Nước Mỹ may mắn nhất, vì dân vẫn còn tương đối trẻ, lại được bù thêm với những tài năng khắp thế giới kéo vào, kể cả các du học sinh từ Ấn Độ và Trung Quốc.
Người Ấn Độ ở Bangalore vào giờ cao điểm đi làm. Hình minh họa.
Hiện nay GDP, Tổng sản lượng nội địa của Mỹ (27 ngàn tỷ đô la) và Trung Quốc (19 ngàn tỷ đô la) đứng hàng đầu thế giới, Ấn Độ (3,7 ngàn tỷ đô la) đứng hàng thứ năm.
Cuộc chạy đua kinh tế tương lai tùy thuộc vào ba yếu tố : số người làm việc, số vốn đầu tư, và sản năng lao động (productivity) của mỗi người. Dân số Mỹ và Ấn Độ đang lên, trong khi Trung Quốc bắt đầu xuống từ năm 2020.
Trong thế kỷ này, dân số Trung Quốc sẽ giảm từ 1,424 tỷ vào năm 2020 xuống chỉ còn 1,317 tỷ vào năm 2050, đến năm 2100 sẽ xuống nữa, chỉ còn 771 triệu. Trong cùng thời gian đó, Ấn Độ tăng từ 1,390 tỷ lên 1,668 tỷ, rồi sẽ xuống 1,533 tỷ. Chỉ có dân số Mỹ tăng lên đều đều, từ 336 triệu, lên 375 năm 2050 rồi lên tới 394 triệu năm 2100.
Dân số lên xuống tùy thuộc vào các bà đến tuổi làm mẹ có muốn sinh con hay không ! Trong một nước, nếu mỗi bà mẹ chịu sanh hơn hai đứa con (tính bình quân là 2,1), thì dân số ổn định ; thấp hơn "sinh suất" (ferility rate) đó thì dân số đi xuống. Năm 2010, trên thế giới có 98 nước ở trong tình trạng tỷ số này thấp hơn 2,1 ; năm 2021 có 124 nước ; đến năm 2030 sẽ lên tới 136 nước. Tất cả 15 nước kinh tế cao nhất đều đang lâm cảnh đó, kể cả Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và Mexico, theo tuần báo The Economist, ngày 3/6/2023. Nam Hàn, với tỷ số 0,8 đáng lo nhất ; dân số sẽ giảm từ 52 triệu hiện nay xuống 41 triệu vào cuối thế kỷ 21. Dân số Mỹ sẽ không xuống luôn như các nước kia, nhờ được di dân mới đến bù lại.
Đối với sinh hoạt kinh tế, quan trọng nhất trong dân số là những người trẻ, đặc biệt trong lớp tuổi 21 đến 30, những người sắp hoặc đang bắt đầu đi làm. Ở những nước với tỷ số sinh dưới 1,5, lớp người trẻ này sẽ giảm bớt 37% từ nay đến năm 2050. Trung Quốc, Thái Lan với tỷ số 1,3, các nước Ý, Nhật Bản, đều gặp nạn này.
Năm 2021 dân số Trung Quốc tụt từ 1,413 tỷ xuống 1,412 tỷ. Số người trong lớp tuổi 21 đến 30 ở lên cao nhất, 232 triệu vào năm 2013 rồi tụt xuống, tám năm trước khi dân số cả nước bắt đầu xuống. Nguyên nhân chính là các bà mẹ bắt đầu bớt sinh đẻ, khi nhà nước hạn chế mỗi gia đình chỉ được sanh một con. Lệnh cấm bắt đầu năm 1976 nhưng phải 5, 7 năm sau dân chúng mới thi hành triệt để ! Các sắc dân thiểu số được miễn chế độ một con này nhưng các bà mẹ thiểu số thấy phụ nữ người Hán sinh đẻ ít đỡ phải cực nhọc chăm sóc con, cũng bắt chước ! Năm 2021 chỉ còn có 181 triệu người Trung Quốc trong lớp tuổi tráng kiện này. Từ năm 2040 tốc độ tụt giảm sẽ tăng lên, trong ba chục năm nữa những người 21 đến 30 tuổi sẽ chỉ còn dưới 100 triệu.
Một hậu quả của tình trạng dân số đi xuống là số người làm việc giảm bớt trong khi những người về hưu đông hơn. Sở Thống kê ở Bắc Kinh cho biết có 875 triệu người Trung Quốc tuổi từ 16 đến 59. Họ phải làm việc để nuôi những người từ 65 tuổi trở lên, hiện nay là 210 triệu nhưng trong 12 năm nữa sẽ lên tới 400 triệu, từ 15% nâng lên 30% dân số. Nhưng đó chỉ là một mối lo, có thể giải quyết bằng cách nâng tuổi nghỉ hưu lên cao hơn. Chính phủ Pháp đang làm việc này và bị biểu tình phản đối quyết liệt, nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc không lo chuyện chống đối !
Mối lo lớn hơn là ảnh hưởng của tình trạng dân già hơn trên sản năng lao động (productivity), một trong ba yếu tố phát triển kinh tế. Sản năng lao động tùy thuộc khả năng phát minh, sáng chế.
Khả năng của trí óc con người thay đổi theo lớp tuổi. Khi còn trẻ, trí khôn mang tính chất linh hoạt (tiếng Anh, fluid intelligence), người ta dễ dàng phát triển các ý kiến mới, đối phó với các vấn đề mới lạ. Khả năng này giảm bớt từ lúc sắp 30 tuổi. Khi lớn tuổi, cho đến khi già, kinh nghiệm học hỏi được tích lũy nhiều hơn, được gọi là trí khôn kết tinh (crystalliesed intelligence). Xã hội cần cả hai loại trí khôn này ; nhưng một nền kinh tế muốn canh tân, cải tiến không ngừng thì phải dựa vào loại trí khôn linh hoạt của tuổi trẻ.
Một cuộc nghiên cứu, được tuần báo The Economist dẫn chứng, cho thấy quan hệ giữa lớp tuổi và khả năng sáng tạo. Trong số ba triệu bằng sáng chế được công nhận trong thời gian 40 năm ở khắp thế giới, lớp tuổi từ 30 đến 40 đóng góp nhiều nhất. Bắt đầu từ tuổi 40, con số giảm dần.
Trong số sáng chế và phát minh có những thứ được gọi là "đột biến" (disruptive) thay đổi cả một ngành nghiên cứu khoa học, kỹ thuật từ căn bản, không phải chỉ là những thay đổi tiệm tiến trên con đường cũ. Một thí dụ được nêu lên là phát kiến của Kary Mullis, giải Nobel về sinh-hóa học năm 1993, đã thay đổi hoàn toàn các kỹ thuật nghiên cứu, thử nghiệm trong các ngành di truyền học và y học. Những khám phá đột biến đó thường do lớp người trẻ tìm ra. Khi tuổi tác lên cao, chính họ cũng dần dần trở thành những nhà phát minh bình thường.
Điều này rất đáng chú ý, vì sản năng lao động (productivity) tùy thuộc các phát minh, sáng kiến. Đưa ra cách làm việc nhanh và hiệu quả hơn, tìm ra cách làm việc hoàn toàn mới, sẽ giúp tạo ra những sản phẩm hoặc dịch vụ nhiều hơn, tốt hơn trước, dù hai yếu tố số vốn đầu tư và số người làm việc không thay đổi.
Kinh nghiệm những năm từ 1947 đến 1973 cho thấy sản năng lao động lên cao đã góp 60 phần trăm vào sự phát triển kinh tế các nước Mỹ, Anh quốc, Pháp, Italy, Nhật Bản và Đức quốc. Sau cuộc khủng hoảng năm 2007-2009, kinh tế Mỹ lên nhanh hơn các nước khác cũng nhờ sản năng lao động vẫn tăng lên.
Nền kinh tế phát triển cũng cần đến óc mạo hiểm của các doanh nhân. Một cuộc nghiên cứu của Lương Kiến Chương (James Liang 梁建章), một nhà kinh doanh và giáo sư môn Kinh tế Áp dụng tại Quang Hoa Học Viện thuộc Đại học Bắc Kinh cho thấy tuổi tác cũng quan hệ đến khả năng đầu tư, thành lập các xí nghiệp mới. Ông nhận thấy những nước dân già hơn thì đầu óc kinh doanh cũng giảm. Ông đo lường óc kinh doanh bằng tỷ số những người lập ra doanh nghiệp mới trong số dân đã trưởng thành. Ông nhận thấy khi dân một nước già thêm 3,5 tuổi thì chỉ số óc kinh doanh giảm bớt 2,5%. Giảm 2,5% rất đáng lo ngại, vì chỉ số óc kinh doanh cả thế giới hiện nay đã khá thấp, chỉ bằng 6,5% ; tức là trong 100 người trưởng thành chỉ có 6,5 người dám lao đầu vào việc kinh doanh !
Giáo sư Lương Kiến Chương giải thích cảnh trì trệ trong kinh tế Nhật Bản bằng hiện tượng này. Nước Nhật đang lâm vảo cảnh "óc kinh doanh trống rỗng" (entrepreneur vacuum) vì dân chúng già hơn. Năm 2010, các phát minh sáng kiến của người Nhật cao nhất trong 35 ngành công nghiệp toàn cầu, theo Tổ chức Tài sản Trí tuệ Thế giới của Liên Hiệp Quốc (World Intellectual Property Organisation). Đến năm 2021, họ chỉ đứng đầu trong ba ngành. Nhật Bản vẫn còn giàu óc canh tân hơn nhiều nước khác nhưng đã ý thức tình trạng này và tìm cách đối phó. Một điểm chiến lược là nâng cao phẩm chất nền giáo dục.
Huấn luyện và đào tạo có thể giúp số dân lớn tuổi nâng cao sản năng lao động. Những nước như Trung Quốc hiện nay dân số đang già hơn nhưng chưa chú trọng đi theo đường lối này. Hàng triệu người lớn tuổi không được đi học từ hồi còn trẻ và không được huấn luyện thêm, trở thành gánh nặng cho kinh tế quốc gia.
Dân số Ấn Độ chưa gặp nạn thiếu người trẻ tuổi như Trung Quốc. Chính phủ Ấn Độ đang cố gắng nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dục, với kết quả đáng kể. Trong ba năm nền giáo dục Ấn Độ được nâng lên trong bảng xếp hạng thế giới, từ hạng thứ 40 năm 2018, lên hạng 35 năm 2019, và hạng 32 năm 2020. Nước Mỹ may mắn nhất, vì dân vẫn còn tương đối trẻ, lại được bù thêm với những tài năng khắp thế giới kéo vào, kể cả các du học sinh từ Ấn Độ và Trung Quốc.
Ngô Nhân Dụng
Dân số thế giới đã chạm mốc 8 tỷ người hôm 15/11/2022, và trong tương lai sẽ tiếp tục tăng. Điều này liệu có gây ảnh hưởng đến sự nóng lên toàn cầu ? Đối với các chuyên gia, đòn bẩy duy nhất để hạn chế sự nóng lên toàn cầu là thay đổi lối sống của chúng ta.
Một con phố ở New Delhi, thủ đô của Ấn Độ, nước sẽ trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới. AP - Altaf Qadri
Vào tháng 11/2017, lúc diễn ra COP23, hơn 15.000 nhà khoa học đã công bố một "cảnh báo cho nhân loại" trên tạp chí Bioscience. Văn bản nhấn mạnh rằng "sự gia tăng dân số một cách nhanh chóng" là một trong những "yếu tố chính gây ra các mối đe dọa về môi trường và xã hội" đối với loài người.
Năm năm sau, vào thời điểm COP27 đang diễn ra ở Sharm El-Sheikh, Liên Hiệp Quốc thông báo rằng dân số thế giới đã chạm mốc 8 tỷ người, tức là tăng thêm 1 tỷ người chỉ trong vòng 11 năm qua.
Như vậy là chỉ trong hơn 70 năm, dân số thế giới đã tăng gấp ba lần (dân số thế giới hồi năm 1950 là 2,5 tỷ người). Theo các dự đoán, hành tinh chúng ta sẽ có khoảng 9,7 tỷ người vào năm 2050 và khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2080, trước khi đà tăng dân số chững lại vào năm 2100. Những dự đoán này đủ để khơi lại cuộc tranh luận không có hồi kết giữa các chuyên gia về mối liên hệ giữa dân số gia tăng và suy thoái môi trường.
Jacques Véron, giám đốc danh dự tại Viện Nghiên cứu Nhân khẩu học Quốc gia (INED) của Pháp, nhắc lại rằng, cuộc tranh luận này không phải do các nhà nhân khẩu học khơi mào, mà là do các nhà sinh vật học và vật lý học.
Khó có thể phủ nhận rằng với 8 tỷ người sinh hoạt, xây nhà, di chuyển xung quanh Trái đất mà không phát thải khí nhà kính. Theo tính toán của các chuyên gia, dân số thế giới gia tăng khiến lượng khí thải nhà kính tăng 1,2% mỗi năm từ năm 2010 đến năm 2019. Tuy nhiên, mức tăng GDP thế giới cùng thời kỳ là 2,3% mỗi năm. Theo Valérie Golaz, giám đốc nghiên cứu tại INED, điều đó có nghĩa là tăng trưởng kinh tế nhanh hơn tăng trưởng dân số.
Ngoài ra, mọi thứ còn phụ thuộc vào cách sống của con người hiện tại và trong tương lai, tùy theo vùng. Theo thống kê, một người Mỹ thải ra trung bình 17 tấn khí CO2 mỗi năm, một người Ấn Độ 1,76 tấn và một người Ethiopia 0,19 tấn. Cần phải chú ý một điều là những quốc gia có dân số tăng mạnh nhất cũng là những quốc gia thải ra ít khí nhà kính nhất, đặc biệt là ở Châu Phi.
Nhà nhân khẩu học Gilles Pison, thuộc Viện Nghiên cứu Nhân khẩu học, nhận định rằng lượng khí thải gây ra sự nóng lên toàn cầu hiện nay là từ một thiểu số là những người sống ở các nước giàu. Điều đó có nghĩa là dân số gia tăng không đồng nghĩa với việc Trái đất nóng lên thêm.
Ông Jacques Véron giải thích rằng giải pháp duy nhất để tránh cho Trái đất nóng lên là điều chỉnh lối sống của các nước công nghiệp và bảo đảm rằng điều kiện sống được cải thiện ở các nước kém phát triển mà không làm bùng nổ lượng khí thải nhà kính. Không sinh con nhằm chống biến đổi khí hậu, như một số thanh niên Mỹ hay Châu Âu vẫn làm, không phải là một giải pháp hữu hiệu đối với các nhà nhân khẩu học. Bà Valérie Golaz cảnh báo : "Đây không phải là một giải pháp. Nếu vì không có con mà mọi người đi du lịch hoặc tiêu dùng nhiều hơn thì hậu quả có thể còn tồi tệ hơn nữa".
Vì sao dân số thế giới sẽ ngừng tăng ?
Như đã đề cập ở trên, dân số thế giới có thể sẽ ngừng tăng vào tầm năm 2100. Nhưng làm thế nào để lý giải hiện tượng này, khi từ xưa đến giờ dân số thế giới không ngừng tăng ?
Đối với ông Pison, thực tế là dân số thế giới đạt đỉnh và chững lại vào cuối thế kỷ là hệ quả của các xu hướng đã được các chuyên gia dự đoán. Họ quan sát thấy rằng mặc dù dân số thế giới vẫn tiếp tục tăng, nhưng tốc độ giảm dần kể từ 60 năm qua.
Trong nhân khẩu học, tỷ lệ sinh sản tương ứng với số lượng con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ này đang giảm trên toàn thế giới. Ngày nay, phụ nữ Châu Âu và Bắc Mỹ có trung bình 1,5 con mỗi người, so với 1,9 ở Châu Á và 1,8 ở Châu Mỹ Latinh. Ông Pison nói : "Ở Châu Phi, nếu trung bình mỗi phụ nữ có hơn 4 người con, thì khả năng sinh sản cũng đang giảm ở đó. Việc hạn chế sinh nở ở Châu Phi cũng đang trở nên phổ biến giống như những nơi khác, mặc dù tốc độ giảm ở đó không nhanh như những gì được quan sát thấy ở Châu Mỹ Latinh hoặc Châu Á khoảng 40 năm về trước".
Nếu như tỷ lệ sinh đẻ giảm mạnh đã được quan sát thấy ở một số nước phát triển, thì theo Liên Hiệp Quốc, sự gia tăng dân số dự kiến trong những thập kỷ tới sẽ tập trung hơn một nửa ở 8 quốc gia, bao gồm 5 nước Châu Phi và 3 nước Châu Á : Cộng hòa Dân chủ Congo, Ai Cập, Ethiopia, Nigeria, Tanzania, Pakistan, Ấn Độ và Philippines.
Dân số thế giới đang già đi
Một lý do nữa khiến dân số thế giới ngừng tăng là độ tuổi trung bình của dân số Trái đất đang tăng dần. Theo dữ liệu của Liên Hiệp Quốc, trong khi số lượng người dưới 25 tuổi đã giảm kể từ những năm 1960, thì những người trên 65 tuổi sẽ tăng mạnh cho đến năm 2060. Do đó, tuổi trung bình của dân số Châu Âu sẽ tăng từ 41 tuổi như hiện nay lên thành 49 tuổi vào năm 2100.
Tốc độ già hóa của các quốc gia ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh được dự đoán sẽ diễn ra nhanh hơn. Độ tuổi trung bình của người dân ở các nước đó, khoảng 25 tuổi vào đầu những năm 2000, theo dự báo sẽ tăng lên 47 tuổi vào cuối thế kỷ này. Người dân các nước Châu Phi vẫn còn tương đối trẻ. Độ tuổi trung bình ở các nước đó hiện nay là khoảng 19 tuổi, thì dự kiến sẽ là khoảng 35 tuổi vào năm 2100.
Thay đổi lối sống để gìn giữ tài nguyên trên trái đất
Khi được hỏi liệu Trái đất có đủ tài nguyên để nuôi sống một lượng dân số ngày càng tăng hay không, nhà kinh tế học Alban Thomas thuộc viện Nghiên cứu Nông nghiệp Pháp (INRAE) đã nhận định rằng Trái đất có thể nuôi sống 9 hoặc 10 tỷ người. Vấn đề là tài nguyên thiên nhiên hiện không được phân bổ đồng đều. Cách sinh hoạt như hiện nay, việc con người ăn nhiều sản phẩm từ thịt có tác động rất lớn đến môi trường. Nếu cứ tiếp diễn, tài nguyên sẽ sớm cạn kiệt, vì vậy con người phải nhanh chóng thay đổi cách sinh hoạt như tôn trọng và bảo vệ môi trường, thay đổi cách tiêu thụ thực phẩm...
(Theo Franceinfo, La Croix, L’Obs)
Phan Minh tổng hợp
Nguồn : RFI, 17/11/2022
Dân số thế giới dự kiến đạt mốc 9 tỷ 8 trăm triệu người vào năm 2050 mặc dù tỷ lệ sinh trên toàn thế giới đang giảm.
Phụ nữ Ấn Độ xếp hàng khám thai trong một bệnh viện ở Amritsar, India. AFP photo
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho biết như vậy vào ngày 21/6. Theo đó, dân số thế giới năm 2015 chỉ có 7,4 tỷ người nhưng hiện đã tăng lên 7,6 tỷ do tỷ lệ sinh tương đối cao ở các nước đang phát triển.
Vụ Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc nói trong báo cáo rằng mỗi năm dân số thế giới tăng khoảng 83 triệu người thì dù có giả định là tỷ lệ sinh giảm đi chăng nữa thì quy mô dân số vẫn tiếp tục tăng.
Với tốc độ này, dân số thế giới dự kiến sẽ đạt 8,6 tỷ vào năm 2030 ; 9,8 tỷ năm 2050 và vượt qua 11,2 tỷ năm 2100.
Nguyên nhân của tốc độ tăng trưởng dự kiến này một phần đến từ 47 nước kém phát triển nhất, nơi tỷ lệ sinh khoảng 4.3 lần mỗi phụ nữ, và từ 26 nước châu Phi, nơi dân số có khả năng tăng ít nhất là gấp đôi vào năm 2050.