'Cú giáng' của Việt Nam vào mục tiêu năng lượng sạch ?
Việt Nam lại vừa lên kế hoạch tăng công suất sử dụng điện than từ nay tới năm 2030, theo một dự thảo kế hoạch phát triển năng lượng được Bộ Công thương sửa đổi mới đây.
Việt Nam lại vừa lên kế hoạch tăng công suất sử dụng điện than từ nay tới năm 2030 - Ảnh minh họa
Giới quan sát cho rằng đây có thể là một đòn giáng mạnh vào các nỗ lực của các quốc gia giàu có muốn tài trợ để giúp Việt Nam chuyển sang năng lượng sạch.
Khoảng 8,5 tỷ USD đã được Vương quốc Anh, Liên minh Châu Âu và nhóm G7 đề xuất hỗ trợ cho Việt Nam, chủ yếu dưới dạng cho vay, để chuyển đổi sang năng lượng sạch (gọi là Just Energy Transition Partnership - JETP).
Nhưng Việt Nam đã không chấp thuận thỏa thuận này. Và ngay sau đó, tiếp tục kế hoạch tăng điện than để đảm bảo nhu cầu năng lượng ngày càng tăng cao.
Dự thảo nói trên được Bộ Công thương Việt Nam sửa đổi ngày 11/11, và ban hành ngay sau hội nghị thượng đỉnh khí hậu toàn cầu COP27 ở Ai Cập mới đây.
Theo đó, than vẫn sẽ là nguồn năng lượng quan trọng nhất của Việt Nam cho tới 2030, với công suất hơn 36GW. 11 nhà máy điện than mới sẽ được xây dựng trong những năm tới.
Việt Nam hiện chỉ đứng sau Trung Quốc về điện than trong số các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mekong.
Lượng khí thải ở Việt Nam theo đó dự kiến sẽ tăng lên theo cấp số nhân, nhất là khi kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh chóng.
Hiện đã có hai quốc gia ký JETP là Nam Phi và Indonesia. Các nước này sẽ nhận được các khoản hỗ trợ trị giá hàng tỷ USD từ G7 và các nước phát triển khác để chuyển dần sang năng lượng sạch.
Giới chức EU và các nhà đàm phán phương Tây khác đã hy vọng Việt Nam sẽ trở thành nước thứ ba ký JETP tại COP27, và theo đó sẽ chấp thuận khoản hỗ trợ hơn 8 tỷ USD nói trên.
Nhưng các nguồn tin ngoại giao cho hay Việt Nam muốn có thêm các khoản tài trợ và có quyền kiểm soát nhiều hơn đối với cách giải ngân, theo Reuters.
Một số quan chức EU hi vọng rằng họ sẽ đạt được một thỏa thuận khác với Việt Nam tại hội nghị thượng đỉnh với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào giữa tháng 12 tại Brussels.
Năm 2021, tại COP26, Việt Nam cam kết đưa chỉ số phát thải CO2 về 0 (net zero) vào năm 2050 và một trong những tiêu chí hàng đầu để đạt mục tiêu này là loại bỏ dần điện than.
Đến năm 2020, điện than của Việt Nam đã tạo ra năng lượng nhiều bằng tất cả các nguồn khác cộng lại. Điện than cũng thải ra 126 triệu tấn CO2, tương đương một nửa lượng khí thải của Việt Nam.
Việt Nam phải bắt đầu thực hiện cam kết từ bây giờ'
Trao đổi với BBC News tiếng Việt, bà Flora Champenois, nhà nghiên cứu tại Global Energy Monitor nói rằng "Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã cam kết rõ ràng rằng sẽ đạt net zero vào năm 2050, nhưng họ vẫn chưa có bất kỳ động thái quan trọng nào để làm như vậy hoặc có chút tích cực lên kế hoạch nào cho việc loại bỏ điện than nhanh chóng".
Trả lời câu hỏi liệu bà có nghĩ rằng Việt Nam thực sự quyết tâm để đạt được cam kết net zero, bà Flora Champenois nhắc đến "một làn sóng đàn áp xã hội dân sự mới ở Việt Nam", trong đó nổi bật là các vụ bắt giữ các nhà hoạt động môi trường gần đây bao gồm 'anh hùng khí hậu' Ngụy Thị Khanh - người đã tích cực vận động để Việt Nam loại bỏ điện than - Mai Phan Lợi, Đặng Đình Bách "đang gây nguy hiểm cho tiến bộ trong giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu".
Bà nhấn mạnh : "Chính phủ Việt Nam phải duy trì các tiêu chuẩn nhân quyền cao nhất để củng cố và đạt được các cam kết của mình".
Bà Flora Champenois, nhà nghiên cứu tại Global Energy Monitor
"Việc đáp ứng các cam kết sẽ không dễ dàng nhưng vẫn có thể thực hiện được. Ví dụ, Việt Nam có thể theo đuổi nhiều cách hơn để giảm sự căng thẳng về nhu cầu năng lượng trong tăng trưởng kinh tế, cải thiện lưới điện quốc gia, đảm bảo nguồn vốn cho năng lượng tái tạo, v.v. Bằng cách chính thức hóa việc chấm dứt các chính sách tập trung vào than và nhiên liệu hóa thạch trước đây, Việt Nam sẽ cho thấy rằng mình sẵn sàng và có thể đạt được những tiến bộ hướng tới 'net zero'.
Theo bà, "Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với mặt trời và nguồn gió ổn định trên bờ. Với việc lập kế hoạch cẩn thận, cũng như sự tham gia của các bên liên quan trong nước và quốc tế, Việt Nam có thể trở thành nước dẫn đầu và dần dần xóa bỏ than khỏi lưới điện trong khi vẫn tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, trở ngại nằm ở chỗ các nước cam kết net zero chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện.
"Không có cơ chế thực sự nào để buộc các nước thực thi cam kết nào hoặc trừng phạt họ nếu không thực hiện đúng cam kết này. Đây là lý do tại sao Việt Nam cần xác định các mục tiêu ngắn hạn, tạm thời để tiếp tục đi đúng hướng. Các công việc cơ bản nằm đáp ứng cam kết net zero năm 2050 cần phải bắt đầu trong thập kỷ này", bà Flora Champenois nói với BBC.
Không lâu trước khi Việt Nam sửa đổi kế hoạch tăng cường điện than cho tới 2030, ngành điện lực Việt Nam - do nhà nước độc quyền - đã ngưng mua điện mặt trời từ nhà máy Trung Nam - Thuận Nam ở tỉnh Ninh Thuận.
Việc cắt giảm một nửa công suất tiêu thụ điện mặt trời có hiệu lực từ ngày 1/9 đã khiến tập đoàn Trung Nam đứng trước nguy cơ phá sản, theo một bức thư Tập đoàn Trung Nam gửi Bộ Công thương mà Reuters được tiếp cận.
Đầu tư của Trung Quốc
Trung Quốc là các nhà đầu tư chính cho điện than Việt Nam, sau đó đến Anh, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản....
Vào tháng 9/2021, ông Tập Cận Bình đã tuyên bố sẽ chấm dứt xây dựng mới các dự án than ở nước ngoài, theo Energy Economics and Financial Anlysis.
Nói với BBC, bà Flora Champenois nhận định rằng, "dù vậy, tài trợ cho điện than có thể vẫn đến thông qua nhiều kênh khác nhau".
"Để kỷ nguyên điện than kết thúc, tất cả các kênh này phải đóng lại.
"Từ nay cho đến lúc đó, vẫn tiềm ẩn rủi ro của việc Việt Nam lập kế hoạch năng lượng để thúc đẩy các nhà máy điện than mới, làm trì hoãn quá trình chuyển đổi cần thiết sang các nguồn năng lượng sạch hơn".
Danh sách các dự án than tiềm năng khác nhau ở Việt Nam do Trung Quốc đầu tư mà hiện chưa bị hủy bỏ rõ ràng do bà Flora Champenois cung cấp cho BBC, bao gồm :
1. Nhà máy điện than Anh Khanh tại Bắc Giang
2. Nhà Máy Công Thanh
3. Nhà máy Nam Định
4. Nhà máy Sông Hậu
5. Nhà máy Vĩnh Tân
Việt Nam là nước nhận nhiều tiền đầu tư nước ngoài nhất cho phát triển điện than, theo sau là Bangladesh, Indonesia, Ấn Độ...
Mỹ Hằng
Nguồn : BBC, 25/11/2022
Trong chiều hướng thế giới đẩy mạnh cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, nhiều tập đoàn quốc tế đang phải rút ra khỏi các dự án nhà máy điện than, bị xem là gây nhiều ô nhiễm và làm gia tăng lượng khí phát thải gây hiệu ứng lồng kính. Ngành điện than Việt Nam cũng đang gặp tình trạng như vậy.
Để sản xuất đủ điện nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, Việt Nam hiện vẫn dựa nhiều vào các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than. Nhưng theo hãng tin Reuters và báo Nikkei Asia ngày 26/02, tập đoàn Nhật Mitsubishi đã quyết định rút ra khỏi dự án nhà máy điện than Vĩnh Tân 3, ở tỉnh Bình Thuận, một dự án có tổng đầu tư khoảng 2 tỷ đôla, dự kiến đi vào hoạt động năm 2024. Theo báo chí Việt Nam, lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) đã xác nhận thông tin nói trên. Cũng theo lãnh đạo cơ quan này, cơ cấu cổ phần Nhà máy nhiệt điện than Vĩnh Tân 3 có 29% là của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), còn lại là cổ phần của OneEnergy, liên doanh giữa Mitsubishi với Tập đoàn CLP của Hồng Kông.
Quyết định của Mitsubishi cho thấy là các công ty năng lượng và các công ty tài chính quốc tế, trong đó có các công ty của Nhật Bản, nay không còn ủng hộ mạnh mẽ các dự án điện than, dưới áp lực của các cổ đông và các nhà hoạt động bảo vệ môi trường.
Một ví dụ mới nhất : Theo hãng tin AFP ngày 11/03/2021, dưới áp lực của các cổ đông, tập đoàn ngân hàng Anh Quốc HSBC, trong đại hội cổ đông lần tới ngày 28/05, sẽ đề nghị ngừng tài trợ cho ngành công nghiệp than từ đây đến năm 2040.
Riêng Mitsubishi đã cam kết giảm đầu tư vào điện than để theo đúng các mục tiêu của quốc tế về chống biến đổi khí hậu. Theo Nikkei Asia, đây là lần đầu tiên Mitsubishi rút khỏi một dự án điện than và tập đoàn này cũng sẽ không xây dựng bất kỳ nhà máy điện than nào mới sau dự án Vũng Áng 2 mà tập đoàn này có tham gia. Thay vào đó, Mitsubishi có kế hoạch góp phần phát triển các dự án năng lượng ít gây hại cho môi trường, bao gồm khí tự nhiên hóa lỏng và năng lượng tái tạo, như năng lượng gió và mặt trời.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 08/03/2021, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt, nhận định về quyết định của Mitshubishi :
"Theo thiết kế thì nhà máy này có công suất lên tới 2.000 MW, một đơn vị phát điện chiếm một phần khá lớn trong tổng công suất điện than của Việt Nam hiện nay. Mitsubishi rút ra khỏi dự án này. Ngoài ra còn có thông tin là những ngân hàng như Standard Chatered đang rút lại tiền tài trợ cho dự án thứ hai là Vũng Áng 2 với công suất 1.200 MW, nhưng Mitsubishi và chính phủ Nhật nói là họ vẫn ở lại dự án này.
Tại sao họ rút khỏi Vĩnh Tân 3 ? Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì đó là những tập đoàn lớn và họ đã cam kết góp phần vào việc chống biến đổi khí hậu, mà điện than thì phát ra khí CO2 rất nhiều. Nhiều công ty khác của các nước lớn cũng đi theo hướng ấy. Thành ra chuyện đó mình cũng đã lường trước."
Không chỉ bị áp lực bên ngoài, ngành điện than Việt Nam còn bị áp lực của dư luận trong nước, một phần là do các nhà máy điện than có thể gây ô nhiễm không khí, theo lời giáo sư Phạm Duy Hiển :
" Ở Việt Nam nói chung thì công chúng phản đối các nhà máy điện than, một phần vì nó làm tăng lượng khí CO2 gây biến đổi khí hậu, nhưng mặt khác nó có thể gây ô nhiễm không khí. Ô nhiễm không khí ở Việt Nam hiện nay đã khá là nặng, nhất là ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi có nhiều nhà máy điện than chạy suốt ngày đêm. Không khí ở những nơi như Hà Nội có thể bị ảnh hưởng, khiến cho dân chúng không chấp nhận điện than.
Nhưng tôi có hỏi những người bạn ở EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam), thì họ nói là các nhà máy điện than mới có quy trình công nghệ tương đối tốt. Thứ hai là họ luôn luôn có các sensor (bộ cảm biến) đặt ở những nơi phát thải. Những sensor đó truyền luôn các tín hiệu về Sở Tài nguyên Môi trường ở địa phương. Do đó, không có nhiều nguy cơ các nhà máy này thải ra nhiều khí, bụi."
Nhưng sức ép của dư luận trong nước ngày càng tăng. Theo tờ Lao Động ngày 04/03/2021, Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), Liên minh Phòng chống các Bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN) và Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) vào ngày 02/03 đã gửi đến Bộ Công Thương thư kiến nghị góp ý cho Quy hoạch điện Quốc gia. Các tổ chức này kiến nghị Bộ Công Thương không phát triển thêm các dự án điện than mới, đặc biệt là trong giai đoạn 10 năm tới, thay vào đó phải có các giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh hơn nữa phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió.
Thư kiến nghị nhấn mạnh : "Việc tiếp tục phát triển nhiệt điện than sẽ đặt Việt Nam ở chiều ngược lại với xu thế chuyển dịch xanh của thế giới và nỗ lực thực hiện mục tiêu khí hậu của thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, nó làm tăng thêm rủi ro khi Việt Nam đứng trước nguy cơ phải phụ thuộc vào nguồn cấp vốn duy nhất là Trung Quốc. Ngoài ra, việc gia tăng phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu than, khí cho phát điện sẽ đặt ra nhiều rủi ro với an ninh năng lượng quốc gia."
Nhưng trước mắt, cũng theo giáo sư Phạm Duy Hiển, chắc là EVN sẽ tìm những đối tác mới để làm nhà máy điện than Vĩnh Tân 3, bởi vì những nhà máy đó rất lớn, không thể dừng lại được. Thật ra thì bản thân Việt Nam cũng đang đi theo hướng từ bỏ dần dần điện than để gia tăng đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo :
"Theo quy hoạch điện mới, gọi Quy hoạch điện VIII, Việt Nam sẽ không xây thêm nhà máy nhiệt điện than mới trong giai đoạn 2026-2030. Còn trong giai đoạn từ 2020-2026 thì vẫn phải xây theo như kế hoạch, tổng cộng công suất của 15 dự án là 18.000 MW.
Thêm vào đó, mình cũng không có đủ than, do đó, theo báo cáo chính thức của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam, trong năm 2020, Việt Nam đã nhập 12 triệu tấn than để sản xuất điện. Con số này đến năm 2025 sẽ tăng lên thành 30 triệu và đến năm 2030 sẽ tăng lên thành 50 triệu.
Cho nên, trước mắt, các dự án nhà máy điện than vẫn tăng về công suất so với các nguồn điện khác. Ví dụ như năm 2020, nhiệt điện than chiếm 44% tổng sản lượng điện, nhưng đến năm 2030, dù có tăng về tuyệt đối, nhưng tỷ lệ sẽ giảm xuống còn 40%. Vì sao ? Là bởi vì chúng ta đang có phương án dùng dầu và khí. Dầu và khí hiện chỉ chiếm 17% tổng công suất trong năm 2020, nhưng tới năm 2030 sẽ tăng lên 21%.
Một điểm đáng mừng thứ hai, giúp cho ta giải quyết vấn đề, đó là năng lượng tái tạo. Khả năng phát điện của các nhà máy điện dùng sức gió và mặt trời hiện nay chỉ có 5%, nhưng đến năm 2030 sẽ tăng lên 15%. Trước đây ít ai ngờ là năng lượng tái tạo, chủ yếu là gió và mặt trời, lại chiếm phần đáng kể như thế, nhưng nhờ các chính sách của nhà nước, mà thực chất là chính sách trợ giá, cho nên các nhà đầu tư nhảy vào xây dựng rất là nhiều. Với một hệ thống điện tương đối mạnh ở Việt Nam mà năng lượng tái tạo hiện nay đã chiếm 5% và sẽ tăng lên thành 15% trong năm 2030, thì đó là một tỷ lệ rất lớn.
Như vậy là trong cơ cấu điện của Việt Nam thì các nhà hoạch định chính sách cũng đã thấy rõ và cũng có cách để làm sao mà, mặc dù điện than vẫn tăng, nhưng tỷ lệ của nó giảm đi, trong đó đặc biệt phải nói là việc nhập khí hóa lỏng hiện nay đang rất là mạnh. Tỷ lệ về khí nói chung, trong đó khí hóa lỏng là chính, hiện nay là 17%, sẽ tăng lên thành 21%, một khối lượng rất đáng kễ.
Nhưng có một vấn đề, đó là việc tiếp tục thực hiện các dự án điện than sẽ gây khó khăn cho việc tuân thủ các cam kết mà Việt Nam đã đưa ra về chống biến đổi khí hậu, theo lời giáo Phạm Duy Hiển :
" Trước đây chính phủ Việt Nam cam kết mạnh về việc này là bởi vì 5 năm về trước, Việt Nam có chương trình phát triển điện hạt nhân. Mà phát triển điện hạt nhân với quy mô như hồi đó thì rõ ràng là Việt Nam có thể giải quyết cam kết của mình về khí phát thải CO2 là rất tốt. Nhưng chương trình điện hạt nhân nay đã bị hủy, cho nên Việt Nam đứng trước khó khăn : thực hiện cam kết đó như thế nào ?"
Thật ra thì trong chiến lược phát triển điện năng, có một hướng khác mà Việt Nam có thể làm, đó là tiết kiệm năng lượng. Giáo sư Phạm Duy Hiển nhắc lại điều mà ông vẫn nhấn mạnh từ lâu nay, đó là hiệu quả tiêu thụ điện năng của Việt Nam vẫn còn rất kém so với nhiều nước :
"Việc họ rút ra khỏi các dự án ấy (nhiệt điện than) cũng sẽ gây khó khăn, nhưng sẽ không đến mức mà mình không làm gì được. Tuy vậy, việc nhập khẩu than quá nhiều thì rất là không tốt. Nếu phát triển đất nước mà cứ dựa vào tài nguyên thiên nhiên của mình thì không ổn.
Giải pháp lâu dài nhất để giải quyết những vấn đề điện năng nói chung, mà trong đó có điện than, vẫn là quy hoạch lại nền kinh tế theo hướng không phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nội địa. Thứ hai, còn rất dư địa để điều chỉnh, để thực hiện kế hoạch phát triển điện năng.
Thực chất chúng ta tiêu thụ điện hiện nay vẫn còn rất dễ dãi. Không có bất cứ nước nào mà vẫn giữ hệ số đàn hồi bằng 2. Hệ số đàn hồi là tỷ số giữa tăng trưởng điện năng trên tăng trưởng kinh tế GDP. Hệ số này ở đa số các nước là thấp hơn 1, ở Việt Nam thì cứ gần bằng 2. Trong những năm trước khi xảy ra đại dịch Covid-19 năm 2019, tăng trưởng điện năng có giảm bớt, những vẫn ở mức gần gấp đôi tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2019 trở về trước, tăng trưởng điện năng là 10%, trong khi tăng trưởng kinh tế trung bình chỉ là 5 hoặc 6%".
Trong chiều hướng thúc đẩy tiết kiệm năng lượng để góp phần đạt mục tiêu chống biến đổi khí hậu, Việt Nam vừa nhận được sự hỗ trợ tài chính của của quốc tế. Theo thông báo của đại diện Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam ngày 08/03/2021, định chế tài chính quốc tế này, thay mặt cho Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), vừa ký hiệp định viện trợ không hoàn lại trị giá 11,3 triệu đôla với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để hỗ trợ phát triển thị trường tài chính thương mại cho đầu tư vào tiết kiệm năng lượng trong ngành công nghiệp.
Theo lời bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, "thúc đẩy tiết kiệm năng lượng là giải pháp tốt có chi phí thấp nhất để đạt được nhiều mục tiêu cùng một lúc : đáp ứng nhu cầu năng lượng, chống ô nhiễm và giảm phát thải khí nhà kính đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp".
Các tỉnh được quyền phản đối nhiệt điện than
Nguyễn Nam, VNTB, 30/12/2019
(Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than bố trí tại địa phương mình. Song, Thủ tướng Chính phủ cho rằng "nếu nói tiếp tục phát triển điện than thì dư luận chưa chắc chấp nhận" (1).
Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than bố trí tại địa phương mình.
Ông Trần Viết Ngãi đã có ý phát biểu như trên tại hội nghị tổng kết ngành công thương ngày 27/12/2019, và đã được rất nhiều tờ báo tường thuật với nội dung trích dẫn tương tự báo Lao Động.
Theo ghi nhận ý kiến của nhiều bài báo, trên diễn đàn mạng xã hội, và cả trên trang Việt Nam Thời Báo (2) tất cả đều phản đối ý kiến của người đứng đầu tổ chức có tên Hiệp hội Năng lượng Việt Nam.
Ông Trần Viết Ngãi – nguyên là phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Phó ban Chỉ huy công trình đường dây 500 kV Bắc – Nam. Như vậy có thể nói rằng ông là người hiểu biết về thị trường điện lực ở Việt Nam. Tuy nhiên xét về mặt am tường hệ thống pháp luật tương ứng, có lẽ ông Trần Viết Ngãi cần cẩn trọng hơn, hoặc ông cần biết lắng nghe vào đội ngũ chuyên trách pháp lý ở Hiệp hội Năng lượng Việt Nam.
Yêu cầu mà ông Trần Viết Ngãi đưa ra với thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trên thực tế là một đề nghị mà dù có đồng tình thì thủ tướng vẫn không thể ban hành được chỉ đạo đó. Lý do : Luật số 77/2015/QH13, tức Luật tổ chức chính quyền địa phương, trao cho chính quyền các địa phương quyền được phản đối về những chính sách gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và môi trường xã hội ở địa phương mình (3).
Có ý kiến cho rằng ông Trần Viết Ngãi dường như đã phát biểu với thói quen ‘cách nào cũng chạy được’ đối với những dự án nhiệt điện than mà Trung Quốc đang đầu tư ở Việt Nam.
Ông Lê Anh Tuấn, phó viện trưởng Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu thuộc Đại học Cần Thơ và là một chuyên gia về môi trường, cho biết theo quy định, đối với các dự án nhiệt điện than khi triển khai làm báo cáo đánh giá tác động môi trường, đều có phần bắt buộc là phải tham vấn ý kiến cộng đồng, tức hỏi ý kiến của người dân sống trong khu vực dự án và ý kiến của địa phương.
"Tham vấn có nghĩa là đi hỏi ý kiến của địa phương, của người dân xem họ có đồng ý hay không mới triển khai, nhưng ở đây lại đề nghị các tỉnh không được từ chối, như vậy còn tham vấn làm gì nữa ?", ông nêu vấn đề và cho rằng ông Trần Viết Ngãi thấy có nhiều địa phương đã từ chối điện than nên mới yêu cầu thủ tướng ban hành chỉ đạo như vậy.
Nhiều địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long như Long An, Tiền Giang, Bạc Liệu ; thậm chí mới đây Thừa Thiên-Huế cũng tuyên bố từ chối đầu tư dự án nhiệt điện than do lo ngại vấn đề ô nhiễm môi trường từ loại năng lượng hóa thạch đó.
Một nhà báo ở tờ Long An kể rằng khi chính quyền tỉnh này kiên quyết yêu cầu Bộ Công thương xóa quy hoạch các dự án nhiệt điện than đối với Long An, vì, "mặc dù công nghệ sản xuất điện năng của nhiệt điện than là công nghệ hiện đại, ngang tầm thế giới, hiệu suất vào loại cao của thế giới, đảm bảo tính hiện đại, an toàn, đồng bộ… đến đâu đi nữa, thì nhiệt điện than sử dụng nhiều than nên khối lượng các chất thải rắn, khí, nước đều lớn… Trong bối cảnh đang xảy ra những vấn đề về môi trường của nhiệt điện than Vĩnh Tân, nhiệt điện than Duyên Hải… thì chuyện gây tác hại lớn đến môi trường đã quá hiển nhiên".
Thông tin khác không mới, nhưng góp thêm ý cho nguyên do yêu cầu như trên của vị chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam : Trung Quốc đã và đang đóng cửa khoảng 600 nhà máy nhiệt điện chạy than gây ô nhiễm môi trường.
Việc Trung Quốc đang cho dừng hàng loạt nhà máy nhiệt điện than, thậm chí là cấm cửa nhiệt điện than có thể khiến các dây chuyền nhà máy điện than chuyển sang Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam đang có hàng loạt các dự án xây dựng trung tâm, nhà máy nhiệt điện than nở rộ theo quy hoạch của Bộ Công thương từ thời chính phủ ông Nguyễn Tấn Dũng.
Nói thêm : Hiệp hội Năng lượng Việt Nam – tổ chức trực thuộc cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Công thương.
Nguyễn Nam
Nguồn : RFA, 30/12/2019
(1) https: //laodong.vn/thi-truong/thu-tuong-tra-loi-ve-viec-phat-trien-nhiet-dien-than-775008.ldo
(2) https: //vietnamthoibao.org/vntb-nhiet-dien-than-va-khuyen-nghi-kho-hieu-cua-hoi-nang-luong-vn/
http://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=43090
******************
Than thổ phỉ
Vi Đức Hồi, VNTB, 30/12/2019
Quảng Ninh có trữ lượng than đá lớn nhất cả nước, theo số liệu của tập đoàn công nghiệp than- khoáng sản Việt nam (VKT), chỉ tinh các mỏ lớn như : Cẩm Phả ; Hòn Gai ; Uông Bí và Mạo Khê có trữ lượng khoảng 6,5 tỷ tấn. Thế nhưng tài nguyên than đá bị đào bới khai thác rút ruột với thời gian đến hàng trăm năm nay mà không có cách nào quản lý nổi.
Các loại khoáng sản đặc biệt như Boxit Tây Nguyên, những mỏ thiếc, đồng, kẽm… ở các nơi khác đã có nhiều báo chí phản ánh, dư luận lên tiếng. Người viết bài này do không có nhiều tư liệu và cũng chưa có thực tế nên không thể viết về lĩnh vực đó mà chỉ đề cập đến mảng khai thác than đá do dân tự phát và bọn băng nhóm tổ chức khai thác chui, gọi là than thổ phỉ tại tỉnh Quảng Ninh, tiếp giáp với Trung Quốc.
Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt nam có trong tay các phương tiện khai thác, phương tiện vận chuyển đầy đủ ; có đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, khai thác lâu năm ; có các điều kiện cơ sở vật chất hiện đại ; có quyền sở hữu mặt bằng rộng lớn…nhưng những năm qua vẫn kêu thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng.
Dư luận mỉa mai chua chát :"chỉ việc đào lên đem bán mà vẫn kêu lỗ là sao ?" và Việt Nam vẫn phải nhập khẩu than Trung Quốc với giá cao hơn nhiều so với giá than Việt nam, bởi nhu cầu của của các nhà máy nhiệt điện lớn, nguồn than nội địa cung cấp không đáp ứng kịp.
Trong khi đó than thổ phỉ có giá chỉ dao động trên, dưới ¾ giá của tập đoàn than Việt nam bán ra. Tiếp xúc với dân bản địa vùng than họ cho biết than thổ phỉ được hính thành từ rất lâu, từ thời kỳ pháp thuộc đã có, tuy mức độ nhỏ lẻ so với hiện nay. Than thổ phỉ cung cấp cho nhiều địa chỉ khác nhau, các cá nhân, tập thể, đơn vị trong và ngoài nước đều có.
Trung Quốc là địa chỉ thu hút than thổ phỉ Qủang ninh một cách ổn định về thị trường và giá cả, bởi nhu cầu về chất đốt của dân Trung Quốc vùng biên rất lớn. Từ ngày xưa đời các cụ, người Trung Quốc đã đặt mua than của Việt nam, bởi chất lượng tốt, giá rẻ hơn nhiều so với than nội địa Trung Quốc và Quảng Ninh là tỉnh tiếp giáp với Trung Quốc, qua lại dễ dàng, cước vận chuyển thấp. Đất nước Trung Quốc rộng lớn, các mỏ than Trung Quốc ở xa khu dân cư giáp biên giới Việt nam, giá than bên đó đã cao, cộng thêm cước vận chuyển xa tít tắp nên đội giá thành lên ngất ngưỡng.
Trong khi đó than Quảng Ninh giá rẻ đến một nửa hoặc hơn nửa so với than Trung Quốc, đó là lý do nhiều đời nay dân Trung Quốc vùng giáp biên chỉ trông chờ vào nguồn than Việt nam cung cấp và cũng là lý do vì sao than thổ phỉ ngày càng phát triển. Dân bản địa tự phát khai thác thì không thấm vào đâu so với trữ lượng lớn ở Quảng Ninh, sự ảnh hưởng đến môi trường cũng không đáng kể.
Các băng nhóm tổ chức khai thác chui mà chính quyền không thể kiểm soát nổi mới là vấn đề bức xúc. Một mặt tài nguyên khoáng sản của đất nước bị chảy máu ngầm, mất nguồn thu lớn, phá rối sự bình yên cuộc sống của người dân, hủy hoại môi trường sinh thái… Các băng nhóm phân chia nhau từng vùng lãnh thổ để cai quản, đó là những vỉa than nằm sâu trong lòng đất, trong lòng những ngọn đồi rộng lớn và có độ dốc cao , khó khai thác. Những điểm này, phía nhà nước không quan tâm vì than nằm sâu trong lòng đất, khó khai thác.
Nhưng đó là miếng mồi ngon cho các băng nhóm khai thác than thổ phỉ. Sau khi thỏa thuận phân chia xong, họ lên kế hoạch đầu tư khai thác và nguyên tắc bất khả xâm phạm được các bên triệt để thi hành, tuy nhiên thi thoảng có những vụ xung đột giữa các băng nhóm và có án mạng xảy ra nhưng đó là thế giới của những giang hồ, chính quyền không thể nắm và điều chỉnh được.
Lực lượng khai thác được tuyển dụng là những thanh niên vạm vỡ ở các nơi, ăn, nghỉ tại nơi làm việc, có định mức khoán rõ ràng, sòng phẳng đủ sức hấp dẫn nhằm thu hút, được biết mức lương tháng trung bình hiện nay cho người khai thác đạt vào khoảng trên, dưới 15 triệu đồng.
Các cửa đi vào lò được khoét sâu trong lòng đất, lò hiện đại, quy mô lớn có lối vào riêng, lối ra riêng, các lò nhỏ lối ra vào chung, bên ngoài cửa, lối ra vào được ngụy trang cẩn thận, người lạ nhìn xa không thể phát hiện. Sản phẩm than khi chuyển ra được tập kết và có lực lượng giải phóng nhanh bằng các phương tiện như xe công nông, xe máy chuyển đến địa điểm ô tô có thể vào được để đưa đi tiêu thụ.
Thỉnh thoảng có đợt kiểm tra của lực lượng liên ngành đi qua nghiêng ngó rồi cùng ký văn bản gửi trên, trước đó bao giờ cũng có thông tin báo trước cho các chủ lò, lập tức có phương án đối phó, đó là ngụy trang lại các đường hầm ra, vào, tất cả mọi hoạt động của nhân công trong thời gian đoàn kiểm tra đều phải bất động (không được ra ngoài).
Các chủ lò thường xuyên cống nạp đều đặn cho trên nên việc kiểm tra vẫn diễn ra theo lịch trình, ngày giờ cụ thể được thông tin trước đó một hai ngày. Tuy nhiên có những đợt kiểm tra đột xuất do cấp trên cao hơn quyết định, nhưng vẫn có thông tin báo đột xuất và khâu đối phó có phần nào không kịp nên có việc chủ lò phải nộp phạt, gây thiệt hại đáng kể, nhưng đó chỉ là họa hoằn.
Ngẫm lại nghị quyết đại hội 10 của đảng cách đây 15 năm, năm nay, năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp. Rồi nhìn cảnh quan hủy hại môi trường sau khi tổng công ty than Việt nam khai thác, bằng các phương tiện hiện đại như : bắn mìn, máy ủi, máy xúc, đào bới những khu vực, những mỏm đồi có những vỉa than lớn, lộ thiên, rễ khai thác.
Khai thác xong thay vì san lấp trả lại mặt bằng, thì để lại một địa hình nham nhở, những chiếc hồ sâu hoắm, cái thì trữ nước có màu đen nghịt, cái thì khô cạn bởi không thể chứa, đất đá lởm chởm, ngổn ngang. Các băng nhóm khai thác than thổ phỉ nhìn bề ngoài môi trường cảnh quan không tổn hại bởi họ khai thác thủ công, chỉ có lối vào, ra, hoạt động chính của họ là đục, khoét sâu tròng lòng đất. Nhìn những ngọn núi đồi vẫn nguyên vẹn nhưng ở trong đã bị rỗng, nguy cơ đến lúc nào đó sập xuống và hậu quả của nó khôn lường.
Vi Đức Hồi
Người RFA, 30/12/2019
***************
Nhiệt điện than và kiến nghị khó hiểu của Hội Năng lượng Việt Nam
Quang Thành, VNTB, 29/12/2019
Nhiệt điện than tiếp tục ‘nóng’ lên, khi mới đây Hiệp hội năng lượng đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than bố trí tại địa phương mình.
Nhiệt điện than và kiến nghị khó hiểu của Hội Năng lượng Việt Nam
Quan điểm đề nghị của Hội này là không sai, nhưng nội dung đề nghị theo hướng kêu gọi Thủ tướng ra quyết định hành chính dưới ngôn từ ‘chỉ đạo’ là sai về mặt nguyên tắc.
Là một Hiệp hội, một tổ chức phi lợi nhuận, quyền hạn đâu mà tổ chức này kiến nghị Chính phủ đưa ra một quyết định hành chính ? Thay vì đối thoại để tìm ra giải pháp hoặc lắng nghe địa phương đang muốn gì, thì Hiệp hội này lại tìm cách buộc các địa phương phải cho phép nhiệt điện than được hiện diện. Trong khi đó, hàm lượng không khí thải bẩn, có chứa bụi mịn đã biến cả miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội trở thành ‘tụ điểm xấu’ về mặt không gian sống đối với cộng đồng. Và những minh chứng gần đây cho thấy, quy hoạch nhiệt điện than 2030 đã đi ngược lại với quy luật năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trên thế giới.
Điều ngộ nghĩnh là, tạp chí điện tử của Hiệp hội năng lượng Việt Nam lại tỏ ra ‘cầu tiến’ về năng lượng, khi mà dày đặc các nội dung được đăng tải nhằm khuyến khích năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, cũng như phân tích các xu hướng phát triển năng lượng bảo vệ môi trường.
Vì sao và vì đâu Hiệp hội năng lượng Việt Nam lại tỏ ra ‘nhiệt tình’ với nhiệt điện than đến mức phải tìm mọi cách để đưa nhiệt điện than triển khai tại các tỉnh phía Nam ? Phải chăng Hiệp hội này có một ‘lợi ích’ nằm trong nhóm các nhà đầu tư trong dạng năng lượng này ? Hay là vì mục tiêu của Hiệp hội này là phát triển năng lượng bằng mọi giá bất chấp quan điểm của Chính phủ là ‘phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường’ ?
Dù ở bất kỳ lý do nào chăng nữa, thì với quan điểm đề nghị trên, Hiệp hội năng lượng Việt Nam đã đánh mất tầm nhìn bền vững của mình đối với hiện trạng và phát triển năng lượng Việt Nam.
Nhà báo Mai Quốc Ấn trên Facebook cá nhân của mình đã phê phán quan điểm của Hiệp hội năng lượng Việt Nam là ‘sự trâng tráo rực rỡ’.
Trong đó, anh đề cập đến tác hại (mà một số địa phương ở phía Nam nhìn ra để từ chối dự án nhiệt điện than), trong đó bao gồm : môi trường, an sinh xã hội và an ninh trật tự. Thậm chí, là hy sinh cả lòng dân !
Cách đây không lâu, tỉnh Long An nhiều lần cương quyết từ chối điện than. Theo quan điểm tỉnh này, thì nguy cơ ô nhiễm môi trường là nguyên nhân trọng yếu để Long An quyết tâm ‘không còn quy hoạch đầu tư dự án bằng công nghệ đốt than nữa.’
Điều này cho thấy, bài học nhãn tiền về nhiệt điện than Vĩnh Tân 4 (Bình Thuận) hoạt động vào tháng 9/2014 nhưng đã gây tai biến cho tình hình trật tự an ninh địa phương, cũng như sinh kế của cộng đồng. Và hiện tại, tình hình Vĩnh Tân 4 vẫn đang nằm trong diện dễ dàng tái phát bất ổn.
Vào năm 2015, người dân ở Vĩnh Tân (Tuy Phong, Bình Thuận) đã bùng phát xung đột với chính quyền địa phương liên quan đến sức khoẻ và sinh kế cù người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ bụi than và khí thải than.
Trong một nghiên cứu của Đại học Harvard, số ca tử vong do ô nhiễm không khí ở Việt Nam có thể tăng 4 lần vào năm 2030 – năm mà theo kế hoạch phát triển nhiệt điện than sẽ lên con số 54 nhà máy. Và số ca tử vong do ô nhiễm không khí từ nhiệt điện than ở Việt Nam dự báo sẽ tăng từ gần 5.000 người năm 2011 lên gần 20.000 người vào năm 2030.
Câu chuyện của nhiệt điện than cũng liên quan đến vấn đề tăng trưởng dài hạn của Việt Nam. Theo đó, chỉ tính riêng các bệnh liên quan đến không khí ô nhiễm khiến Việt Nam thiệt hại 5-7% GDP mỗi năm. Và con số này sẽ tiếp tục gia tăng khi mà nhiệt điện than giá rẻ không được tiếp tục kiểm soát, dẫn đến tình trạng ô nhiễm không chỉ tập trung tại các tỉnh miền Bắc, mà sẽ phá hủy nền du lịch không khói tại các tỉnh thành phố phía Nam, bao gồm Đà Nẵng, Nha Trang.
Việc lựa chọn tiếp tục hay ngừng triển khai kế hoạch nhiệt điện than phải căn cứ vào bối cảnh xã hội và tình hình kinh tế, không nhất thiết phải tiếp tục dồn ép đạt được mục tiêu khi bối cảnh xã hội phản ứng gây gắt cũng như thiệt hại kinh tế sẽ diễn ra trong lúc Chính phủ đang cần ‘kiến tạo’ và cam kết hành động vì môi trường.
Việc Chính phủ trả lời ‘dư luận chưa chắc chấp nhận’ về nhiệt điện than cho thấy sự dè chừng trước các phản ứng của dư luận xã hội đối với loại hình điện năng này. Và đây nên được coi là nền tảng cơ sở để tiếp tục ‘cân đo đong đếm’ về việc ngừng triển khai hoàn toàn nhiệt điện than hay không trong tương lai.
Đối với Hiệp hội năng lượng Việt Nam, ít nhất trước khi kiến nghị và đề xuất một vấn đề gì đó trong phát triển năng lực. Cần phải có một thăm dò dư luận hoặc thăm dò xã hội học để nắm bắt được tình hình, thay vì cứ thực hành một phát ngôn mà chỉ biết đến cái lợi trước mắt như hiện nay. Đi ngược lại quan điểm phát triển bền vững và nền tảng Chính phủ kiến tạo thời kỳ ông Nguyễn Xuân Phúc.
Cần nhớ rằng, phát triển bằng mọi giá sẽ để lại món nợ cho con cháu tương lai gánh chịu. Một hậu quả không hề tốt đẹp về kinh tế lẫn xã hội.
Quan Thành
Nguồn : VNTB, 29/12/2019
*****************
Bộ Công thương, điện than và Nghị quyết 120/NQ-CP
Nguyễn Ngọc Trân, VietTimes, 28/12/2019
Phải chăng báo động "hệ thống điện hầu như không còn dự phòng" được sử dụng như là một thứ áp lực lên Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than ?
Điện hay môi trường ?
Triền miên trong giấc ngủ điện than
Ngày 27/12/2019, tại hội nghị tổng kết ngành công thương, một vị đại biểu, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, nguyên Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) báo động hệ thống điện hầu như không còn dự phòng. Dư luận chờ đợi được biết tại sao và cách giải quyết. Chờ đợi nhiều, thất vọng tương xứng.
Hầu như không còn dự phòng ! Thế tại sao các hệ thống điện gió, điện mặt trời đã được lắp đặt thời gian gần đây ở Ninh Thuận, Bình Thuận, toàn bộ công suất lắp đặt không được đưa vào mạng lưới quốc gia ? nguyên nhân từ đâu ? hệ thống truyền tải điện không đáp ứng, trách nhiệm của EVN và Bộ Công thương như thế nào ?
Vì sao họ vẫn viện đủ lý lẽ để từ chối năng lượng tái tạo, trước tiên là năng lượng gió và năng lượng mặt trời ?
Việc hệ thống điện quốc gia hầu như không còn dự phòng có nhiều lý do nhưng cơ bản, theo tác giả, là vì EVN và Bộ Công thương cho tới nay vẫn kiên quyết ôm chặt điện than, viện đủ lý lẽ để từ chối năng lượng tái tạo (năng lượng tái tạo), trước tiên là năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Có không ít người ở hai thiết chế này nhắm mắt với xu hướng chung trên thế giới, kể cả Trung Quốc, là loại trừ dần nhưng nhanh chóng điện than. Họ cũng không quan tâm đến hậu quả đã được chứng minh của bụi mịn 2,5 µm (micro mét) đối với sức khỏe của con người. Dường như họ vẫn triền miên trong giấc ngủ điện than của mình từ nhiều thập kỷ trước.
Bộ Công thương có chấp hành Nghị quyết 120/NQ-CP ?
Trong các năm tới nếu không điều hành quyết liệt sẽ xảy ra thiếu điện trầm trọng, vị đại biểu khẳng định. Nhưng điều hành quyết liệt là gì ? Chủ tịch Hiệp hội năng lượng Việt Nam đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than bố trí tại địa phương mình.
Đành rằng mỗi công dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình, nhưng chức vụ càng cao, thái độ nghiêm túc, có trách nhiệm phải đi cùng. Vượt trên vị đại biểu khả kính, tác giả muốn nói đến trách nhiệm của Bộ Công thương trong việc chấp hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 18/11/2017, Về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bộ Công thương là bộ phận, Bộ trưởng là thành viên của Chính phủ, chắc hẵn phải nhớ rằng Nghị quyết 120 đã quyết nghị :
(1) Điểm 5. Một số nhiệm vụ cụ thể, khoản (e) Bộ Công thương :
- Rà soát công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch địa điểm ; giám sát chặt chẽ việc triển khai đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện than tại vùng đồng bằng sông Cửu Long trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII) bảo đảm công nghệ mới, hiện đại, bảo đảm tuyệt đối không gây ô nhiễm môi trường.
- Hạn chế tối đa việc bổ sung các nhà máy nhiệt điện than mới vào Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trên địa bàn các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long ; từng bước chuyển đổi công nghệ đối với các nhà máy nhiệt điện than hiện có theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường ; tập trung khai thác tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió và năng lượng mặt trời".
(2) Điểm 4. Các giải pháp tổng thể : "Mọi dự án, công trình phải được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trên cả 3 mặt : kinh tế, xã hội và môi trường, được phản biện khách quan, khoa học".
Tìm mãi không thấy điểm nào trong Nghị quyết 120 khả dỉ là cơ sở cho đề nghị "Thủ tướng chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than bố trí tại địa phương mình". Chỉ nhận ra rằng Bộ Công thương chưa chấp hành nghiêm túc Nghị quyết 120.
"Mọi dự án, công trình phải được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trên cả 3 mặt : kinh tế, xã hội và môi trường, được phản biện khách quan, khoa học".
Cũng xin nhắc lại một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước : Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế. Chủ trương này cũng phải được áp dụng cho đồng bằng sông Cửu Long.
Phải chăng báo động "hệ thống điện hầu như không còn dự phòng"được sử dụng như là một thứ áp lực lên Thủ tướng Chính phủ, và đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số tỉnh phía Nam không được phản đối một số dự án nhiệt điện than bố trí tại địa phương mình là một thứ áp lực thứ hai lên các tỉnh phía Nam phải chấp nhận điện than mà vì bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân các tỉnh đã khước từ ?
Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân
Nguồn : VietTimes, 28/12/2019