Nếu như trong những xã hội tự do và dân chủ, sự bất đồng chính kiến là đương nhiên và là sự thể hiện tự do tư tưởng, thì trong một xã hội độc tài toàn trị như Việt Nam, bất đồng chính kiến gắn liền với trí tuệ, dũng cảm và tràn đầy nhân cách.
Ký 1 và Ký 2 của Đinh Quang Anh Thái - Nhà xuất bản Người Việt, 2018
Dù người dân Việt Nam bị bưng bít thông tin và sự thật, bị nhồi sọ từ bé đến lớn, bị cấm tiếp cận với những giá trị tiến bộ mang tính phổ quát của nhân loại, nhưng vẫn có một số ít trí thức Việt Nam nhận thức được sự phi lý và phản khoa học của ý thức hệ cộng sản đang bao trùm lên toàn cõi Việt Nam. Và họ đã lên tiếng để cảnh báo, phán xét và chống lại ý thức hệ phi lý đó bằng các giải pháp ôn hòa, thường là thông qua các bài viết và các buỗi gặp gỡ mang tính riêng tư. Đó chính là những nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Họ là nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, sĩ quan lực lượng vũ trang, là trí thức, là sinh viên, nhà giáo, luật sư….Từ chỗ ít ỏi và phân tán, số lượng các nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam đang ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt, và có mật độ phân bố càng ngày càng rộng khắp.
Hiện nay, Việt Nam có một số nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng như Bùi Tín (đã mất), Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hoàng Minh Chính (đã mất), Hà Sĩ Phu, Lê Chí Quang, Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Lê Trần Luật, Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Hộ, Nguyễn Hữu Chánh, Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Xuân Giản, Phạm Hồng Sơn, Thích Huyền Quang, Thích Không Tánh, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sỹ, Trần Khải Thanh Thủy, Trần Quốc Hiền, Trần Độ, Vũ Thư Hiên, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đan Quế, Tô Hải (đã mất), Bùi Minh Quốc, Mai Thái Lĩnh, Phạm Quế Dương… Nếu như chính quyền Việt Nam coi những nhà bất đồng chính kiến là cái gai cần phải nhổ và đã tiến hành bỏ tù nhiều nhà bất đồng chính kiến, thì trong nhận thức của những người Việt Nam yêu chuộng tự do và dân chủ, những nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam chính là biểu tượng của những khát vọng tốt đẹp, biểu tượng của lòng yêu nước và là biểu tượng của trách nhiệm công dân. Họ đại diện cho lương tri người Việt còn sót lại sau một thời gian dài bị chính quyền làm phai mờ.
Nhiều nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam đã lìa xa cõi trần vì già yếu, vì bệnh tật, và nhiều người đã già, có thể đi xa bất cứ lúc nào. Làm thế nào để khắc họa chân dung và tính cách của một số nhà bất đồng chính kiến để mọi người biết đến, để lưu lại cho những thế hệ mai sau, đó là trăn trở của nhiều nhà báo, nhà văn bất đồng chính kiến ở Việt Nam từ nhiều năm nay. Nhưng vì nhiều lý do, chủ yếu là lý do vật chất (người viết không có kinh phí đi lại để tiếp xúc với nhân vật), lý do an ninh (an ninh cấm cản), một số nhà văn, nhà báo bất đồng chính kiến ở trong nước đã không thể thực hiện được ước nguyện của mình.
Nhưng, khi các nhà văn, nhà báo bất đồng chính kiến trong nước không thể thể hiện được chân dung của những người công chính, đã có một nhà báo người Việt Nam ở nước ngoài làm được điều này. Nhà báo Đinh Quang Anh Thái, một người Việt Nam vượt biên vào năm 1984 và đến Mỹ định cư vào cuối năm 1984, đã kiên trì đeo đuổi một chủ đề báo chí khó khăn : ký sự và phỏng vấn các nhà bất đồng chính kiến tiêu biểu của Việt Nam. Đây là một công việc- một đeo đuổi không hề dễ dàng bởi vì các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam đều sống ở trong nước và rất thiếu thốn phương tiện liên lạc. Kể từ khi Việt Nam tương đối phổ cập về điện thoại để bàn và cởi mở về viễn thông quốc tế vào năm 1997, nhà báo Đinh Quang Anh Thái mới có cơ hội tiếp xúc với các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam thông qua điện thoại đường dài. Qua các cuộc điện thoại, hình hài và chân dung các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam hiện dần lên.
Cuốn sách Ký 2 của Đinh Quang Anh Thái, được Nhà xuất bản Người Việt Book tại Hoa Kỳ xuất bản vào cuối năm 2018 và len lỏi về Việt Nam vào giữa năm 2019, tập hợp 5 bài ký sự về 5 nhà bất đồng chính kiến nổi bật ở Việt Nam. Đó là tướng Trần Độ, tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), nhà văn Dương Thu Hương, đại tá Phạm Quế Dương, nhà báo Lê Phú Khải. Ký 2 cũng tập hợp 9 bài phỏng vấn nhà văn bất đồng chính kiến Dương Thu Hương. Dung lượng thông tin mà Ký 2 dành cho nhà văn Dương Thu Hương khá nhiều cũng là điều dễ hiểu : khi Dương Thu Hương được tị nạn chính trị tại Pháp, nhà báo Đinh Quang Anh Thái đã có cơ hội gặp bà nhiều lần và tự do tác nghiệp.
Năm nhà bất đồng chính kiến trong Ký 2 của Đinh Quang Anh Thái hiện hình lên rất tự nhiên và trung thực thông qua những tiếp xúc gián tiếp hoặc trực tiếp. Đinh Quang Anh Thái với phẩm tính của một nhà báo là trung thực và khách quan, cụ thể và lạnh lùng, đã không hề bình luận hay đánh giá về năm nhà bất đồng chính kiến. Anh để cho sự việc, để cho những lời trả lời phỏng vấn nói lên tính cách và chân dung của họ.
Đó là một tướng Trần Độ điềm tĩnh đến lạ lùng, lí trí đến lạ lùng nhưng cũng nhiệt huyết đến lạ lùng.
Đó là tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ trí tuệ và sắc sảo đến không ngờ, can đảm đến không ngờ và cũng đằm thắm đến không ngờ.
Đó là nhà văn Dương Thu Hương với những tính cách cổ quái, những phát ngôn mang tính trực diện và có phần bỗ bã. Nhưng ẩn dấu sau những cổ quái, bỗ bã đó, nữ nhà văn - "mụ nhà quê răng đen mắt toét" - là điển hình của tư duy độc lập mạnh mẽ đến kinh dị, là thái độ lựa chọn lý tưởng mạnh mẽ đến kinh dị, là tình yêu đất nước và con người Việt Nam điên cuồng đến kinh dị.
Đó là đại tá Phạm Quế Dương nhân hậu đến không tưởng, nhân bản đến huyễn tưởng.
Đó là nhà báo Lê Phú Khải luôn tự dằn vặt mình về lựa chọn trong quá khứ, suy tư với hiện tại và luôn lạc quan về tương lai.
Trong sách Ký 2 của Đinh Quang Anh Thái, năm nhà bất đồng chính kiến Việt Nam xuất hiện một cách tự nhiên, không ồn ào và không hề đanh thép. Ký 2 mang đến cho người đọc một nhận thức rằng, trí tuệ và sự dũng cảm dấn thân của năm nhà bất đồng chính kiến Việt Nam là một tính cách, là một thuộc tính chứ không phải là một sự kiện ồn ào.
Cuộc sống luôn luôn biến đổi và nhận thức của con người cũng luôn luôn thay đổi. Vì vậy, những đánh giá, bình luận và phán xét về những nhân vật lịch sử sẽ mau chóng chìm vào quên lãng, nhưng tư liệu và sử liệu về những nhân vật lịch sử sẽ không bao giờ bị chìm vào các chuỗi biến động. Ký 2 của Đinh Quang Anh Thái ngập tràn những tư liệu và sử liệu sống động, xứng đáng để người đọc tìm đến, và xứng đáng để trở thành những tư liệu quý của Việt Nam trong tương lai- một Việt Nam có tự do và dân chủ.
Tâm Don
Nguồn : VNTB, 29/10/2019
Bài viết dưới đây được trích từ tác phẩm "Ký II" của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, xuất bản vào trung tuần tháng Chín, 2018, qua hệ thống Amazon. Bài viết bao gồm nhiều tài liệu, quan điểm của Hà Sĩ Phu, được nhà báo Đinh Quang Anh Thái ghi lại qua nhiều hình thức trong một thời gian dài, khởi đi từ một sự kiện năm 1995 đến biến cố biểu tình chống Dự Luật Đặc Khu 2018. Hơn 20 năm trôi qua, các nhận định liên tục của Hà Sĩ Phu về tình hình chính trị trong nước, trên thế giới, và đặc biệt về mối quan hệ Việt - Trung, vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự và tiên đoán chính xác. Bài viết được đăng tải với sự đồng ý của tác giả Đinh Quang Anh Thái.
Hà Sĩ Phu, tác giả "Chia tay Ý thức hệ", tại tư gia ở Đà Lạt. (Hình : Hà Sĩ Phu gởi Đinh Quang Anh Thái)
***
Ngày 10 tháng Sáu, 2018, hàng chục ngàn đồng bào tại nhiều thành phố Việt Nam xuống đường biểu tình chống "Dự Luật Đặc Khu Kinh Tế".
Dự luật dự trù sẽ được Quốc hội cộng sản Hà Nội đưa ra biểu quyết ngày 15 tháng Sáu, cho thuê mướn thời hạn 99 năm ba khu vực Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc.
Hầu hết các nơi biểu tình đều diễn ra ôn hòa, ngoại trừ Phan Rí. Lực lượng Cảnh sát cơ động, được mệnh danh ‘Quả Đấm Thép’ của Bộ Công an Việt Nam, thúc thủ trước người biểu tình chống dự luật đặc khu và đã biến thành bạo động tại Phan Thiết, Phan Rí Cửa, Bình Thuận.
Hình ảnh trên các mạng xã hội cho thấy lực lượng Cảnh sát cơ động bỏ áo giáp, nón sắt, leo tường chạy khỏi trụ sở Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bình Thuận. Họ được những người biểu tình đối xử tử tế, thậm chí có người dân còn cúi xuống đưa lưng cho cảnh sát leo lên vượt tường ra ngoài.
Ngày 15 tháng Sáu, từ Đà Lạt, Hà Sĩ Phu gửi email cho kẻ viết bài này :
"Đinh Quang Anh Thái thân mến,
"Trước hết cho mình xin lỗi vì đã hồi âm chậm trễ. Chắc Thái không thể hình dung tình trạng của mình sau khi chị Biên mất. Bà xã mình mất là sự kiện đau thương nhất đời mình. Chị Biên chịu đựng mấy chục năm để cho mình làm nghĩa vụ của một anh trí thức, chưa đền đáp được gì thì bà ấy đã ra đi ! Ngày nào mình cũng khóc. Khổ thế, yêu thương càng nhiều thì sự mất mát càng đau. Mình trơ trọi một mình với bệnh tật, phải tự lo liệu đủ mọi thứ. Đồng thời đúng lúc xã hội đang xảy ra nhiều biến động, nên mình không thể tách rời khỏi tình hình chung ấy.
"Thái hỏi đất nước mình bây giờ ra sao, so với cách đây hơn 20 năm, khi mình trả lời phỏng vấn của Thái lần đầu tiên năm 1995, mình thấy, sau hơn 20 năm, tình hình xã hội đã có những biến chuyển đáng khích lệ (số người dân chủ tiên phong xuất hiện nhiều thêm, số người dân quan tâm đến vận mệnh đất nước cũng nhiều thêm, đặc biệt là trước họa Bắc thuộc ; xã hội ngày càng phơi bày sự thối nát và không ổn định, thái độ mị dân ngày càng kém hiệu quả, chính sách độc tài ngày càng lộ diện… Những cuộc biểu tình tính tới con số trăm ngàn người tham dự hôm 10/06/2018 là minh chứng cho sự tiến triển đó. Nhưng đó mới là sự biến đổi về LƯỢNG, chưa đủ để thành biến đổi về CHẤT.
"Theo mình, thực trạng đất nước chúng ta hiện nay, do thể chế có 3 tính chất là phi khoa học, độc tài và dối trá, nên xã hội không thể phát triển, tham nhũng, ách tắc, tha hóa toàn diện, bị dồn nén nên tiềm ẩn nguy cơ biến động. Mà đã xảy ra biến động rồi, điển hình là những cuộc biểu tình hôm 10 tháng Sáu. Nhưng đấy mới là đối nội, chưa quan trọng bằng đối ngoại (nạn Bắc thuộc mới). Thoát Trung mới là nhu cầu cấp thiết hàng đầu, nhưng muốn Thoát Trung phải Thoát Cộng. Người giữ chế độ cộng sản Việt Nam không chỉ là Đcộng sản Việt Nam mà chủ yếu là Đảng cộng sản Trung Quốc !".
Hà Sĩ Phu 1995
Năm 1989, lúc khối cộng sản Đông Âu và "cái nôi của vô sản thế giới" là Liên Xô rã ra như "cơm nguội gặp mưa", nhà thơ Lê Bi thuộc nhóm Nhân Chủ Học Xã rao khắp bạn bè : "Ai tìm được tác giả bài viết DẮT TAY NHAU ĐI DƯỚI TẤM BIỂN CHỈ ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ, tôi tặng 1.000 đô la".
Không ai kiếm được.
"Nhân Chủ" là từ đã được nhà cách mạng Thái Dịch Lý Đông A dùng đầu tiên vào năm 1939, lúc ông khoảng 19 tuổi, khi ông sáng lập và là Bí thư Trưởng Duy Dân Cách Mạng Đảng. Nhân Chủ Học Xã là cơ quan lưu trữ tài liệu, nghiên cứu và huấn luyện của Duy Dân.
Sau năm 1954, từ Bắc di cư vào Nam, nhà cách mạng Thái Lăng Nghiêm tiếp tục công việc của Nhân Chủ Học Xã.
Năm 1985, các anh Trịnh Đình Thắng, Thanh Hùng, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Văn Cường, Lưu Ngọc Thọ, Hoàng Chính Nghĩa (Lê Bi), Nguyễn Võ Thu Hương và kẻ viết bài này cùng nhau phục hoạt Nhân Chủ Học Xã tại Mỹ. Trong nhóm, ba anh Trịnh Đình Thắng, Thanh Hùng và Nguyễn Văn Cường là cán bộ Duy Dân ; những anh em còn lại là những kẻ lưu vong cùng chí hướng tìm lại với nhau.
Trong nhóm, Lê Bi là người "miệng nói, tay làm". Anh đánh máy, bỏ dấu tiếng Việt bằng tay và giao cho tôi in những cuốn "Đạo Trường Ngâm", tập thơ của Lý Đông A ; "Tự Phán" của Phan Bội Châu ; "Thư Quốc Nội" tập bài nhận định về tình hình Việt Nam của tác giả ẩn danh được chuyển bí mật từ trong nước ra cho chúng tôi (sau này mới biết người chấp bút là anh Đoàn Viết Hoạt) ; và "Thơ Trích" của Lê Bi.
Cũng vào thời điểm anh em chúng tôi nỗ lực tìm xem ai là tác giả DẮT TAY NHAU ĐI DƯỚI TẤM BIỂN CHỈ ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ, báo Người Dân ra đời, với cùng nhân sự của Nhân Chủ Học Xã và thêm các anh Nhật Tiến, Hoàng Mạnh Hùng, Lê Thiện Tùng, Mai Văn Hiền, Phạm Gia Hòa, Nguyễn Văn Trung, Tống Nhiệm, Trần Thế Kiệt, Lã Hoàng Trung.
Nỗ lực, nhưng chúng tôi vẫn không tìm được tác giả DẮT TAY NHAU ĐI DƯỚI TẤM BIỂN CHỈ ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ.
Mãi sau này mới biết tác giả bài viết có bút hiệu là Hà Sĩ Phu.
Và ai cũng tưởng "Hà Sĩ Phu" là… sĩ phu Bắc Hà.
Nhưng không phải.
Lần đầu tiên tiếp xúc qua điện thoại và trả lời cuộc phỏng vấn ngày 04 tháng 12, 1995, phát thanh trên đài VNCR 106.3 FM tại California, Hoa Kỳ, Hà Sĩ Phu nói với tôi : "Bút hiệu của tôi đã từng bị đưa ra thảo luận. Ông Đào Duy Tùng khi đi nói chuyện mọi nơi đã cáo buộc rằng, ‘có người xưng là sĩ phu Bắc Hà đòi dạy chúng ta về Mác-Lê nin !’ Rồi khi tôi bị Bộ Nội Vụ gọi để thẩm vấn, thì Thiếu Tướng Quan Phòng có hỏi tôi ‘lấy cái tên như thế anh định có ý gì ?’ Ý ông muốn nói tôi dùng cái tên đó để làm khởi động, kích động cái tinh thần sĩ phu kiên cường trong nước chăng ? Tôi trả lời là lối hiểu đó là do đòi hỏi của thực tế. Người ta hiểu thế là vì trong thực tế nó đặt ra vấn đề rõ như vậy. Và nếu tên tôi có đáp ứng nhu cầu đó thì tôi không phản đối gì cả. Thực sự ra khi tôi đặt tên đó thì họ Hà, chữ Hà đó là bộ Nhân đứng chứ không phải là bộ Thủy. Nhân đứng và chữ Khả có ý nghĩa là ‘thế nào ?’ ‘là ai ?’ ‘làm sao ?’ - thì tên Hà Sĩ Phu tôi đặt nghĩa là ‘thế nào là sĩ phu ?’ ‘ai đáng là sĩ phu ?’ ‘ hay làm gì có sĩ phu ?’ - tức là sau đó phải đánh một dấu hỏi. Tôi không có ý khẳng định mình xứng đáng là một người sĩ phu của Bắc Hà đâu".
Ông giải thích thêm, khi đặt bút danh cho mình là Hà Sĩ Phu, ông muốn tỏ những thao thức, trăn trở về tình trạng tụt hậu mọi mặt của Việt Nam và muốn tự nhắc mình về bổn phận và ý thức của người sĩ phu đối với con người và đất nước Việt Nam.
***
Hà Sĩ Phu, tên thật là Nguyễn Xuân Tụ, sinh năm 1940 ở Bắc Ninh. Tốt nghiệp Phó Tiến sĩ Sinh học tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Tiệp Khắc. Về nước, Hà Sĩ Phu công tác tại Viện Khoa Học Việt Nam. Từ năm 1988, Hà Sĩ Phu đã công khai chống lại chủ nghĩa và sự cai trị độc tài của cộng sản Việt Nam. Những bài Hà Sĩ Phu viết như "Thằng Bờm", "Biện Chứng và Ngụy Biện trong công cuộc đổi mới" ; đặc biệt là bài "Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ" và "Chia Tay Ý Thức Hệ" tạo ra nhiều tiếng vang lớn, trong cũng như ngoài nước.
Trong bài "Chia Tay Ý Thức Hệ" ông viết : "Không phải như cộng sản thường nói rằng chủ nghĩa luôn luôn đúng, chỉ có con người thi hành sai mà ý thức hệ cộng sản sai từ căn bản. Phải từ bỏ ý thức hệ đó thì mới xây dựng được đất nước".
***
Một số đoạn trong bài phỏng vấn năm 1995 :
Đinh Quang Anh Thái : Trong một bài của ông, ông viết rằng, dẫu còn điều kiện này hay điều kiện khác, vai trò lịch sử của trào lưu cộng sản vẫn được mãi mãi ghi nhận. Và một đoạn khác ông nói, cùng với người hiệp sĩ ấy (ý ông ám chỉ người Sộng Sản) nhân dân ta đã có những ngày sống đẹp thanh khiết như thần tiên. Chúng tôi xin hỏi, ông ghi nhận những chuyện đó ở thời điểm nào ? Ông cho ví dụ được không ? Bà Dương Thu Hương thì đã có một giai đoạn gọi đó là một thứ thiên đường, về sau bà chua chát nhìn nhận đó là một "thiên đường mù". Còn về phần ông, khi viết như vậy, ông muốn dùng uyển ngữ để gửi tín hiệu cho người đọc hay thực tâm ông nghĩ như vậy ?
Hà Sĩ Phu : Những quá trình chuyển hóa hết sức là phức tạp. Đầu tiên là có sự xâm nhập và ký sinh của một thứ lý thuyết giai cấp cực đoan ảo tưởng phi khoa học, tức là cái dở. Nhưng nó ký sinh vào trong phong trào dân tộc. Và nó biến thành cái của dân tộc, mang thông điệp giải phóng của dân tộc. Đây là sự chuyển hóa đầu tiên. Lúc kháng chiến chống Pháp xong, lúc ấy cuộc sống còn nghèo, và cả đói nữa, cuộc thanh trừng giai cấp đã ló ra ở chỗ này, chỗ khác. Nhưng nhìn chung thì phải nhìn nhận rằng trong giai đoạn ngắn ngủi ấy, xã hội còn thanh bình, tình người còn trung hậu và xét trong số đông, tâm lý hồ hởi tin tưởng là có thật.
Về sau, do tính chất ảo tưởng cực đoan và phi khoa học của các học thuyết đó, cho nên nó thoái hóa, làm mất yếu tố tốt ban đầu, và biến những cái của dân tộc thành cái phi dân tộc và cản trở dân tộc. Thế rồi lại đến giai đoạn khác như hiện nay. Nhưng phải nhận rằng ngay trong tâm trạng bị vùi mình trong cái xấu như thế, thì một số các hạt nhân tinh hoa của dân tộc vẫn tồn tại chứ không mất đi. Và trong điều kiện như ở nước ta là một đảng đã nắm độc quyền lãnh đạo thì những hạt nhân bị vùi trong cái khối không tốt, chính họ chứ không phải ai khác, có khả năng bất ngờ tách ra, châm ngòi cho những cuộc đổi đời dân tộc một lần nữa để thanh toán cái xấu một cách hòa bình.
Tôi nghĩ nhận thức thực tiễn cũng như về phương pháp, tức là có cái phần gọi là sách lược, đều cần làm rõ điều này và thực tế ở thế giới, cũng như thực tế ở trong nước ta cũng dần dần xác định điều này. Thực tế, hiện nay những người bảo thủ ở nước ta sợ nhất khả năng chuyển hóa trong nội bộ của những nhân tố tốt đó. Cho nên họ cũng đề phòng kỹ lưỡng nhất cái khả năng này. Chỉ riêng điều ấy thôi, cũng cho thấy rằng nhận thức này, tức là nhận thức về yếu tố tích cực của phong trào cộng sản trong quá khứ không hề là một tư tưởng cải lương. Trái lại chính nó là một nhận thức mang xung lực mạnh mẽ nhất. Còn lối suy nghĩ có tính cách phân tuyến, đơn giản, một chiều, thì thoạt nghe có thể thấy là mạnh mẽ, có thể làm thỏa mãn một nhận thức chủ quan nào đấy, nhưng nó không phản ánh đúng cái bi kịch phức tạp của dân tộc, và do đó nó có ít khả năng tác động vào hiện thực.
Một nhà văn cộng sản đã nói là "thế hệ chúng tôi ở tuổi 20 mà không theo cộng sản thì không có tim, nhưng mà ở tuổi 50 mà còn theo cộng sản thì lại không có óc". Đấy, nhận thức nó lòng vòng như vậy, đâu có thể lấy hiện tại để làm chuẩn, để quy kết quá khứ hoặc là lấy quá khứ làm chuẩn để bênh vực hiện tại một cách suy diễn máy móc được.
Đinh Quang Anh Thái : Thưa ông, sau năm 1975, trong một lần nói chuyện với ông Vũ Sinh Hiên, một trí thức Công Giáo và cũng là cây bút của Tạp chí Đứng Dậy, ông Hiên bảo tôi rằng, khi chọn thái độ ở lại để cộng tác với chế độ cộng sản thì việc chọn đó là một "hành trình bắt buộc của trí thức". Ông Hiên nói như thế sau khi đã tỉnh ngộ rồi. Câu tôi muốn được hỏi ông, là liệu người trí thức có phải chọn cái "hành trình bắt buộc" như ông Hiên nói hay không ? Bởi vì theo chỗ tôi biết, có nhiều người ở lứa tuổi 20 đã sáng suốt để thấy rằng phong trào cộng sản thực chất của nó không có gì tốt đẹp cả và nó chỉ đưa đất nước hoặc tập thể con người bị sự chọn lựa tới con đường đen tối thôi ; như vậy không nhất thiết sự chọn lựa của lứa tuổi 20 theo con đường cộng sản là phổ quát cho tất cả mọi người. Ông nghĩ sao ?
Hà Sĩ Phu : Ý kiến của ông Thái có lý. Vì theo tôi nghĩ, sự chọn lựa đó là một sự chọn lựa của con tim, trong điều kiện là khối óc phát triển chưa tới. Cái đó, có thể nói là tình trạng DÂN TRÍ còn thấp. Và rất nhiều người trí thức mà ở trong một xã hội thông tin không đầy đủ, thì cái trí tuệ phát triển chưa tới. Tôi nghĩ là cùng trong giai đoạn đó rất nhiều nước văn minh va chạm với lý thuyết cộng sản, nhưng họ không đi theo, họ có tin nhưng vì trí tuệ của họ đã phát triển cao hơn để họ không phải bước qua giai đoạn đó nữa.
Cho nên, thực ra, nếu nói đây là sự chọn lựa tất yếu, thì đó là sự chọn lựa tất yếu của những người trí thức nhưng mà trí tuệ phát triển chưa tới. Nếu đủ trí tuệ thì đã có thể tránh được [sự chọn lựa đó] rồi.
Đinh Quang Anh Thái : Trở lại một câu mà lúc nãy chúng tôi vừa mới trích dẫn trong bài viết của ông, là "cùng với người hiệp sĩ ấy nhân dân ta có những ngày sống đẹp như thần tiên", thì khi viết như vậy, ông có nghĩ rằng ông đã xúc phạm đến vong linh hàng triệu nạn nhân đã lót đường cho chủ nghĩa mà bây giờ chính ông, ông cũng đang chống lại không ?
Hà Sĩ Phu : Lúc nãy tôi có nói là dân tộc mình trải qua một quá trình vận động hết sức phức tạp của lịch sử. Cho nên cái lối tư duy phân tuyến đơn giản chia thành hai gói : một gói trắng, một gói đen, một gói phải, một gói trái, một gói chính, một gói tà ; rồi trắng là trắng hết ngay từ đầu, đen là đen hết ngay từ đầu ; thì thực sự ra nó không phản ánh đúng thực tiễn. Không phải vì tôi và anh đối địch, mà về sau là cứ khen bất cứ cái gì của tôi là xúc phạm tới anh ; bởi vì trong tôi có cái đúng, cái sai. Và trong tôi, đâu phải là cá nhân tôi, còn cả tập đoàn của tôi có người thế này, thế kia. Bởi vậy khi mà khẳng định có những ngày sống đẹp, xin hiểu như thế này, cái đẹp đó là cái đẹp không trần tục, không phải là cái đẹp thực tế. Cái đẹp thần tiên làm sao tồn tại trên trần gian được ? Cái đẹp đó được nẩy sinh trong điều kiện đơn giản, còn nghèo khó, còn ảo tưởng, chứ khi tiếp xúc với cuộc sống thực tiễn thì nó bị đẩy lui. Vì đó là cái đẹp mong manh của giai đoạn chưa phát triển. Thứ đến là có cái tốt lẫn cái ngộ nhận của dân tộc. Thế nhưng khi khẳng định mặt mà ta còn có thể coi là tích cực đó thì không hề có ý là phủ định những mầm mống sai lầm đã có ngay từ đầu.
Như tôi đã nói lúc đầu, trong lúc đa số có một sự hồ hởi như thế, thì một cuộc thanh trừng giai cấp có thể đã nổ ra ở một chỗ nào đó nhưng nó chưa chi phối tình hình tâm lý chung của cả nước. Vậy giữa cái sai và cái đúng, giữa mặt tích cực và tội lỗi, nó xen kẽ cùng một lúc, cho nên khẳng định vấn đề ở chỗ này, không có nghĩa là phủ định một vấn đề ở chỗ khác. Tôi nghĩ rằng, trong tình hình phức tạp đó, khi khẳng định mặt tốt trong đó có yếu tố dân tộc tham gia, tôi không hề có ý định phủ định các tội lỗi mà một bộ phận hay chính các thế lực ấy gây ra ở chỗ khác. Tôi nghĩ là hai cái đó không có gì mâu thuẫn nhau.
***
Hà Sĩ Phu là một trí thức sinh ra, lớn lên, chứng nghiệm Xã hội Chủ nghĩa cộng sản bằng chính bản thân mình. Không thù hận, không báng bổ, ông từ tốn, lột trần bản chất của cái chủ nghĩa đang bị nhân loại vất vào thùng rác của lịch sử.
Trong nước, Hà Sĩ Phu trăn trở như thế. Ở hải ngoại, nhà thơ Lê Bi, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, cũng trăn trở khi đặt bút viết bài thơ BỨC TƯỜNG BÁ LINH CÓ THẬT vào năm 1999, trong bối cảnh người dân cả khối Đông Âu và Liên Xô đứng lên lật đổ các chế độ cộng sản cai trị những đất nước này.
Bức tường Bá Linh có thật
Rất thật
Nhưng khi vỡ, nó vỡ như mơ
Rất mơ
28 năm lõa lồ trên mặt đất
Mất hôm qua hay tự bao giờ.
Đừng gởi về Việt Nam bất cứ viên gạch nào
của bức tường Bá Linh
Nó có thể làm tủi cả dòng sông Bến Hải
Đừng để lịch sử phải khóc
dù thời gian không thể quay đầu lại
Và mỗi người Việt Nam sẽ biết thêm
cái giá thống nhất nước mình.
Có những người đập phá bức tường
bằng tất cả niềm vui
Mà không kinh ngạc
Cũng chẳng ai thấy điều gì mất mát
Để chúng ta hiểu đó chỉ là chuyện bình thường
Khi con người bắt đầu đứng lên
đòi quyền sống thật
Ngay cả những giấc mơ cũng có thể bước ra đường
Mọc lên trăm ngàn ngọn nến
Những ngọn nến lung linh
Cả nước Đức phải thức
bước tới tương lai
Và trời sao cúi thấp
Chen lấn với người
Tôi cũng thức
Những cơn gió mùa thu 1989 làm rộn ràng nước Đức
Và tôi vội vàng dấu đi nước mắt
Những giọt nước mắt nuốt ngược ruột gan
Tôi ngoài Việt Nam ngoài nước Đức
Những cơn gió rộn ràng thổi ngoài Việt Nam
Gió ngoài Việt Nam
Rất ngoài Việt Nam.
Bức tường Bá Linh có thật
Quá thật
Bao nhiêu năm tôi mới có lần nhìn gần nước Đức
Nhìn từ cái búa cái đục
Trong tay những kẻ vô danh
Cũng cao hơn biết bao tầm nhìn trí tuệ
Khi thế giới chuyển mình nhìn nó đổ
Gạch đá cũng vui
Khi nhân loại tung lên những nụ cười
Một khoảng trời sao không thể ngủ
Khi những con người khám phá ra
quyền sống bình thường
Thở bình thường
Nói bình thường
Đi lại bình thường
Nước Đức không thể ngủ
Có những góc cạnh không thể ngủ
Những bản tin trên màn ảnh nhỏ
như những ngọn đèn không thể ngủ
Tôi không thể ngủ
Khi những ngọn đèn vẫn mọc ngoài Việt Nam
Chiếu sâu vào quá khứ
Tra tấn Việt Nam.
28 năm quá dài cho những kẻ đợi chờ
28 năm và 42 cây số quá ngắn
để che giấu cho một thời đại
Hãy giữ những phần còn lại
Giữ mãi
Như những bức tượng thời Trung cổ
Làm di tích
cho cả loài người.
Đừng, đừng nói với Việt Nam bất cứ một tin tức gì
về bức tường Bá Linh
Nó có thể làm Trường Sơn vùng lên tức tưởi
Những bà mẹ không thấy xác đàn con
Những oan hồn
không chiều dài chiều cao chứa nổi.
Hãy cứ để nó sần sùi
Ôi những tảng gạch vô tri vô giác
Đã thành não trạng của những niềm vui
Vừa tự vỡ.
28 năm cuộn tròn
28 năm không ngẩng mặt
Không dài hơn sông Bến Hải
Không cao hơn Trường Sơn
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy bao người bước qua ô nhục
Mà không phải hận thù
bạo lực
Và dạy tôi phải nuốt những giọt nước mắt
Giữa những niềm vui.
Nước Đức ở quá xa
Mưa tháng 11 quá xa
Tôi không ở gần được ôm được khóc
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy chúng tôi chiến thắng cao cả nhất
Là trận chiến không tốn máu xương
Và tất cả được sống bình thường
Hạnh phúc cho những bông hoa
Có thể chuyền tay cho bất cứ ai xa lạ
Những bông hoa may mắn hơn chán vạn hoa
Trong chốc lát bỗng nhiên thành cột mốc
Đón sự thật ùa ra.
Bức tường Bá Linh có thật
Nó có thật tự bao giờ ?
***
Ngày mùng 5 tháng 12, 1995, đúng hai ngày sau khi trả lời phỏng vấn của đài VNCR, ông Hà Sĩ Phu bị bắt tại Hà Nội.
Phóng viên thường trú Robert Tampler tại Hà Nội của hãng thông AFP gọi điện thoại hỏi tôi, có phải vì bài phỏng vấn mà Hà Sĩ Phu bị bắt không ? Tôi nói, tôi không nghĩ đó là nguyên nhân khiến Hà Sĩ Phu bị bắt.
Sáu ngày sau, sáng ngày 12 tháng 12, một bản tin khá dài, đánh đi từ Hà Nội, của hãng thông tấn quốc tế AFP, tường thuật vụ Hà Sĩ Phu bị cộng sản Hà Nội bắt.
Mở đầu, bản tin AFP viết : "Hà Sĩ Phu bị công an ở Hà Nội bắt giữ, trên đường trở về thành phố Hồ Chí Minh vào ngày mùng 5 tháng 12, một ngày sau khi một đài phát thanh ở hải ngoại phát đi cuộc phỏng vấn trong đó ông kêu gọi chính phủ Mỹ khoan hãy cho Hà Nội quy chế tối huệ quốc".
Phóng viên Robert Tampler của AFP từ Hà Nội gọi điện thoại tới đài VNCR để kiểm chứng về bài phỏng vấn và hỏi về lý do của vụ bắt bớ này. Tôi trả lời, và AFP tường thuật trong bản tin là VNCR không nghĩ rằng việc phát thanh bài phỏng vấn đã đưa tới việc Hà Nội bắt giữ ông Hà Sĩ Phu. Tuy nhiên, bản tin AFP không tường thuật đầy đủ luận cứ của VNCR : VNCR đã phỏng vấn nhiểu người ở trong nước, chứ không chỉ có Hà Sĩ Phu. Trước ông, VNCR đã phỏng vấn ông Nguyễn Hộ, một đảng viên cộng sản từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong đảng và nhà nước Việt Nam cộng sản. Sau ông, VNCR phỏng vấn nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, tác giả cuốn truyện "Nửa Đời Nhìn Lại", trong đó ông tỏ ra hối hận đã tin theo cộng sản.
Về phần phân tích, bản tin AFP đưa ra sự kiện gần đây Hà Nội tiến hành nhiểu cuộc xử án và bắt bớ những thành phần chống đối trong nước, cho thấy cộng sản Hà Nội thực sự e ngại sự chống đối này có thể trở thành phong trào, từ đó gây nguy hại cho chế độ.
Sau khi bản tin của AFP đánh đi khắp nơi trên thế giới, hai cơ quan tranh đấu cho nhân quyền là Amnesty International, trụ sở tại London, Anh Quốc, và Human Rights Watch/Asia, trụ sở tại Washington DC, đã liên lạc với VNCR để hỏi thêm chi tiết nội vụ và xin kẻ viết bài này bản ký chú cuộc phỏng vấn Hà Sĩ Phu.
Human Rights Watch/Asia sau đó cho biết, Hà Sĩ Phu bị bắt vào hồi 2 giờ chiều ngày mùng 5 tháng 12 nhân khi ông thăm viếng thân nhân ở Hà Nội. Ngày mùng 6 và mùng 7 tháng 12, công an lục soát nhà ông ở Đà Lạt, tịch thu hơn ba ngàn trang bản thảo và tài liệu, trong đó có một bài viết của ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính Trị Đảng cộng sản Việt Nam bàn về chiến lược chuẩn bị cho Đại Hội 8 của đảng này.
Nhà báo Huy Đức, trong cuốn Bên Thắng Cuộc, viết về vụ bắt Hà Sĩ Phu : "Ngày 5-12-1995, ông Hà Sĩ Phu, tác giả của nhiều bài chính luận sắc sảo được truyền đọc ở thời điểm ấy, đang đi xe đạp trên đường phố Hà Nội thì bị hai người đi xe máy chèn ngã. Ông Hà Sĩ Phu kêu to : ‘Ăn cướp ! Ăn cướp !’ Lập tức công an xuất hiện. Thay vì bắt ‘cướp’, công an đã đưa Hà Sĩ Phu về đồn, khám túi xách, phát hiện bản sao chép thư gửi Bộ Chính Trị ngày 9-8-1995 của ông Võ Văn Kiệt. Hà Sĩ Phu khai tài liệu này ông lấy từ ông Nguyễn Kiến Giang ; ông Giang khai lấy từ ông Lê Hồng Hà, một cán bộ lão thành, từng là chánh Văn phòng Bộ Công an và trước đó, từng là giám đốc trường Đào tạo sĩ quan công an 500. Ba người có liên quan đến tài liệu này đã bị bắt ngày 6-12-1996".
Ngày 22 tháng Tám, 1996, Tòa án Hà Nội xử ông Lê Hồng Hà hai năm tù, Hà Sĩ Phu một năm tù và Nguyễn Kiến Giang 15 tháng tù treo.
***
Hà Sĩ Phu được thả ra khỏi tù ngày 5 tháng 12, 1996, sau một năm bị giam giữ vì tội bị chế độ quy chụp là "có hành vi phát tán tài liệu bí mật của nhà nước".
Thời gian ông Hà Sĩ Phu nằm tù, tôi thường xuyên điện thoại về Việt Nam hỏi thăm tình trạng sức khỏe của ông qua "Nhóm Đà Lạt" gồm nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và nhà văn Hoàng Tiến, nhà thơ Hoàng Cương, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội.
Khoảng hai tuần trước khi ông được thả, nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến bảo tôi, có cách nào gợi ý với những anh em dân chủ trong nước tổ chức đến đón Hà Sĩ Phu ngay cổng trại giam không. Ông Tiến bảo, hành động này đã từng được những người đấu tranh tại các nước cộng sản Đông Âu áp dụng. "Có tác dụng mạnh đối với quần chúng", ông Tiến bảo tôi thế.
Như Phong Lê Văn Tiến là "nhà báo của các nhà báo", theo cách gọi của nhà bình luận Ngô Nhân Dụng. Ông Tiến, tôi gọi bằng "cậu Tiến", và cậu xem tôi như con của cậu. Lúc Hà Sĩ Phu bị bắt, hai cậu cháu chúng tôi ở cùng một mái nhà trong căn mobil home tại Quận Cam, California. Vì vậy, những lần tôi tiếp xúc bằng điện thoại với các nhân vật đấu tranh dân chủ tại Việt Nam, cậu luôn góp ý với tôi về nội dung các cuộc phỏng vấn. Vì cậu là chuyên gia hàng đầu trong lãnh vực "cộng sản học" thời trước 1975 ở Sài Gòn, nên cậu biết khá tường tận người và việc của xã hội miền Bắc.
Phỏng vấn nhà văn Hoàng Tiến, ông bảo, Hà Sĩ Phu là người theo đuổi "nghĩa lớn" của dân tộc, mà đã làm vì "nghĩa lớn" thì phải chấp nhận hy sinh thôi. Ông nói thêm, chính bản thân cũng có một thời mê đắm chủ nghĩa cộng sản, nhưng sau thấy "cái ác" của nó, ông dứt khoát từ bỏ, và bây giờ ông trở thành người tu đạo Phật tại gia. Và ông tin có nhân có quả, nên "Hà Sĩ Phu dấn thân vì nghĩa lớn, sẽ không có vấn đề gì đâu".
Ý do cậu Tiến gợi, là "tổ chức đón Hà Sĩ Phu ở cổng trại giam", tôi có trao đổi với ông Hoàng Tiến và nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự.
Ngày Hà Sĩ Phu ra tù, ngay trước cổng trại giam Thanh Xuân, đón Hà Sĩ Phu gồm : bà Thanh Biên (vợ Hà Sĩ Phu), ông đồ Nghệ An Tú Sót với một câu đối chữ Nho, người bạn Hữu Tiến từ Hải Phòng, và mấy người ruột thịt trong gia đình. "Phái đoàn" đón thẳng Hà Sĩ Phu về quê Thuận Thành-Bắc Ninh, nghỉ một ngày rồi đi máy bay vào Sài Gòn, rồi hôm sau đi máy bay lên Đà Lạt, tránh không dừng lại ở Hà Nội vì để giữ an toàn.
***
Ngày 11 tháng Bảy, 1995, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với cộng sản Việt Nam.
Trước tin hai kẻ cựu thù Washington và Hà Nội bắt tay nhau chấm dứt những năm tháng dài đối đầu thù nghịch, nhiều người cho rằng, thế là lại thêm một lần nữa, Mỹ hà hơi tiếp sức cho chế độ độc tài toàn trị để tập đoàn lãnh đạo củng cố quyền lực của nó ; nhưng cũng nhiều người cho rằng đây là cơ hội tốt để có thể phát động rộng lớn tinh thần đấu tranh đòi dân chủ.
Hà Sĩ Phu nhận định ra sao về vấn đề này ? Ông nói, trong cuộc phỏng vấn do tác giả thực hiện ngay sau khi có quan hệ bang giao Washington - Hà Nội :
a) Nếu đối với một đối tượng giáo điều cứng ngắc, phi lý, phi quy luật như trước đây thì cách hóa giải rất là dễ. Bởi vì nó phi thực tế, phi quy luật. Cho nên bây giờ cứ bình thường hóa mọi điều đưa nó trở về với xã hội thông thường, với quy luật là nó tự bộc lộ cái tính phi lý và tự tan rã.
b) Nhưng hiện nay đối tượng ấy đã thức tỉnh, biết triệt để lợi dụng các quy luật, lợi dụng thế thượng phong của người đã nắm quyền lực và tận dụng thực trạng tâm trí để thực hiện ý định của mình, thì việc hóa giải nó không dễ dàng chút nào. Vì thế cho nên việc bình thường hóa với thế giới, đặc biệt là bình thường hóa toàn diện với Hoa Kỳ không hẳn là đơn giản.
Tôi nghĩ việc bình thường hóa là một cái sàn đấu mà mọi đấu thủ cuối cùng đều phải trở về đấy, đều phải chọn cái đó, không thể nào khác được. Các đấu thủ đều phải trở về đó để đấu, nhưng cái sàn đấu ấy không phải thuận lợi riêng cho ai. Tại sàn đấu ấy, mọi cuộc đấu ấy sẽ bắt đầu, còn việc thắng thua vẫn còn ở phía trước. Bởi tự cái sàn đấu ấy nó không quật ngã ai cả, mà cũng không phải là nó dành sẵn huy chương vàng cho ai. Cho nên, việc bình thường hóa tự nó chưa mang một ý nghĩa [thuận lợi] cho bên này, hay bên kia. Vấn đề là tạo nên thực lực, vận động cho phong trào dân chủ mà thôi.
Thứ nữa, riêng về phía người Mỹ, chúng tôi không có ảo tưởng về chuyện này nhiều lắm. Nếu ở trong nước có một phong trào đấu tranh giữa dân chủ và phi dân chủ mạnh mẽ, thì tôi nghĩ rằng cái thái độ của Mỹ rất rõ, tức là ủng hộ phía dân chủ. Nhưng nếu tình hình của ta quá bê bết chẳng hạn, thì tôi nghĩ các nhà tư bản nói chung và Mỹ nói riêng cũng không dại gì chuốc lấy việc đương đầu với nhà nước cộng sản làm gì.
Có người lại còn bình như thế này : Một anh tư bản nước ngoài muốn vào khai thác tận dụng các điều kiện sinh lợi ở các nước khác thì nó cần một chính phủ để ủng hộ nó. Thế là có khi làm việc với một chính phủ cộng sản độc tài lại hay hơn bởi vì, chính phủ cộng sản đã chi phối toàn bộ quần chúng rồi, nắm được chính phủ đó tức là dân chúng chẳng còn gì có thể gây trở ngại cho họ nữa. Bởi vậy họ muốn đàn áp bóc lột, nếu dân có biểu tình [phản đối], thì lập tức chính phủ ấy đã đứng ra đàn áp rồi. Còn nếu mà phong trào trong nước chưa có gì, thì chưa hẳn Mỹ và cộng sản đối địch với nhau đâu. Có khi họ lại hợp tác với nhau rất là ngon lành cũng nên. Vì thế, việc bình thường hóa tự nó chưa đem lại sức mạnh gì quyết định nhưng mà phải công nhận nó là cái sàn đấu rất là thuận lợi cho dân chủ.
***
Trong nhiều năm, một số các tổ chức người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại liên tục tranh đấu để chế độ Hà Nội phải bỏ điều 4 Hiến Pháp (quy định vai trò cai trị độc tôn của Đảng) và tiến tới một cuộc bầu cử có quốc tế giám sát để người dân dùng lá phiếu quyết định thể chế chính trị của Việt Nam.
Tôi nêu vấn đề này với Hà Sĩ Phu.
"Về vấn đề này tôi thấy không nên nhận định tình hình theo cảm tính, theo nguyện vọng [của mình], mà phải theo đúng cái thực tế đang có. Nếu ở tình trạng như hiện nay, dẫu có một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do, ngay đến cả có quốc tế giám sát chăng nữa, thì Đảng cộng sản vẫn có nhiều khả năng thắng phiếu, vì bốn lý do như thế này :
1) Người dân chỉ đòi hỏi những thay đổi nếu thấy không thể nào sống như cũ được nữa. Ví dụ : một đứa trẻ khi nó thấy cái giường của nó chật hẹp quá, nó mới nhảy xuống đất nằm. Còn lúc đứa trẻ chỉ mới biết bò thôi, thì được nhảy từ cái nôi sang cái giường, không gian của cái giường đối với nó như thế đã là đủ rồi. Bởi vậy, trước đây có sự o ép rất là triệt để, bây giờ nới ra một tí tẹo, đối với dân trí thông thường người ta thấy như thế là tạm đủ rồi. Như vậy, nhu cầu gọi là phá cái giới hạn đó, để đến một không gian dân chủ tốt hơn, thì hiện nay mới có ở thành thị và một số trí thức tiên tiến thôi.
2) Đối với số đông dân cư ở các vùng nông thôn, ở miền núi, thì người dân ở đó chưa biết cái gì tồn tại ở trên đời, ngoài Đảng cộng sản Việt Nam. Cho nên, ở các thành phố lớn, tình hình mới có thể đảo ngược. Còn khi tự do bầu cử thì ở nông thôn họ chưa chắc biết cái mới là cái gì đâu.
3) Sống quá lâu trong điều kiện dân chủ giả, dân ta đã có thói quen coi thường lá phiếu, không biết phải thực hiện quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình. Cho nên họ coi đây là một thủ tục rất là hình thức, đi làm cho qua chuyện. Bao nhiêu năm nay bầu cho ai mà chả thế ? Cho nên bây giờ nếu không được chuẩn bị, cứ thế mà tổ chức bầu cử, thì chả có cái trách nhiệm cân nhắc kỹ trong chuyện lựa chọn lá phiếu.
4) Tôi thấy cái thực tế do Đảng cộng sản [tạo nên] trong những năm vừa rồi đã khiến cho không có một tổ chức nào, không một nhân tài xã hội nào được phép nẩy nở, bên ngoài vòng tay của đảng. Hiện nay cũng không có đối tượng nào được phơi bày ra trong nước để người ta kén chọn. Như vậy, nếu cứ giữ nguyên trạng như thế này để mà bầu cử thì dù có dân chủ cũng chưa có triển vọng gì là tốt đẹp".
***
Tháng Bảy, 1995, Hà Sĩ Phu nhận định như thế về mối quan hệ Washington và Hà Nội.
Tháng Sáu 2018, trong email gửi cho tôi, Hà Sĩ Phu viết : "Nhận định của mình năm 1995 đến nay vẫn đúng : Nếu tiến hành trưng cầu dân ý hoặc tổ chức bầu cử tự do ngay bây giờ thì Đảng cộng sản vẫn có thể dùng những thủ đoạn để giành phần thắng vì số dân thờ ơ với vận mệnh đất nước vẫn chiếm số đông hơn, và nhiều người (kể cả cán bộ, đảng viên có chút tỉnh ngộ), vẫn bị tiêm nhiễm bởi những luận điệu lâu đời của cộng sản, nhất là từ thần tượng ảo Hồ Chí Minh ! Nhưng điều này mới là quan trọng : nếu để cho xã hội có một quá trình chuẩn bị sinh hoạt dân chủ thì tình hình sẽ khác hẳn. Thí dụ : nếu để một năm [cho mọi người dân] có sinh hoạt dân chủ thật thì lúc ấy tình hình bầu cử hay trưng cầu dân ý có thể đảo ngược.
Năm 2009, trong cuộc phỏng vấn đăng trên báo Người Việt xuất bản tại California, kẻ viết bài này nêu câu hỏi với ông Hà Sĩ Phu : Đảng cộng sản Việt Nam hiện sợ gì nhất, ông nói :
"Những nhà lãnh đạo Việt Nam lo sợ trước sự đồng thuận và liên kết của các tầng lớp trí thức và nhân dân, lo sợ trước sự xuất hiện của các tổ chức, thậm chí các đảng phái… nhưng gom lại vẫn chỉ nằm trong hai nỗi lo sợ lớn mà thôi : lo sợ làn sóng dân chủ và lo sợ làn sóng chống Trung Quốc.
"Hai mối lo ấy bắt nguồn từ hai vấn nạn căn bản nhất của xã hội Việt Nam hiện nay là không dân chủ và không độc lập. Muốn có dân chủ phải chống lề thói toàn trị. Muốn có độc lập phải chống nạn Bắc thuộc đang hiện hình".
Đa số đồng bào mình có nhìn thấy "hai nỗi lo sợ" ấy của Đảng cộng sản không ?
"Hai mặt trận đấu tranh hiện nay của nhân dân có hai kẻ thù đều là giặc : giặc NỘI XÂM và giặc NGOẠI XÂM. Hai giặc này đang liên kết với nhau và sử dụng nhân dân hai nước hòng củng cố quyền lực và làm giàu.
"Như tôi đã nói nhiều lần, Chủ nghĩa cộng sản ngự trị được ở Việt Nam là do ký sinh vào Chủ nghĩa Yêu nước, hút sinh lực từ lòng yêu nước của nhân dân. Trước đây nhiều người đã nghĩ rằng đất nước sẽ dần dần thoát khỏi chủ nghĩa ảo tưởng phi khoa học ấy bằng con đường Dân chủ hóa và Đổi mới toàn diện. Nghĩ thế cũng đúng nhưng chưa thật trúng. Ngày càng rõ rằng chủ nghĩa ấy đã vào bằng đường nào sẽ phải ra bằng đường ấy : đã mượn đường giành độc lập để vào thì sẽ bị trào lưu giành độc lập bảo vệ dân tộc trục xuất, ‘tiễn đưa’ ra. Sự có mặt của chủ nghĩa Trung Hoa trên đất nước này phải chăng là do trời đất xui khiến đến như một nhân tố tiền định để hoàn thành cho xong công đoạn tống xuất có tính lịch sử ấy ? Hoặc là dân Việt Nam sẽ có cả độc lập và dân chủ trong sáng hoặc là mất trắng cả hai. Những lời "canh bạc cuối", "tỷ lệ năm ăn năm thua" thiêng như lời sấm vậy, báo hiệu mọi điều đều có thể xảy ra".
Thưa ông, hai cuộc "rước" chủ nghĩa và "tiễn" chủ nghĩa ấy có gì khác nhau ?
"Đã bị nạn ngoại xâm (dù kiểu cũ hay kiểu hiện đại) thì nhân dân đều mất quyền làm chủ đất nước và đều gọi tắt là mất nước. Nhưng thời thuộc Pháp ta chỉ mất nước nhưng không mất dân tộc, vì Pháp không có khả năng đồng hóa dân tộc Việt Nam. Một khi dân tộc còn thì lòng yêu nước vẫn còn, và còn khả năng kháng chiến để giành lại nước. Nhưng ngày nay, nếu mất nước thì e sẽ mất luôn cả dân tộc tính ! Chưa cần chứng minh bằng cách đi sâu vào lý luận, vào giáo lý Khổng Mạnh và văn hóa Trung Hoa. Chỉ cần tưởng tượng hàng vạn (biết đâu sẽ không hàng triệu) người Tàu tràn vào, lúc đầu là chiếm chỗ lao động rồi ở lại, mỗi chàng lấy một, hai hoặc ba người vợ Việt Nam bất cứ già trẻ miễn có thể sinh đẻ (hiện tượng này đã xảy ra rồi). Rất nhiều phụ nữ Việt Nam đang nghèo đói, lấy Tàu tại chỗ chẳng hơn phải sang làm nô lệ tình dục ở tận Đài Loan, Nam Hàn, Campuchia… ư ? Những đứa trẻ sinh ra sẽ là Tàu hay là Việt, có lòng yêu nước nữa không, yêu nước Tàu hay yêu nước Việt ?
"Bị Hán hóa là mất dân tộc. Mất dân tộc thì đau đớn hơn mất nước vì không bao giờ tìm lại được đất nước nữa mà vĩnh viễn trở thành quận huyện ! Suốt bốn nghìn năm lịch sử Việt Nam, người Tàu không thực hiện được điều này, vì khi xưa còn thiếu một chủ nghĩa "Quốc tế Vô sản Đại đồng" để tiếp tay cho những kẻ thống trị (mà Mác vẫn tưởng là mình tiếp tay cho dân nghèo), cái chủ nghĩa giúp người nọ chiếm của người kia, nước nọ chiếm của nước kia cứ ngọt sớt, nó có tài biến sự chiếm đoạt thành sự tự nguyện hiến dâng, nó cứ nhân danh một người nào đó là y như rằng sẽ chiếm lĩnh được người ấy, thôn tính được người ấy. Không có chủ nghĩa Mác thì người Trung Hoa làm sao ký được 16 chữ vàng để ùa một cái tiến vào tận gan ruột Tây Nguyên giữa nước Việt Nam ?"
Theo nhận định của ông, não trạng của giới lãnh đạo hiện nay tại Hà Nội ra sao mà họ lại để Trung Quốc hành xử ngày càng ngang ngược với Việt Nam, im lặng để "tàu lạ" bắt giữ, ngăn chặn ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng biển thuộc chủ quyền của tổ quốc chúng ta ?
"Mặc dù biết sự tha hóa của quái ác quyền lực (nghĩa là khi có quyền lực người ta có thể biến chất thành một cái gì hoàn toàn khác, Lênin cũng nói vậy), nhưng tôi không tin rằng tất cả những người cầm quyền có thể đồng thuận một cách sai trái trước một nguy cơ quá lớn mà lại quá sơ đẳng như vậy. Nhất định trong thâm tâm một số người có sự giằng xé, nhất định trong nội bộ phải có sự phân liệt ý kiến. Nhưng tại sao cuối cùng ‘con tàu’ vẫn cứ một chiều lao tới không thể dừng ?
"Chỉ có thể giải thích rằng yếu tố ngoại lai quá mạnh. Kẻ đã yếu bao giờ cũng phải lo xa, nhưng nhà nước Việt Nam toàn đi nước cờ muộn màng, luôn ấu trĩ ảo tưởng nên bị lừa rất sớm. "Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn" huống chi một chú nai vàng ngơ ngác đã bị con báo nhảy lên lưng ?
"Điều nguy hiểm là tình thế đã muộn, khó gỡ lại đang bị đẩy cho tăng tốc, dồn dập, cấp tập, cốt tạo ra sự đã rồi, để tình thế không thể đảo ngược ! Đã tàn ác thì phải tàn ác cấp tập ngay từ đầu, để sau đó sẽ nới ra một chút để tỏ lòng nhân ái, ấy là mẹo Machiavel. Thế nước như vậy chỉ có nhân dân mới làm thay đổi được. Nhân dân như vị tướng tài, như người khổng lồ vẫn bị giam lỏng, có thả vị tướng ‘vạn địch nhân’ này ra mới cứu được nước".
Trước tình hình Trung Quốc ngày càng tỏ dấu hiệu bá quyền với Việt Nam, đồng bào mình trong và ngoài nước có thể làm được gì ?
"Theo thiển ý, chúng ta cần làm cho mọi người Việt Nam tỉnh giấc để nhận ra tình huống rất bất thường của dân tộc mình trước nạn nội xâm và ngoại xâm đang ráo riết câu kết, đang có nguy cơ trở thành "sự đã rồi". Lịch sử không cho thoát một ai, không châm chước cho ai ngủ gật hay giả vờ ngủ gật, hoặc thế này, hoặc thế kia đều phải trả giá trước lương tâm và trước lịch sử.
"Chỉ có nhân dân mới cứu được nước. Cần phát triển một xã hội dân sự cường tráng mới phát huy được sinh lực của dân.
"Cần dẹp mọi tị hiềm, mọi thù oán cũ để hướng vào vận mệnh đất nước, không hy sinh được một chút niềm riêng thì đừng nói chi điều đại nghĩa ?".
***
Có lần trong cuộc trò chuyện điện thoại, Hà Sĩ Phu nói rằng "Chủ nghĩa cộng sản đã vào Việt Nam bằng con đường lén lút ; nó lẩn vào công cuộc chống Pháp của toàn dân chứ không qua sự nhận thức của trí tuệ. Bây giờ, giới lãnh đạo Hà Nội nếu khôn ngoan thì nên chính thức làm lễ tiễn cái chủ nghĩa này ra khỏi đất nước. Nếu không, đến một lúc nào dân tộc không còn chịu đựng được nữa thì cuộc nổi dậy sẽ đánh đuổi nó (Chủ nghĩa cộng sản) như một tên ăn cắp".
Đinh Quang Anh Thái
Nguồn : RFA, 15/09/2018
Sài Gòn năm 1976, khu vực chung quanh bùng binh chợ Bến Thành là một trong những nơi tập trung đông đảo dân bán chợ trời.
Chân dung nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên - Courtesy of kontumquetoi.com
Người ta bán không thiếu thứ gì : hàng quán thức ăn, thuốc Tây, quần áo cũ, cá thịt ướp sẵn từng nồi, sách báo "đồi trụy", "nhạc vàng"…và cả súng.
Nguyễn Tất Nhiên thường leo xe lửa từ Biên Hòa và xuống ga Sài Gòn vào giờ trưa. Chúng tôi gặp nhau ở đó, bữa đói bữa no ở đó và nhận ra nhau rõ hơn cũng ở đó.
***
Chúng tôi quen nhau năm 1973, trong đêm sinh hoạt do Phong Trào Du Ca tổ chức tại hội trường quân đội trên đường Trần Quốc Toản, Sài Gòn, để tưởng niệm Giang Châu, huynh trưởng của Phong Trào vừa qua đời vì bạo bệnh.
Buổi sinh hoạt sắp bắt đầu, tôi đang đứng xớ rớ thì Chủ Tịch Phong Trào, nhà báo Đỗ Ngọc Yến, giới thiệu tôi với một chàng cao lêu nghêu, "mặt vác lên trời" : Nguyễn Tất Nhiên.
"Nghe đại danh, hôm nay mới hân hạnh gặp mặt", tôi nói thế. Nhiên nhếch mép, nụ cười "kẻ cả" lắm. Thấy cử chỉ đó của Nhiên, anh Yến chỉ nhỏ nhẹ, đêm nay Thái sẽ giới thiệu Nhiên lên đọc thơ nhé.
Hai đứa tôi quen nhau như thế đó.
***
Nhiên kiêu lắm.Nhiều khi đến "ngông cuồng".
Nhiều đêm, Nhiên ngủ lại nhà tôi, chàng "ngôn" rằng, 20 tuổi sẽ đoạt giải Nobel Văn Chương.
Hiểu được.
Vì mới 16 tuổi, Nhiên đã lừng danh với những bài thơ do "phù thủy âm nhạc" Phạm Duy phổ thành ca khúc. Điều đáng tiếc là Nhiên chưa hề đọc một tác phẩm nào đoạt giải Nobel. Tôi mua tặng bạn hai cuốn : Câu Chuyện Giòng Sông của Hermann Hesse và Lời Dâng của Rabindranath Tagore.
Nhiên thông minh lắm. Chàng nhận ra ngay và buông một câu chen tiếng "Đan Mạch" : "Đ.M, họ viết hay thiệt". Từ đó, không thấy Nhiên nhắc lại mộng Nobel Văn Chương nữa.
***
Nhiên hiền, ít nói, khi cười, mặt hếch cao, nhe hàm răng lởm chởm.
Không biết nói Nhiên mang "lời nguyền truyền kiếp" là mê con gái Bắc có đúng không ? Vì trong thơ và trong đời thường, con gái Bắc làm khổ Nhiên lắm :
"Em nhớ giữ tánh tình con gái bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
Nhớ khiêm nhường nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng ngây thơ mà xảo quyệt".
Trong đám bạn chung thời sau 1975, H. tóc dài, giọng Bắc nhẹ "như thơ". H. đã có bạn trai, Nhiên biết, nhưng vẫn công khai nói, "tớ chết đi được mỗi khi nghe H. buột miệng hai tiếng ‘Trời ơi’". Và Nhiên cứ lặng lẽ với chính cái bóng đối với cuộc tình "con gái Bắc" này.
Lần đầu Nhiên gặp H., nụ cười "chết khiếp" của Nhiên đã đẩy H. ra xa. Hôm đó, cả bọn rủ nhau đi ăn cơm thịt kho hột vịt. Đang ăn, Nhiên ngẩng mặt rú lên cười, hai hàm răng bệt lòng đỏ trứng. "Trời ạ", có Thánh mới chịu nổi. Nhưng đó là Nhiên, cho tới tận ngày bỏ lại mọi muộn phiền sau lưng ra đi vĩnh viễn, vẫn nụ cười đó, vẫn hàm răng đó.
Thân nhau, tôi có cảm tưởng Nhiên không sống ở cõi này. Nhiều lần, đang nói chuyện, Nhiên chợt trôi vào im lặng. Và nhiều lần, Nhiên nói, chắc có ngày tui tự tử quá ông ơi ! Nghe lần đầu, còn lo lắng cho Nhiên, nhưng nghe mãi thì biết, bạn mình nói thế để xả một nỗi đau, mối sầu nào trong lòng mà thôi.
Nhiên nghèo, có sao sống vậy, quần ống thấp ống cao, đi chơi với nhau, bạn rủ gì ăn nấy, không đủ tiền thì nhịn.
Một buổi chiều đi ngang một quán cóc ở đường Lê Thánh Tôn, thấy Nhiên ngồi một mình, trước mặt là ly cà phê đã cạn đến giọt chót. Thấy tôi, Nhiên bảo, có tiền trả giùm ly cà phê ; ngồi từ sáng đến giờ không đủ tiền trả, chủ quán nhắc khéo nhiều lần mà chịu, cứ phải ngồi lỳ thôi.
Thương Nhiên ở cái tính đó.
***
Tết 1976, cái đói hành hạ. Đói đến độ có lần đi ngang hàng phở, phải quay mặt đi, vậy mà nước bọt cứ tứa ra, đau quặn cả ruột. Đói, cả cái chuông cái mõ trên bàn thờ Phật, tôi cũng đem ra bán ở chợ trời.
Nhiên biết gia đình tôi đói ; và Nhiên cũng đói.
Một hôm, đang đứng bán thuốc Tây ở sân ga Sài Gòn, thấy Nhiên dắt cái xe đạp cũ kỹ, tài sản duy nhất của chàng, lững thững đi tới. Yên ghế ngồi phía sau là một bọc ni lông. Nhiên bảo, ông già vừa mua cho cái quần, tui đưa ông bán nhé, bọn mình ăn bữa … thịt chó.
Nhìn thằng bạn chiếc quần cũ mèm ống bên trái "chửi bố" ống bên phải, thương bạn, xúc động vì tấm lòng của bạn, tôi không biết nên cười hay nên khóc.
Bữa thịt chó hôm đó, ăn xong vẫn còn thòm thèm. Cái quần mới của Nhiên quy thành tiền, nếu gọi thêm một xị đế và món rựa mận khoái khẩu thì không đủ trả.
Sau bữa thịt chó cuối năm đó, tôi bị bắt, không biết Nhiên ra sao.
***
Ra khỏi tù năm 84, nghe bạn bè nói Nhiên đi Pháp rồi.
Nhiên đi là phải. Chế độ đang cai trị đất nước này coi dân như kẻ thù, ai đi được cũng phải đi thôi. Nhớ có đêm lang thang với Nhiên trên đường Duy Tân, phố vắng dần, chỉ có từng toán công an võ trang đi tuần tra, Nhiên đọc cho nghe hai câu thơ :
"Chúa Phật còn lui chân trước gông cùm chế độ
Huống hồ chút thanh danh Nguyễn Tất Nhiên thống khổ".
Đây không phải lần đầu Nhiên làm thơ với khẩu khí như thế. Trong bài "Hai Năm Tình Lận Đận", Nhiên viết :
"Em bây giờ có lẽ
toan tính chuyện lọc lừa
anh bây giờ có lẽ
xin làm người tình thua
chuông nhà thờ đổ chậm
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
xuống trần gian trong mưa
(dù sao thì Chúa cũng
một thời làm trai tơ
dù sao thì Chúa cũng
là đàn ông... dại khờ)"
Nhiên bảo tôi, đúng ra Nhiên muốn viết "Chúa có gầy hơn ta chăng mà đòi khoe xương sườn trên Thánh Giá" nhưng lại thôi, vì ngại làm phật lòng người theo đạo.
***
Gặp lại nhau tại California năm 1985. Nhiên từ Pháp đã qua Mỹ vài năm trước đó, còn tôi vừa từ trại tỵ nạn chân ướt chân ráo đến sau.
Thăm Nhiên tại căn nhà trọ ở Quận Cam, bạn mình gầy hơn, nói chuyện có lúc như đang trôi vào cơn mê sảng. Nhiên nói đi nói lại nhiều lần, ông đuổi bà bán hàng rong giùm tôi, mới sáng bảnh mắt mà bả rao hàng ồn quá.
Tôi hoảng ! Nhiên "hỏng" rồi.
Nhưng rồi Nhiên cũng trở lại Nhiên của khổ đau dai dẳng. Nhiên đọc tôi nghe đoạn thơ :
"đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan
cửa chùa tuy rộng mở
tà đạo khó nương thân
anh đành xưng quỉ sứ
lãnh đủ ngọn dao trần !
qua giáo đường kiếm Chúa
xin được làm chiên ngoan
Chúa cười rung thánh giá
bảo : đầu ngươi có sừng !"
***
Nhiên hiền, nhưng lúc sửng cồ, cũng ác miệng lắm.
Một hôm trong buổi họp mặt tại nhà Nhà văn Nhật Tiến ở đường King, thành phố Santa Ana, Nhiên kể tôi nghe vụ lời qua tiếng lại giữa Nhiên và nhà văn Mai Thảo liên quan đến thơ văn. Nhiên hỏi anh Mai Thảo, "nếu anh viết về thảm kịch của các cô gái vượt biên bị hải tặc hiếp, anh có đặt tựa bài là ‘Mười Đêm Ngà Ngọc Không ?’".
Nhiên không nói, nhưng tôi đoán, anh Mai Thảo chắc không giận Nhiên.Vì anh luôn chủ trương chữ nghĩa không thể dùng để cãi cọ, chửi mắng nhau.
Một lần khác, khi Nhiên nói sẽ viết nhạc, nhạc sĩ Du Ca Nguyễn Đức Quang nói đùa, coi chừng cậu đi lộn giầy đó nhé. Nhiên sững cồ với anh Quang. Nhiên nói, size giầy của anh Quang nhỏ lắm, không đủ cho Nhiên xỏ chân vào.
***
Thơ Nhiên lúc nào cũng lấp ló đâu đó nỗi đau dai dẳng về một hình bóng, một cuộc tình tan vỡ.
Thân nhau, nhưng Nhiên ít cho biết đã thương bao nhiêu người con gái và có bao nhiêu bóng hình đã làm khổ đời Nhiên. Chỉ thấy trong thơ Nhiên tràn ngập những nhớ thương dai dẳng :
"…Em hết thương ta rồi phải không ?
Thôi thế cho ta bớt não nùng
Thôi thế cho đời ta ngậm đắng
Còn nghe vị ngọt của tình nhân !...
…Giữ cho nhau một chút tình
Giữ cho nhau một ánh nhìn thiên thu
Giữ long lanh, giữ sa mù
Giữ phai nhạt, giữ đền bù nhạt phai…"
Phải chăng, buồn, cô quạnh, là định mệnh của người làm thơ như Nguyễn Tất Nhiên ?
Còn nhớ, những năm Nhiên sống ở Quận Cam, một số bạn thân của Nhiên đêm đêm vẫn thường nghe tiếng gọi cửa xin ngủ nhờ. Và bạn bè hẳn vẫn còn nhớ hai câu Nhiên viết thời điểm đó :
"Buồn ơi hãy để ta buồn nữa
Trong tiếng làm thinh của ghế bàn"
Có lần Nhiên đến nửa đêm, phòng tôi trọ chỉ có tấm nệm trải dưới đất, Nhiên nhất định nằm trên miếng khăn trải giường. Tôi đọc Nhiên nghe hai câu thơ tương truyền của Phó Đức Chính :
"Cửu tuyền vô khách điếm
Kim dạ đáo thùy gia"
(Suối vàng không lữ quán
Đêm nay trọ nhà ai)
Nhiên cười, bảo không biết dưới đó có … "Motel 6" không ?
***
Một chiều chớm Thu năm 1992, hai đứa ngồi bên lề đường trước trụ sở báo Người Việt trên đường Moran. Tôi rủ Nhiên vào tòa soạn kiếm chút gì ăn, Nhiên bảo "thằng sắp chết không ăn". Biết Nhiên hay nói như thế từ thủa còn ở quê nhà, tôi không ngạc nhiên, chỉ bảo, "ừ, không ăn thì hút điếu thuốc". Nhiên bảo, "thằng sắp chết không hút thuốc".
Một tuần sau, Nhiên tự chọn cho mình cái chết. Năm ấy, Nhiên tròn 40 tuổi.
Anh Mai Văn Hiền báo cho tôi biết tin. Lúc đó, tôi đang chạy chiếc máy in Imperial của nhà in ABC vừa mua chưa được một tuần với giá hơn 20 ngàn. Nghe anh Hiền nói Nhiên chết trong một chiếc xe cũ, đậu ở sân một ngôi chùa. "Để không làm phiền đến ai". Tôi lên cơn điên bất ngờ, cầm cây búa đập thủng một lỗ lớn ngay trục quay chiếc máy. Chắc lúc đó tôi khóc !
***
Hôm đi bên quan tài Nhiên ra huyệt mộ, nghe tiếng kèn trumpet của một người bạn chung thổi bài "Thà Như Giọt Mưa", tôi ý thức rõ rằng, Nhiên "BIẾN" rồi. Biến như trong một bài thơ Nhiên đọc cho tôi nghe vào một lúc tôi đoán Nhiên sầu hận nhất (tôi đã cố tìm mà không còn ai nhớ nguyên văn cả bài) :
"Tôi hô BIẾN cái tôi buồn,
Tôi hô BIẾN nỗi thuồng luồng đời tôi
Tôi hô BIẾN VỢ
Tôi hô BIẾN CON
Tôi HÔ BIẾN CÁI NÀO NÓ HIỆN RA CÁI NẤY"
Có ai còn nhớ Nguyễn Tất Nhiên ?
(Cuối tháng 12, 2017)
Đinh Quang Anh Thái
Nguồn : RFA, 20/12/2017
"Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó : một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu ngờ, anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của những ngày sung sướng đó. Tiếng gió may thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố, ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thửa thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa Hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về. Gió cuốn từng cơn nhớ, anh bỗng nhận ra, anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố".
Nguyễn Đình Toàn. (Hình : Đinh Quang Anh Thái)
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn mở đầu như thế, trong chương trình "Nhạc Chủ Đề Tình Ca Quê Hương" do anh phụ trách hàng tuần vào mỗi tối Thứ Năm trên làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn trước năm 1975.
Giọng Bắc, sang, trầm, buồn, tác giả "Áo Mơ Phai" đã làm say đắm lòng người với hàng trăm buổi tối "Nhạc Chủ Đề". Thuở ấy, nhiều người, bận gì thì bận, tối Thứ Năm cũng phải về để bắt kịp Nguyễn Đình Toàn :
"Chiều đang xuống trên đường về, mệt mỏi giăng mắc quanh tôi, như vòng tay của tình yêu quyến rũ. Sương lam buông kín trên ngọn cây như khói của buổi chiều đang thắp hương cầu nguyện. Tôi yêu em như con ong say mật ngã vào lòng bông hoa. Tình yêu giống như cái chết nuốt trôi tất cả. Trong đám cỏ may, tiếng gió nào đang khóc và trên trời, những đám mây bay giống như những kẻ bại vong. Chiều trở về trong nỗi tiếc thương. Lòng ta ta không hiểu nữa là ai thấu hiểu. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả. Đêm bắt đầu trải dài dưới bước chân đi, sao trên cao nín thở đếm thời gian, trăng ẻo lả bơi trong đêm chìm lặng. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả".
***
Một buổi chiều cuối năm, đến thăm tác giả "Áo Mơ Phai".
Bước ra khỏi xe, ngước nhìn lên căn nhà trọ, đã thấy bóng anh hắt qua khung cửa sổ. Anh nhìn xuống, tôi đoan chắc là anh chỉ thấy thấp thoáng bóng người từ xa. Mắt anh đã mờ, vì khói bụi cuộc đời – và cả tình người - kể từ ngày thoát khỏi những năm tháng nghiệt ngã trong nhà tù ; rồi đặt chân đến Mỹ.
Căn nhà trọ một phòng u ám, anh đứng dậy mở cửa, lưng như trĩu xuống vì sức nặng cuộc đời, lao chao như vừa thoát ra khỏi cái bóng của ngọn đèn vàng vọt trên trần chiếu xuống bàn ăn.
Trở lại chỗ ngồi cố hữu nơi cửa sổ, giọng anh yếu, nhưng vẫn còn hơi hướng Nguyễn Đình Toàn vào mỗi tối Thứ Năm ngày nào. Anh bảo, chán thật, thế mà đã ngoài "tám bó". Nghe mà giật mình, thoáng chốc anh đã bước vào tuổi 82.
Nhớ những buổi tối Thứ Sáu vừa ra khỏi tù năm 1984, trên căn gác nhà bác Dzoãn Quốc Sĩ, bác gái cho ăn bữa cơm đạm bạc, có anh Nguyễn Đình Toàn, anh Thanh Tâm Tuyền và anh Duy Trác. Chỉ là kẻ hậu bối hàng con cháu, tôi ngồi hóng chuyện những tên tuổi lẫy lừng của làng văn, và học được vô số điều trân quý. Giá lúc ấy anh Toàn đồng ý cùng tôi đào thoát và may mắn như chuyến đi của tôi ít tháng sau đó, anh đã có thể chữa được bệnh mắt. Hỏi anh sao nhất quyết ở lại, anh bảo, nghệ sĩ như cái nhau của thai nhi và quê hương như bà mẹ, một khi cái nhau bị cắt rời khỏi cuống là lúc nguồn nuôi dưỡng trực tiếp đứa bé không còn nữa.
Ngày chia tay anh ở Sài Gòn, thoắt cái đã hơn 30 năm. Rốt cuộc anh cũng đành phải ra đi. Hỏi anh, quê hương trong anh bây giờ ra sao, anh nói "tận cùng của tình yêu chính là nỗi nhớ quê nhà ; đôi lứa là quê nhà ; hạnh phúc lẫn khổ đau cũng là quê nhà", rồi anh cho nghe một đoạn anh từng đọc năm nào nơi quê hương giờ đây đã cách xa nửa vòng trái đất :
"Ngày đã tàn nhưng mưa chẳng chịu ngừng giây lát, chiều âm u như giấc ngủ không yên. Những cành tre nào lạ ngọt dưới những giọt nước u sầu. Quê hương ở phương nào trong bốn phương mù mịt. Tiếng chim kêu buồn trên những cành cây khô. Ngày sắp tàn cùng với cuộc tình đã rũ áo ra đi. Tình yêu rực sáng như trân Châu trong bóng mờ của trái tim ẩn kín đã tắt cùng với ánh sáng thảm thương của một ngày Thu buồn nhưng cũng đủ làm vọng lên trong ta những giây phút hoan lạc của một thời nơi quê nhà yêu dấu. Bên bếp đỏ tro than, em hãy hơ nóng hai bàn tay rét mướt. Ngày gần nhau đã vĩnh viễn xa rồi. Liệu có kiếp nào mai sau cho chúng ta những ngày đầm ấm ?".
Hỏi anh giờ này anh mong gì, anh nói, chả biết mình mong gì nữa, "ngày hai bữa nấu cơm cho vợ ăn là đủ hết ngày rồi", còn mong gì nữa.
Chị Hồng, vợ anh đau bệnh. Mà chính bản thân anh cũng nào khá hơn, anh cũng đã "làm bạn" với tật bệnh từ nhiều năm nay.
Tôi gợi lại anh về "Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn", anh nói, chắc chẳng còn bao người nhớ đến ; thế hệ trẻ bây giờ, khó cho họ để cảm được cái cảm của một thời vang bóng đó. Tôi nói với anh, dù thế nào chăng nữa thì vẫn phải "gìn vàng giữ ngọc", vì đó là dấu ấn trong lòng nhiều người trong một giai đoạn tan nát nhất của đất nước.
Hai anh em ngồi với nhau, có những lúc thinh lặng không một lời. Tôi cảm được nỗi cô quạnh đang bủa vây anh. Tôi nói, anh cho em nghe thêm đi, những lời thì thầm anh vẫn cất lên vào những tối Thứ Năm xưa cũ.
"Tình chúng ta bắt đầu vào một Thu rất xa xôi, khi những chùm Hoa Thạch Thảo ngát hương trên những lối đi quanh. Mùa Thu bắt đầu trên giòng sông bát ngát. Mùa Thu nhuộm vàng những cách rừng. Mùa Thu với áo mơ phai, chiều võ vàng, với xác hoa trên mình bướm. Em đã đến với anh như đám mây Tháng Bảy nặng mưa rào. Em hãy đừng quên, dù bây giờ mùa Thu đã chết. Những mùa Thu khác có thể trở về nhưng mùa Thu của chúng ta đã chết. Anh không bào giờ quên những ngày sung sướng, hạnh phúc đó. Đừng quên nhau, dù đôi chúng ta chẳng còn tao phùng được nữa".
"Hãy cầu nguyện cho tình ta dù một ngày tình đã vỡ tan. Cầu nguyện cho sự yên vui hằng cửu của mỗi người. Cầu nguyện cho sự tình cờ sầu hận đã đưa chúng ta đến với nhau. Khi em bước ra khỏi đời, anh chỉ còn hai bàn tay không với những chuỗi ngày cô quạnh. Đời có người khôn ngoan, có kẻ dại khờ. Có những đôi mắt cười, có những đôi mắt khóc. Riêng trong mắt anh, có điều gì như đang tan trong lòng. Em làm sao hiểu được từ ngày em bỏ đi, anh đã rã mục dưới gánh nặng của trái tim. Có những người tiến xa trên đường đi, có những kẻ lẽo đẽo theo sau. Có người tự do, có người tù túng. Riêng anh đứng lại rã rời dưới gánh nặng u buồn của trái tim mình".
"Em có nhìn thấy mây giăng kín buổi chiều, nhìn thấy giòng sông trôi. Ngày đã muộn và con thuyền đã theo sóng trôi xa. Em có nhìn thấy mây giăng kín bầu trời, nhớ lại những ngày chúng ta còn gần nhau. Những trận gió từ phương Nam thổi về lòng anh đầy nỗi nhớ nhung. Anh không thể nào nhớ chúng ta đã xa nhau giữa mùa Xuân hay mùa Hè. Bởi vì mắt anh đã tràn ngập sương lam mỗi lần nhớ tới em, mỗi lần anh dõi theo chân trời nơi anh tưởng rằng có em. Ôi ! ngôi mộ của bình minh nơi em cư ngụ. Anh muốn tan thành giòng nước cuốn trôi đến nơi mênh mông cô quạnh ấy. Anh muốn được cùng em tan trong ánh sáng rạng rỡ của ngày bắt đầu, và được cùng em, hòa trong ánh chiêu dương khi chiều trở lại".
Khói thuốc tỏa ra từ cái tẩu, anh chìm trong hoài niệm và như đang bềnh bồng trên đôi cánh chim bay về cố hương. Anh bảo, để anh đọc cho chú nghe bài thơ anh viết ở Sài Gòn năm 1984. Bài "Tro Tàn" :
Ta có thở khói thương nhau
Tình cũng như nhang tàn
Ta còn nương náu trong đời không bao lâu
Lòng có đau thì cũng như nắng qua chiều
Thôi cũng nhẹ
Ta yêu nhau trong nghèo khó
Khi quê hương tàn phá
Được mấy ngày vui trong đời
Tóc biếc ngoảnh đi đã đỏ màu phai
Ta xa nhau vào lúc xa đời
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Cứ coi là mất coi là hết
Lật ngửa bàn tay mà cắt dây
Dẫu cho còn có khi nào nữa
Gặp lại được nhau cũng muộn rồi
Đừng hỏi tình xa bao lâu tình sẽ lạ
Và hỏi người chia xa nhau lòng có sợ
Gương lạnh bóng mờ
Còn một phần ba cây nhang đợi cháy vội
Đội một hòn than chôn chân sầu đứng đợi
Tro tàn rụng rơi.
***
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Ừ, anh nói, cũng đã sắp tới lúc "bóng bỏ theo người".
Nhìn những thùng sách chất chồng trong căn phòng hẹp của anh, tôi hỏi, "Nguyễn Đình Toàn tiểu thuyết 1 và 2" có được độc giả chú tâm không, anh cười nhưng không dấu được chua chát : "cứ xem đây là lần in cuối cùng dành tặng bằng hữu".
Ngồi chơi với anh rồi cũng phải về. Anh đóng cánh cửa sau lưng tôi và nói vói theo : "Đã thấy ta gần với cái xa".
Câu thơ này, anh đã đọc cho tôi nghe hôm đám tang Nhạc sĩ Nhật Ngân buổi sáng Mùng Sáu Tết năm nào.
Theo đoàn người sau quan tài, đi ngang nơi an nghỉ của Nhà báo Đỗ Ngọc Yến, anh Toàn ngồi xuống bãi cỏ trước mộ phần anh Yến, đọc cho nghe trọn bài thơ "Đã Nghe" :
Đã nghe đời xa ta
Người xa ta
Tình xa ta
Như cây khô trút dần hết lá
Đường đang đi bỗng như
Chập chờn có sóng đưa
Xô dồn
Trong một lối về
Đã thấy quanh ta đời quạnh quẽ
Những tiếng xôn xao im dần đi
Đời một phía ta trôi về một phía
Có phải ta mù dở hay sương che
Những bóng hình xưa
Nhập vào trong ước mơ
Giờ cũng bay ra làm gió
Ta có quên đâu
Nhưng nhìn xem cũng lạ
Hoa ngỡ như không còn là hoa nữa
Những mặt người ta giấu trong ta
Dấu mốc đời qua
cười băng giá
Ta cũng không mong quay lại nữa
Trăng thoắt rơi ngang trên đường đi
Ta bỗng nghe ra bằng thịt da
Đã thấy ta gần với cái xa
Ô hay đất đá nào rơi lở
Hay tự lòng ta lấp lối về.
Rời căn phòng trọ của tác giả "Áo Mơ Phai", ngoái lại nhìn thấy dáng anh xiêu đổ.
Đêm California se lạnh, trong đầu bỗng vang lên câu cuối của bài thơ : "Hay tự lòng ta lấp lối về".
***
Nguyễn Đình Toàn sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học (trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn) ; Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến ; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California.
Tác phẩm đã xuất bản :
Văn :
- Chị Em Hải (truyện, Nhà xuất bản Tự Do 1961) ;
- Những Kẻ Đứng Bên Lề (truyện, Nhà xuất bản Giao Điểm 1974) ;
- Con Đường (truyện, Nhà xuất bản Giao Điểm 1965) ;
- Ngày Tháng (truyện, Nhà xuất bản An Tiêm 1968) ;
- Phía Ngoài (tập truyện, viết chung với Huỳnh Phan Anh, Nhà xuất bản Hồng Đức 1969) ;
- Đêm Hè (truyện, Nhà xuất bản Hiện Đại 1970) ;
- Giờ Ra Chơi (truyện, Nhà xuất bản Khai Phóng 1970) ;
- Đêm Lãng Quên (Nhà xuất bản Tân Văn 1970) ;
- Không Một Ai (truyện, Nhà xuất bản Hiện Đại 1971) ;
- Thành Phố(truyện, Nhà xuất bản Kẻ Sĩ 1971) ;
- Đám Cháy (tập truyện, Nhà xuất bản Tân Văn 1971) ;
- Tro Than (truyện, Nhà xuất bản Đồng Nai 1972) ;
- Áo Mơ Phai (truyện, Nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng 1972) ;
- Đồng Cỏ(truyện, Nhà xuất bản Đồng Dao/ Úc Châu 1994).
Thơ : Mật Đắng (thơ, Nhà xuất bản Huyền Trân 1962).
Kịch : Các vở kịch của Nguyễn Đình Toàn đều là kịch truyền thanh, trừCơn Mưa được trích đăng trong bộ môn Kịch Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, những bản thảo khác đều thất lạc.
Nhạc :
- Hiên Cúc Vàng (tập nhạc, 1999) ;
- Tôi Muốn Nói Với Em (tập nhạc, 2001) ;
- Mưa Trên Cây Hoàng Lan (tập nhạc, 2002).
Ký : Bông Hồng Tạ Ơn I & II (Nhà xuất bản Đêm Trắng 2006, 2012).
Áo Mơ Phai đoạt giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 1973.
(Trích "Nguyễn Đình Toàn Từ Đồng Cỏ Tới Áo Mơ Phai" trong tác phẩm "Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật Và Văn Hóa" của Nhà văn Ngô Thế Vinh).
(Tháng 12, 2017)
Đinh Quang Anh Thái
Nguồn : VOA, 06/12/2017