Khi tự do tôn giáo chưa trọn vẹn, Ủy ban Đoàn kết Công giáo như ‘cây thánh giá’ mà Giáo hội Công giáo Việt Nam phải vác.
Chính quyền Việt Nam công bố sách trắng tôn giáo ngày 9/3/2023. Ảnh minh họa
Tổ chức này là kết quả của sự sáp nhập của hai nhóm Ủy ban Liên lạc Công giáo toàn quốc, thành lập tại miền Bắc năm 1955 và Hội những người Công giáo kính Chúa yêu nước, của Mặt trận Giải phóng miền Nam lập năm 1961.
Trái với tên gọi, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam là tổ chức được lập ra để chia rẽ trong Giáo hội Công giáo.
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam là sự bắt chước Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc thần phục chính quyền và không hiệp thông với Đức giáo hoàng.
Tuy nhiên, từ khi thành lập tháng 11/1983 đến nay, Ủy ban Đoàn kết Công giáo không thành công trong mục đích gây chia rẽ giáo hội Công giáo ở Việt Nam.
Gần như không có vị giám mục Công giáo nào công khai ủng hộ, tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo.
Việc cho phép các linh mục tham gia vào tổ chức này, cũng như ra ứng cử đại biểu quốc hội, tùy thuộc vào quan điểm của các giám mục. Có vị cấm, có vị làm lơ. Điều này phụ thuộc vào tương quan tôn giáo và nhà nước trong mỗi giáo phận.
Một số viên chức chính phủ cũng nhìn nhận sự thất bại của Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Trong một bài viết đăng trên tờTạp chí Mặt trận , ông tổng biên tập tờ Người Công giáo Việt Nam ở Hà Nội đã nhận định : Khó khăn lớn nhất là do tổ chức này không phải là tổ chức của Giáo hội Công giáo. Đa phần tín hữu Công giáo xem đây là tổ chức "quốc doanh" do Đảng và Nhà nước lập ra, nên có cái nhìn thiếu thiện cảm.
Người trong cuộc cũng không tin vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo
Linh mục Benedictô Nguyễn Tấn Khóa (1935 – 2015), lúc sinh thời từng là Phó chủ tịch, rồi Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo trong hai nhiệm kỳ từ 1997 – 2008, và ông cũng từng là đại biểu quốc hội khóa XI (2002 - 2007) tự nhìn nhận về việc tham giao vào ủy ban Ủy ban Đoàn kết Công giáo.
"Tôi cũng như cái bình hoa, khi cần thì người ta bưng ra chưng, hết việc thì người ta lại cất vào". Ông nói điều này một cách công khai chứ chẳng giấu giếm.
Bản thân ông không tin tưởng vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo, và nhận diện đây là tổ chức gây chia rẽ Công giáo. Mà ở đó chính quyền chọn linh mục làm lãnh đạo cũng chỉ là công cụ để nghe ngóng, theo dõi giáo hội Công giáo.
Tại Hà Nội, linh mục Khóa được chuẩn bị sẵn một phòng cho ông nghỉ mỗi khi ra đó làm việc. Trong một lần có thầy chủng sinh (người đang được đào tạo làm linh mục) đi cùng, ông đã nhắc nhở, "Vào đó chỉ ngủ thôi không nói bất cứ chuyện gì, vì máy nghe lén có thể đặt khắp nơi".
Việc linh mục Khóa tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo nhận sự tấn công của không ít người Công giáo bên ngoài giáo phận Đà Nẵng. Những người này không biết hơn ngoài việc linh mục Benedictô Nguyễn Tấn Khóa tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo nhưng họ sẵn sàng ra tay ‘ném đá’.
Điều này tôi vẫn đang chứng kiến hiện nay. Không ít linh mục, giáo dân và cả không cùng tôn giáo nhân danh bảo vệ Công giáo, sẵn sàng tấn công các linh mục tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Số người này không biết gì ngoài cái tên có trong ủy ban của chính quyền lập ra. Họ cũng chẳng ngại thêm thắc, đặt điều để câu chuyện thêm tính ly kỳ, mà mục đích không ngoài việc thu hút thêm người ném gạch, đá tấn công.
Tại giáo phận Đà Nẵng, bốn đời giám mục, luôn tin tưởng chọn Benedictô Nguyễn Tấn Khóa làm hạt trưởng hạt Tam Kỳ trong 37 năm phần nào cho thấy được sự tín nhiệm đó.
Thái độ thân thiện, không ngại đối thoại, làm việc cùng chính quyền mà ông giữ được một xứ đạo thưa thớt trải rộng trên ba huyện với đầy khó khăn của hai chục năm đầu sau biến cố 30/4/1975. Giáo xứ Tam Kỳ ngày đó, trong 15 năm trở lại đây được tách ra và nâng lên thành 7 giáo xứ và giáo họ biệt lập.
Giáo hội Công giáo ‘mắt nhắm mắt mở’ với Ủy ban Đoàn kết Công giáo
Giáo hội Công giáo Việt Nam không công nhận Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Do đó, khi một linh mục nào đó trong giáo phận tham gia vào ủy ban này sẽ bị gọi về tòa giám mục để được nhắc nhở.
Nhưng Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng không có luật cấm các linh mục tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Trên thực tế, thái độ của giáo hội với việc này là ‘mắt nhắm mắt mở’.
Việc một linh mục tham gia vào ủy ban này thường phụ thuộc vào nhu cầu của xứ đạo nơi các vị ấy đang phụ trách.
Bởi hơn ai hết các linh mục trực tiếp là người hiểu rõ nhu cầu, công việc của giáo xứ. Vì để thuận lợi hơn trong công việc có liên quan đến chính quyền với các thủ tục hành chính, một số linh mục chấp nhận tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo để việc được giải quyết thuận lợi hơn. Chứ các linh mục này cũng không thêm được chút thế quyền.
Tôi đã hỏi không ít linh mục tham gia vào Mặt trận Tổ quốc ở các cấp và Ủy ban Đoàn kết Công giáo, lời chia sẻ của các vị ấy có điểm chung, đại ý : "Vào đó lâu lâu được mời thì đi họp. Họ có nói hưu nói vượn gì thì kệ, mình vẫn biết đâu là trách nhiệm trước Giáo hội và niềm tin".
40 năm qua cho thấy, các linh mục tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo ít khi chống lại Giáo hội Công giáo. Trường hợp chống lại giáo hội nổi cộm, là Ủy ban Đoàn kết Công giáo đã không đồng ý việc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 phong thánh cho 117 vị tử đạo tại Việt Nam trong năm 1988 ở Vatican.
Không phải cứ linh mục tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo đều trở thành công cụ của chính quyền, nhưng cũng có không ít linh mục dù không tham gia vào ủy ban này lại gây cho giáo hội nhiều đau đớn.
Dù vậy, một linh mục khi tham gia vào ủy ban do chính quyền dựng lên đã tự chặn đường mình để được chọn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong giáo phận, kể cả việc được chọn cử đi du học.
Giáo hội Công giáo có lý do chính đáng để đề phòng, lo lắng các vị này sẽ bị chi phối làm theo chính quyền.
Thực tế chính quyền và đảng cộng sản luôn tìm cách lôi kéo, thỏa thuận để cài người vào bên trong các tôn giáo nhằm gây ra chia rẽ và tạo khó khăn.
Đầu những năm 2000, tôi có một người em trước khi nhập vào chủng viện được công an tỉnh Quảng Nam gọi lên. Công an tỉnh đưa ra đề nghị, đồng ý vào đó học và cung cấp thông tin cho họ thì sẽ được cho đi học và mọi việc sau này sẽ thuận lợi hơn.
Ủy ban Đoàn kết Công giáo như nơi mặc cả của chính quyền với các linh mục
Thực tế tại các xứ đạo xin sửa chữa, xây dựng các công trình mới thường bị chính quyền ‘ngâm’ rất lâu.
Khó xin phép, nên sau khi gởi hồ sơ đến các cơ quan chức năng của chính quyền, không ít linh mục quản xứ tổ chức thi công khi chưa có phép. Rất nhanh chóng, chính quyền sẽ đến thể hiện quyền hành.
Vụ việc tại giáo họ Phaolô, bị cán bộ chính quyền xã Đắk Nông, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum bị quấy phá trong thánh lễ vào lúc hơn 6 giờ chiều ngày 22/3 vừa rồi là một minh chứng như thế.
Chính quyền thường dùng chiêu liên quan đến các thủ tục hành chính bắt chẹt các linh mục, giáo xứ để lôi kéo vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo.
Bởi thực tế thời gian qua cho thấy, với linh mục có tham gia vào các tổ chức do nhà nước dựng lên thường có sự ưu ái, dễ dàng, nhanh chóng hơn với các thủ tục, công việc liên quan đến chính quyền.
Do đó, một số linh mục tham gia vào Ủy ban Đoàn kết Công giáo có thể hiểu như chấp nhận kiểu mặc cả của chính quyền.
Trong 30 năm trở lại đây Giáo hội Công giáo Việt Nam không còn cái nhìn quá khắt khe về Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Bởi ủy ban này không thực sự gây nguy hiểm cho Công giáo. Hiện nay đa số các giáo phận, cũng như tỉnh, thành đều có Ủy ban Đoàn kết Công giáo và có linh mục, giáo dân tham gia.
Ngay cả tờ báo Công giáo và Dân tộc, tại Sài Gòn, trên danh nghĩa là thuộc Ủy ban Đoàn kết Công giáo của chính quyền. Dù vậy, những gì tờ báo này thể hiện suốt thời gian qua cho thấy, vẫn truyền tải được thông tin giáo hội muốn loan báo và một chút những tin ‘cúng cụ’.
Tại Hoa Kỳ quốc gia có tự do tôn giáo thật sự, tôi không thấy có các các tổ chức do chính quyền lập ra để ‘nhúng tay’ vào các tôn giáo như ở Việt Nam.
Hội đồng Giám mục Hoa kỳ có 18 ủy ban đều thuộc về giáo hội.
Công giáo là tôn giáo có tín đồ lớn nhất ở Mỹ với gần 62 triệu người, nhưng không có linh mục nào trong hai viện tại quốc hội Mỹ.
Khi tự do tôn giáo chưa trọn vẹn, Ủy ban Đoàn kết Công giáo như ‘cây thánh giá’ mà Giáo hội Công giáo Việt Nam phải vác.
Võ Ngọc Ánh
Trong quá trình truyền bá đạo Công giáo ở Việt Nam, các vị thừa sai ngoại quốc ngoài việc phải đối đầu với những chính sách bắt đạo, cấm cách của các vua chúa Việt Nam ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, họ còn phải tận dụng nỗ lực tri thức để vượt qua rào cản của văn tự, ngôn ngữ nhằm tìm ra phương thức chuyển tải nội dung của Đức Tin đến với quần chúng trên quê hương chúng ta. Công việc này có nhiều khó khăn nhưng qua đó biểu lộ quyết tâm của các ngài trong nỗ lực truyền bá Tin Mừng theo lý tưởng đã lựa chọn.
Các giáo sĩ Dòng Tên đã phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm La tinh hóa về sau gọi là chữ Quốc ngữ. Như vậy chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được La tinh hóa và hiện đại hóa. Ảnh minh họa tư liệu chữ Hán Nôm trong các thư khố của Pháp.
Để vượt qua những trở ngại của việc truyền thông giao tiếp và trong khi chữ Quốc ngữ còn trong giai đoạn hình thành, các nhà truyền giáo đã biết vận dụng chữ Nôm là một thứ văn tự sử dụng chữ Hán để ghi lại cách đọc tiếng Việt mà người Việt Nam vẫn còn dùng khá phổ thông trong xã hội bên cạnh chữ Hán trong sinh hoạt văn chương và giao tiếp hằng ngày, qua sự cộng tác của một số thầy giảng am tường Nho học để ghi lại kinh bổn, giáo lý trong các công tác mục vụ.
1. Chữ Nôm, một thoáng nhìn lại
Chữ Nôm là văn tự ghi lại tiếng nói của người Việt Nam, theo sự biện giải đơn giản của một nhà nghiên cứu, có lẽ do chữ Nam đọc chệch đi, "chữ Nôm" có nghĩa là "chữ của người phương Nam, đối với "chữ Hán" của người phương Bắc, tức Trung Hoa" (1).
Trong lời giới thiệu cuốn Đại Tự Điển Chữ Nôm của cụ Vũ Văn Kính, một tác giả Công giáo ngoài 80 tuổi ở trong nước, ông Mai Quốc Liên đã viết rằng "chữ Nôm là một thứ chữ ‘ghi âm’, nhưng ghi qua việc dùng chữ Hán tuy nhìn chung có tính qui luật, nhưng còn biết bao cái ngoài qui luật, biết bao cái biệt lệ, ngẫu nhiên, thay đổi qua từng thời, từng tác phẩm. Nó chưa hề được điển chế hóa, chưa hề được hoàn thiện đến cùng, mặc dù nó được hình thành khá lâu, ít nhất cũng đã có lịch sử mười thế kỷ" (2).
Theo Giáo sư Đoàn Khoách, "chữ Nôm là loại văn tự xây dựng từ chất liệu chữ Hán, do đó trước khi tìm hiểu cách cấu tạo chữ Nôm, chúng ta thử tìm hiểu sơ qua cách kết cấu chữ Hán mà người xưa gọi là lục thư六書" (3). Giáo sư Đoàn Khoách cũng cho biết : "Trong việc cấu tạo chữ Nôm, ngoài việc dùng chữ nghĩa Hán âm Việt (gọi là Hán tự Việt độc hay Việt độc hoặc Hán-Việt) như gia đình 家庭 hay xã hội社會 v.v…, trước đây người Việt thường chỉ mượn ba trong sáu cách của lục thư là Hội ý, Hình thanh, Giả tá. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển biến của lịch sử, do âm đọc chữ Hán của người Việt có sai khác, nên phần ngữ âm lịch sử Việt Nam cũng có một ảnh hưởng nhất định trong việc cấu tạo chữ Nôm" (4).
Theo Trần Văn Giáp, trong quyển Lược khảo vấn đề chữ Nômthì "chữ Nôm là một thứ chữ khối vuông của Việt Nam dùng để phiên âm tiếng Việt, mới xuất hiện trên đất Việt Nam từ cuối đời Hán Minh đế, dưới thời thống trị của Sĩ Nhiếp, thế kỷ thứ II sau công nguyên, do người Việt Nam tự sáng tạo ra" (5). Ý kiến của Trần Văn Giáp là dựa vào quan điểm của sư Pháp Tính 法性 tác giả cuốn Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa指南玉音解義 được khắc in vào năm Tân tị thứ 22 triều Lê Cảnh Hưng (1761). Bài tựa sách này có đoạn như sau : "Từ khi thánh nhân lập ra lối chữ có bộ phận để chỉ nghĩa, chỉ tên gọi cho chính xác, khiến cho người Trung Quốc dễ hiểu, còn các dân tộc khác thì hãy còn khó hiểu. Mãi đến thời Sĩ Vương sang đóng ở nước ta trong khoảng hơn 40 năm, ra sức giáo hóa, giải nghĩa bằng tiếng Nôm để thông hiểu từng đoạn, từng câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ, để ghi tên gọi, ghép vận làm thành sách Chỉ Nam Phẩm Vựng指南品彙 chia ra thượng hạ 2 quyển…" (6).
Dưới thời Tự Đức (1848-1883), Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn Xan 文多居士阮文餐 cũng đề cập niên đại thành lập chữ Nôm trong cuốn Đại Nam Quốc Ngữ大南國語 tựa đề năm Tự Đức thứ 33 (1880) trong có đoạn (dịch) : "Nước ta từ đời Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) đã đem dịch tiếng Nam bằng tiếng Bắc (Trung Quốc) ; trong số tiếng dịch ấy, có nhiều tên còn chưa rõ, như "thư cưu" (chim uyên ương" chẳng biết gọi là chim gì, "dương đào" (cây khế) chẳng biết gọi là cây gì…" (7).
Những người chung ý kiến với Trần Văn Giáp có Lê Dư, Nguyễn Đổng Chi.
Các học giả P. Pelliot và L. Cadière cho rằng chữ Nôm được sáng chế từ cuối thế kỷ XIII, dẫn đoạn sau đây trong sách Hải đông chí lược海東志畧 của Ngô Thời Sĩ吳 時 仕 : "Ngã quốc văn học đa dụng quốc ngữ tự Thuyên thủy" (văn học nước ta dùng nhiều quốc ngữ bắt đầu từ ông Thuyên) ; lại nêu những danh sĩ đồng thời với Nguyễn Thuyên như Nguyễn Sĩ Cố có tập Quốc Âm thi phú, Chu Văn An có Quốc Ngữ thi tập… để minh chứng những hoạt động văn nghệ nói trên nằm trong phong trào lưu hành thi phú bằng tục ngữ trong thời đại nhà Trần. Từ đó hai ông suy luận rằng chữ Nôm là thứ chữ để biên ký tục ngữ Việt Nam, có lẽ được sang chế từ cuối thế kỷ thứ XIII (trong đời nhà Trần) là một thời kỳ văn học tục ngữ (quốc âm thi) rất phát đạt tại Việt Nam (8). Chữ tục ngữ nói ở đây xin hiểu là tiếng Việt sử dụng hằng ngày. Người ta cũng tương truyền câu chuyện Nguyễn Thuyên, (bắt chước Hàn Dũ năm 819) làm bài thi đuổi cá sấu xuất hiện ở sông Phú-lương (Nhị Hà), sau đó được vua Trần Nhân Tông đổi tên Hàn Thuyên, nhưng theo Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, bài thơ đuổi cá sấu in trong Tứ Dân Văn Uyển hồi đầu thế kỷ XX nói là của Hàn Thuyên và được một số sách báo in lại, đúng ra là của Phó bảng Nguyễn Can Mộng ngụy tạo để đùa chơi, tiếc rằng lời cải chính in trên một số báo sau đó ít người được đọc nên nhiều người vẫn tưởng là của Hàn Thuyên thực. Song nếu đọc kỹ sẽ thấy toàn bài không có lấy một từ ngữ cổ, thơ cũng không viết theo thể Hàn luật, khó có thể tin là của Hàn Thuyên" (9).
Theo học giả Nguyễn Văn Tố, chữ Nôm được sử dụng vào thế kỷ VIII là vì Phùng Hưng khởi nghĩa đánh diệt Cao Chính Bình năm 791, chiếm phủ lỵ, được dân chúng tôn là "Bố Cái đại vương" 布蓋大王. Về ý nghĩa chữ Bố Cái, sách Cương Mục chua rằng : "Cổ tục hiệu phụ viết Bố, mẫu viết Cái" (theo cổ tục nước ta gọi cha là Bố, mẹ là Cái). Họ Nguyễn lấy đoạn sử ấy như một thực lệ chữ Nôm đã được sử dụng vào thế kỷ VIII và đặt niên đại thượng hạn (terminus ad quem) của chữ Nôm vào cuối thế kỷ thứ VIII. Đào Duy Anh, trong cuốn Chữ Nôm, nguồn gốc-cấu tạo-diễn biến đã phản bác ý kiến của Nguyễn Văn Tố khi cho rằng "Việt sử lược là sách tóm tắt bộ Sử Ký của Lê Văn Hưu không thấy chép hiệu Bố Cái Đại Vương, mà bia đề đền thờ Phùng Hưng ở xã Cam lâm, huyện Phúc thọ, tỉnh Hà tây dựng năm Quang Thái thứ 3, tức năm 1390 đời Trần Thuận-tôn cũng không thấy chép hiệu ấy. Mãi đến sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở thời Lê sơ mới thấy chép hiệu Bố cái đại vương. Hiệu nước thời nhà Đinh là Đại cồ việt cũng đến bấy giờ mới thấy chép. Như thế thì cũng chưa có thể tin chắc rằng những chữ nôm bố và cái đã có từ thế kỷ thứ VIII" (10).
Cụ Sở Cuồng Lê Dư cho rằng quốc hiệu Việt Nam ở hai triều Đinh và Tiền Lê là Đại Cồ Việt 大瞿越 . Đó là một thí dụ chữ Nôm được sử dụng trong thế kỷ X (11).
Theo ý kiến của Giáo sư Chen Ching Ho 陳京和 (Trần Kinh Hòa) với chuyên môn về lịch sử các nước Đông Nam Á, từng đảm trách chức vụ Giáo sư môn Sử học tại các đại học : Đại học Keio, Tokyo, Japan, National University Taipei, Taiwan, Soka University Hachioji, Tokyo, Japan, Korea University, Seoul, Korea, Chinese University of Hong Kong, Southern Illinois University, Carbondale, Illinois, USA, và các đại học Sài Gòn, Đà Lạt, Huế… chữ Nôm được sáng chế sau khi Việt độc thành lập, bắt đầu từ triều đại nhà Lý (12).
Khởi nguyên của chữ Nôm, theo Giáo sư Chen, phải ở vào giai đoạn sáng chế chữ hình thanh mới là hợp lý và thích đáng. Muốn giải quyết niên đại sáng chế chữ Nôm, phải kiểm thảo hai vấn đề : niên đại hoàn bị của "khải thể" chữ Hán và niên đại Việt ngữ áp dụng Hán ngữ làm ngữ vựng.
Vấn đề thứ nhất, theo kết quả nghiên cứu của Văn Hựu, một học giả Trung Hoa (13) thì chữ Nôm dứt khoát không thể xuất hiện vào thời cổ đại. Vấn đề thứ hai, theo kết quả nghiên cứu ngữ âm học lịch sử tiếng Việt của H. Maspéro lại cho biết gần một nửa ngữ vựng trong tiếng Việt là những tiếng mượn của Hán ngữ. Tuy nhiên đại đa số Hán ngữ lại truyền nhập vào Việt ngữ ở một thời đại tương đối muộn và phải qua trung gian của Việt độc (âm Hán-Việt), nghĩa là sau khi có cuộc phân ly chính trị giữa Trung Quốc và Việt Nam, mới được thành lập. Có điều, hai vương triều độc lập đầu tiên của Việt Nam là nhà Đinh (968-980) và nhà Tiền Lê (980-1009) đều bị nội tranh quá nhiều và mau chóng bị lật đổ, nên phải chờ đến nhà Lý (1010-1225) mới xuất hiện một vương triều tương đối lâu bền và ổn định. Sự chỉnh đốn về chế độ văn vật, sự xuất hiện cuộc vận động văn hóa, sự thiết lập chế độ khoa cử đều bắt đầu từ triều đại nhà Lý. Sách Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú cũng khởi bút từ triều Lý. Bởi thế Giáo sư Chen suy luận rằng Việt độc đại khái được thành lập trong thời đại nhà Lý.
Cũng nên thấy thêm rằng hiện nay phần nhiều tiếng mượn của Hán ngữ trong tự vựng Việt ngữ đều thoát thai từ Việt độc. Hiện tượng ấy chứng tỏ rằng những tiếng mượn ấy được truyền vào tự vựng Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam độc lập. Điều đáng chú ý nữa là trong quy chế chữ Nôm, các chữ Hán giả tá hoặc hầu hết thanh phù của chữ Nôm đều căn cứ vào Việt độc cả. Do đó mà Giáo sư Chen đoán định niên đại thượng hạn của chữ Nôm là bắt đầu từ triều đại nhà Lý" (14).
Có lẽ ai cũng biết sự khó khăn của chữ Nôm khi muốn hiểu nó thì phải học chữ Hán trước, tuy vậy đến người Hoa cũng không thể viết được hoặc đọc được chữ Nôm. Lẽ dĩ nhiên, biết được chữ Nôm sẽ giúp cho việc hiểu biết thêm trong phạm trù nghiên cứu sử học hay văn học, tôn giáo hoặc các ngành ngôn ngữ học khác.
Trong cuốn Lược khảo vấn đề chữ Nôm, Trần Văn Giáp (1902-1973) đã viết : "Chính Ngô Thời Nhiệm, thế kỷ thứ XVIII, đã phải nói trong bài tựa sách tự điển của ông : "…故我國字較難於中國 Cố ngã quốc tự hiệu nan ư Trung Quốc ("Chữ nước ta so ra khó hơn chữ Trung Quốc…") . Đó là những lý do chính khiến cho chữ Nôm không còn có thể thông dụng dễ dàng được. Nhưng, mặc dầu thế, do sự tranh đấu không ngừng của nhân dân, chữ Nôm vẫn đã được sử dụng. Nó đã đồng thời tự phát với sự tiến triển của ngữ ngôn dân tộc và văn học cổ điển Việt Nam. Cho nên, chúng ta không thể không nghiên cứu chữ Nôm một cách sâu rộng để thu tàng lấy vốn cổ quí báu của ta về mọi lãnh vực" (15).
Trong khi đó Giáo sư Đoàn Khoách lại đã viết : "Nhưng cái ưu điểm lớn nhất của chữ Nôm là ghi âm được tiếng Việt một cách tương đối trung thực, trong khi chữ quốc ngữ ngày nay chưa xuất hiện. Nhờ thế mà ngày nay người Việt biết được phần nào tình cảm và suy tư của tổ tiên mình. Ngoài ra chữ Nôm có thể phân biệt được tiếng Việt đồng âm dị nghĩa mà thường rất khó phân biệt, ví dụmay rủi với may vá, bụng dạ với vâng dạ, đầy đủ với đu đủ, vợchồng với chồng chất, v.v… Ưu điểm này thì chữ quốc ngữ hiện nay chưa bì được… Lịch sử chữ Nôm ở Việt Nam đã có gần chín, mười thế kỷ nay, các loại sử liệu bằng chữ Nôm không những có giá trị về phương diện sử học, mà còn có giá trị về nhiều phương diện khác nữa như ngôn ngữ, phong tục, xã hội, kinh tế, triết học, văn học v.v… mà các học giả đời nay cần sưu tầm, khai thác (16).
Như vậy, chữ Nôm là nguồn ký thác tình cảm và suy tư của tổ tiên qua trường kỳ lịch sử mà con cháu là chúng ta cần có bổn phận tìm hiểu và quý trọng bảo lưu. Theo cuốn sách của Đào Duy Anh được nhắc ở trên, hiện nay tại Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội còn tàng trữ khoảng 1186 cuốn sách chữ Nôm, đó là một kho tàng văn hóa cần được sử dụng khai thác.
Tiếp đây là ý kiến của một người ngoại quốc nhưng cuộc đời đã cống hiến nhiều cho sự nghiệp văn hóa dân tộc Việt Nam, Giáo sư Chen Ching Ho cũng đã viết rằng : "Sở dĩ chúng tôi đưa vấn đề chữ Nôm ra thảo luận, là vì chúng tôi muốn nhấn mạnh đến các giá trị các loại sử liệu bằng chữ Nôm về phương diện sử học. Đưa ra một vài nhận thức về nguyên lai và cấu tạo của chữ Nôm, là cốt để tiện việc đọc và giải thích văn Nôm, vì văn Nôm là một di sản văn hóa của Việt Nam" (17).
Luận điểm của Giáo sư Chen Ching Ho ở trên khiến chúng tôi nhớ lại một câu vè của người dân Bình Trị Thiên về các cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài về việc "đày vua" và "đào mả". Các câu vè đó thường viết : "Phế (đày) vua không Khả, đào mả không Bài". Ý muốn nói cụ Ngô Đình Khả phản đối việc người Pháp phế vua Thành Thái, và cụ Nguyễn Hữu Bài phản đối việc khâm sứ Mahé đào mả vua Tự Đức. Trong cuốn Đại Nam Thực Lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn, câu vè đó được in lại bằng chữ Nôm và chúng tôi đọc thấy là : "Bỏ vua không Khả, bới mả không Bài" (18). Chữbỏ viết chữbổ補 đọc bỏ, chữbới (phương ngữ Bình Trị Thiên thường dùng chữbớithay vì chữđào) viết chữ bãi 擺 đọc Nôm là bới. Thí dụ vừa nói đây cũng có cơ duyên giúp giới thích đọc sử (nếu biết chữ Nôm) đính chính được câu nói theo đúng nguyên văn của nó.
Trong một bài báo có tên Những lời thề của Lê-Lợi (văn Nôm đầu thế kỉ 15) của cụ Hoàng Xuân Hãn, đăng trên Tạp chí Sử Địa, số 1 của Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đại Học Sư Phạm (Nguyễn Nhã) Sài Gòn, 1966, tác giả cho biết "nếu quả rằng các bài nôm nầy có tự đời Lê Lợi, và không bị sao lại thất-chân, thì đây là hiện vật độc nhất của Việt-ngữ trước nay già 550 năm" (19). Đây là một bài nghiên cứu có giá trị với sự phân tích cẩn trọng của một học giả uyên bác, và cũng là một cống hiến rất quý báu cho giới nghiên cứu văn sử học Việt Nam về chữ Nôm và văn Nôm.
2. Chữ Nôm với đạo Công giáo trong giai đoạn thế kỷ XVII-XX
Theo dõi quá trình xuất hiện của chữ Nôm trong lịch sử văn học nước ta như ở trên, chúng ta cũng không lạ gì khi thấy các giáo sĩ người nước ngoài lần đầu tiên khi đến nước ta truyền đạo đã nhìn thấy chữ Nôm như là một lợi khí có sẵn cho các dự tính truyền giáo của mình.
Có một cuốn giáo lý tiên khởi viết bằng chữ Nôm mà nay đã mất, được đề cập tới trong bức thư đề ngày 17/12/1621 của Thừa sai Gaspar Luis ghi lại như sau :
"Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong đã giúp ích nhiều lắm bởi vì không những trẻ em học thuộc lòng cuốn giáo lý đó, mà người lớn cũng học. Cho tới đây các giáo hữu chỉ dùng tràng hạt để đeo vào cổ cho người ta thấy mình là người có đạo. Nay họ dùng tràng hạt để đọc kinh…" (20).
Nhận thức sự quan trọng trong việc dạy cho các bổn đạo tân tòng học giáo lý cho nên "các thừa sai Dòng Tên, vì thế, chỉ mấy năm sau khi tới Đàng Trong, đã cho soạn thảo ngay một cuốn giáo lý bằng tiếng Việt ‘không những cho trẻ em học thuộc lòng mà còn cho người lớn học nữa. Trong cuốn giáo lý này không những chỉ có những điều cần biết về đạo, mà còn có những kinh để đọc. Khi nói về lợi ích của Cuốn giáo lý bằng tiếng Đàng Trong này, trong báo cáo ngày 17/12/1621, Linh mục Gaspar Luis viết : "Cho tới nay các giáo hữu trong khu vực này chỉ dùng tràng hạt đeo cổ để chứng tỏ mình là người Công giáo ; nay người ta dùng để đọc (nhờ các kinh trong cuốn sách nói trên".
Nói thêm về cuốn giáo lý này, tác giả Trương Bá Cần viết : "Cuốn giáo lý nói trên đây chắc chắn được viết bằng chữ Nôm là chữ phổ biến lúc bấy giờ. Vào thời điểm (trước 1621) này, không biết là chữ Quốc ngữ đã hình thành đủ để viết một cuốn giáo lý hay chưa ; nếu có thì cũng chỉ chép một ít bản cho các thừa sai nước ngoài sử dụng mà thôi. Cho tới nay, chưa ai tìm thấy dấu vết của những cuốn giáo lý đó. Một cuốn giáo lý mà trẻ em có thể học thuộc lòng được chắc chắn không phải là đồ sộ và đầy đủ như cuốn giáo lý của Linh mục Rhodes xuất bản ở Roma năm 1651" (21).
Như vậy cuốn sách giáo lý bằng chữ Nôm này xuất hiện năm 1621 do công sức của Linh mục Buzomi và Francisco de Pina đã tới Hội An năm 1616, góp công soạn thảo cùng với các vị khác cho đến năm 1621, đặc biệt là công của một vài người trong giới thượng lưu đã gia nhập đạo và những vị này là những hạt nhân sơ khởi cho tiến trình hình thành chế độ "thầy giảng" trong giai đoạn về sau.
Nhắc đến cuốn giáo lý chữ Nôm này, Linh mục Đỗ Quang Chính trong bài viết "Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam" cho biết tháng 4/1627, cha Đắc Lộ giảng đạo ở vùng An Vực và Vân Nô, tả và hữu ngạn sông Mã, Thanh Hóa, rửa tội cho 200 người tân tòng trong số có một vị sãi 85 tuổi thông thạo chữ Hán, giỏi Nôm, rất đạo đức và rộng rãi. Ngài thường xuyên nhờ Cụ chép kinh sách và Cha Đỗ Quang Chính cho biết có lẽ đây là sách kinh bằng chữ Nôm do cha F. de Pina soạn ở Hội An khoảng 1620-1625 ? (22).
Nói chung, đối với những người thuộc tầng lớp quý tộc Việt Nam như thuộc gia đình vua chúa, quan chức đều là những người có trình độ học thức cao nên việc sử dụng chữ Nôm để trình bày tư tưởng, diễn đạt tâm tình không phải là điều khó khăn hay trở ngại gì cả. Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên cũng kể lại một câu chuyện liên quan đến Cha Đắc Lộ như sau : "Vào năm 1627, khi ngài vào đất Bắc được bốn tháng, có một bà thuộc hoàng tộc, "chị chúa Trịnh Tráng" gia nhập Ki-tô-giáo, giáo sĩ Đắc Lộ đặt tên là Catarina. Bà này thông thạo văn chương thi phú. Bởi đó bà đã viết một tập thơ, kể lại lịch sử cứu rỗi, từ tạo thiên lập địa cho tới Chúa thăng-thiên (23) và còn thêm một đoạn vịnh cuộc truyền giáo tại Việt Nam…" (24). Đây có lẽ là tập thơ Nôm đầu tiên mang tính tôn giáo do một nữ sĩ viết. Tiếc thay tên tuổi người nữ sĩ này không được để lại trong kho tàng văn học công giáo Việt Nam.
Trong cuốn sách Người chứng thứ nhất, nhà văn Phạm Đình Khiêm đã có viết "bà Công chúa Ca-ta-ri-na, em chúa Trịnh Tráng, là một nữ thi sĩ, soạn quyển tiểu sử Chúa Giê-su bằng thơ nôm" (25).
Giáo sư Trần Văn Toàn đã viết về các linh mục thừa sai như sau : "Các giáo sĩ Tây phương thì ngay thế kỷ XVI đã học tiếng Việt để nói với người dân. Girolamo Maiorica đã cộng tác với người Việt mới theo đạo để soạn sách vở bằng chữ Nôm cho người mình đọc" (26).
Nói đến Girolamo Maiorica, Linh mục Thanh Lãng cho biết tuy không viết sách bằng chữ quốc ngữ nhưng ông đã đứng ra biên tập một tủ sách tôn giáo gồm hơn bốn chục cuốn viết bằng chữ Nôm thời gian từ 1631-1645. Girolamo Maiorica là người Ý sinh tại Napoli, gia nhập Dòng Tên năm 1605, đến năm 1619 được sai sang Goa để truyền đạo và ở đó cho đến cuối năm 1623, ông rời Goa qua Macao, rồi đến Việt Nam, có lẽ ở tại hải cảng Hội an và ở đó 5 năm. Năm 1629 ông bị trục xuất nhưng đã rất thông thạo tiếng Việt Nam. Năm 1631, ông lại theo một tàu Bồ đào nha mà vào Bắc Kỳ và sống ở Bắc Kỳ khá lâu. G. Schurhammer cho biết Maiorica chết ngày 27/1/1656. Trong thời gian theo học ở nước ngoài, Linh mục Thanh Lãng đã chụp ảnh được 12 tác phẩm do ông Maiorica biên tập tại Thư viện Quốc gia Pháp (27).
Các sách của Majorica thì một số còn được lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris với 14 nhan đề. Theo tài liệu của Dòng Tên thì Majorica đã biên soạn 48 cuốn sách đủ loại. Nhưng những cuốn sách này là do Majorica biên soạn và viết thẳng chữ Nôm hay ông đã đọc cho các giáo hữu thông Nho và giỏi Nôm chép lại ? (28). Tác giả Trương Bá Cần cho biết các sách chữ Nôm của nhóm Majorica, tại Thư viện quốc gia Pháp, đã được Linh mục Nguyễn Hưng lần lượt cho nhân bản kèm theo bản đọc chữ quốc ngữ trong tủ sách "lưu hành nội bộ" (29).
Trong tiểu mục "Chữ Nôm là gì", tác giả Thái Gia Kỳ, trong cuốn sách Chữ Hán, Tiếng Hán Việt và sự vận dụng tiếng Hán Việt trong tiếng Việt(Philadelphia, 2018) của ông, có đề cập đến một dòng về chữ Nôm sử dụng trong Công giáo Việt Nam : "Ngay cả đạo Công giáo, cũng đã có tác phẩm Sấm truyền ca của Ly Y Đoan viết năm 1670, dùng trong việc truyền giáo" (30). Đoạn văn này cho một ý niệm rất khái quát thiết tưởng cần phải triển khai thêm.
Nội dung của câu văn trên đây mang lại cho chúng tôi một số ý niệm đó là ba chữ "sấm truyền ca" và tên Ly Y Đoan. Người công giáo Việt Nam cách nay cả trăm năm thường hay dùng cụm từ "Sấm truyền mới" và "Sấm truyền cũ" để chỉ hai cuốn sách Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament) cũng gọi là sách Phúc Âm (hay bây giờ là Tin Mừng) (31). Còn tên Ly Y Đoan vốn là tên Lữ-Y Đoan mà ông Thái Gia Kỳ viết sai, là Louis Đoán, một thầy giảng cao tuổi đã được Giám mục Lambert ở Đàng Trong phong chức linh mục năm 1676 (32). Giới nghiên cứu văn học Công giáo trong nước đã nói rõ về Lữ Y Đoan trong một cuốn sách có tên Về sách báo của tác giả Công giáo (33).
Trong bài "Đôi lời giới thiệu" Về một số sách cũ do người Công giáo viết ra từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, Giáo Sư Nguyễn Văn Trung viết : "Sấm truyền ca" của Thầy cả Lữ Y Đoan (1670) nguyên tác là bản nôm hiện nay thất lạc, chỉ còn bản quốc ngữ. Theo chúng tôi đây là một tác phẩm có ý nghĩa lớn vì tác phẩm phản ánh một nỗ lực Việt Nam hóa (Tam giáo, võ thuật Việt Nam, văn hóa dân gian, v.v…) để diễn tả Kinh Thánh. Có thể bản văn đã được sửa đổi qua các thời đại nên bản hiện có làm người đọc nghĩ đến những truyện nôm nổi tiếng thế kỷ XVIII, XIX" (34).
Giám mục Lambert đã lần lượt phong chức :
- năm 1668 cho hai linh mục Giuse Trang và Luca Bền ;
- năm 1672 cho linh mục Manuel Bổn ;
- năm 1676 cho Linh mục Louis Đoán hay Lữ Y Đoan.
Bốn linh mục người Việt này nguyên là thầy giảng của các thừa sai Dòng Tên.
Trong lãnh vực tôn giáo, chữ Nôm được các giáo sĩ ngoại quốc khi đến nước ta truyền đạo, nỗ lực học và sử dụng để biên tập các sách giáo lý, các kinh bổn đọc trong thánh đường và trong gia đình, họ đạo hằng ngày. Chữ Nôm của đạo Công giáo có một lịch sử dài lâu từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, với rất nhiều công trình nghiên cứu, biên tập kinh sách, tư liệu còn để lại hàng trăm cuốn trong thư viện của Hội Thừa Sai Paris ở Pháp (Mission Étrangère de Paris), trong số đó có khoảng 20 cuốn sách viết bằng chữ Nôm do Giáo sĩ Girolamo Maiorica, người Ý, chủ trương biên tập từ đầu thế kỷ XVII (35). Có tư liệu nói số sách này nhiều hơn (khoảng 48 cuốn) mà một số còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris (36).
Ngày nay người ta cũng biết đến tên tuổi rất nhiều các vị giám mục, linh mục ngoại quốc hay bản xứ, các thầy giảng, các vị túc nho công giáo đã để lại rất nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm, ví dụ Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) viết Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ, bản chữ Nôm được in tại Quảng Đông năm 1774, Giám mục Taberd biên soạn cuốn Tự vị Hán-Việt-Latinh hơn 900 trang (tàng trữ tại văn khố Hội Thừa Sai Nước Ngoài tại Paris) có sự cộng tác của Thánh Linh mục Phan Văn Minh. Trong cuốn tự vị này, theo Giáo sư Trần Văn Toàn, nếu bỏ phần tiếng Latinh ra, thì cũng còn quan trọng vì vừa dùng chữ quốc ngữ vừa dùng chữ Nôm. Chữ quốc ngữ thì ghi được một cách khá chính xác cách phát âm, còn chữ Nôm thì tuy không ghi được cách phát âm, nhưng cũng là kết tinh của mấy thế kỷ ông cha chúng ta cố gắng để tự lập về văn hóa đối với người Hán tộc (37).
Trong quyển Hoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuộc truyền giáo thời kỳ đầu của Dòng Tên tại Việt Nam bằng tiếng Đức, linh mục Dòng Tên Klaus Schatz viết rằng : "Chữ Nôm phát triển kể từ thế kỷ XV, sau khi Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi sự thuộc Trung Hoa. Khởi đầu các nhà truyền giáo cũng dùng chữ Nôm cụ thể vào năm 1620 ở Hội An, để soạn sách giáo lý, nhưng sách này đã không được in và đã bị thất lạc" (38). Cuốn sách giáo lý này có lẽ là công trình của cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, khi làm việc ở giáo điểm Dinh Chiêm (Quảng Nam).
Theo Linh mục Nguyễn Hồng trong quyển Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, "Chúng ta còn phải kể nhất là những cuốn sách bằng tiếng Việt mà các cha viết cho giáo dân và cho các thày giảng. Đó là những cuốn sách đầu tiên trong tủ sách văn chương công giáo Việt Nam. Ngoài cuốn sách bổn của cha Đắc Lộ viết bằng chữ quốc ngữ, in ở Roma, còn các cuốn khác bằng chữ nôm, thứ chữ thịnh hành của thời đó. Hoặc các thừa sai thảo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên để các thày giảng viết ra chữ nôm, hoặc đọc cho các thày viết, mà ta có thể đoán đó là trường hợp cha Buzomi và De Pina cho ra đời cuốn sách về đạo lý công giáo đầu tiên bằng tiếng Việt ở Nước Mặn, Qui Nhơn, hay trường hợp cha Đắc Lộ viết cuốn Ngắm 15 sự thương khó Đức Chúa Giêsu… Hoặc do chính thừa sai viết bằng chữ nôm, như những cuốn của cha Majorica, nhưng chắc chắn cha cũng được sự cộng tác của các thày giảng" (39).
Theo giáo sư Trần Văn Toàn "chữ Nôm khó học thì họ (các giáo sĩ Châu Âu) chịu khó học, chứ không dám coi thường, càng không dám cho là mách qué, như các nho sĩ chỉ biết chịu phục có người Hoa. Họ thực biết tôn trọng vốn liếng chữ Nôm của ta, cũng như họ đề cao kho tàng Hòa văn (chữ viết của người Nhật). Khi viết sách vở cho người Việt về những điều rất tôn nghiêm như tôn giáo, họ đã dùng ngay chữ Nôm (như trong các tác phẩm của Girolama Maiorica, và người công giáo tiếp tục viết, in và dùng sách chữ Nôm cho đến giữa thế kỷ XX" (40).
Trong quá trình sử dụng chữ Nôm, một số danh từ trong công giáo được chuyển âm từ tiếng La tinh hay Bồ đào nha, thí dụ câu-rút từ chữcruxnay được chuyển thành thánh giá, chữ evangelium thành chữ phúc-âm, chữ spiritus sanctus đổi ra thánh thầndo sự đóng góp của cố linh mục Nguyễn Văn Thích ở Huế (41), hoặc các chữ bispo (tiếng Bồ) ra chữ vít-vồ (rồi giám mục) chữ Nôm thì dùng hai chữ Hán viết vô 曰無 nhưng phải đọc "vít vồ", hoặc "pha-pha" (vị giáo tông ở Rôma, cũng gọi là Giáo hoàng, La-tinh và Bồ gọi là "papa".
Trong những năm 40, 50 của thế kỷ trước, giáo xứ Tam Tòa của tôi ở Đồng Hới, Quảng Bình, các kinh sách đọc trong các dịp lễ lớn như Kinh Lễ Đèn trong Tuần Thánh, Kinh Đàng Thánh Giá v.v… đều viết bằng chữ Nôm do các cụ chức việc lớn tuổi trong làng phụ trách phần "than, gẫm". Dĩ nhiên các cụ cũng biết đọc chữ quốc ngữ, nhưng quen với kinh sách viết bằng chữ Nôm nhiều hơn.
Cụ Trần Văn Giáp trong phần kết luận của cuốn Lược khảo vấn đề chữ Nôm, có đề nghị làm một cuốn tự điển chữ Nôm nhưng theo cụ thì phải loại trừ những phần chữ Nôm chua sẵn trong các tự điển Quốc ngữ La-tinh như của Génibrel, của Tabert hay của Paulus Huỳnh Tịnh Của vì chính đấy là chữ Nôm của các giáo sĩ Tây phương ; đấy không phải là "những chữ Nôm của nhân dân đã dùng"… còn "những chữ Nôm của nhân dân ta lựa lọc mà viết ra thì thực đúng quá" (42).
Để trả lời quan điểm đầy tính chất kỳ thị tôn giáo dù rằng trong lãnh vực văn chương của cụ Trần Văn Giáp, Giáo sư Trần Văn Toàn viết rằng : "Lại có học giả cho rằng chữ Nôm do người công giáo viết không phải là chữ Nôm đích thực. Xin thưa hai điều : một là phải có cơ quan nào, như Hàn lâm viện hay là do nhà cầm quyền chính thức ấn định trước đã thì mới nói được cái gì là đích thực ; hai là : trừ một số chữ mới ra thì người công giáo dùng chữ Nôm như người đương thời, cho nên nếu phải loại trừ tất cả những chữ do họ dùng, thì cũng phải loại hầu hết thi văn chữ Nôm trong văn chương Việt Nam" (43).
Chữ Nôm trong các kinh sách của người Công giáo đều là do các vị thừa sai có căn bản về các kiến thức ngôn ngữ học, cùng sự cộng tác của các vị thầy giảng người Việt cũng vốn là những bậc túc nho giỏi chữ Hán, thông thạo chữ Nôm (họ cũng là thuộc hàng ngũ "nhân dân" một trăm phần trăm đấy chứ có thuộc dòng máu lai nào đâu), thì sao gọi "chữ nôm do người Công giáo viết không phải là chữ nôm đích thực" ? Chính các ông nhà nho trong phong trào Văn Thân, khi viết bài hịch "bình Tây sát Tả", chính các tác giả bài hịch đó là tú tài Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh vốn là những người khinh chữ nôm, coi chữ nôm là "nôm na mách qué" ngay cả đến việc nghiên cứu, tìm hiểu về một tôn giáo họ cũng chưa từng nghĩ tới, không hề để tâm, cho nên trong bài hịch Văn Thân của họ mới có những câu như : "Cầu nguyện thì xưng Trời, xưng Thánh, thật là đui điếc ngu si ; Giảng rao thì vô phụ vô quân, đúng là loài dê loài chó". "Vô phụ", "vô quân" theo Trần Tấn, Đặng Như Mai đó là người Công giáo không hề biết đến vua, đến cha, nhưng đó thật là sai lầm vì người Công giáo cách đây bốn thế kỷ cho đến bây giờ vẫn luôn tôn trọng nhà cầm quyền ngoài xã hội và thờ kính cha mẹ trong vòng đạo hiếu gia đình (44).
Quá trình hình thành của chữ Nôm được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố một là được viết theo thói quen, hoặc là trong khung cảnh của địa phương và dĩ nhiên trong lãnh vực tôn giáo chữ Nôm cũng được hình thành hay kiện toàn do ý thức tâm linh và giáo lý nữa.
Giáo sư Trần Văn Toàn, trong cuốn Đạo trung tùy bútđã được dẫn chứng nói trên đã đưa ra một thí dụ thật hay. Ông viết : "Trong sách Thánh giáo yếu lý quốc ngữ, do Đức Cha Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) soạn, thì bản Nôm viết chữrỗibằng cách chắp nối chữlỗi 磊 (ba chữ thạch) với bộ khẩu口ở bên tả. Nhưng điều làm cho tôi rất lấy làm thán phục là trong cuốn sách nôm Phép Dòng chị em mến câu rút Đức Chúa Giêsu, do Đức Cha Phước (Paul Puginier) cho khắc in năm 1869, thì chữrỗi được viết bằng cách ghép chữlỗi磊ở bên hữu để chỉ cách đọc, và chữ sinh 生ở bên tả để chỉ nghĩa là sống. Nếu cách viết dùng bộ khẩu không có gì là thần tình, thì cách viết dùng chữsinh bên tả mới thật là đúng tinh thần đạo Chúa Cứu Thế. Không biết vị cao minh nào đã có sáng kiến dùng chữsinhthay chữkhẩu như thế, vừa hợp với giáo lý, vừa đúng với thần học : được rỗi cũng có nghĩa là được sống ! Cùng một chữrỗi mà vừa nói lên được cái ước vọng thanh nhàn, lại vừa nói lên cái ước vọng được sống mãi mãi ! Cách viết chữ Nôm biết sử dụng lối hội ý như thế thật là thâm thúy, chữ quốc ngữ viết theo mẫu tự La-tinh không sao sánh được" (45).
Trong tự điển Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Linh mục Trần Văn Kiện hay sách Đại Tự Điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính cũng có trưng một số cách viết chữrỗilà dùng chữ lỗi磊 làm yếu tố hài thanh chính, và có khi dùng bộ mã 馬, khi dùng bộ tâm忄 hay bộ thủy氵hoặc bộ khẩu 口 là tùy theo từng trường hợp. Nhưng qua sự phân tích chữrỗikể như một thí dụ dưới con mắt của một nhà nghiên cứu tôn giáo như Giáo sư Trần Văn Toàn, chúng ta có dịp đánh giá lại giá trị của chữ Nôm, thấm thía được ý nghĩa của một loại văn tự trong kho tàng văn hóa dân tộc và cũng nhờ đó nhận ra được tinh thần cố thấu đạt tới chân lý trong lãnh vực tôn giáo của tiền nhân trước đây.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia, Mùa Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4-5/2020
Nguồn : VOA, 06/07/2020
(1) Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Khoa Cử Việt Nam, Thi Hương, tập thượng, An Tiêm xuất bản, Paris, 2002, tr. 126
(2) Vũ Văn Kính, Đại Tự Điển Chữ Nôm, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1998, trang 6
(3) Đoàn Khoách, "Vài nét đại cương về chữ Nôm", Đặc san Đại Học Huế, Kỷ niệm 60 năm Đại Học Huế (1957-2017), 2017, tr. 174
(4) ibid., tr. 174-175
(5) Trần Văn Giáp, Lược khảo vấn đề chữ Nôm, Nhà xuất bản Ngày Nay Publishing 2002, tr. 34
(6) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 177
(7) ibid., tr.178
(8) ibid.
(9) Nguyễn Thị Chân Quỳnh, op.cit., tr. 128
(10) Đào Duy Anh, Chữ Nôm, nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến,Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1975, trang 42
(11) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 179
(12) Chingho A. Chen, "Hình thái và niên đại sáng chế chữ Nôm", Đoàn Khoách dịch, Tạp chí Đại học, số 35-36, Viện Đại Học Huế, tháng 10-12 năm 1963
(13) Văn Hựu (học giả Trung Hoa), "Luận về tổ chức của chữ Nôm", Yên kinh Học báo, kỳ 14, bài này đã được Sơn-bảng Đại-lang (học giả Nhật Bản) giới thiệu trong Đông-dương Học báo, quyển 22, số 2, năm 1935 - Chú thêm của Nguyễn Đình Cung
(14) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 181
(15) Trần Văn Giáp, op.cit., tr. 88
(16) Đoàn Khoách, op.cit., tr. 184
(17) ibid., tr. 183
(18) Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ, 2012, tr. 779
(19) Hoàng Xuân Hãn, "Những lời thề của Lê-Lợi" (văn Nôm đầu thế kỉ 15), Tạp chí Sử Địa, số 1 của Nhóm Giáo sư, Sinh viên Đại Học Sư Phạm (Nguyễn Nhã) Sài Gòn, 1966, tr. 4
(20) Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, Tập I Thời kỳ khai phá và hình thành [Từ khởi thủy cho tới cuối thế kỷ XVIII], Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2008, tr. 42
(21) Trương Bá Cần, ibid., tr. 185
(22) Dũng Lạc.net, 12/31/2006
(23) Trương Bá Cần, op.cit., Lịch sử miền Bắc, tr. 164
(24) Nguyễn Khắc Xuyên, "Quan điểm thần học trong "Phép giảng tám ngày" của Giáo sĩ Đắc-lộ", Tạp chí Đại Học, Số 1, Năm thứ tư, tháng 2/1961, tr. 55
(25) Phạm Đình Khiêm, Tinh Việt Văn Đoàn, 1959, trang 76, trích dẫn Alexandre de Rhodes, Histoire du royaume de Tonkin, Nhà xuất bản Kimé, tr. 26
(26) Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2008, tr. 28
(27) Thanh Lãng, "Những chặng đường của chữ viết quốc ngữ", Tạp chí Đại Học, số 1, Tháng 2, 1961, tr. 10
(28) Trương Bá Cần, op.cit., tr. 186
(29) ibid., tr. 185
(30) ibid., tr. 122
(31) Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2008, tr. 147
(32) Trương Bá Cần, op.cit., tr. 233
(33) Nguyễn Văn Trung, "Đôi lời giới thiệu : Về một số sách cũ do người Công giáo viết ra từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX", Trường Đại Học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Ngữ Văn, 1993
(34) ibid. tr. 3
(35) Thanh Lãng, op.cit., tr. 5 ; Trần Văn Toàn, op.cit., tr. 188
(36) Trương Bá Cần, op.cit., tr. 185
(37) Trần Văn Toàn, op.cit., tr. 190
(38) Klaus Schatz, Hoa trái ở Phương Đông, Alexandre de Rhodes (1593-1660) và công cuộc truyền giáo thời kỳ đầu của Dòng Tên tại Việt Nam (tiếng Đức), Phạm Hồng Lam dịch, Nhà xuất bản Đông Phương, 2015, tr. 210
(39) Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Quyển I, Nhà xuất bản Hiện Tại, 1959, tr. 294
(40) Trần Văn Toàn, op.cit., tr. 204
(41) J.M. Thích, Sảng Đình Thi Tập, Đoàn Khoách biên tập, Thanh Tịnh xuất bản, California, 2001, trang 335
(42) Trần Văn Giáp, op.cit., tr. 89
(43) Trần Văn Toàn, op.cit., tr. 207
(44) Trần Văn Toàn, Một vài nhận xét về thuyết 'tam phụ', op.cit., tr. 102
(45) ibid., tr. 122
Các giám mục Việt Nam đến Vatican (RFA, 06/03/2018)
Các giám mục Việt Nam vào ngày 5 tháng 3 được giáo hoàng Francis, người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã tiếp tại Vatican.
Giáo hoàng Francis gặp gỡ 33 giám mục Việt Nam - Courtesy of baoconggiao.net
Tin cho biết 33 vị giám mục Việt Nam thực hiện chuyến đi thăm mộ hai vị thánh tông đồ Pedro và Paulus lô thường được gọi theo tiếng La-tinh là ‘ad limina’. Trong chuyến đi này họ được giáo hoàng tiếp kiến và nghe báo cáo về tình hình giáo phận mà họ đang coi sóc.
Chuyến ‘ad limina’ gần nhất của các vị giám mục công giáo Việt Nam được cho biết vào tháng 6 năm 2009. Lúc đó người tiếp hàng giáo phẩm Công giáo trong nước là giáo hoàng Bê nê đíc tô thứ 16.
Trong chuyến thăm lần này, vào ngày 3 tháng 3 vừa qua, giám mục Nguyễn Chí Linh, hiện là chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, phát biểu trong thánh lễ được tiến hành tại nguyện đường gần mộ Thánh Pedro về lòng trung thành của giáo dân Việt Nam với giáo hội và đức giáo hoàng.
Thống kê cho thấy trong số dân hơn 96 triệu của Việt Nam hiện nay, số tín hữu Công giáo La Mã chỉ chiếm chừng 6,6%. Tỉ lệ này thấp hơn số 10% được ghi nhận trong những thập niên đầu của thế kỷ 20.
Hiện nay Giáo hội Công giáo La Mã tại Việt Nam có 26 giáo phận, hơn 2.220 giáo xứ. Tất cả thuộc 3 tổng giáo phận. Số linh mục được cho biết là 2668 vị.
************************
VinUni : lợi nhuận hay phi lợi nhuận ? (VNTB, 07/03/2018)
VinUni - trường Đại học phi lợi nhuận thuộc tập đoàn Vingroup được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đồng ý chủ trương cho phép thành lập, dự kiến khóa đầu tiên là vào năm 2020 với 3 lĩnh vực là : Kinh doanh, Công nghệ và Khoa học Sức khỏe.
Nếu nhìn vào trong 3 linh vực, thì có thể nhận ra đây là môi trường đào tạo nguồn nhân lực cho chính hệ sinh thái của tập đoàn này gồm : Kinh doanh (Vinhome,...) ; Công nghệ (Vinfast,...) và Khoc học sức khỏe (Vinmec,...).
Vingroup theo hướng mô hình đại học tư thục phi lợi nhuận, có nghĩa là sẽ nối gót Vinmec hay Vinschool (hoặc như RMIT), thực hiện chất lượng cao với giá tương đương. Nói gọn hơn, với cấu trúc hoạt động như vậy, Vin sẽ sử dụng trường đại học này làm nơi đào tạo nguồn nhân lực, và dành cho giới,… nhà giàu.
Ảnh mẫu trường đại học phi lợi nhuận đầu tiên thuộc hệ sinh thái Vingroup
Tuy nhiên, vì là ‘con buôn’, nên với Vingroup, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo ? Trước nhất, cần thiết phải ghi nhận rằng, Vingroup có thể muốn tạo ra sự khác biệt mang tính tích cực ở Việt nam, bao gồm trong lĩnh vực kinh doanh, công nghiệp ôto, y tế hay giáo dục. Nhưng vì bản chất con buôn, nên cũng có thể đặt ra viễn cảnh, Vingroup có thể là sử dụng cụm trường đai học phi lợi nhuận này để chiếm hữu đất vàng ; đi xa hơn là với cơ sở sinh thái có sẵn, cộng với nguồn lực dồi dào của mình, tập đoàn này sẽ sử dụng lợi nhuận thu được từ nguồn học phí cao ngất ngưởng ; nguồn tài trợ và ưu đãi của chính phủ (bao gồm cả miễn thuế), các tổ chức - cá nhân,... để làm cơ sở đầu tư ngoài ngành ?
Câu chuyện phi lợi nhuận nhằm trốn thuế hoặc sử dụng nguồn tài chính thu được để tái đầu tư ngoài ngành…. có lẽ không còn mới. Trường Đại học Harvard, ngôi trường chất lượng cao có trụ sở của Mỹ, ngoài cung cấp nền tảng giáo dục nổi tiếng, Harvard còn tiến hành đầu tư bất động sản [1]. Đề cập như vậy để cho thấy rằng, việc Vingroup tiến hành hoạt động thành lập Vinuni là không khác biệt, và nó nằm trong hệ quy chiếu thị trường. Vấn đề là VinUni (hay Vinmec) thành lập tại Việt Nam chứ không phải Mỹ, do đó nó tồn tại nhiều bất cập và sự thiếu minh bạch. Chính sự thiếu minh bạch trong cơ chế có thể giúp tập đoàn Vingroup đẩy mạnh các hoạt động doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận mà không gặp quá nhiều sự rắc rối từ cơ quan hữu trách. Hay đúng hơn, ‘Phi lợi nhuận’ giúp Vingroup tối đa hóa lợi nhuận của mình, có thể chuyển nguồn tiền thu được cho dự án khác (ví như Vinfast) hoặc tiếp tục cơi nới khu vực bất động sản của mình. Và bối cảnh này có thể trở thành hiện thực trong tương lai.
Câu hỏi đặt ra là làm sao có thể giám sát chặt chẽ tính chất ‘phi lợi nhuận’ của Vingroup ? Bởi ngay đến yêu cầu các tổ chức phi lợi nhuận (thuộc Vingroup) báo cáo số tiền chênh lệch trên % doanh thu quy định có vẻ là một việc làm bất khả thi tại Việt Nam, quốc gia mà trốn thuế và lách thuế diễn ra ngang nhiên. Chưa kể, đối mặt với cơ quan thuế là một doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền và cơ quan hữu trách trong kiểm soát thuế lại là cơ quan có nhiều vấn đề trong tham nhũng - vốn được xem là quốc nạn ở Việt nam. Đây không phải là nỗi lo quá xa, khi mà ngay cả cấp trung ương cũng nghi ngờ về tính minh bạch thuế, bởi vào tháng 8/2016, khi làm việc với Tổng Cục thống kê, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng đã đề cập đến bất cập trong dữ liệu thống kê doanh nghiệp đến mức mà, trong nhiều trường hợp "Chính phủ điều hành mà không biết thế nào mà lần". Mà ‘dữ liệu’ thì tại Việt Nam việc làm giả, kê khống là công việc rất bình thường.
Vậy làm sao có thể tạm nhận biết được tính chất phi lợi nhuận của Vingroup đến đâu ? Điều này có thể dựa vào việc phía doanh nghiệp này công khai nguồn dữ liệu tài chính theo đơn vị tháng hoặc quý. Bởi tổ chức phi lợi nhuận thì đồng nghĩa phải minh bạch tài chính. Nguồn dữ liệu này bao gồm : lương, phúc lợi, bảo thuế, thuế, khoản tín dụng, số dư nguồn tiền của tổ chức ; các khoản vay và nghĩa vụ thanh toán khoản vay,… Ngoài ra, có thể tiếp tục nhận thêm bản lưu chuyển tiền tệ, cân đối kế toán ; báo cáo thu nhập.
Câu chuyện thành lập Vinmec hay Vinuni theo hướng phi lợi nhuận cũng mở ra một khía cạnh mới, đó là sự liên đới về tính chính trị. Tại Việt nam, nếu triệu phú hay tỷ phú USD, với xuất phát điểm là bất động sản thì mặc nhiên doanh nghiệp đó ít nhiều liên đới chặt chẽ với chính quyền sở tại, và người đứng đầu rơi vào trạng thái phe phái. Do đó, khi phe phái bị yếu thế thì lập tức, các sai phạm được che giấu trước đó sẽ bị phơi bày, và lúc này, người dùng hay ngân sách chi cho phi lợi nhuận là 2 yếu tố bị tổn hại nhiều nhất. Một trường hợp tương tự đã từng xảy ra cách đây không lâu, theo đó - vào năm 2010, tại phía Nam Việt nam từng thành lập trường Đại học Tân Tạo - được mô tả là xây dựng theo mô hình các đại học danh tiếng của Mỹ, với hội đồng sáng lập là các giáo sư nổi tiếng của Mỹ. Tuy nhiên, người đứng đầu Hội đồng là bà Đặng Thị Hoàng Yến. Bảy năm sau, Đại học Tân Tạo bị Thanh tra Bộ Giáo dục và đào tạo bóc tách nhiều sai phạm, từ khâu quản lý, tổ chức cho đến tuyển sinh đào tạo, trong đó có cả việc tuyển sinh ngành đã bị đình chỉ.
Bà Đặng Thị Hoàng Yên là người bị Quốc hội Việt Nam bãi nhiệm tư cách Đại biểu quốc hội vào năm 2012 vì không trung thực khi khai hồ sơ ứng cử.
Quay trở lại với câu chuyện của Vingroup, mới đây (28/02) - tạp chí Forbes, sau nhiều năm xếp hạng ông Phạm Nhật Vượng từ tỷ phú kinh doanh bất động sản (real estate), nay chuyển sang tỷ phú đa ngành"(diversified).
Ánh Liên
Ghi chú :
*********************
Công bố danh sách giáo sư, phó giáo sư tại Việt Nam (RFA, 06/03/2018)
Việt Nam vừa cho công bố quyết định công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2017 cho 1.131 ứng viên, ít hơn 95 người so với danh sách ban đầu.
Một vị Phó Giáo sư trong một buổi lễ trao bằng công nhận danh hiệu giáo sư và phó giáo sư tại Văn Miếu Hà Nội vào ngày 24 tháng 12 năm 2012. AFP
Thông tin này chính thức được Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước công bố vào ngày 5/3 và được truyền thông trong nước loan đi.
Theo ông Bùi Văn Ga, phó chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư cho biết, việc rà soát 1.226 hồ sơ ứng viên đã xác định 1.131 hồ sơ đủ tiêu chuẩn và đảm bảo điều kiện công nhận đạt chuẩn, không có đơn thư tố cáo. Còn 95 hồ sơ còn lại thuộc diện có đơn thư tố cáo và hồ sơ cần được xác minh thêm.
Đây cũng là con số kỷ lục trong hơn 40 năm qua, khiến cho dư luận lo ngại về chất lượng xét chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2017.
Thủ tướng Việt Nam ông Nguyễn Xuân Phúc cũng đã có công văn yêu cầu Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo rà soát nghiêm túc lại quá trình xét duyệt để đảm bảo chất lượng.
Xin nhắc lại, năm 2017, Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước đã công bố 1.226 giáo sư và phó giáo sư, đây là con số được truyền thông trong nước cho là tăng đột biến và gây ra nhiều nghi vấn trong dư luận. Hiện tại, hội đồng này mới chỉ thừa nhận 1 phó giáo sư duy nhất chưa đủ tiêu chuẩn.
********************
Trưởng công an bị cảnh cáo vì dùng bằng giả để tiến thân (CaliToday, 06/03/2018)
Không hề học hết cấp III, lại xuất thân từ một trưởng xóm ở xã Nghĩa Sơn (huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An) ông Phạm Phú Thành (sinh năm 1962) dùng bằng giả để leo tới chức Trưởng công an xã. Điều đặc biệt là ngay cả khi bị phanh phuy sự dối trá này, ông Thành vẫn còn được chính quyền bao che, chạy tội.
Bằng giả được trưởng công an dùng để tiến thân. Ảnh : Vnexpress
Ngày 6/3/2018, tin tức từ Huyện ủy Nghĩa Đàn (Nghệ An) cho biết, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy đã ra quyết định thi hành kỷ luật với hình thức cảnh cáo đối với ông Phạm Phú Thành-Trưởng công an xã Nghĩa Sơn. Ông Thành bị kỷ luật vì kê khái không đúng sự thật, sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận giả để tiến thân. Theo Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy những vi phạm của ông Thành là trái với cương lĩnh, điều lệ đảng cộng sản Việt Nam trong việc trực tiếp tham gia vào việc mua bán bằng giả.
Trước đó, ông Phạm Phú Thành bị tố cáo đã sử dụng bằng cấp giả để hợp thức hóa giấy tờ, hồ sơ nhằm tiến thân, cho dù bản thân không hề học qua trường cấp III. Tờ giấy chứng nhận tốt nghiệp Trung học phổ thông của ông Thành do một người là phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nghệ An có tên Phạm Quý Hưng ký. Tuy nhiên, theo kiểm tra của Sở Giáo dục vào Đào tạo tỉnh Nghệ An thì Sở này không hề có phó giám đốc nào tên như vậy.
Theo lí lịch của ông Thành, xuất thân từ một đảng viên Cộng sản, ông Thành được làm xóm trưởng rồi lên làm phó công an xã. Đến năm 2009, ông Thành được chính quyền cử đi học lớp Trung cấp Công an, cho dù ông chưa từng tốt nghiệp trường cấp III. Sau khi được cử đi học, ông Thành trở về trễm chệ ngồi trên chiếc ghế Trưởng công an xã Nghĩa Sơn.
Ngay sau khi bị phanh phuy, báo chí đã tiếp xúc với lãnh đạo xã Nghĩa Sơn để tìm hiểu hồ sơ, lí lịch của ông Phạm Phú Thành. Tuy nhiên, tất cả lãnh đạo của xã đều từ chối cung cấp hồ sơ, vì cho rằng hồ sơ của ông Thành là "hồ sơ mật".
Rất có thể sau khi bị kỷ luật với mức cảnh cáo, ông Phạm Phú Thành sẽ không còn được ngồi ở chiếc ghế Trưởng công an xã nữa, mà phải nhường ghế ấy cho người khác.
Việc cán bộ, đảng viên cộng sản Việt Nam sử dụng bằng cấp giả để tiến thân diễn ra nhan nhản. Đến ngay cả một Ủy viên Trung ương đảng, cựu Bí thư thành ủy Đà Nẵng cũng bị phát giác sử dụng bằng cấp giả, thì ở những cấp chính quyền thấp hơn, hiện tượng sử dụng bằng giả để tiến thân là điều không có gì phải lạ. Những cán bộ này chỉ việc đi theo cộng sản, họ được đảng bảo kê, họ cướp đi việc làm của những người được đào tạo, có tri thức khác. Đảng cộng sản Việt Nam tạo mọi điều kiện để đảng viên của mình có được những công ăn việc làm tốt nhất, cho dù đó là cướp đi việc làm của người khác.
Cũng liên quan đến công an, tại xã Hựu Thành (huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) do có xích mích trong gia đình, một phó ấp kiêm công an viên đã dùng súng bắn trọng thương một người có họ hàng của mình.
Nạn nhân kể lại việc mình bị truy sát. Ảnh : NLD
Kẻ dùng súng bắn trọng thương người khác được xác định là Nguyễn Quang Tiến (sinh năm 1956) phó ấp 4 xã Hựu Thạnh.
Theo tin tức mà chúng tôi thu thập được cho biết, sự việc xảy ra vào 19 giờ tối ngày 28/2/2018, trên đường về nhà ở ấp 4 xã Hựu Thạnh, anh Nguyễn Phát Huy (sinh năm 1985, làm tài xế) gặp ông Tiến, người có họ hàng với mình ngược chiều đi về. Lúc này, ông Tiến chặn xe, bắt buộc anh Huy phải dừng lại. Từ đó, giữa đôi bên đã xảy ra cự cãi liên quan đến chuyện gia đình.
Lời qua tiếng lại thì đột ngột ông Tiến móc súng bắn anh Huy. Viên đạn trúng ngay anh Huy khiến anh đổ máu rất nhiều. Ngay lập tức, anh liền chạy vào nhà dân gần đó đẻ trốn. Chưa hết cơn cuồng sát, ông Tiến còn đuổi theo tiếp tục bắn anh Huy cho đến khi hết đạn, đồng thời còn tuyên bố, sẵn sàng ở tù.
Lúc này những người có mặt tại đó liền chạy đến can ngăn. Theo người dân sống gần khu vực cho biết, mâu thuẫn giữa ông Tiến và anh Huy liên quan đến tranh chấp đất đai đang chờ giải quyết lâu nay. Không chờ pháp luật giải quyết cán bộ Tiến đã sử dụng súng mà chính quyền Cộng sản cấp cho để cố sát bà con của mình. Rất may, đó chỉ là loại súng bắn đạn cao su, chứ nếu không hậu quả thật khó lường.
Người Quan Sát
**********************
Nhà máy thép gây ô nhiễm xin tồn tại và đòi bồi thường (RFA, 06/03/2018)
Hai nhà máy thép gồm Công ty cổ phần Dana Ý và Công ty cổ phần Dana Úc tại xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, hôm 6 tháng 3 nộp đơn lên chính quyền thành phố đòi bồi thường thiệt hại do bị cơ quan chức năng địa phương buộc đóng cửa đột ngột.
Bên ngoài công ty cổ phần Dana Ý - Courtesy of viettimes
Ông Nguyễn Vĩnh An, Phó tổng Giám đốc Công ty cổ phần thép Dana Úc xác nhận thông tin vừa nêu với truyền thông trong nước.
Ngoài ra, trong đơn kiến nghị, bà Nguyễn Thị Xuân, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị kiêm Tổng Giám Đốc công ty này cho biết việc công ty dừng hoạt động đã gây ảnh hưởng rất lớn lên gần 500 lao động ở đây và công ty có nguy cơ phá sản do thiệt hại khi ngừng sản xuất.
Bà cũng cho biết thêm là đa số người dân nơi nhà máy tọa lạc thuận theo chủ trương muốn di dời và tái định cư nơi khác.
Cùng ngày, Công ty cổ phần thép Dana Ý cũng nộp đơn kiến nghị tương tự gửi chính quyền thành phố Đà Nẵng. Ông Huỳnh Văn Tân, Tổng giám đốc công ty cho truyền thông trong nước biết tổng thiệt hại tạm tính khi dừng hoạt động và di dời nhà máy khoảng 1.800 tỷ đồng.
Ủy Ban Nhân Dân (UBND) thành phố Đà Nẵng vào ngày 1 tháng 3 chính thức yêu cầu hai nhà máy thép là Công ty cổ phần Dana Ý và Công ty cổ phần Dana Úc tạm dừng nấu luyện thép trực tiếp gây ô nhiễm môi trường.
Ngày 2 tháng 3, lãnh đạo UBND thành phố Đà Nẵng thông báo kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng về giải quyết ô nhiễm Nhà máy thép Dana Ý và Nhà máy thép Dana Úc, yêu cầu hai công ty này ngừng toàn bộ hoạt động sản xuất trực tiếp kể từ ngày 2 tháng 3 năm 2018.
Trong thời gian qua dân chúng địa phương tiến hành những cuộc tập trung phản đối tình trạng ô nhiễm do hai công ty thép Dana Úc và Dana Ý gây ra.
Điều đầu tiên cần phải nhắc lại đó là hàng loạt các cuộc biểu tình của các giáo dân khu vực miền Trung nổi dậy phản đối nhà máy Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm môi trường. Nhiều vụ biểu tình lên đến cả ngàn người.
Buổi họp mặt Hội cờ đỏ Hà Nội bên cạnh nhà thờ giáo họ Văn Thai, xứ Song Ngọc, hạt Thuận Nghĩa hôm 29/10/2017. Courtesy of FB Thanh niên Công giáo.
Trong các vụ biểu tình này, nhiều giáo dân bị đánh đập, hành hung đến trọng thương. Các linh mục dẫn đầu đoàn biểu tình thì bị truyền thông trong nước lên án là kích động giáo dân làm loạn, thậm chí họ bị nói là người đứng đầu giáo xứ nhưng không làm tròn bổn phận sống tốt đời đẹp đạo.
Vào những tháng cuối năm, khi những cuộc biểu tình có vẻ như thưa thớt dần thì lại nổi lên một nhóm gọi là Hội Cờ Đỏ mà chính quyền nói là tự phát, nhưng giáo dân cho rằng nhóm này được chỉ thị từ chính quyền để tiếp tay với công an đàn áp giáo dân.
Ngoài những sự kiện lớn, thỉnh thoảng vẫn nổi lên những câu chuyện nhỏ lẻ gây ra những bức xúc trong cộng đồng người theo đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Trong đó không thể không nhắc đến sự việc một quán bar ở Hà Nội cho trình diễn thời trang bị nói là xúc phạm Công giáo. Trong buổi trình diễn, những người mẫu đã mặc trang phục hở hang, đeo biểu tượng niềm tin công giáo hoặc gắn biểu tưởng đó gần bộ phận nhạy cảm trên cơ thể. Vụ việc đã tạo nên một làn sóng phản ứng dữ dội từ phía người theo đạo. Cơ quan chức năng sau đó hứa hẹn sẽ xử lý nhưng cho đến giờ vẫn chưa thấy kết quả gì.
Đài RFA đã trao đổi với linh mục Phan Văn Lợi, thành viên của Hội đồng Liên tôn Việt Nam, một tổ chức xã hội dân sự, về nguyên nhân sâu xa dẫn đến những căng thẳng liên quan đến cộng đồng công giáo ở Việt Nam. Linh mục Phan Văn Lợi nhận xét :
Bên Công giáo đã có những hành động lên tiếng cũng như biểu tình mạnh mẽ nhất là sau vụ Formosa, cũng như luật tôn giáo. Ví dụ như luật tôn giáo mà ngày 1/1/2018 sẽ áp dụng, thì Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hai lần phê phán mạnh mẽ dự luật tôn giáo này. Điều này làm cho nhà cầm quyền không bằng lòng vì họ muốn ra luật áp đặt lên mọi tôn giáo nhất là tôn giáo có tổ chức chặt chẽ như đạo Công giáo.
Luật Tín ngưỡng - Tôn giáo 2016 đã được thông qua và sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2018. Tuy nhiên Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi thư lên Quốc hội nêu ra những điểm hạn chế trong luật này. Trong đó, điểm gây nhiều sự phản đối nhất đó là các tôn giáo phải đăng ký với Nhà nước và nếu được cho phép thì mới có thể hoạt động.
Hôm 22/12 vừa qua, ông Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ Viện Liên bang Mỹ đã gửi một bức thư gửi ông Daniel Kritenbrink, tân Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nói rằng hợp tác về an ninh Việt Mỹ không thể tiến triển nếu chính quyền Việt Nam lấy lý do an ninh quốc gia để đàn áp tôn giáo.
Vị dân cử Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại khi theo luật tôn giáo mới thì các tổ chức tôn giáo phải đăng ký với nhà nước, cũng như báo cáo những hoạt động tôn giáo của họ cho nhà nước. Ngoài ra đạo luật này còn nói rằng các hoạt động tôn giáo sẽ bị cấm nếu những hoạt động đó làm phương hại tới an ninh quốc gia.
Ông Ed Royce cho rằng lời lẽ của đạo luật tôn giáo này rất mù mờ, và sẽ tạo điều kiện cho chính quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo.
Linh mục Phan Văn Lợi nhấn mạnh đến những cuộc biểu tình phản đối Formosa ở các giáo xứ khu vực miền Trung mà nổi bật là giáo phận Vinh. Ngoài việc biểu tình, giáo phận Vinh còn cầu cứu đến các tổ chức nước ngoài, yêu cầu tiếp tay để thế giới biết được thảm họa môi trường mà công ty Formosa Đài Loan gây nên.
Tháng 8 vừa qua, Giám mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp, người phụ trách giáo phận Vinh đã dẫn đầu phái đoàn đến tại Đài Loan nơi có trụ sở chính của công ty Formosa để đòi công lý cho người bị tác động.
Ngoài ra, cũng theo linh mục Phan Văn Lợi, nhiều giáo xứ ở Hà Nội và Sài Gòn đã tổ chức các buổi cầu nguyện cho công lý và hòa bình, trong đó có cả sự tham gia của người bên lương. Linh mục Phan Văn Lợi cho rằng điều này giống như một "cái gai" trong mắt chính quyền, vì họ sợ rằng chính những buổi tụ họp như vậy là mầm mống gieo rắc tinh thần phản kháng, tố cáo chế độ.
Anh Viễn, một giáo dân thuộc giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội nói rõ với ban Việt ngữ chúng tôi là mọi mâu thuẫn liên quan đến Công giáo là do chính quyền không ưa đạo Công giáo, chứ không phải là do xung khắc giữa hai bên lương và giáo :
Từ sau giải phóng miền Nam thì thấy rõ ràng chế độ cộng sản vô thần người ta không thích Công giáo. Đó là điều rõ ràng. Nếu người ta có buộc phải thừa nhận tự do tín ngưỡng tôn giáo thì buộc phải chấp nhận vì quốc tế quy định quyền của con người như vậy, không làm gì được. Họ muốn quốc doanh hóa Công giáo giống như Phật giáo và một số tôn giáo khác. Hoặc không thì kìm kẹp một cách rất thô bạo. Thế nhưng họ không làm được điều đó mà chỉ có thể phát động một số nơi này nơi kia, nhóm này nhóm nọ gây mâu thuẫn với đồng bào công giáo nhân một sự kiện nào đó. Và trong tất cả những răn đe của nhà cầm quyền nói rằng thế lực thù địch, phản động, ngầm ý bao giờ cũng nhắm đến người công giáo. Người công giáo họ hiểu điều đó.
Đây cũng là điều được Linh mục Đặng Hữu Nam, ở Phú Yên nói đến. Linh mục Đặng Hữu Nam là một trong những người tích cực tham gia cùng bà con giáo dân khởi kiện Formosa và hỗ trợ họ khắc phục hậu quả của Formosa. Linh mục Nam nói rằng người bên lương và bên giáo mặc dù không cùng đi trên một con đường đạo, nhưng luôn chia sẻ và đùm bọc nhau, không hề có mâu thuẫn. Ông cũng đồng tình rằng hầu hết các vụ việc dính líu đến Công giáo bấy lâu nay là do Công giáo không là một công cụ của chính quyền :
Mặc dù trong Hiến pháp đã quy định quyền tự do tôn giáo nhưng chắc chắn họ không bao giờ chấp nhận tôn giáo vì họ coi tôn giáo là thuốc phiện mê dân và bản chất giữa vô thần và hữu thần đối lập với nhau. Thứ hai, với thể chế độc tài, người ta sẽ biến tôn giáo thành công cụ của nhà cầm quyền. Vậy thì tất cả những tôn giáo nào đã bị đồng hóa và trở thành công cụ của nhà cầm quyền thì sẽ được tồn tại và ưu ái. Còn tôn giáo nào không trở thành công cụ của họ thì sẽ bị đàn áp, bách hại. Trong số đó thì Công giáo là một trong những tôn giáo ở Việt Nam đang bị đối xử một cách tàn tệ như thế.
Một sự việc gần đây nhất gây ra bức xúc trong giới Công giáo đó là sự xuất hiện của một nhóm tự xưng là Hội Cờ Đỏ. Họ có mặt tại các sự kiện có người Công giáo, khoác lá cờ đỏ sao vàng lên người và gây sự với giáo dân. Cách đây khoảng một tuần lễ, một nhóm Cờ Đỏ đã hành hung giáo dân giáo xứ Kẻ Gai ở Nghệ An khi họ đang đào một chiếc mương ngăn nước tràn vào ruộng. Sự việc được tường thuật là diễn ra ngay trước sự chứng kiến của chính quyền.
Ngày 30 tháng 10, 2017 hai linh mục ở Giáo phận Vinh đến làm việc với Ủy ban nhân dân xã Diễn Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An thì bị những người tự xưng là Hội Cờ đỏ bao vây thóa mạ, đe dọa, hai ông phải trú trong Ủy ban để an toàn. Cơ quan chức năng sau đó nói với họ đây là một nhóm tự phát trong quần chúng.
Trước đây, vào tháng đầu tháng Chín, năm 2017, một số thành viên của hội này đã đến một giáo xứ ở Đồng Nai, mang theo vũ khí, đe dọa các linh mục ở đây, với lý do là một linh mục ở đây lên tiếng kêu gọi trưng cầu dân ý về những vấn đề xã hội trên trang Facebook của mình. Sau khi vụ việc được đem ra cơ quan công quyền, một thanh niên của nhóm này đã bị phạt 8 triệu 200 ngàn đồng, nhưng cơ quan công an từ chối trao văn bản kết quả điều tra cho những người bị đe dọa là các linh mục ở đây.
Rồi đến ngày 29 tháng 10 vừa qua, tại xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã có cuộc gặp mặt của hơn một 1000 thành viên của các Hội Cờ đỏ ở Hà Nội, Nghệ An.
Linh mục Phan Văn Lợi nghĩ rằng Hội Cờ Đỏ không phải là một nhóm quần chúng tự phát mà do chính quyền đứng đằng sau chỉ đạo :
Bây giờ họ lợi dụng ở Việt Nam có rất nhiều người thất nghiệp. Nhà cầm quyền mới trưng dụng những con người đó và xả cho họ ít tiền để sai khiến họ. Họ dùng Hội Cờ Đỏ đó để nhà cầm quyền thoát trách nhiệm. Khi nào có các cuộc đàn áp, công an mặc sắc phục có thể đứng yên và nhìn thôi. Những thành phần khác như côn đồ, đầu gấu, công an giả dạng côn đồ hay hội cờ đỏ mới ra tay đàn áp.
Còn anh Viễn, giáo dân xứ Thái Hà lại cho rằng hiện giờ chưa có bằng chứng nào để khẳng định chắc chắn hội Cờ Đỏ có phải do chính quyền chỉ đạo hay không. Tuy nhiên, anh đánh giá :
Những người Cờ Đỏ thì không dám kết luận có phải do chính quyền lập nên hay không nhưng rõ ràng chính quyền có dung túng. Ví dụ vụ biểu tình tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma năm ngoái, sau đó họ hứa điều tra bắt người này người nọ, bọn dư luận viên đó. Nhưng cuối cùng họ không làm. Họ biết rõ từng người từng người nhưng không bao giờ có biện pháp gì cả. Tóm lại, có sự nhận thức không đúng đắn của một số người về đạo Công giáo, có sự làm ngơ của chính quyền, cộng với một số tổ chức tiếp tay.
Sự xuất hiện của Hội Cờ Đỏ đã tạo nên một làn sóng chống đối trên các trạng mạng xã hội. Hầu hết những lời bình phẩm mà chúng tôi ghi nhận được cho rằng Nhà nước Việt Nam để mặc cho hội này hành động, với mục đích tạo sự chia rẽ tôn giáo, đòi hỏi chính phủ phải ngưng ngay việc này. Một trong những lời bình phẩm đăng trên Facebook, chúng tôi xin được trích nguyên văn như sau :
"Không biết ai đang lãnh đạo việc hình thành ra đội quân cờ đỏ này để đối chọi với bà con giáo dân nhưng tôi khẳng định nếu để sự phân biệt kỳ thị giáo lương đến mức "đỏ đen " như thế thì không ai lường trước hậu quả như thế nào. Hãy tìm hiểu về các cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử để thấy con người đã từng ngu muội như thế nào".
Khi được hỏi về những điều có thể xảy ra trong năm tới, linh mục Phan Văn Lợi dự đoán rằng, năm 2018 "sẽ lại là một năm tôn giáo nói chung và Công giáo Việt Nam nói riêng bị đàn áp mạnh tay vì luật tôn giáo mới". Linh mục Lợi gọi luật tôn giáo này "như một chiếc xích tròng vào cổ người muốn theo đạo", và "dần dần làm tha hóa tình trạng tự do tôn giáo vốn đã bị chỉ trích của Việt Nam".
Nguồn : RFA tiếng Việt, 23/12/2017