương mại song phương và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để thúc đẩy tăng trưởng.
Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng (trái) và Thủ tướng Nhật Fumio Kishida (phải) tại Tokyo hôm 27/11/2023. AFP
Lĩnh vực FDI và xuất khẩu hàng hóa nông lâm thủy sản là trục tăng trưởng chủ yếu chiếm hơn 50% tổng GDP. Đây là kết quả của nỗ lực liên tục suốt hơn 30 năm tiến hành chủ trương Đổi mới. ‘Tạm gác’ sang bên ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, vận dụng tư tưởng thực dụng để quyết định chính sách hội nhập kinh tế, ‘ngoại giao cây tre’ vượt qua rào cản từ khác biệt chế độ chính trị để đa phương hóa, đa dạng khóa quan hệ với mọi quốc gia ; tham gia vào hàng chục hiệp định tự do kinh tế và đầu tư, thúc đẩy du lịch ; ‘năng nổ’ tham gia các tổ chức quốc tế từ Ủy ban Nhân quyền đến Di sản của Liên Hiệp Quốc ; ủng hộ và tham gia vào các vấn đề mang tính xu hướng toàn cầu như chống biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, chuyển đổi năng lượng xanh sạch, kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo ; tích cực "tháo gỡ" vướng mắc thực thi các hiệp định như gỡ thẻ vàng về đánh bắt hải sản, đề nghị công nhận là nền kinh tế thị trường cho Việt Nam…
Tuy nhiên, một chính sách mở cửa ‘năng nổ’ đang bị thách thức, sự ‘cân bằng’ bị phá vỡ khiến giới lãnh đạo lo lắng trước "những cơn gió ngược" từ kinh tế thế giới suy giảm sau Đại dịch Covid-19 và sự chia rẽ giữa các cường quốc, phương Tây, Nga – Trung và các nước phương Nam bởi các cuộc chiến tranh Nga – Ukraine, Hamas – Israel, sự căng thẳng địa chính trị, cạnh tranh thể chế mang tính ý thức hệ kiến thị trường rối loạn, cầu giảm và đứt gãy chuỗi cung ứng. Sự lựa chọn của Việt Nam là nhích lại gần hơn với phương Tây, đây có thể là tín hiệu tích cực cho giới đầu tư nhưng cải cách thể chế nhất quán theo hướng thị trường mới là chính sách quan trọng. Sự ổn định chính trị cần thiết cho môi trường đầu tư nhưng nếu nó được duy trì bởi sự sợ hãi, thiếu công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình từ phía chính quyền và trì hoãn các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp, thì sự tăng trưởng kinh tế không thể bền vững.
Trước hết, theo đuổi lợi nhận, các tập đoàn xuyên quốc gia, các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài có tính độc lập tương đối với chính phủ trong quyết định đầu tư, kinh doanh. Họ nhạy bén với môi trường thể chế và có tầm nhìn toàn cầu. Tất cả họ đều tính toán khi Việt Nam thông qua luật thuế tối thiểu toàn cầu và thực thi từ đầu năm 2024. Hãy theo dõi những bài học từ Trung Quốc khi FDI có xu hướng giảm trong năm 2023 có lý do bất ổn thể chế, sự trỗi dậy hung hăng và vấn đề phi dân chủ, nhân quyền của giới lãnh đạo Đảng cộng sản. Một trong những hệ quả là sự dịch chuyển vốn FDI khỏi quốc gia có dân số một tỷ tư người, nhưng Việt Nam cũng chỉ là một trong nhiều lựa chọn điểm đến. Các doanh nghiệp Hàn Quốc, Nhật Bản chọn Việt Nam không những vì yếu tố văn hóa, địa chính trị như đồng quan điểm về sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực Thái Bình Dương mà họ còn ‘dễ dãi’ và ‘thấu hiểu’ chế độ độc đoán vì kinh nghiệm từng trải về chuyển đổi dân chủ từ chế độ độc đoán hay phát xít trong khi các tập đoàn Mỹ, Châu Âu không hẳn đã có thái độ ứng xử như vậy. Chẳng hạn, Tập đoàn Intel tuyên bố không tiếp tục mở rộng đầu tư kinh doanh tại Việt Nam như kế hoạch khiến giới ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận có vấn đề thể chế như cải cách hành chính trong khi Quốc hội khóa 15 đang họp tại Hà Nội. Hay, mới đây, ngày 21/11/2023 Orsted - Tập đoàn năng lượng tái tạo hàng đầu thế giới, đã quyết định dừng toàn bộ kế hoạch đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam sau hơn 1 năm triển khai… Hàn Quốc, Nhật Bản và một số quốc gia mới nổi khác có thể ‘không khó’ để công nhận nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường trong khi Hoa Kỳ, một đối tác chiến lược toàn diện, từng được đề nghị yêu cầu như vậy, nhưng Bộ Thương mại phản hồi rằng "sẽ rà soát tình trạng kinh tế phi thị trường của Việt Nam ‘theo quy tắc’…
Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo và Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính tại Washington DC hôm 19/9/2023 (giờ địa phương). VGP/Nhật Bắc
Tiếp đến, xin nêu những thách thức "nội bộ" từ thể chế. Chính quyền "toàn trị" không những chỉ thực hiện chức năng đại diện quốc gia trong ký kết các hiệp định thương mại đầu tư với các nước khác mà còn "đại diện" cả cho người lao động, ngoài khuôn khổ chung như Bộ Luật lao động, còn ‘đàm phán’ với giới chủ về về các điều kiện, chế độ làm việc, lương bổng cụ thể. Chẳng hạn, Hội đồng về tiền lương tối thiểu bao gồm đại diện ba bên : Nhà nước (Bộ Lao động, Thương binh và xã hội), người lao động (Tổng Liên đoàn lao động) và giới chủ (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam), nhưng chỉ về hình thức vì thiếu vắng tính độc lập dù chỉ tương đối, thực chất tất cả đều chịu sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản. Tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2023 – 2028 ngày 2/12/2023 ông Tổng bí thư Đảng cộng sản đã nhấn mạnh đây là tổ chức chính trị - xã hội do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tuy nhiên, trên thực tế, nó không còn "của giai cấp công nhân" nữa vì tiền lương thì do giới chủ trả, thiếu nguyên tắc tự nguyện, nhưng vẫn phải đóng "phí công đoàn" nuôi bộ máy quản lý cồng kềnh. Hơn thế, các quyền hiến định về thành lập các hội đoàn, biểu đạt bị trì hoãn thực thi. Các nguyên tắc thị trường bị phá vỡ !
‘Nhích’ lại gần phương Tây hơn mới chỉ là điều kiện cần nhưng để "cứu" và tăng trưởng kinh tế bền vững cần phải cải cách thể chế mạnh mẽ, đột phá. Những vấn đề được trình bày ở trên cho thấy cải cách tăng trưởng còn nhiều khó khăn. Nền kinh tế đang lệ thuộc vào lĩnh vực FDI đặt ra những vấn đề như phát triển công nghiệp phụ trợ, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và đào tạo nhân lực, môi trường cạnh tranh bình đẳng…
Thể chế ngày càng có vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế. Nên chăng tiếp tục làm sâu sắc thêm ý nghĩa của nhận định này cho cải cách tăng trưởng, chẳng hạn, với một trục tăng trưởng kinh tế quan trọng khác, lĩnh vực bất động sản ?
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 04/12/2023
Các thành viên Bộ Chính trị đương nhiệm không giải thích tại sao lại chọn 2030 làm mốc để đạt mục tiêu "phát triển đội ngũ doanh nhân có quy mô, năng lực và trình độ, nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, thế giới".
Nghị quyết về xây dựng và phát huy vai trò của doanh nhân không có bất kỳ giải pháp cụ thể nào. Chênh lệch giàu nghèo vẫn là vấn đề xã hội lớn của Việt Nam.
Cho dù giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam thường xuyên bày tỏ lo ngại về sự suy giảm niềm tin của công chúng và không giấu diếm khát khao nâng cao niềm tin của công chúng nhưng đến giờ, các chỉ số hay tuyên bố liên quan đến kinh tế vĩ mô vẫn tiếp tục chạy ngược chiều với thực tế.
Chuyện mới nhất là việc Bộ Chính trị thuộc Ban chấp hành trung ương đảng khóa 13 ban hành Nghị quyết 41/NQ-TW để "xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới" (1). Theo nghị quyết vừa đề cập thì đến năm 2030, Việt Nam sẽ có "nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, thế giới, trong đó, một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt, chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu và làm chủ một số chuỗi giá trị công- nông nghiệp".
Giống như cách nay 12 năm – thời điểm Bộ Chính trị thuộc Ban chấp hành trung ương đảng khóa 11 ban hành Nghị quyết 09/NQ-TW nhằm "xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" (2) - Nghị quyết 41/NQ-TW không có bất kỳ giải pháp cụ thể nào. Thế thì có thể dựa vào đâu để tin rằng, bảy năm nữa (2030), Nghị quyết 41/NQ-TW sẽ thành hiện thực trong khi 12 năm vừa qua, Nghị quyết 09/NQ-TW chỉ đạt được điều mà Nghị quyết 41/NQ-TW vừa ghi nhận :Đội ngũ doanh nhân Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, năng lực kinh doanh, kỹ năng quản trị còn hạn chế. Số doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt các chuỗi cung ứng còn ít. Mặt khác, một bộ phận doanh nhân còn vi phạm pháp luật, cấu kết với cán bộ suy thoái, chạy theo lợi ích cá nhân, gây thiệt hại cho nhà nước... Ghi nhận như thế có khác gì Bộ Chính trị thuộc Ban chấp hành trung ương đảng khóa 11 phát biểu không dựa trên tình hình thực tế ?
Các thành viên Bộ Chính trị đương nhiệm không giải thích tại sao lại chọn 2030 làm mốc để đạt mục tiêu "phát triển đội ngũ doanh nhân có quy mô, năng lực và trình độ, nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, thế giới". Có một yếu tố cần lưu ý, hồi cuối năm 2021, Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) dự đoán : Đến năm 2030, số doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tại Việt Nam sẽ tăng gấp đôi (3). Nghĩa là từ 1,7 triệu vào năm 2021 sẽ thành 2,4 triệu vào năm 2030. Khi đưa ra dự đoán ấy, VCCI phải dựa vào số liệu và dữ liệu rồi mới ước đoán chứ không thể nói càn. Nếu VCCI dự đoán đúng và hiện trạng kinh tế cho thấy dự đoán này sát thực tế thì bảy năm nữa, đảng CSViệt Nam sẽ lấy từ đâu ra "đội ngũ doanh nhân có quy mô, năng lực và trình độ" dẫn dắt"nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, thế giới" ?
***
Bất kể số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngưng hoạt động vẫn tăng không ngừng, doanh giới tuyệt vọng, thậm chí chỉ mong sang năm vẫn có thể sống sót(4), báo cáo của chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội chín tháng đầu năm vẫn... đẹp như tranh :GDP của chín tháng đầu năm đạt 4,24%. Nếu tính riêng quý ba thì GDP tăng 5,33% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhìn một cách tổng quát,trong chín tháng đầu năm 2023, kinh tế vĩ mô vẫn ổn định, lạm phát giảm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân chín tháng tăng 3,16% (nằm trong ngưỡng cho phép). Các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công an toàn... Có người như ông Võ Văn Lợi, làm việc tại... Học viện Chính trị Khu vực 3, tán rằng :Chưa năm nào giải ngân đầu tư công chín tháng đầu năm vượt quá 50% nhưng năm nay đã đạt mức 51,38%.
51,38% như ông Lợi tán với báo điện tử Chính phủ tương đương 363.310 tỷ đồng(5). Muốn biết những con số này có đáng tin hay không và nên mừng hay nên lo thì hãy xem lại báo Nhân Dân. Hồi đầu tháng 6 vừa qua, báo Nhân Dân đăng loạt bài nhiều kỳ nhắm vào chuyện "Nâng cao trách nhiệm trong giải ngân vốn đầu tư công", theo đó "tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công bốn tháng đầu năm ước đạt 110.633,6 tỷ đồng, bằng 14,66% kế hoạch năm, đạt 15,65% so kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn so cùng kỳ năm 2022 (18,48%)" [6]. Nếu các con số đều đúng, từ tháng 5/2023 đến tháng 9/2023 là năm tháng, tổng số tiền được giải ngân thêm là 252.677 tỷ đồng, khi chính phủ thúc đẩy lãnh đạo các ngành, các địa phương phải "dũng cảm" giải ngân vốn dành cho các dự án đầu tư công để có những số liệu đẹp về tăng trưởng thì trong tương lai sẽ có thêm bao nhiêu đại án liên quan đến "cố ý làm trái", "thiếu trách nhiệm" gây hậu quả nghiêm trọng, tệ hơn là "tham ô", "nhận hối lộ" ?
Phải hỏi như vậy còn vì nếu chịu khó so sánh, ắt sẽ thấy cùng một nội dung như tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong chín tháng đầu năm 2023 nhưng có đến vài con số khác nhau. Trong báo cáo của chính phủ về kinh tế - xã hội chín tháng đầu năm 2023 thì là 51,38% nhưng trong báo cáo của Bộ Tài chính gửi chính phủ nhằm đốc thúc các ngành phải giải ngân nhanh hơn, nhiều hơn và sẽ truy cứu trách nhiệm nếu chậm trễ thì con số này chỉ là 48%[7]. Chênh lệch dẫu chỉ vài phần trăm cũng lên tới vài chục ngàn tỉ !
Không chỉ có thế. Trong khi ông tiến sĩ ở Học viện Chính trị Khu vực 3 cùng với báo điện tử Chính phủ tán rằng, những chỉ số trong báo cáo của chính phủ về kinh tế - xã hội chín tháng vừa qua cho thấy "kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng với những gam màu sáng trong bức tranh kinh tế thế giới rất khó khăn",rồi "các chỉ tiêu tiêu dùng, xuất khẩu và đầu tư được coi là ‘cỗ xe tam mã’ kéo tăng trưởng kinh tế Việt Nam bứt tốc" thì tờ Nhân Dân – cơ quan ngôn luận của Ban chấp hành trung ương đảng, dẫn ý kiến của các chuyên gia, giải thích về hiện tượng tiền của ngân hàng bị ế :Nguyên nhân khiến tăng trưởng tín dụng thấp là do sự hấp thụ của nền kinh tế. Tăng trưởng ở mức thấp do cầu tín dụng giảm khi ba động lực đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu đều suy yếu, giải ngân đầu tư công chậm. Ngoài ra, thị trường bất động sản tiếp tục khó khăn khiến tín dụng bất động sản tăng chậm, ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng chung (8). Nếu tin các chuyên gia thì những số liệu của chính phủ về tăng tr ưởng có khác gì số được "cậu" cho để đánh đề ?
***
Bởi số người bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân" tại Việt Nam càng ngày càng nhiều dù đa số chỉ bày tỏ suy nghĩ của họ về hiện trạng kinh tế - xã hội nên kẻ viết bài này thắc mắc, chẳng lẽ vì "lợi ích của nhà nước, tổ chức" thì có quyền nói bừa về hiện trạng kinh tế - xã hội ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 14/10/2023
Chú thích
(4) https://vnexpress.net/doanh-nghiep-mong-thoat-day-trong-nam-2024-4663234.html
(6) https://nhandan.vn/nang-cao-trach-nhiem-trong-giai-ngan-von-dau-tu-cong-post755683.html
(7) https://tienphong.vn/giai-ngan-von-dau-tu-cong-thap-cat-von-xu-ly-trach-nhiem-post1574514.tpo
(8) https://nhandan.vn/ngan-hang-e-von-gia-cao-post764423.html
Việt Nam đã ghi nhận sự phục hồi kinh tế vững chắc trong năm 2022, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng 8,0%, tốc độ nhanh nhất trong 25 năm qua. Mặc dù đây là một thành tựu đáng ghi nhận và đáng khích lệ của đất nước sau hai năm tăng trưởng chậm chạp vì đại dịch Covid-19, nhưng nếu nhìn kỹ hơn, chúng ta có thể thấy Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi các khó khăn.
Tốc độ tăng trưởng GDP cao có thể được giải thích bởi một số nguyên nhân. Mức nền thấp trong năm 2021 — khi nền kinh tế chỉ tăng trưởng 2,6%, mức thấp nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế vào cuối những năm 1980 — là một lý do rõ ràng. Các chuyên gia cũng đã đề cập tới các lý do khác, chẳng hạn như tiêu dùng trong nước mạnh mẽ, hoạt động xuất khẩu khả quan, và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cải thiện.
Cụ thể, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam năm 2022 đạt 240,2 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm 2021 và tăng 15% so với mức trước đại dịch năm 2019. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng 10,6%, ước đạt 371 tỷ USD. Điều này giúp tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam năm 2022 lên tới hơn 730 tỷ USD. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã giải ngân 22,4 tỷ USD trong năm 2022 để thực hiện các dự án tại Việt Nam, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021 và là tỷ lệ cao nhất trong 5 năm qua, cho thấy Việt Nam đang được hưởng lợi từ nỗ lực của các nhà đầu tư quốc tế trong việc đa dạng hóa cơ sở sản xuất ra ngoài Trung Quốc.
Tốc độ tăng trưởng GDP ấn tượng đã trở thành tin hàng đầu trên hầu hết các trang báo trong nước và được các phương tiện truyền thông quốc tế đưa tin rộng rãi sau khi số liệu được Tổng cục Thống kê công bố vào ngày 29 tháng 12. Tuy nhiên, phản ứng của độc giả đối với thông tin này và các báo cáo khác được thực hiện bởi các phương tiện truyền thông đã vẽ nên một bức tranh khá khác biệt.
Ví dụ, trong cùng bài viết xuất bản ngày 30 tháng 12 nhằm giải thích về mức tăng trưởng GDP mạnh mẽ của Việt Nam trong năm 2022, VnExpress, trang tin được đọc nhiều nhất tại Việt Nam, cũng thực hiện một cuộc khảo sát, hỏi độc giả liệu thu nhập của họ tăng, giảm, hay giữ nguyên trong năm 2022. 58 phần trăm trong số 5.672 người tham gia khảo sát (tính đến ngày 3 tháng 1) cho biết thu nhập của họ giảm, 21% cho biết thu nhập không đổi, và chỉ 21% cho biết thu nhập của họ tăng trong năm 2022.
Thật thú vị khi những câu trả lời ảm đạm như vậy có thể được lý giải phần nào bởi hai bài viết khác được hiển thị bên dưới bài viết trên. Bài viết đầu tiên kể về việc các nhà đầu tư Việt Nam trong lĩnh vực bất động sản, dù có khởi đầu đầy hứa hẹn vào đầu năm 2022, nhưng đã phải chịu "lỗ sốc" vào cuối năm do giá bất động sản giảm. Bài thứ hai mô tả một tình huống khó khăn tương tự tại các công ty may mặc của Việt Nam. Họ đã thu được lợi nhuận tốt vào đầu năm nhờ nhu cầu mở rộng ở các thị trường phương Tây, nhưng lại không có đủ đơn hàng để duy trì hoạt động trong nửa cuối năm. Hai câu chuyện này cũng giúp mô tả cô đọng những thách thức kinh tế mà Việt Nam hiện đang phải đối mặt.
Bắt đầu từ tháng 3/2022, Việt Nam tiến hành một chiến dịch làm trong sạch thị trường trái phiếu doanh nghiệp vốn đã mở rộng quá mức trong 5 năm qua và tạo ra rủi ro đáng kể cho hệ thống tài chính. Ngoài việc đưa ra các yêu cầu cao hơn đối với các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp mới và truy tố chủ sở hữu của một số tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp lớn như Tân Hoàng Minh và Vạn Thịnh Phát vì đã sử dụng sai mục đích số tiền thu được từ trái phiếu, chính phủ cũng đã yêu cầu hầu hết các tổ chức phát hành trái phiếu lớn giảm nợ bằng cách mua lại trái phiếu trước hạn để thanh toán cho các ngân hàng và trái chủ.
Điều này, cùng với lãi suất tăng và room tín dụng bị thắt chặt do nỗ lực của ngân hàng trung ương nhằm kiềm chế lạm phát và hỗ trợ đồng nội tệ, đã dẫn đến tình trạng "đói vốn" nghiêm trọng. Bị ảnh hưởng nhiều nhất là lĩnh vực bất động sản và năng lượng tái tạo, nơi các doanh nghiệp phải phụ thuộc vào trái phiếu và các khoản vay ngân hàng để tài trợ cho các dự án của họ. Tuy nhiên, các công ty trong các lĩnh vực khác cũng bị ảnh hưởng vì họ không thể phát hành trái phiếu hoặc tiếp cận các khoản vay ngân hàng để hỗ trợ hoạt động của mình. Một số doanh nghiệp đã phải bán bớt tài sản để mua lại trái phiếu. Nhiều doanh nghiệp khác phải thu hẹp quy mô hoạt động, hoặc thậm chí đóng cửa, dẫn đến tình trạng sa thải hàng loạt, đặc biệt là trong ngành bất động sản.
Tình hình càng khó khăn hơn khi cuộc xâm lược Ukraine của Nga hồi tháng 2 năm 2022 và các biện pháp trừng phạt sau đó của phương Tây đối với Nga đã khiến giá lương thực và năng lượng tăng vọt, dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao trên khắp thế giới. Do đó, nhu cầu toàn cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp, khiến các nhà máy phải giảm lương hoặc sa thải nhân viên. Do đó, đã có báo cáo về những hàng người thất nghiệp xếp hàng qua đêm để rút quỹ bảo hiểm xã hội, bất chấp những cảnh báo của chính phủ về tình trạng mất an ninh tài chính trong tương lai của họ.
Việc Việt Nam ghi nhận tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất trong vòng 25 năm qua trong khi các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn ngày càng tăng cho thấy một vấn đề lớn của nền kinh tế Việt Nam : đó là sự phụ thuộc quá mức vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và xuất khẩu. Thật vậy, khi giải thích tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam trong năm 2022, các chuyên gia đã chỉ ra hai động lực chính : xuất khẩu mạnh mẽ nhờ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (hiện chiếm 74% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam) và tình hình giải ngân vốn FDI được cải thiện. Yếu tố thứ ba — doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng — cho thấy người tiêu dùng Việt Nam hiện nay nhìn chung giàu có hơn và ngày càng trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đặt cạnh những phản hồi ảm đạm trong cuộc khảo sát thu nhập của VnExpress, nó cũng gợi ý rằng chênh lệch thu nhập đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam.
Năm 2022 đã kết thúc với một nốt thăng cho Việt Nam khi trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, đây không phải là lý do gì để các quan chức ở Hà Nội tự mãn. Với những khó khăn ngày càng gia tăng mà các doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt và những bất ổn toàn cầu đang diễn ra, họ nên chuẩn bị tinh thần cho một năm đầy thách thức phía trước.
Lê Hồng Hiệp
Kinh tế Việt Nam liệu có 'hay ho' như số liệu GDP tính lại ?
Quốc Phương, BBC, 05/01/2020
Nợ công ở Việt Nam hiện nay về thực chất không có gì 'hay ho' như các số liệu được 'tính lại' GDP mà chính phủ nước này đưa ra cho năm vừa qua và Việt Nam cần lưu ý tới những khía cạnh dài hạn, ổn định, thực chất hơn là nhất thời và ngắn hạn để có cái nhìn tỉnh táo hơn, theo một số nhà quan sát kinh tế - xã hội.
Kinh tế Việt Nam năm 2020 sẽ tiếp tục tập trung để đạt các chỉ số tăng trưởng cao hay sẽ đi vào một bước ngoặt mang tính coi trọng chất lượng phát triển, tính bền vững và có tầm nhìn xa hơn ?
Khi được đề nghị đánh giá về thực chất của phá triển tại Việt Nam, đằng sau những con số được tính lại về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được chính phủ Việt Nam 'tính lại' và công bố lần gần nhất trước khi bước sang năm mới 2020, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Quang A bình luận với BBC News tiếng Việt :
"Số liệu thống kê luôn luôn là một vấn đề đối với các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, bởi vì trong thời gian vừa qua thì chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc đã có một biện pháp là tính lại GDP, chuyện này cũng là chuyện bình thường ở các nước thôi, chứ không có gì là đặc biệt.
"Nhưng mà nó đặc biệt ở Việt Nam là trước năm chuẩn bị Đại hội đảng cộng sản, đang chuẩn bị cho Đại hội đảng và GDP của Việt Nam theo cách tính mới, so với cách tính cũ, tăng lên 26-27%.
"Và như thế cái mẫu số nó tăng lên như thế, cho nên tỷ lệ nợ công giảm xuống về mặt phần trăm, nhưng mà con số tuyệt đối của nợ công thì rất đáng tiếc là không giảm được cái gì cả.
"Bởi vì thực sự là tình trạng kinh tế của Việt Nam vẫn như thế thôi, bây giờ chỉ có điều là tính lại thì bảo rằng nó to hơn, đấy là vấn đề về tỉ lệ nợ công, thì chúng ta phải hiểu như vậy.
"Thực sự là tình hình nợ công không phải là hay ho gì cả ở Việt Nam".
Tuy nhiên, về vấn đề tăng trưởng kinh tế, nguyên Viện trưởng Viện Phản biện Chính sách độc lập (IDS - đã tự giải thể) cho rằng Việt Nam cũng đã đạt được 'điểm tốt' tạm thời, Tiến sĩ Quang A bình luận tiếp :
"Còn về tăng trưởng, lạm phát, xuất nhập khẩu v.v..., thì có thể nói rằng cả 12 chỉ tiêu mà Quốc hội đưa ra cho năm 2019 thì đều đạt được và tôi nghĩ rằng đấy là một điểm tốt của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh rất là khó khăn trên thế giới.
"Cũng may là Việt Nam ở vào một cái thế mà có thể tận dụng được kể cả cái khó khăn và cái thuận lợi của những người khác để phát triển, nhưng cái đó chỉ là những kết quả của một quá trình đã được khởi động lâu rồi và sự năng động của bản thân các doanh nghiệp cũng như là của người dân Việt Nam.
"Và một điểm nữa cần chú ý là cái đó nó có tính chất tạm thời, bởi vì những cái tận dụng được cơ hội, thí dụ như chiến tranh thương mại Mỹ - Trung chẳng hạn, thì cái đó, nếu mà họ thỏa thuận được với nhau thì cơ hội đấy sẽ bớt đi".
Cần nhìn nhận tỉnh táo hơn ?
Các nhà quan sát, phân tích kinh tế Việt Nam vẫn nhắc nhở rằng Việt Nam vẫn còn là một quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp so với tiêu chuẩn quốc tế
Gần đây, có ý kiến cho rằng 'bầu trời kinh tế' của Việt Nam vẫn "trong sáng", trong khi bầu trời kinh tế thế giới nói chung là ảm đạm, một nhà nghiên cứu phát triển và phát triển nông thôn của Việt Nam trong dịp này đưa ra bình luận :
"Từ báo cáo của World Bank vừa rồi mới công bố, lãnh đạo Việt Nam cũng tỏ ra rất lạc quan cùng với đánh giá của World Bank về bầu trời trong sáng của Việt Nam trong khi bầu trời kinh tế nói chung trên thế giới là ảm đạm", ông Đặng Ngọc Quang, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Phát triển nông thôn (RDSC), nói.
"Tôi muốn lưu ý một nhận định của cơ quan đánh giá độc lập là Moody, họ cho biết là ở Việt Nam họ vẫn giữ nguyên mức tín nhiệm đối với tài chính của Việt Nam, nhưng họ cho rằng triển vọng tương lai là bị âm tính.
"Họ đã chỉ ra ba yếu tố là dài hạn. Thứ nhất là yếu tố về xã hội, ví dụ như vấn đề về dân số chẳng hạn, sự già hóa về dân số Việt Nam đang kéo đến và từ lâu nay rồi chưa được mọi người quan tâm và chú ý giải quyết vấn đề về già hóa dân số. Thì những quy hoạch về dài hạn về mặt này là một yếu tố mà cần phải lo lắng.
"Thứ hai là những yếu tố mà người ta cho rằng là rủi ro về môi trường, chẳng hạn về biến đổi nhiệt độ khí quyển, rồi nước biển dâng rồi là xâm mặn, rồi có thể những rủi ro thiên tai như hạn hán kéo dài.
"Thế thì những triển vọng dài hạn như vậy, thông thường người ta cho rằng là các nhà kinh tế Việt Nam chỉ lo đến ngắn hạn thôi, còn những cái dài hạn là chưa nghĩ đến, hoặc chưa có những biện pháp lo lắng để tính vào.
"Một cái nữa, người ta cũng lo lắng là triển vọng giải quyết những vấn đề liên quan đến thể chế cho đến tham nhũng, thì cũng có thể trong cái ngắn hạn nào đó chúng ta có thể lạc quan, tốc độ tăng trưởng như vậy nó có vẻ là cao.
"Thế nhưng chúng ta thấy rằng là ở ngưỡng thu nhập thấp, tăng trưởng cao như vậy thì nó cũng không phải là cái gì đó đặc biệt, tăng trưởng ở Việt Nam cũng giống như là một nước rất là nghèo như là Bangladesh chẳng hạn, cùng một nhịp độ tăng trưởng.
"Còn nếu chúng ta chuyển sang được mức tăng trưởng như là của Malaysia, hay là Hàn Quốc chẳng hạn, thì không thể nào mà tăng trưởng 6-7% một năm được, điều đấy thì chúng ta có thể hình dung được là mức độ tăng trưởng cao thì như vậy, thế nhưng phải hiểu rằng nó ở trong một bối cảnh mà mức phát triển của Việt Nam thấp, rất thấp... nó là như vậy thì chúng ta có thể là nhìn nhận một cách tỉnh táo hơn".
Cảnh báo nào cho năm 2020 ?
Chính phủ của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chứng kiến nhiều thành tích đạt được trong bóng đá và thể thao thành tích cao ở khu vực thời gian qua
Trong một bài viết đầu năm mới trên Asia Times hôm 02/01, một nhà quan sát chuyên theo dõi Châu Á, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, David Hutt cũng đưa ra một số nhận định mà theo tác giả này, giới tư vấn, hoạch định chiến lược và chính sách phát triển của Việt Nam cần lưu ý, bài viết có đoạn :
"Các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam có thể được tha lỗi, nếu triển vọng năm 2020 của họ bị chính trị hóa quá mức...
"Nhưng các nhà hoạch định kinh tế sẽ bị sai lầm khi bỏ qua các vấn đề dài hạn khác nhau đe dọa đưa đất nước vào cái gọi là "bẫy thu nhập trung bình", trong đó đất nước có nguy cơ già đi trước khi trở nên giàu có...
"Hiện không thấy rõ ngay lập tức rằng các nhà hoạch định kinh tế Việt Nam đang làm đủ để tránh cái bẫy đó. Điều đó bao gồm việc thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước (SOE) không hiệu quả, ngân hàng tiếp tục"cố ngấu nghiến" chính sách cho vay trong sự bất lợi với khu vực tư nhân".
Theo David Hutt, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, mà thường được biết đến với tên gọi ở Việt Nam là "cổ phần hóa", được coi là rất quan trọng để gây quỹ cho các kho bạc nhà nước. Nhưng quá trình này đã chậm lại đáng kể trong những năm gần đây, với năm 2019 chứng tỏ một năm đặc yếu kém cho các chỉ số phát hành công khai lần đầu về chứng khoán (IPO).
"Không có công ty tư nhân nào niêm yết cổ phiếu trong chín tháng đầu năm, trong khi một số danh sách doanh nghiệp nhà nước được lập trình đã bị lùi lại", nhà quan sát này viết.
"Chính trị là một yếu tố trong sự chậm lại tư nhân hóa. Chẳng hạn, các thanh tra viên nhà nước thường đánh giá quá cao các tài sản của doanh nghiệp nhà nước được lên kế hoạch tư nhân hóa, sợ rằng việc mất tiền nhà nước thông qua việc định giá trị thấp hơn có thể bị phạt tù.
"Những lo ngại đó đã được khuếch đại thêm bởi một nỗ lực chống tham nhũng cấp cao mà trong những năm gần đây đã khiến nhiều cựu giám đốc điều hành của các doanh nghiệp nhà nước, một số vì tham nhũng, một số khác có lẽ vì thất bại trong chính trị phe phái, bị sa bẫy".
Và tác giả bài viết có tựa đề tạm dịch "Rủi ro kinh tế Việt Nam năm 2020 bị làm cho thu hẹp mức độ" đặt ra câu hỏi và vài cảnh báo từ một số khía cạnh mà ông tin là đáng lưu ý :
"Làm thế nào chính phủ tiến hành cân bằng lợi ích của người lao động và doanh nghiệp, một điểm nóng tiềm năng thường được bùng phát qua các cuộc biểu tình công khai chống lại các bộ luật được đề xuất gây tranh cãi gần đây, mà sẽ được quyết định vào năm 2020.
"Một vấn đề bao trùm đối với các nhà hoạch định kinh tế là nhiều cải cách và thay đổi cần thiết để cải thiện năng suất và tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư sẽ không nhất thiết phải phổ biến với người lao động địa phương, bao gồm biện pháp mới để tăng tuổi nghỉ hưu.
"Trong khi đó, việc đẩy mạnh tư nhân hóa sẽ làm khó chịu những thế lực lợi ích của Đảng vốn đã trở nên giàu có trong những năm qua từ các cơ hội bảo trợ và tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp nhà nước đem lại cho họ.
"Vì vậy, trong một năm khi các đảng viên sẽ tranh giành vị trí trước Đại hội toàn quốc của đảng vào năm 2021 và các nhà lãnh đạo của đảng nhắm tới việc tạo dấu ấn trên trường quốc tế, sẽ là rất thú vị chứng kiến nhiều thách thức kinh tế cấp bách của quốc gia này", David Hutt viết trên Asia Times.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 05/01/2020
***************
Kinh tế Việt Nam ‘khởi sắc’ nhưng ‘cần cải thiện nhiều’
VOA, 03/01/2020
Mặc dù kinh tế Việt Nam trong năm 2019 có nhiều điểm sáng với mức tăng trưởng cao nhưng Việt Nam cần thực hiện nhiều cải cách để tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển, một nhà kinh tế trong nước nói VOA.
Công nhân đang làm việc tại một xưởng may mặc ở Hà Nội. May mặc vẫn là một trong những mặt hang xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam
Việt Nam kết thúc năm 2019 với nhiều chỉ số kinh tế vượt trội trong bối cảnh kinh tế thế giới đang gặp nhiều khó khăn, khiến cho đại diện của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khen ngợi rằng ‘mây đen kéo về toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa nắng ở Việt Nam’.
Theo số liệu chính thức do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố, kinh tế Việt Nam trong năm 2019 tăng trưởng 7,02% - tốc độ tăng trưởng cao thứ hai trong vòng 10 năm qua, mặc dù con số này xê dịch một chút so với tính toán của Ngân hàng Thế giới (6,8%) hay Ngân hàng Phát triển Châu Á (6,9%).
Đây là mức tăng trưởng thuộc hàng cao nhất thế giới trong khi những nền kinh tế năng động nhất Châu Á đều có mức tăng trưởng thấp hơn, chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ tăng 6,1% còn Indonesia tăng 5%, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong năm 2019 cũng đạt mức kỷ lục là 517 tỷ đô la - xuất khẩu 263 tỷ và nhập khẩu 253 tỷ, theo số liệu Bộ Công thương công bố. Đây là năm thứ 4 liên tiếp Việt Nam có thặng dư thương mại với mức xuất siêu là 10 tỷ đô la.
Số lượng doanh nghiệp mới đăng ký thành lập trong năm 2019 đạt trên 138.000 doanh nghiệp, cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê với số vốn tăng 17,1% so với năm trước đó. Trong khi đó, mức dự trữ ngoại hối cũng đạt mức cao nhất từ trước đến nay với 80 tỷ đô la, theo công bố của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại hội nghị của Chính phủ với các địa phương hôm 30/12.
Nhờ chiến tranh thương mại ?
Trao đổi với VOA về những kết quả này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, người từng là thành viên tổ tư vấn kinh tế của chính phủ, nói rằng tốc độ tăng trưởng như thế vừa là ‘nỗ lực trong nước’ vừa là ‘cơ hội do chiến tranh thương mại tạo ra’.
"Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung làm cho xuất khẩu tăng vọt hẳn lên và xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng rất cao", ông cho biết.
Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong năm 2019 tăng đến 27,8%. Với mức xuất khẩu sang Mỹ đạt 60,7 tỷ đô la và nhập khẩu 14,3 tỷ, Việt Nam có thặng dư lên đến trên 46 tỷ đô la trong giao thương với Mỹ.
Tuy nhiên, trước viễn cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung sẽ được giải quyết và Việt Nam sẽ mất đi lợi thế xuất khẩu vào thị trường Mỹ, ông Doanh cho rằng Việt Nam ‘sẽ nỗ lực phát triển khu vực kinh tế tư nhân’.
Ông nói việc kinh tế tư nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh là điều đáng mừng và dẫn chứng là số doanh nghiệp mới ra đời tăng lên, sự kiện tập đoàn Vingroup ra mắt xe hơi ‘made in Vietnam’ Vinfast, hãng xe Trường Hải xuất khẩu xe buýt sang Philippines, gạo ST 25 được công nhận là ‘gạo ngon nhất thế giới’ và xuất khẩu trái cây Việt Nam được đẩy mạnh như xuất khẩu xoài và vải thiều.
"Tôi rất hy vọng các tập đoàn tư nhân của Việt Nam phát triển vững mạnh", ông nói. "Tôi mừng là Vingroup đã đầu tư vào trường đại học, vào viện nghiên cứu".
"Trong nông nghiệp cũng có những tín hiệu tốt. Có nhiều thành phố đã đầu tư xây dựng các trang trại hiện đại, nhờ đó đạt được những sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao hơn và có thể tăng thêm xuất khẩu của Việt Nam", ông nói thêm.
Ông khen ngợi công tác điều hành của Chính phủ : "Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chính phủ đã hết sức năng nổ trong việc tạo thuận lợi cho điều kiện kinh doanh, cắt giảm giấy phép, vận dụng chính phủ điện tử nên đã làm giảm bớt rất nhiều chi phí thời gian và chi phí tiền bạc cho các doanh nghiệp".
‘Chưa thấy điểm sáng’
Về các doanh nghiệp nhà nước, vốn lâu nay có nhiều tai tiếng vì các khoản lỗ hàng tỷ đô la, ông Doanh nói trong năm vừa qua ‘chưa thấy điểm sáng gì rõ nét’ và dẫn ra trường hợp Gang thép Thái Nguyên với các lãnh đạo bị đưa ra kỷ luật.
Ông cho biết ‘11 công trình đã đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn đang đợi được xử lý’ và ‘cần phải xử lý khẩn trương và hiệu quả để trong thời gian tới có thể huy động được tài sản cố định đã được đầu tư vào đó’.
Về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng chuyển dịch về phía các linh kiện điện thoại, linh kiện máy tính (chiếm phần lớn tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chứ không phải các mặt hàng truyền thống như sản phẩm may mặc, giày dép), ông Doanh nhận định đó là ‘tín hiệu đáng mừng’.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nhấn mạnh "Các mặt hàng điện tử là của nhà đầu tư nước ngoài. Giá trị gia tăng của người Việt Nam còn hạn chế" và kêu gọi Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để có những thương hiệu của người Việt Nam.
Cần cải thiện môi trường kinh doanh
Nhà kinh tế này cũng lưu ý rằng mặc dù trong năm vừa qua, Việt Nam đã có mức thăng hạng cao nhất trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh trạnh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới - từ hạng 77 lên 67, nhưng hạng 67 ‘chưa phải là thứ hạng cao’.
"Luật Doanh nghiệp đã thuận tiện hơn nhưng giấy phép con vẫn còn, các doanh nghiệp vẫn báo cáo là các chi phí ngoài pháp luật vẫn còn", ông cho biết. "Phải công khai minh bạch để các doanh nghiệp biết là đơn của họ đang được ai xử lý và bao lâu sẽ có câu trả lời".
Mặc dù đã có chính phủ điện tử, nhưng ông Doanh cho biết ‘các doanh nghiệp vẫn phản ánh là đến khâu cuối cùng họ vẫn phải in tài liệu ra đến nộp và khi nộp vẫn phải có chi phi ngoài pháp luật’. "Điều này làm cho chi phí doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn cao so với các nước khác trong Asean", ông nói thêm.
Riêng các doanh nghiệp vừa và nhỏ và mảng kinh tế hộ gia đình, ông Doanh cho rằng ‘năng lực cạnh tranh quốc tế không cao’ vì ‘không có thương hiệu nên khó có thể cạnh tranh với sản phẩm của các nước ASEAN đang tràn vào thị trường Việt Nam trong năm 2019".
Cựu thành viên tổ tư vấn kinh tế của chính phủ dự đoán năm 2020 sẽ là ‘năm có nhiều thách thức’ với nhiều biến động ‘khó có thể dự báo’.
Nguồn : VOA, 03/01/2020
IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay (RFA, 06/07/2017)
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố hạ dự báo tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam trong năm 2017, từ 6,5% xuống còn 6,3%, nhưng vẫn giữ quan điểm lạc quan rằng nền kinh tế có thể hưởng lợi do "chương trình cải cách nhiều hứa hẹn".
Containers ở cảng Đà Nẵng ngày 16/6/2017 AFP
Những yếu tố ảnh hưởng đến dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2017 mà IMF đưa ra bao gồm hoạt động khai thác dầu khí tiếp tục suy giảm trong quý I, chỉ số lạm phát không được cải thiện mà vẫn ở mức 5%. Tuy nhiên, IMF cho rằng mức tăng trưởng cơ bản vẫn được duy trì nhờ vào hoạt động sản xuất mạnh và dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhu cầu nội địa gia tăng cũng như sự phục hồi trong sản xuất nông nghiệp.
IMF còn đưa ra các nguyên nhân khiến cho phát triển kinh tế của Việt Nam bị ảnh hưởng trong ngắn hạn bao gồm nợ công cao, xử lý chậm các khoản nợ xấu, điều kiện tài chính toàn cầu đang bị thắt chặt, những nhân tố bất ngờ ở nước ngoài ảnh hưởng đến nhu cầu nội địa, chế độ bảo hộ gia tăng và Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Mặc dù vậy, IMF vẫn lạc quan về nền kinh tế của Việt Nam bởi chương trình cải cách của chính phủ có thể thúc đẩy sự tăng trưởng tiềm tàng và có khả năng thích ứng với những cú sốc đối với nền kinh tế.
IMF cũng cho biết các hiệp định thương mại song phương như thỏa thuận với EU nếu được triển khai nhanh chóng thì sẽ có thể giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút FDI.
Dự báo của IMF về mức tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2018 sẽ ở mức 6,3%.
*********************
IMF hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam (VOA, 07/07/2017)
Ngày 6/7, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam xuống còn 6,3%, so với mức dự báo 6,5% đưa ra hồi tháng 5.
Công nhân làm việc tại một nhà máy ở Bắc Giang. IMF nói tăng trưởng cơ bản của Việt Nam được duy trì nhờ hoạt động sản xuất và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Theo IMF, lĩnh vực dầu mỏ của Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong nửa đầu năm nay, nhưng tăng trưởng cơ bản được duy trì nhờ hoạt động sản xuất và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, cũng như sự phục hồi trong lĩnh vực nông nghiệp.
IMF dự báo lạm phát tại Việt Nam sẽ ổn định ở mức khoảng 5% và thặng dư tài khoản vãng lai sẽ giảm đôi chút do nhập khẩu tăng.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế chỉ ra các rủi ro như nợ công cao, giải quyết nợ xấu chậm, điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt, các cú sốc từ bên ngoài ảnh hưởng đến nhu cầu, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và sự sụp đổ của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), là những yếu tố đã ảnh hưởng đến viễn cảnh tăng trưởng ngắn hạn của Việt Nam.
Giám đốc điều hành IMF nói việc thắt chặt chính sách tài khóa là thích hợp. Tuy nhiên theo quan sát của IMF, Việt Nam nên giữ nguyên chính sách tiền tệ, nhưng phải thật cảnh giác với những dấu hiệu tăng lạm phát cơ bản.
Mặc dù hạ mức dự báo tăng trưởng, IMF lại khá lạc quan khi cho rằng nền kinh tế Việt Nam có thể hưởng lợi từ chương trình cải cách đầy tham vọng của chính phủ.
IMF nói chương trình cải cách mà chính phủ Việt Nam đề ra có thể giúp nền kinh tế Việt Nam tăng khả năng tăng trưởng và thích ứng với các cú sốc. Tổ chức tài chính quốc tế cũng đánh giá cao kế hoạch "sáp nhập tài chính hợp lý, bắt đầu từ năm nay, mặc dù các biện pháp cụ thể vẫn chưa được đưa ra đầy đủ".
Theo IMF, việc triển khai nhanh chóng các hiệp định thương mại song phương, chẳng hạn như FTA với EU, có thể giúp đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
IMF dự báo GDP của Việt Nam vào năm 2018 sẽ là 6,3%.
Năm ngoái, tăng trưởng của Việt Nam đạt mức 6,2%, giảm mạnh so với mức 6,7% vào năm 2015.
Năm nay, mục tiêu tăng trưởng Việt Nam đặt ra là 6,7%.
(Theo IMF, Financial Times, Business Insider)