Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14 đang xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ Luật hình sự 2015. Trong một phiên họp của Quốc hội, Đại biểu Bắc Kạn Nguyễn Thị Thủy đề nghị đưa vào Bộ Luật hình sự 2015 nghĩa vụ của luật sư phải tố giác thân chủ mình khi phạm một số tội nghiêm trọng, đặc biệt là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Lý do người đề xuất áp dụng trách nhiệm hình sự đối với luật sư không tố giác thân chủ phạm tội là vì nhân dân, vì sự bình yên của nhân dân. Nhiều người cho rằng đây là một đề xuất khá bất thường, đáng lo ngại. Vì những đề xuất bất thường này xem ra lại được sự ủng hộ của không ít đại biểu quốc hội. Bằng chứng là đề nghị này đã được giữ lại trong dự thảo sửa đổi, bổ sung nơi Điều 19, Khoản 3 Bộ Luật hình sự 2015, dẫn đến một phản ứng mạnh mẽ của nhân dân trong nước, nhất là giới luật sư và luật gia.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Đoàn Đại biểu Bắc Kạn) -
Một câu hỏi được đặt ra : Quốc hội Việt Nam đang cải tiến hay cải lùi hệ thống tư pháp và pháp luật nói chung, luật pháp liên quan đến nghề luật sư tại Việt Nam nói riêng ?
Trong văn thư của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đề ngày 12/6/2017 "Về việc góp ý đối với Khoản 3 Điều 19 của Bộ Luật hình sự 2015", sau khi đưa ra ba căn cứ lập luận khá vững chắc, đã đi đến kết luận rằng "Việ c giữ lại Khoản 3 Điều 19 Bộ Luật hình sự 2015 là một bước lùi trong pháp luật hình sự ; tạo sự xung đột pháp luật với các quy định có liên quan ; hạ thấp vai trò, chức năng xã hội của luật sư ; làm "vẩn đục" đạo đức nghề nghiệp luật sư, đi ngược lại thông lệ của nghề luật sư trên thế giới. Và như thế là không phù hợp với Chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị và chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ…".
Tranh luận xung quanh việc luật sư có nghĩa vụ tố giác thân chủ, trong một bài viết trên báo điện tử Người Đưa Tin, Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh - Viện trưởng viện Pháp luật và Kinh tế ASEAN, Tổng Biên tập tạp chí Pháp luật và Phát triển, đã đưa ra 8 căn cứ lập luận để đi đến "kiế n nghị loại bỏ luật sư ra khỏi chủ thể phải tố giác tội phạm…".
Ông viết "Loạ i bỏ luật sư ra khỏi các chủ thể phải tố giác tội phạm theo Điều 19, Dự thảo luật Sửa đổi, bổ sung BLHS 2015. Đó là phương án tối ưu để đảm bảo cho hệ thống pháp luật Việt Nam không mâu thuẫn với các công ước quốc tế đã ký và đặc biệt là đảm bảo phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013, với chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về thúc đẩy và phát triển dân chủ. Phương án này cũng cho thấy giá trị đạo đức và nhân văn của pháp luật hình sự Việt Nam…".
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với các căn cứ và lập luận của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh và của Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh. Chúng tôi cho rằng nếu quốc hội đương nhiệm giữ lại và thông qua Khoản 3 Điều 19 trong luật bổ sung Bộ Luật hình sự 2015, là đã "cải lùi" chứ không "cải tiến" hệ thống tư pháp nói chung và luật pháp liên quan đến nghề luật sư nói riêng. Điều này trái với tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính Trị và kế hoạch 5-KH/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương ; trái với Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/1011 của Thủ tướng Chính phủ. Tất cả đều theo chiếu hướng cải cách là để đáp ứng với đòi hỏi thực tế, phù hợp với thời kỳ "mở cửa" hội nhập với thế giới bên ngoài (sau 1995) ; sau khi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thất bại(1975-1985), không thể cứu vãn dù đã cố gắng thực hiện chủ trương chính sách "Đổi mới" (1985-1995).
Hiệu quả chủ trương chính sách "Mở cửa" để cứu nguy chế độ sau hơn 20 năm từ 1995 đến nay Việt Nam đã thay da đổi thịt như thế nào, bộ mặt phồn vinh ra sao ; nhân dân Việt Nam đã có được một đời sống tốt đẹp hơn so với 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa (1975-1995) không cần nói ra thì mọi người ai cũng thấy. Đó là nhờ sự chuyển đổi kính tế qua con đường làm ăn "Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" như đảng và nhà nước nói để tuyên truyền lừa mị ; song thực chất cũng như thực tế "Kinh tế thị trường" đã và đang theo định hướng "tư bản chủ nghĩa" đã là tất yếu.
Nhưng cũng chính sự chuyển đổi kinh tế theo chiều hướng này đã đưa đến chuyển biến về mặt chính trị theo chiều hướng dân chủ hóa từng bước nên thực tế các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền người dân ngày càng được tôn trọng và hành xử ra sao so với hơn 20 năm trước đây ai cũng biết. Do đó, hệ thống tư pháp và pháp luật Việt Nam cần "cải tiến" cho phù hợp cũng là một "tất yếu".
Trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của luật sư Việt Nam cũng cần được nâng cao ngang tầm cao của một luật sư quốc tế là điều cần yếu. Vì vậy, quy chế pháp lý, qui định pháp luật cho cá nhân cũng như đoàn thể luật sư Việt Nam cũng không thể khác với các luật sư và luật sư đoàn quốc tế. Nghĩa là luật sư phải được luật pháp bảo vệ các quyền hành nghề như các luật sư khác trên thế giới, trong đó có quyền độc lập, an toàn cá nhân, quyền giữ bí mật nghề nghiệp, không thể quy kết trách nhiệm hình sự chỉ vì luật sư đã không khai báo những gì mà thân chủ tin cậy đã cho mình biết trong các vụ án mà mình nhiệm cách. Vả lại, khi nhiệm cách cho một thân chủ, các hành vi phạm pháp đã xẩy ra hay chưa kịp xẩy ra bị can đã bị bắt giữ ; việc điều tra, tìm bằng chứng kết tội là nhiệm vụ của các cơ quan điều tra (công an, việ n kiểm sát…) ; trong khi luật sự chỉ làm nhiệm vụ gỡ tội, minh oan cho thân chủ (nế u thực sự họ vô tội), hay tìm cách làm giảm nhẹ hình phạt (nế u thân chủ có đủ chứng cớ phạm tội thật mà có những tình tiết giảm bớt hình phạt).Đây là một nguyên tắc quốc tế bất di bất dịch thể hiện sự quân bình và công bình trong việc xét xử và kết án những nghi can trước tòa án : Công tố buộc tội, luật sư gỡ tội, chánh án hay hội đồng xét xử nghe lý lẽ, bằng chứng đôi bên để kết tội hay tha bổng.
Nay nếu quốc hội thông qua điều luật buộc luật sư phải tố cáo tội trạng của thân chủ mình, là "cải lùi" về thời kỳ "bào chữ a viên nhân dân" với "Đoàn bào chữ a viên nhân dân" là những cá nhân công nhân viên (mộ t trong những điều kiện...) trong một đoàn thể công quyền như công tố đoàn và thẩm phán đoàn đều có ăn lương nhà nước, chung nhiệm vụ xét xử tội phạm theo các nghị quyết của đảng (về chủ trương, chính sách được thể chế hóa thành pháp luật ).
Pháp lệnh ngày 18/12/1987 của Hội đồng nhà nước về tổ chức luật sư và nghị định số 15/HĐBT ngày 21/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chê Đoàn luật sư. Căn cứ trên những văn kiện pháp lý hành chánh này, các Đoàn luật sư được thành lập thay thế cho các đoàn bào chữa viên nhân dân trên cả nước. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành quyết định số 635/QĐ-UB ngày 24/10/1989 vê việc Thành lập Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, nơi "Điều 3 : Đoàn luật sư thành phố được chính thức hoạt động và đoàn bào chữa viên nhân dân thành phố chấm dứt hoạt động kể từ ngày ban hành quyết định này".
Nhớ lại vào năm 1989 khi thành lập Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, theo yêu cầu góp ý với Đại Hội 8 đảng cộng sản Việt Nam của Hội luật gia Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đó còn ở trong nước, tôi đã viết bài tham luận "Vai trò của luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa". Hai năm sau, một nhân viên báo Sài Gòn giải phóng có đến gặp tôi nói là để đưa tiền nhuận bút 30 đồng lúc đó cho bài tham luận vừa nêu được báo đăng tải và chuyển đạt lời mời cộng tác viết bài cho báo của lãnh đạo. Tôi ngạc nhiên nói là bài tham luận này tôi đã viết cách nay hai năm mà. Nhân viên này cho hay là vì lúc đó "Đảng chưa có quan điểm về dân chủ pháp trị" nên không dám đăng mà giữ lại vì thấy có giá trị.
Như thế phải chăng bắt đầu từ năm 1989 đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam mới có quan điểm về "dân chủ pháp trị" ? Thế nhưng cho đến nay việc thực hiện quan điểm này có tiến bộ đôi chút, nhưng vẫn không thoát được vòng Kim cô "Xã hội chủ nghĩa" nên các quyền dân sinh, dân chủ và nhân quyền vẫn chưa thực hiện đầy đủ, vẫn bị bóp nghẹt. Công cuộc cải cách hệ thống tư pháp và luật pháp trong đó có luật liên quan đến nghề nghiệp luật sư vẫn nủa nạc nửa mỡ ?
Thực ra khi chúng tôi đưa ra tiêu đề tham luận "Vai trò củ a luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa" vào thời điểm năm 1989 là có tính gượng ép cho phù hợp thời thế. Vì "Dân chủ pháp trị" (cai trị bằng pháp luật) không thể có trong "chế độ xã hội chủ nghĩa" (độ c tài toàn trị, cai trị bằng nghị quyết của đảng cộng sản độc quyền thống trị). Do đó trong bài tham luận mới đây về luật hóa buộc luật sư phải tố cáo tội lỗi thân chủ của mình, Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh có lẽ cũng đã gượng ép theo kiểu viết và lách, rào trước đón sau khi mở đầu bài viết "Tôi mong Bộ Luật hình sự sau khi được ban hành sẽ không một lần nữa trở thành đề tài phê phán của xã hội, đồng thời để nền dân chủ và hệ thống tư pháp hình sự của đất nước không phải trải nghiệm những bước lùi được báo trước. Bài viết này trao đổi một số vấn đề về hình sự hóa việc luật sư không tố giác thân chủ phạm tội…".
Chúng tôi thành tâm ước mong quốc hội hiện nay trong thời kỳ "Mở cửa" (hộ i nhập vào nền văn minh thế giới) phải là quốc hội của dân, khác với quốc hội trong thời kỳ "Đóng cửa" (xây dự ng xã hội chủ nghĩa khép kín đã thất bại hoàn toàn) là quốc hội của đảng cộng sản Việt Nam. Sự khác biệt cần được thể hiện qua nhiệm vụ lập pháp theo chiều hướng cải tiến hệ thống tư pháp và pháp luật, trong đó có pháp luật liên quan đến nghề nghiệp luật sư, đóng vai trò cần yếu trong "nền dân chủ pháp trị" thay vì cố duy trì hệ thống tư pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa lỗi thời.
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 03/07/2017
Dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi có quy định đặt ra khả năng xử lý hình sự đối với luật sư về tội không tố giác tội phạm, nếu khi hành nghề biết được thân chủ đã có hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc một trong các tội đặc biệt nghiêm trọng khác mà không tố giác.
Tòa nhà Bộ Tư pháp Việt Nam
Quy định này đang gây ồn ào và bị giới luật sư phản đối gay gắt do trái ngược với các quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Đây có thể hiểu như là một bước nhằm kiện toàn hoàn thiện hệ thống tư pháp theo đường hướng phương cách mà các nhà làm luật muốn.
Có thể hình dung là vào một lúc nào đó, một cơ quan ban ngành tư pháp nào đó, họ thấy rằng luật sư không tố giác thân chủ là không được nên lọc ra vấn đề này và đưa ra quy định ấn định như một nội dung công việc cần thực hiện.
Vấn đề này chắc chắn đã trải qua những cuộc họp sơ bộ của các ban ngành tư pháp và đã cơ bản được nhất trí nên mới đưa vào văn bản dự thảo luật.
Nhưng tôi cho rằng đây chỉ là những việc làm có tính hình thức râu ria mà thay vì đụng đến những vấn đề bản chất nhất của hệ thống tư pháp. Tôi cho rằng Đảng cộng sản, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp Trung ương cần nhìn thẳng vào vấn đề bản chất nhất của nền tư pháp hiện nay và có giải pháp thực hiện.
Luật sư Ngô Ngọc Trai
Lương quá thấp
Ngày hôm (29/5) qua tôi có buổi làm việc tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang về một vụ án hình sự. Quá trình làm việc tôi tranh thủ hỏi thì được biết, người kiểm sát viên đã có chục năm công tác nhưng mức lương cùng các khoản phụ cấp anh được nhận một tháng chỉ là khoảng 8 triệu đồng.
Nửa năm trước tôi có dịp làm việc Tòa án huyện Thanh Oai thuộc thành phố Hà Nội, cũng khi trao đổi công việc thì anh thẩm phán kiêm Phó chánh án tòa cho biết, tổng thu nhập lương và phụ cấp của anh vào khoảng 9 triệu đồng. Đó là mức lương của người đã mười mấy năm công tác, hết thư ký rồi đến thẩm phán rồi được bổ nhiệm làm Phó chánh án.
Để viết bài này tôi hỏi thêm một người bạn học cùng đại học giờ cũng đã là thẩm phán của một huyện thuộc tỉnh Phú Thọ thì được biết, tổng lương và phụ cấp của bạn tôi chỉ khoảng 7 triệu đồng, đó là mức lương của người đã chục năm công tác.
Đó thực sự là mức lương quá thấp của giới cán bộ tư pháp và tôi thấy rất buồn và cám cảnh cho cái sự quan tâm đầu tư của nhà nước cho ngành tư pháp. Tôi so sánh áng chừng với mức lương của một chuyên viên ngân hàng hay một chuyên viên pháp chế doanh nghiệp làm việc chục năm thì thu nhập của họ có lẽ là cao gấp đôi mức lương mấy vị cán bộ tư pháp.
Điều này ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới chất lượng hoạt động của ngành tư pháp. Mặc dù tôi không muốn đưa ra những lời đánh giá vô căn cứ, và không muốn làm tổn thương gây hại đến giới tư pháp. Nhưng mọi người có thể hình dung là với một mức lương thấp như vậy thì làm sao họ có thể yên tâm công tác, và làm sao học có thể giữ được sự công tâm khách quan trước những cám dỗ kinh tế trong khi giải quyết các vụ án ?
Tôi không biết các ngành tư pháp đánh giá tổng kết mỗi năm thế nào, nhưng bản thân tôi khi tham gia các vụ án thì đặc biệt ở cấp huyện, không một vụ án nào mà tôi không thấy có vấn đề về sai trái. Không sai trái về năng lực chuyên môn nghiệp vụ thì sai trái do có dấu hiệu tiêu cực.
Tôi cũng không biết các ban ngành đánh giá sự quan tâm đầu tư cho giới tư pháp thế nào, nhưng tôi cho rằng mức lương là sự đánh giá thực chất nhất cho thấy mối ưu tiên đầu tư, đó là bộ mặt của nền tư pháp, là tầm vóc vị thế thực chất của nền tư pháp.
Kém quan tâm
Tôi cho rằng mức lương thấp của giới tư pháp cho thấy sự coi nhẹ và kém quan tâm đối với ban ngành lĩnh vực tư pháp.
Giới tư pháp do đặc thù nghề nghiệp đáng ra cần được hưởng một mức lương cao hơn thay vì cào bằng với các khối hành chính sự nghiệp khác. Vì một quyết định của họ có thể lấy đi một mạng người hoặc định đoạt số năm tù của một đời người. Thực tế nhiều người sẽ rất vui mừng nếu đưa được tiền cho cán bộ tư pháp.
Ở các nước như Mỹ, Châu Âu mức lương thẩm phán rất cao, điều đó giữ cho họ được công tâm khách quan, là những yếu tố quan trọng cốt yếu của tư pháp.
Sự kém quan tâm có thể đánh giá qua số lượng các văn bản nghị quyết chủ trương chính sách về lĩnh vực tư pháp so với các lĩnh vực khác, những văn bản làm việc sẽ cho thấy mức độ dành thời gian hay mối bận tâm của các ban ngành dành cho lĩnh vực tư pháp.
Hay sự kém vị thế của tư pháp thể hiện ở việc rất ít những lãnh đạo đảng cộng sản và nhà nước cao cấp trưởng thành từ những cán bộ tư pháp lâu năm như thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên thi hành án.
Sự coi nhẹ kém quan tâm đầu tư cho tư pháp có lẽ xuất phát từ hệ thống của một nhà nước thoát ra từ chiến tranh. Lúc ban đầu còn bom đạn thì chỉ coi trọng về quân đội công an mà tư pháp gần như bị bỏ rơi, có thời kỳ ở Việt Nam xóa bỏ Bộ tư pháp, xóa bỏ trường luật, cho tới khi phát triển kinh tế thị trường thì quan tâm tới những ngành lĩnh vực sản xuất kinh doanh làm ra tiền.
Như tôi thấy thì suốt mấy chục năm qua mảng tư pháp luôn bị xếp kém ưu tiên. Sự quan tâm nếu có thì nó cũng theo cái cách nhằm đạt đến mục đích khác. Khi phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì từ thực tiễn đặt ra nhu cầu việc xử lý giải quyết các tranh chấp giao dịch làm ăn phát sinh và vấn đề tội phạm liên quan nên tư pháp mới được giao việc và trả lương.
Ngành tư pháp chưa được coi trọng như một hệ thống không thể thiếu cho quản trị quốc gia và kiến tạo phát triển.
Việc tạo ra môi trường an toàn ổn định cho kinh doanh làm ăn lâu nay mới chỉ được nhìn thấy dưới góc độ ổn định chính trị và từ đó đề cao vai trò của quân đội và công an. Đó thực ra chỉ là yếu tố đối ngoại bên ngoài, còn ở trong nước tư pháp mới là ngành giữ vai trò chính trong việc tạo lập môi trường an toàn cho các quyền tài sản và quyền công dân, các nguồn lực cho phát triển kinh tế.
Ở Hàn Quốc, tư pháp đã xử lý bắt giam cả Tổng thống
Ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Hàn Quốc chúng ta thấy là ngành tư pháp giữ một vai trò to lớn khủng khiếp nếu so với quyền hạn của tư pháp Việt Nam. Ở Hàn Quốc vừa rồi tư pháp đã xử lý bắt giam cả Tổng thống, còn ở Mỹ thì Tổng thống cũng đang bị tư pháp tìm kiếm phanh phui xử lý sai phạm.
Vậy một quyền tư pháp lớn mạnh và một nền kinh tế phát triển, thì cái nào là nguyên nhân kết quả của cái nào ? Tôi cho rằng đó là hai cái song hành với nhau mà ở Việt Nam thì người ta chưa nhìn ra một nền kinh tế thị trường phải song hành với một nền tư pháp đủ tính năng hiệu quả, trong khi đây đang là lúc cần nhận ra nhất.
Các vấn đề nền kinh tế đang gặp phải như giải quyết nợ xấu, phá sản doanh nghiệp, hay dự án đắp chiếu đều có dấu ấn kém cỏi của ngành tư pháp không thực hiện được vai trò.
Và một lượng lớn tài sản và quyền công dân đang bị vướng vào những mớ bòng bong trói buộc nhưng người ta cũng chẳng buồn đưa ra nhờ tư pháp giải quyết, và đó mới là cái tai hại ẩn chìm cho phát triển kinh tế.
Cho nên những tranh cãi ồn ào về dự thảo quy định buộc luật sư phải có trách nhiệm tố giác thân chủ, nó chỉ là cái trái khoáy được tạo ra nhằm kích động sự ồn ào che mờ đi các vấn đề thực chất nhất của nền tư pháp và các vấn đề khác của đất nước.
Tác giả là luật sư, sống và làm việc ở Hà Nội.
Ngày 16/01 báo chí Việt Nam đồng loạt đưa tin Viện công tố Hàn Quốc đề nghị Tòa án ra lệnh bắt giữ Phó chủ tịch tập đoàn Samsung liên quan đến các cáo buộc phạm tội. Đến hôm 19/1 Tòa án trung tâm Seoul đã ra thông báo bác bỏ đề nghị bắt giữ của Viện công tố.
Người thừa kế Samsung Lee Jae-Yong là tâm điểm trong vụ điều tra ở Hàn Quốc
Samsung là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam, có mặt từ năm 1996 đến nay đã hơn hai mươi năm, Samsung đã đầu tư hàng chục tỷ USD và tạo ra hàng trăm nghìn công ăn việc làm. Với hai nhà máy lớn ở Bắc Ninh và Thái Nguyên, giá trị hàng xuất khẩu của Samsung đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Sự việc được báo chí Việt Nam đưa tin rộng rãi và phần nhiều được nhìn nhận theo góc độ kinh tế, nhưng nhìn theo góc độ tư pháp sự việc sẽ cho thấy nhiều điều.
Bắt giữ do Tòa án
Đầu tiên có thể thấy là Viện công tố Hàn Quốc tuy nắm quyền điều tra nhưng lại không được ra lệnh bắt giữ mà phải đề nghị tòa án ra lệnh bắt, nếu tòa án bác bỏ thì việc bắt giữ không thành. Khác với Việt Nam, pháp luật cho phép cả Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đều được quyền ra lệnh bắt mà không phải xin phép Tòa án.
Việc Tòa án Seoul từ chối bắt giữ đã giúp Samsung tránh được một cuộc khủng hoảng gây hại cho doanh nghiệp, việc Tòa án từ chối bắt giữ không phải vì lo lắng cho lợi ích kinh tế của Samsung mà đó là sự cân nhắc dựa trên các căn cứ cơ sở pháp lý.
Nhưng Viện công tố hẳn cũng đã có những cơ sở thích đáng cho đề nghị bắt giữ, và nếu quyền nằm trong tay họ thì họ đã bắt rồi.
Bất chấp những khác biệt giữa Việt Nam và Hàn Quốc, điểm thấy rõ nhất trong trường hợp này là nền tư pháp Hàn Quốc đã vận hành theo hướng có lợi cho doanh nghiệp và doanh nhân.
Nếu trường hợp này không phải là cá biệt, nếu Tòa án không hề ưu ái và đó chỉ là sự thực thi dựa trên các quy định pháp luật và bản chất sự việc, thì có thể nhận định cơ chế tư pháp như này là cơ chế bảo vệ tốt cho doanh nghiệp.
Một trường hợp khác là hồi tháng 5/2015 Tòa án quận trung tâm Seoul cũng bác bỏ đề nghị bắt giữ của Viện công tố đối với một Phó chủ tịch tập đoàn POSCO. Hay như hồi tháng 9/2016 cũng tòa án này đã bác đề nghị bắt giữ của Viện công tố đối với Chủ tịch tập đoàn Lotte. Những sự kiện này đều được báo chí Việt Nam đưa tin rộng rãi.
Đó là ba trường hợp Tòa án đã không bắt trong khi Viện công tố muốn bắt, và đó chỉ là ba trong số hàng nghìn hàng vạn vụ việc xảy ra mỗi năm ở Hàn Quốc có liên quan đến doanh nghiệp và doanh nhân.
Hãy hình dung là nếu Viện công tố được quyền bắt thì họ đã bắt và với hàng nghìn hàng vạn trường hợp tương tự thì khả năng là họ cũng bắt và tỉ lệ bị bắt giữ là cao hơn rất nhất. Và đó thực sự là một môi trường tư pháp đen tối thảm họa cho cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân.
Việt Nam thì sao ?
Áp dụng luật pháp như thế nào trên các trục lộ giao thông Việt Nam ?- Ảnh minh họa
Pháp luật Việt Nam hiện tại cho phép cả cơ quan điều tra và viện kiểm sát đều được ra lệnh bắt mà chẳng ai thấy là bất bình thường.
Từ lâu nay biết bao giám đốc doanh nghiệp đã bị bắt bởi cơ quan điều tra và viện kiểm sát mà chẳng ai phản đối được về vấn đề thẩm quyền. Chẳng thể nào biết được là nếu chỉ Tòa án mới được ra lệnh bắt thì liệu đã có biết bao nhiêu người đã không bị bắt và số phận pháp lý của họ cũng như doanh nghiệp của họ hẳn đã khác đi nhiều.
Các doanh nghiệp và doanh nhân ở Việt Nam đã không được Tòa án bảo hộ như pháp luật Hàn Quốc, và đây là một trong những nguyên nhân đưa đến sự còi cọc yếu kém của tầng lớp doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam. Nền tư pháp đã không kiến tạo ra được môi trường pháp lý an toàn thân thiện cho hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp.
Việc quy định tới ba thay vì chỉ một cơ quan được quyền bắt giữ đã làm tăng nguy cơ xấu, tạo ra môi trường pháp lý kém an toàn cho các quyền công dân. Trong khi theo Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện tại thì chỉ có Tòa án mới có chức năng bảo vệ Công lý, còn cơ quan điều tra và viện kiểm sát thì không.
Do vậy số phận pháp lý của doanh nhân và doanh nghiệp sẽ tốt đẹp hơn nếu họ được định đoạt bởi Tòa án là cơ quan có thẩm quyền thực thi công lý thay vì những cơ quan không có thẩm quyền.
Kém bảo vệ doanh nhân
Cơ chế tư pháp về việc bắt giữ như hiện tại gây hại cho các quyền công dân và đặc biệt gây hại cho tầng lớp doanh nhân.
Vì tầng lớp doanh nhân được xem là thành phần có tiền sẽ không thoát khỏi con mắt soi mói đánh giá khai thác của đủ các thành phần, doanh nhân lại không chịu được lối sống lăn lóc vất vưởng như các tội phạm về trật tự xã hội khác.
Cho nên muốn không bị bắt hoặc môi trường sống giam giữ thế nào tùy thuộc vào sự 'biết điều' của nghi phạm.
Tức là tình trạng lạm quyền và tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp tạo ra tình thế rất bất lợi cho tầng lớp doanh nhân.
Có thể nói không ngoa rằng cả nền tư pháp chống lại giới doanh nhân. Người doanh nhân bị bủa vây bởi mạng lưới của lạm quyền và tham nhũng sẽ bị làm cho kiệt quệ.
Các bất cập trong lĩnh vực tư pháp hình sự lâu nay ít được nhìn nhận đánh giá theo góc độ kinh tế, tôi chưa thấy có phân tích thống kê nào về vai trò của nền tư pháp hình sự đã tạo thuận lợi hay gây khó khăn gì cho phát triển kinh tế.
Nay đứng trước bài toán tìm cách thúc đẩy phát triển nền kinh tế, Chính phủ và các ban ngành cần nhìn ra vấn đề và giải pháp.
Nếu muốn nền kinh tế phát triển, doanh nghiệp và tầng lớp doanh nhân phát triển được như của Hàn Quốc thì cần xây dựng thiết lập một thể chế tư pháp giống họ để vừa có thể xử lý được tội phạm, mà vẫn bảo vệ được doanh nghiệp và doanh nhân.
Ngô Ngọc Trai
Nguồn : BBC, 03/02/2017 từ Hà Nội
Tác giả là luật sư đang hành nghề tại Hà Nội.