Lời người dịch : Dưới đây là bài viết của học giả Lý Lệnh Hoa (李令华, Li Linghua, sinh 1946, tốt nghiệp Học viện Hải dương Sơn Đông, nay là Nghiên cứu viên Trung tâm Thông tin Cục Hải dương Nhà nước Trung Quốc). Ông từng viết nhiều bài phê phán các sai lầm của Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp về biển đảo với các nước xung quanh. Nguyên văn tiêu đề là "Kiên trì ‘Đường 9 Đoạn’, việc vạch ranh giới biển Nam Hải sẽ đi vào con đường bế tắc".
Nguyễn Hải Hoành
*****************
Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài Biển Đông [1] sau khi công bố đã được dư luận nước ngoài và Trung Quốc quan tâm. Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần tỏ ý không tiếp thu, không tham gia, không thừa nhận vụ trọng tài Biển Đông do Philippines đưa ra. Tòa Trọng tài phán quyết rằng "Đường 9 Đoạn" ở Biển Đông không phù hợp luật quốc tế.
Điều đó khiến mọi người nhớ lại một câu nói sinh thời của cố Cục trưởng Cục Hải dương Nhà nước Trung Quốc La Ngọc Như : "Việc vạch ranh giới biển của Trung Quốc không được vạch đến tận cửa nhà người ta". Gợi ý này của ông đều thích hợp với việc vạch ranh giới biển tại Biển Đông cũng như biển Hoa Đông [2].
"Đường 9 Đoạn" quả thực đã mở rộng đến tận cửa nhà người khác, chiếm 85% toàn bộ vùng biển của Biển Đông, lại là một đường ảo [nguyên văn hư tuyến], thảo nào Philippines đưa việc đó ra kiện Trung Quốc.
Có bản đồ [của Trung Quốc] vẽ "Đường 9 Đoạn" cách bờ biển lục địa Việt Nam khoảng 50 hải lý, cách đảo Lý Sơn trên bờ biển Việt Nam 36 hải lý ; cách đảo Pulau Sekatung gần Indonesia nhất 75 hải lý ; cách bờ biển Kalimantan của Malaysia 24 hải lý ; cách bờ biển Brunei khoảng 30 hải lý ; cách đảo Balabac ở Đông Nam Philippines 35 hải lý, cách đảo Y’ Ami ở cực Bắc eo biển Luzon của Philippines 26 hải lý.
Như vậy tức là nói phạm vi của "Đường 9 Đoạn" do Trung Quốc chủ trương đã xuất hiện sự chồng lấn [nguyên văn trùng điệp] trên diện tích lớn với biên giới vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của các quốc gia khác ở duyên hải Biển Đông.
Nguyên tắc vạch biên giới biển được áp dụng rộng rãi trên quốc tế hiện nay dựa trên cơ sở trạng thái địa lý học bờ biển, gồm cấu hình bờ biển và chiều dài bờ biển. Khi thực hành vạch ranh giới biển, Trung Quốc không thể không tuân thủ nguyên tắc đó. Do kiên trì "Đường 9 Đoạn", việc vạch ranh giới biển Trung Quốc tất nhiên đi vào con đường bế tắc [nguyên văn tuyệt lộ].
Trên vấn đề chủ quyền đảo ở Biển Đông, Trung Quốc không chỉ có tranh chấp với Philippines. Để giải quyết vấn đề này, các bên đều cần thống nhất nhận thức với nhau. Trong việc vạch ranh giới biển, cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước yêu sách chủ quyền như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia có tính chung.
Trung Quốc kiên trì "Đường 9 Đoạn" (đường đứt khúc) có tính lịch sử nhưng các nước kia thì chủ trương vạch ranh giới biển căn cứ vào các Điều 74 và 83 trong "Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển [UNCLOS], theo đó quy định các nước ven biển được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Trong thời gian dài qua, hai bên giữ lập trường đối lập nhau. Đàm phán chỉ là chuyện tầm phào, lãng phí thời gian và tiền bạc nhà nước. Do tồn tại bất đồng về lãnh thổ đảo và ranh giới biển mà cuộc đàm phán vạch ranh giới biển bên ngoài cửa khẩu vịnh Bắc bộ giữa Trung Quốc với Việt Nam đã kéo dài hơn 10 năm [3]. Vì hai bên không chịu nhượng bộ, cho tới nay đàm phán không có bất kỳ tiến triển nào, khiến mọi người rất lấy làm tiếc.
Muốn Biển Đông trở thành biển hòa bình, hợp tác và hữu nghị, các bên cần bình tĩnh lại, cùng nhau tiến lên, xem xét các vấn đề một cách toàn diện. Tất cả các bên tranh chấp nên trao đổi rộng rãi với nhau, hiểu biết lẫn nhau. Nên đề xướng kết hợp đàm phán song phương và nhiều bên để giải quyết tranh chấp. Đây cũng là nhu cầu thực tế bố cục toàn diện trong việc giải quyết vấn đề lãnh thổ và vạch đường ranh giới biển ở Biển Đông. Trung Quốc không thể chỉ áp dụng thế "tấn công" với một, hai quốc gia. Trong giải quyết tranh chấp Biển Đông mà chỉ áp dụng đàm phán song phương thì e rằng ngay cả các học sinh trung học, tiểu học Trung Quốc cũng cho rằng đây là chuyện căn bản không thể làm được.
Lý Lệnh Hoa
Nguyên tác : "坚持"九段线",南海海洋划界会走上绝路 李令华"
Nguyễn Hải Hoành dịch từ nguồn tiếng Trung
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 11/09/2019
———————
[1] Nguyên văn chữ Hán là Nam Hải ; Việt Nam gọi là Biển Đông
[2] Nguyên văn chữ Hán là Đông Hải, tức vùng biển phía Đông Trung Quốc.
[3] Ý nói vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam.
Hôm 21/9/2017, trang báo mạng The Washington Free Beacon ở Washington DC công bố một tài liệu mới cho biết Bắc Kinh đã thông qua chiến thuật mới về chủ quyền trên Biển Nam Trung Quốc (tức Biển Đông) : nhóm đảo Tứ Sa thay thế Đường 9 Đoạn bị coi là bất hợp pháp !
Trang báo cho biết, trong một cuộc họp kín với các viên chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ vào hai ngày 28 và 29/8/2017 tại Boston, ông Mã Tân Dân (Ma Xinmin), Cục phó Cục Hiệp định và Pháp luật thuộc Bộ ngoại giao Trung Quốc, đã khẳng định "quyền lịch sử của Trung Quốc tại Tứ Sa". Các viên chức Mỹ tỏ ra rất ngạc nhiên về cách diễn dịch mới này.
Bản đồ vùng Tứ Sa trên Biển Đông
Nói một cách rõ ràng hơn, theo ông Mã Tân Dân từ nay Trung Quốc sẽ không còn xử dụng quan niệm "Đường 9 Đoạn" (9-Dash Line) hay "Dường lưỡi bò" để chứng minh chủ quyền pháp lý trên Biển Đông nữa mà dùng khái niệm về đường cơ sở bao vòng quanh Tứ Sa. Theo ông, Tứ Sa (Four Sha) gồm 4 nhóm đảo trên Biển Đông là Đông Sa (Dongsha) tức Pratas Islands của Đài Loan, Tây Sa (Xisha) tức Hoàng Sa, Nam Sa (Nansha) tức Trường Sa và Trung Sa (Zhongsha) tức bãi cạn Macclesfield, một bãi ngầm nằm cách Hoàng Sa 75 hải lý. Ông nói rằng Trung Quốc có "chủ quyền và quyền hàng hải" kéo dài xung quanh bốn nhóm đảo nói trên và đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý xung quanh 4 nhóm đảo này.
Tại sao Trung Quốc phải đưa ra một căn bản pháp lý mới để chứng minh chủ quyền trên Biển Đông thay vì "Đường 9 Đoạn" ? Tại vì khái niệm "Đường 9 Đoạn" đã bị phán quyết ngày 13/7/2015 của Tòa Trọng Tài Thường Trực ở La Haye tuyên bố là "không có cơ sở pháp lý", nên Trung Quốc phải đi tìm một "căn bản pháp lý" khác.
Trung Quốc xài đồ cũ để lấp liếm
Những quy định về chủ quyền trên biển theo quốc tế công pháp về Luật Biển rất phức tạp. Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng Tài quốc tế, hồ sơ tranh luận lên đến trên 4.000 trang với 40 bản đồ khác nhau. Mặc dầu Trung Quốc tuyên bố "Chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là bất khả tranh cãi" và người Việt cũng tuyên bố tương tự như thế, nhưng phán quyết của Tòa hoàn toàn khác với những sự xác quyết này. Nói theo cảm tính là nói cho sướng mồm và nói để tuyên truyền mà thôi. Khi ra tranh tụng trước công lý, chỉ có các bằng chứng luật định và luật lý được chấp nhận, còn cảm tính và những lời xác quyết dao to búa lớn thường bị xếp vào thùng rác.
Chúng tôi xin nhắc lại, trong cuộc hội thảo được tổ chức tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế ở Washington ngày 20/6/2011, giáo sư Tô Hảo (Su Hao), Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế thuộc trường Đại Học Ngoại Giao Trung Quốc, đã lên diễn đàn đọc một bài diễn văn chứng minh Trung Quốc đã có chủ quyền về lịch sử không chối cãi đối với Biển Đông từ 2000 năm về trước. Từ đời nhà Tống cách đây vài trăm năm, Trung Quốc đã có một cơ quan phụ trách hành chính về khu vực này và đã có đội tàu đi tuần trên biển. Ông đem theo một thùng tài liệu rất lớn chứng minh Trung Quốc đã làm chủ Biển Đông từ thời ông Bành Tổ.
Nhưng khi ông vừa thuyết trình xong, ông Termsak Chalermpalanupap, Phụ tá đặc biệt của Tổng thư ký ASEAN đã lên tiếng như sau : "Tôi không cho rằng Công Ước Của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền". Giáo sư Peter Dutton thuộc Đại học Hải quân Hoa Kỳ cũng có quan điểm tương tự : "Về quyền tài phán đối với các vùng biển, lịch sử không liên quan gì cả, mà phải tuân theo UNCLOS".
Từ 1975 đến nay, rất nhiều người Việt đã đi sưu tầm tài liệu lịch sử để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, như Phủ Lục Tạp Biên của Lê Quí Đôn, Đại Nam Nhất Thống Chí… Tại sao "mấy thằng cha này" lại dám bảo Luật Biển Liên Hiệp Quốc không công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền ?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin trình bày khái niệm về quyền sở hữu lịch sử đối với các đảo và "vùng nước lịch sử" (historic water) ở Biển Đông do Trung Quốc nại ra. Đây là những khái niệm đã một thời được quốc tế công pháp về luật biển công nhận, nay đã trở nên lỗi thời, nhưng Trung Quốc vẫn lôi ra xài để lấp liếm. Một số người Việt không biết gì về luật biển, cũng đã bắt chước Trung Quốc làm y như thế khi chứng minh chủ quyền của Việt Nam !
Quyền sở hữu các đảo trên biển
Luật La Mã ngày xưa quy định rằng "Res nullius naturaliter fit primi occupantis", có nghĩa là "đối với vật vô chủ, quyền sở hữu thuộc về người chiếm hữu đầu tiên". Các đảo nổi lên trên biển (insula in mara nata) được coi là vật vô chủ (rex nullus), quyền sở hữu cũng thuộc về người chiếm hữu đầu tiên.
Nhưng quy định này đã đưa tới những tranh tụng không giải quyết được. Ví dụ Việt Nam cho rằng Việt Nam đã chiếm Hoàng Sa từ đời nhà Lý hay nhà Trần thì Tàu lại đưa tài liệu khác chứng minh Tàu đã chiếm Hoàng Sa và Trường Sa từ thời ông Bành Tổ, nên rất khó phân định. Vì thế Định Ước Berlin ngày 26/2/1885 đã đưa ra một số nguyên tắc chính được dùng dể chứng minh quyền sở hữu các đảo trên biển như sau :
1. Chủ thể chiếm hữu phải là một quốc gia.
2. Việc chiếm hữu phải thực hiện trong hòa bình và đảo chiếm hữu phải thật sự vô chủ (rex nullus) hay đã bị bỏ (rex derelicto).
3. Phải thực hiện chủ quyền liên tục và thật sự (exercise continuous and actual sovereignty) trên đảo đã chiếm.
Sau này, án lệ coi điều kiện thứ ba là quan trọng nhất. Năm 1898, Tây Ban Nha nhường lại Philippines cho Mỹ, trong đó có đảo Palmas đã được Tây Ban Nha chiếm trước đây và có ghi vào bản đồ của Philippines. Nhưng sau đó Mỹ lại khám phá ra Hà Lan đang thực hiện chủ quyền trên đảo Palmas. Mỹ liền nộp đơn kiện trước Tòa Án Trọng Tài Thường Trực để đòi lại hòn đảo này. Kết quả, trong phán quyềt ngày 23/1/1925, Tòa tuyên bố đảo Palmas thuộc về Hòa Lan vì sau khi chiếm Philippines, Tây Ban Nha không thực hiện chủ quyền thực sự và liên tục trên đảo Palmas, trái lại Hà Lan tuy đến chiếm sau nhưng đã thực hiện chủ quyền thực sự và liên tục trên đảo đó, nên Palmas được coi như thuộc quyền sở hữu của Hà Lan. Sau này Hà Lan đã giao lại đảo Palmas cho Indonesia.
Như vậy, việc thực hiển chủ quyền liên tục và thực sự (continuous and actual) trên hoang đảo là yếu tố pháp lý căn bản để chứng minh chủ quyền chứ không phải là việc chiếm trước hay chiếm sau, có ghi trên bản đồ hay không ghi.
Dùng thuyết "Vùng nước lịch sử"
Bài thuyết trình của giáo sư Tô Hảo (Su Hao) ngày 20/6/2011 tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế ở Washington năm 2011 cho thấy Trung Quốc muốn dùng học thuyết "vùng nước lịch sử" (historic water) trong quốc tế công pháp về luật biển cũ để chứng minh Biển Đông là "ao nhà" của Trung Quốc.
Vậy, "vùng nước lịch sử" là gì ?
Nói một cách vắn tắt, "vùng nước lịch sử" là vùng biển mà một quốc gia đã chấp hữu qua nhiều thế hệ và trở thành vùng sống còn của quốc gia đó.
Từ lâu, "vùng nước lich sử" chỉ có trong học lý chứ không hề có trong Luật Biển. Năm 1951, Na Uy kiện Anh xâm nhập vùng đánh cá của Na Uy. Trong phán quyết ngày 18/12/1951, Tòa Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice) công nhận "quyền đứng tên lịch sử" (historic title) của Na Uy về vùng biển nằm sát Na Uy, và Anh không có quyền xâm phạm. Vùng này có bề ngang chưa đến 100 miles tính từ bờ biển Na Uy.
Mặc dầu Tòa Án Công Lý Quốc Tế đã công nhận "vùng nước lịch sử" (historic water) và "quyền đứng tên lịch sử" (historic title), Luật Biển 27/4/1958 không hề nói đến "vùng nước lịch sử".
Theo đề nghị của một số quốc gia, Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đã ra nghị quyết yêu cầu Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc cho nghiên cứu về "chế độ pháp lý của các vùng nước lịch sử" (the juridical regime of historic waters), kể cả các "vịnh lịch sử" (historic bays).
Trong các cuộc họp về dự thảo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển từ năm 1973 đến năm 1982, Colombia đã yêu cầu đưa "vùng nước lịch sử" và "vịnh lịch sử" vào dự thảo công ước, nhưng Ủy Ban Luật Quốc Tế Liên Hiệp Quốc không xét. Sở dĩ Ủy Ban đã quyết định không đưa chế độ "vùng nước lịch sử" và "vịnh lịch sử" vào Công Ước Liên Hiệp Quốc, vì cho rằng nó rất mơ hồ, có thể đưa tới nhiều vụ tranh tụng rắc rối. Cuối cùng, thay vì công nhận "vùng nước lịch sử" và "vịnh lịch sử", Ủy Ban đã nới rộng lãnh hải của quốc gia ra đến 12 hải lý (thay vì 3 hải lý như cũ) và đặt thêm vùng đặc quyền khai thác kinh tế (EEZ-Exclusive economic zone) đến 200 hải lý trong Luật Biển 1982. Như vậy chế độ "vùng nước lịch sử" và "vịnh lịch sử" không còn trong luật biển.
Tuy nhiên, ngày 20/6/2011, đại diện của Trung Quốc lại viện dẫn học thuyết "vùng nước lịch sử" (historic water) đã bị hủy bỏ để chứng minh Biển Đông là "ao nhà" của Trung Quốc. Như vậy Trung Quốc đã viện dẫn một học thuyết không còn giá trị để chứng minh chủ quyền của mình.
Vả lại, cho dù học thuyết "vùng nước lịch sử" còn có hiệu lực, Trung Quốc cũng không thể đưa ra được các bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã hành xử chủ quyền của mình liên tục và thực sự (continuous and actual) trong "Đường 9 Đoạn" trong suốt tiến trình lịch sử. Vì thế, phán quyết ngày 13/7/2015 của Tòa Trọng Tài Thường Trực ở La Haye đã tuyên bố rằng "Đường 9 Đoạn" của Trung Quốc "không có cơ sở pháp lý".
Ngụy tạo mới về chủ quyền Biển Đông
Bị Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye bác bỏ "Đường 9 Đoạn", Trung Quốc đi tìm một căn bản pháp lý khác để lấp liếm, đó "Quốc gia quần đảo" (Etat archipel) và đường cơ sở bao vòng quanh nhóm quần đảo đó, được quy định trong Luật Biển 1982. Có 3 vấn đề được Trung Quốc nại ra :
1. Dựng ra nhóm Tứ Sa và coi đó là "Quần đảo quốc gia" của Trung Quốc.
2. Dùng đường cơ sở quanh 4 nhóm đảo thuộc Tứ Sa làm ranh giới.
3. Đòi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý choTứ Sa.
Trung Quốc dựng ra nhóm Tứ Sa và coi đó là "Quần đảo quốc gia" của Trung Quốc.
Cả ba yêu sách này đều trái với quốc tế công pháp về luật biển.
1. Vấn đề "Quốc gia quần đảo"
Luật Biển 1982 đã dành Phần IV, từ điều 44 đến điều 54 để nói về "Quốc gia quần đảo" (Etat archipel). Điều 46 quy định rất rõ : "Quốc gia quần đảo" là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa".
Trên thế giới có rất nhiều "Quần đảo quốc gia" rất quen thuộc với nhiều người, chẳng hạn như Úc, Brunei, Cuba, Nhật Bản, New Zealand, Philippines, Sri Lamka… Đó là những quốc gia độc lập có chủ quyền được cấu tạo bằng các nhóm đảo nổi trên biển. Nay Trung Quốc đã gom bốn quần đảo trên Biển Đông lại là Đông Sa (Đài Loan), Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) và Trung Sa (bãi cạn Macclesfield) thành một nhóm quần đảo và gọi đó là "Quần đảo quốc gia Tứ Sa". Như vậy Trung Quốc đã hình thành một quốc gia mới trong quốc gia Trung Quốc !
Sự hình thành này hoàn toàn trái với Luật Biển 1982 và không được quốc tế công nhận, nên không thể đòi hỏi các quyền lợi pháp lý như các "Quần đảo quốc gia" khác trên thế giới được.
2. Đường cơ sở quanh Tứ Sa
Điều 47 Luật Biển 1982 đã quy định rất kỷ về đường cơ sở (baselines) của các Quần đảo quốc gia. Khoản 1 của điều 47 cho phép một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo… Nhưng Tứ Sa không phải là một Quần đảo quốc gia theo định nghĩa của điều 46 Luật Biển, nên Trung Quốc không thể tự ý vẽ ra một đường cơ sở giống các Quần đảo quốc gia thứ thiệt được.
3. Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
Phán quyết ngày 13/7/2015 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye đã xác định rằng các đảo trên Biển Đông đều là đảo đá, không có sự sống tự nhiên, nên không có đặc quyền kinh tế 200 hải lý như các đảo có sự sống tự nhiên khác được quy định trong Luật Biển. Với quốc tế công pháp, án lệ được coi như luật nên Trung Quốc không thể chống lại phán quyết này của Tòa.
"Pháp lý" mới của Trung Quốc cũng bỏ đi
Ông Michael Pillsbury, thuộc Hudson Institute và là Giám đốc Center for Chinese Strategy, nhận định rằng yêu sách về pháp lý trên đây của Trung Quốc là một trong "Tam chủng chiến pháp" do Quân ủy Trung ương đưa ra từ năm 2003, gồm tâm lý chiến, chiến tranh thông tin và chiến tranh pháp lý.
Còn hai chuyên gia về công pháp quốc tế Julian Ku và Christopher Mirasola trên trang Lawfare - một trang chuyên về an ninh do Lawfare Institute và Brooking Institution thực hiện, với sự hợp tác của nhiều luật gia – đã đi đến kết luận rằng về mặt pháp lý, lý lẽ về "Tứ Sa" của Trung Quốc cũng chẳng hơn gì so với "Đường lưỡi bò" lâu nay. Theo hai ông, lý lẽ về "Tứ Sa" không mấy vững, thậm còn chí yếu hơn cả "Đường 9 Đoạn"!
Ngày 5/10/2017
Lữ Giang
"Bản đồ với đường chín đoạn là phản ảnh hai nghìn năm lịch sử Trung Quốc", Phó Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Trung Quốc, Vương Quán Trung tuyên bố tại diễn đàn đối thoại Shangri-La năm 2014.
Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Thủ tướng Trung Quốc, Chu Ân Lai ở Bắc Kinh năm 1955
Sở dĩ ông quả quyết như vậy là vì tài liệu Trung Quốc luôn khẳng định : chính thủy thủ Trung Quốc đã phát hiện ra những quần đảo Huangyan (Hoàng Sa) từ hai nghìn năm trước.
Bây giờ đến lượt Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Phạm Trường Long tuyên bố còn mạnh mẽ hơn.
Theo tường thuật của Tân Hoa Xã thì trong chuyến viếng thăm Việt Nam vừa qua (ngày 18 tháng 6), tướng Long đã nhấn mạnh rằng "toàn bộ các hải đảo ở Nam Hải (Biển Đông) đều thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ xa xưa".
Trong những năm qua, giới truyền thông và lãnh đạo Trung Quốc luôn dùng lịch sử hai nghìn năm để chứng minh chủ quyền ở Biển Đông.
Như vậy, có thể là những thế hệ trẻ đã không biết hoặc không nhớ rằng chính người đàn anh vĩ đại của mình - ông Chu Ân Lai - đã thú nhận rằng Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam từ hai nghìn năm trước, như được đề cập trong bài này.
Người tranh đấu cho đường chín đoạn
Năm 1948, dưới thời Thống chế Tưởng Giới Thạch, một bản đồ hành chính của Trung Hoa Dân Quốc có kèm theo một Phụ lục về "vị trí các đảo Nam Hải" gồm 11 vạch được công bố.
Tuy nhiên chính phủ ông Tưởng chỉ xác định một cách mập mờ, không đệ trình yêu sách cho Liên Hiệp Quốc.
Năm 1949, sau khi ông Mao Trạch Đông chiếm được lục địa, Trung Quốc bỏ đi hai vạch ở Vịnh Bắc Việt và vẽ lại bản đồ với một tuyến chín vạch chi tiết.
Tác giả của sáng kiến này chính là Chu Ân Lai (1898-1976), một con người đầy quyền lực, đã thoát được bao nhiêu cơn lốc chính trị của thời gian Cách Mạng Văn Hóa và Hồng Vệ Binh để giữ được chức thủ tướng 27 năm tới khi qua đời.
Đường Chín Đoạn do Trung Quốc đưa ra
Lúc còn đương thời, ông Chu đã hăng say tranh đấu cho tuyến chín vạch, nhưng vào lúc hoàng hôn của cuộc đời thì trong nơi hậu trường kín đáo, chính ông lại lên án tổ tiên ông đã bóc lột Việt Nam. Như vậy, bằng một cách gián tiếp, ông cũng đã tự phê phán về hành động của chính mình.
Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa
Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam thì đã được nhiều sử gia, luật gia, chứng minh rõ ràng. Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc lại vài sự kiện lịch sử liên hệ để nói đến câu chuyện tâm sự của ông Thủ tướng họ Chu với tiến sĩ Henry Kissinger (Cố vấn Tổng thống Nixon) về lịch sử hai nghìn năm, và về con người Việt Nam.
Tháng 3, 1945 : sau khi lật đổ Pháp ở Đông Dương, Nhật đã trao trả chủ quyền về lãnh thổ cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3, 1945 Đại sứ Nhật Masayuky Yokohama đã nhân danh Nhật Hoàng trao trả độc lập cho Hoàng đế Bảo Đại :
"Tâu Hoàng Thượng, đêm hôm qua, chúng tôi đã chấm dứt chủ quyền của Pháp ở đất nước này", Đại sứ Mark Masayuki Yokohama nói với cựu hoàng Bảo Đại.
"Tôi được trao nhiệm vụ dâng nền độc lập của Việt Nam cho Hoàng Thượng", có nghĩa là trao trả chủ quyền toàn thể lãnh thổ gồm cả các hải đảo. Ngày hôm sau, vua Bảo Đại mời ông Yokohama tới để trao cho ông một bản sao của tuyên ngôn độc lập Việt Nam.
Năm 1951 : một hiệp ước quốc tế gọi là 'Hiệp Ước Hòa Bình với Nhật' hay 'Hiệp Ước San Francisco' (vì ký ở Memorial Opera House tại thành phố San Francisco) được 48 quốc gia tham dự và ký kết ngày 8 tháng 9. Trong số những quốc gia thành viên không có cả hai chính phủ Trung Hoa (Bắc Kinh và Đài Loan) nhưng có chính phủ Quốc Gia Việt Nam.
Vì hiệp ước này không đả động gì tới hai nhóm quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, lại trao đảo Pratas (Đông Sa) cho Liên Hiệp Quốc, bởi vậy ngay trước và sau khi ký kết (ngày 15 tháng 8, và 18 tháng 9, 1951), Thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố mạnh mẽ rằng Hiệp ước San Francisco là bất hợp pháp và khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Vào dịp này, ông Chu chính thức công bố cho quôc tế một bản đồ chi tiết : lãnh thổ Trung Quốc gồm cả khu vực ở Biển Đông - vẽ bằng chín cái vạch, trông giống như hình lưỡi con bò, bao gồm tới cả trăm quần đảo, bãi cạn.
Bảy năm sau, lập trường này còn được nhắc lại lần thứ hai - vào năm 1958 - khi ông Chu tuyên bố với quốc tế quyết định về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Trung Quốc chuẩn bị ăn mừng năm 2049
Trong cuốn sách "Cuộc Chạy Đua 100 Năm" (The Hundred Year Marathon) xuất bản năm 2015, chuyên gia về Trung Quốc nổi tiếng Michael Pillsbury khẳng định : Trung Quốc đang chuẩn bị để thay thế Mỹ trong vai trò là cường quốc mạnh nhất thế giới vào năm 2049 khi Bắc Kinh ăn mừng kỷ niệm 100 năm chiến thắng.
Để tiến tới mục tiêu ấy, Trung Quốc tập trung để xây một tuyến quốc phòng ngay trên biển. Trong cuốn "Vạn lý trường thành trên mặt biển : Hải quân Trung Quốc bước vào Thế Kỳ 21" (2010), tác giả Bernard Cole (chuyên gia về Á Châu, giáo sư tại Đại Học Quốc Phòng Mỹ) chứng minh rằng chiến lược của Trung Quốc là "lục địa hóa mặt biển" (territorialization of the sea), làm sao để kiểm soát được một vùng biển bao trùm 200 hải dậm tính từ vùng duyên hải.
Hai nhận xét này giải mã được tất cả các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông trong những năm qua, gây nên tình trạng căng thẳng ngày nay.
Trong bối cảnh ấy, tại Diễn đàn Đối thoại Shangri-La vừa qua (ngày 3 tháng 6, 2017), Bộ trưởng quốc phòng Mỹ James Mattis đã cáo buộc việc Trung Quốc khinh thường lợi ích của các quốc gia khác và không tuân theo luật quốc tế. Trung Quốc kịch liệt phản đối và cho đó là những "nhận xét vô trách nhiệm".
Xây dựng Lãnh Thổ Xanh
Việc "coi thường lợi ích của các quốc gia khác" đã được thể hiện rõ ràng qua những hành động mới nhất. Hãy bỏ qua việc lắp đặt giàn khoan Hải dương 981 năm 2014 và những diễn biến tiếp theo đó, gần đây Trung Quốc lại đưa giàn khoan khổng lồ "Lam Kình 1" (Blue Whale 1) cao tương đương một tòa nhà 34 tầng (khoảng 118m) tới Biển Đông.
Ngoài giàn khoan Lam Kình 1 và việc tiếp tục xây dựng các căn cứ quân sự tại các hải đảo, bãi cạn, những hành động trong ba tháng qua còn gồm có :
Tàu du lịch Trường Lạc Công Chúa (Changle Princess) đã khởi hành từ thành phố Tam Á thuộc tỉnh đảo Hải Nam chở theo 308 du khách trong một chuyến đi bốn ngày ba đêm đến nhóm đảo Lưỡi Liềm thuộc quần đảo Hoàng Sa (tin ngày 3/3/2017). Tàu du lịch mới này có thể chuyên chở tới gần 500 người, có 82 phòng, với các dịch vụ ăn uống, giải trí, mua sắm, chăm sóc y tế và bưu điện. Trước đó, phía Trung Quốc đã tiết lộ các dự án khách sạn, biệt thự nghỉ dưỡng và các thương xá trên nhóm đảo Lưỡi Liềm.
Chính quyền tỉnh Hải Nam ở miền nam Trung Quốc cho biết sẽ tổ chức các chuyến du lịch thường xuyên ra quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) ở Biển Đông vào năm 2020. Truyền thông Trung Quốc cho biết rằng tỉnh Hải Nam đang nâng cấp các hải cảng và có kế hoạch tổ chức các tuyến tàu du lịch khắp vùng Biển Đông gồm các nước thuộc "Con đường tơ lụa trên biển".
Hoàng Sa : người Trung Quốc đeo bình khí để lặn biển ở nơi được quảng cáo là bãi nước xanh đẹp tuyệt trần ở Vĩnh Lạc Đảo
Chiêu dụ du khách tới các hải đảo để thưởng ngoạn khung cảnh thần tiên : trời xanh, biển rộng, không phải ở chung cư chật chội, chen chúc như trên đất liền, lại dư thừa hải sản tươi sống, tất nhiên là sẽ rất thành công. Như vậy, chẳng mấy lúc phong trào di dân đến hải đảo sẽ bùng lên. Thế là nhiều nhà đầu tư từ bốn phương sẽ đổ xô vào các hải đảo.
Cùng một lúc, Bắc Kinh lại hình thành được một lực lượng lao động cần thiết để khai thác các loại kỹ nghệ hóa-dầu lấy từ dầu thô ở vùng gần Hoàng Sa, Trường Sa. Các hoạt động xây cất nhà cửa và chế biến sẽ theo sau : như thực phẩm, may mặc, đồ tiêu dùng và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người dân hải đảo.
Như vậy, đến năm 2049 thì Bắc Kinh lại có thêm một "Trung Quốc Hải Đảo" vì đã hoàn tất việc phát triển được một lãnh thổ xanh, trong lành.
Lịch sử hai nghìn năm
"Hai nghìn năm trước Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam".
Đây không phải là lập luận của một luật gia, sử gia, học giả mà là lời của chính Thủ tướng danh tiếng nhất của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Tài liệu của Tòa Bạch Ốc (đã được giải mật) ghi thật rõ biên bản cuộc họp kín tại Bắc Kinh ngày 9 tháng 7, 1971 giữa Thủ tướng Chu Ân Lai và Cố vấn Henry Kissinger. Lúc ấy ông Kissinger gặp ông Chu để sắp xếp chuyến viếng thăm của Tổng thống Nixon (tháng 2, 1972).
Thật lạ lùng : trong buổi họp, ông Chu đã xác nhận : "Hai nghìn năm trước Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam… tổ tiên chúng tôi là những người bóc lột nhưng bị đánh bại bởi hai nữ tướng".
Hành động xâm lăng cũng không dễ, vì ngay từ đầu Trung Quốc đã bị đánh bại, lại bị đánh bại bởi hai nữ tướng.
Nói tới khí phách của con người Việt Nam, ông Chu xác nhận :
"Hai người nữ anh hùng ấy đã đánh bại tổ tiên của chúng tôi là những người bóc lột' (These two heroines who defeated our ancestors who were exploiters).
Biên bản Tòa Bạch Ốc ghi lại đàm thoại :
Thủ tướng Chu : "Việt Nam là một nước anh hùng".
Tiến sĩ Kissinger : "Họ là một dân tộc anh hùng, một dân tộc vĩ đại".
Thủ tướng Chu : "Họ là một dân tộc vĩ đại, anh hùng và đáng khâm phục. Hai nghìn năm trước Trung Quốc đã xâm lược họ, và Trung Quốc đã bị đánh bại. Lại bị đánh bại bởi hai người đàn bà, hai nữ tướng".
(Nguyên văn : They are a great and heroic and admirable prople. Two thousand years ago China committed aggression against them, and China was defeated. It was defeated by two ladies, two woman generals).
Ít người, kể cả người Trung Quốc được biết đến câu chuyện là chính Thủ tướng Chu Ân Lai khi sang thăm Việt Nam đã tới Đền thờ Hai Bà Trưng để phúng viếng. Ông Chu nói tiếp :
Thủ tướng Chu Ân Lai mở tiệc đãi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang thăm Trung Quốc năm 1972
"Và khi tôi sang Việt Nam với tư cách là đại diện của nước Trung Hoa mới tôi đã đi thăm viếng Hà Nội, tôi đã đích thân đến tận mộ hai nữ tướng ấy và đặt vòng hoa trên những ngôi mộ để tỏ lòng kính trọng của tôi đối với hai vị nữ anh hùng, họ là những người đã đánh bại tổ tiên chúng tôi là những người bóc lột".
(Nguyên văn : And when I went to Vietnam as a representative of New China on a visit on North Vietnam, I went personally to the graves of these two women generals and left wreaths of flowers on the graves to pay my respects for these two heroines who had defeated our ancestors who were exploiters).
Lịch sử Việt và Trung viết về Hai Bà Trưng
Về Hai Bà Trưng, sử gia Trần Trọng Kim ghi lại :
"Năm Giáp Ngọ (năm 34 công nguyên) là năm Kiến Võ thứ 10, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác, người Giao Chỉ đã có lòng oán giận lắm. Năm Canh Tí (năm 40) người ấy lại giết Thi Sách, người ở huyện Châu Diên (phủ Vĩnh tường, trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên).
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc, con gái quan lạc tướng ở huyện Mê Linh (làng Hạ Lôi, Huyện Yên lãng, tỉnh Phúc yên) cùng với em gái là Trưng Nhị nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải. Lúc bấy giờ những quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng nổi lên theo về với hai bà. Chẳng bao lâu quân hai bà hạ được 65 thành trì. Hai bà bèn xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, là chỗ quê nhà".
Rồi ông bình luận : "Hai bà họ Trưng làm vua được ba năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để ghi tạc cái danh tiếng của hai người nữ anh hùng nước Việt Nam ta".
Chính Lịch sử Trung Quốc cũng phải ghi nhận về chiến thắng của Hai Bà tuy vẫn ngạo nghễ gọi người dân Việt là "Nam man".
Chương 86 trong sách sử Hậu Hán Thư (thế kỷ thứ 5), quyển thứ 5 viết về "Lịch sử miền Nam và Tây Nam man" (Biographies of the Southern and the Southwestern Barbarians), có ghi :
"Vào năm Kiến Vũ thứ 16, ở quận Giao Chỉ có hai người phụ nữ tên là Trưng Trắc (Zheng Ce) và Trưng Nhị (Zheng Er) nổi loạn và tấn công thủ đô của thái thú. Trưng Trắc là con gái của lạc tướng ở quận Mê Linh (Miling 麊 泠), kết hôn với một người đàn ông tên là Thi Sách (Shi Suo 詩 索). Người phụ nữ này là một chiến binh hung dữ, bị thái thú Giao Chỉ kỷ luật nên nổi giận và nổi loạn. Các thị trấn man rợ của quận Cửu Chân (Jiuzhen), Nhật Nam (Rinan), và Hợp Phố (Hepu) tất cả đều theo hai bà này và đánh chiếm được sáu mươi lăm thành phố và tuyên bố là Vua".
Tài liệu của Trung Quốc không nói gì tới những tàn ác của quân đội và quan chức Trung Quốc đối với người dân Việt, kể cả việc giết chồng bà Trưng Trắc.
Sau Hai Bà Trưng, Trung Quốc luôn quay lại xâm chiếm nhưng không chiếm hẳn được, trước sau, dù sau mấy trăm năm rồi cũng bị đánh bật ra. Bốn lần Việt Nam bị Bắc thuộc tổng cộng tới hơn một 1000 năm.
Chắc ông Chu đã phản hồi về lịch sử nhà Hán cũng như những triều đại khác, cho nên mới không úp mở khi dùng cả hai chữ "xâm lăng" và "bóc lột" để nói về tổ tiên ông.
Vì sao chiếm Hoàng Sa ?
Câu hỏi đặt ra là nếu ông đã nói như vậy, tại sao ông lại để cho Trung Quốc tấn chiếm Hoàng Sa năm 1974 ?
Trang tuyên truyền của Trung Quốc ca ngợi Mao Trạch Đông đặt ra mục tiêu phát triển Hải quân Quân Giải phóng
Để trả lời phần nào câu hỏi này, trước hết ta phải nhớ rằng : quyền lực ở Trung Quốc luôn tập trung vào tay ông Mao cho tới ngày ông chết (9/9/1976).
Ngoài ra, nếu nhìn vào quãng đời cuối cùng của ông Chu thì thấy từ cuối 1972 ông đã lâm bệnh nặng. Theo tác giả Gao Wenqian viết về tiểu sử ông Chu gần đây, thì một nhóm bác sĩ Trung Quốc đã chẩn đoán ông mắc bệnh ung thư bàng quang.
Nhóm này báo cáo rằng nếu được điều trị ngay thì ông có cơ hội hồi phục từ 80 đến 90%. Tuy nhiên việc điều trị cho cấp lãnh đạo thì luôn đòi hỏi phải được ông Mao chấp thuận. Thật lạ lùng : chính ông Mao đã cấm chỉ các bác sĩ không được tiết lộ cho cả ông Chu lẫn bà vợ biết tin về chẩn đoán ung thư, cũng như không được chữa bệnh hay chẩn đoán lại. Ông Chu suy yếu thật nhanh và đã qua đời ngày 8/1/1976. Bàn về tại sao ông Mao lại đối xử với người cận thần, có công lao thật lớn với mình như vậy là ra ngoài khuôn khổ giới hạn của bài này.
Ngày nay, ngoài Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc đang thâu tóm những hải đảo khác ở Biển Đông.
Các quốc gia 'bị bóc lột' đang xích lại thành những liên minh với nhau và với Mỹ, như bình luận của Tướng không quân Mỹ Herbert Carlisle :
"Thái độ hung hăng của Trung quốc mang lại nguy cơ là họ đã tính toán sai lầm… một số hành xử hung hăng của họ trong thực tế đã đẩy bạn bè chúng tôi lại gần chúng tôi hơn, họ là những người mong muốn chúng tôi hiện diện ở nơi đây" (Khi Đồng Minh Nhảy Vào, trang 609).
Nếu các quốc gia này không nhận được sự liên kết hữu hiệu của Mỹ để cùng nhau hành động cho kịp thời thì sẽ phải chấp nhận một hậu quả trầm trọng của 'một sự đã rồi', đó là một vạn lũy trường thành trên mặt Thái Bình Dương để bá chủ Á Châu, và từ đó sẽ phóng quyền lực đi thật xa.
Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông và Lâm Bưu trước khi Lâm bị hạ bệ
Trong thư ngày 5/04/1954), Tổng thống Dwight Eisenhower viết cho Thủ tướng Anh Winston Churchill :
"Nếu tôi có thể nhắc lại lịch sử, chúng ta đã không ngăn chận Hirohito, Mussolini, Hitler vì đã không cùng hành động chung với nhau, và cho kịp thời. Chính vì thế nên đã dẫn tới một thảm kịch bi đát và một sự nguy hiểm tuyệt vọng trong mấy năm sau. Và như vậy, chúng ta đã học được điều gì chưa trong kinh nghiệm này ?"
Vì không ngăn chặn Nhật Hoàng Hirohito nên Nhật Bản đã từng bước bá chủ cả Á Châu.
Để biết xem chính quyền Trump có học được điều gì trong kinh nghiệm này hay không, ta phải chờ đợi tới khi cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay tại Washington được hạ nhiệt.
Có dư luận cho rằng để ngăn chặn Trung Quốc, chính quyền Trump (gồm Phó tổng thống Mike Pence - người sẽ kế vị Tổng thống Trump trong trường hợp bị bãi nhiệm) đang chuẩn bị đánh "ván bài Nga" (Russian card) : liên kết với Moscow để cân bằng với Trung Quốc, ngược lại với "ván bài Trung Quốc" (China card) của Tổng thống Nixon, từng dùng Trung Quốc để cân bằng với Liên Xô hồi đó.
Chúng ta hãy chờ xem.
Nguyễn Tiến Hưng
Cựu Tổng trưởng Việt Nam Cộng Hòa, gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.