Lý giải về việc nhà cầm quyền Việt Nam đem Lê Văn Mạnh ra xử tử
Khi Lê Văn Mạnh – một trong 3 tử tù của 3 vụ án có nhiều dấu hiệu oan sai được dư luận cả trong và ngoài nước quan tâm từ lâu nay (hai người kia là Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải) – bị đem đi thi hành án vào sáng ngày 22/9/2023 sau 19 năm ròng rã kêu oan, dư luận sững sờ, choáng váng, kinh ngạc, và ghê tởm.
Bà Nguyễn Thị Loan (bên trái) kêu oan cho con là tử tù Hồ Duy Hải
Lướt trên mạng xã hội, một câu hỏi được rất nhiều người đặt ra đó là tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại nhất quyết phải đem Lê Văn Mạnh ra xử tử ? Theo quan điểm của nhiều người, có nhiều lý do để nhà nước cộng sản Việt Nam không nên hành động như vậy : Một, việc này hoàn toàn chẳng đem lại lợi lộc gì cho hình ảnh vốn đã không lấy gì làm đẹp đẽ của chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam với hồ sơ tệ hại về nhân quyền, đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo v.v… mà còn làm cho thế giới kinh tởm, người dân nào biết chuyện cũng thấy phẫn nộ. Hai, Lê Văn Mạnh chỉ là một người dân thường, không phải là một người bất đồng chính kiến, một nhà hoạt động dân chủ hay bất cứ một nhân vật gì có thể là "mối nguy" cho chế độ. Ba, Việt Nam vừa mới ký kết nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên thành "Đối tác Chiến lược Toàn diện", chơi với một quốc gia văn mình, dân chủ, thượng tôn pháp luật thì cũng nên hành xử bớt man rợ, bớt xài luật rừng hơn một chút…
Nhưng đó là chúng ta đang suy nghĩ theo quan điểm của những con người bình thường, có lương tri.
Cũng như khi chúng ta nói cách giải quyết một vụ án có dấu hiệu oan sai ở những chế độ dân chủ, thượng tôn pháp luật là họ phải đem ra điều tra xét xử lại từ đầu, hoặc cùng lắm, nếu điều tra lại mà vẫn không đủ chứng cớ buộc tội thì họ phải thả người bị giam ra, theo nguyên tắc "thà bỏ sót còn hơn giết nhầm".
Nhưng như đã nói, đó là ở những quốc gia dân chủ. Không thể hiểu hay lý giải hành động của những kẻ cai trị một chế độ độc tài hay chế độ đó nếu đem những suy nghĩ của một người bình thường, có lương tri hoặc những nguyên tắc, chính sách của một chế độ dân chủ để so sánh, đối chiếu.
Một nhà nước độc tài toàn trị, nhất lại sắt máu và dày dạn kinh nghiệm "trị" dân như đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam có những suy nghĩ khác, cách hành xử khác. Nguyên tắc của nhà cầm quyền Việt Nam từ trước tới nay : Một, không bao giờ thừa nhận sai lầm, không bao giờ chịu thua dân, không bao giờ chịu lui một bước trước dư luận (trừ những việc hết sức vụn vặt). Bởi vì theo quan điểm của nhà nước này, nếu lui một lần thì rồi sẽ phải lui tiếp lần khác, để cho dân "thắng" một lần là dân sẽ đòi hỏi tiếp những chuyện khác. Hai, luôn luôn phải khẳng định quyền lực tối thượng của đảng, của chế độ : đảng là luật, luật là đảng. Ba, đây là "phép thử" của một chế độ độc tài đối với phản ứng của dư luận.
Nhưng sâu xa hơn nữa, mọi hành động, chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam đều nằm trong những chiến lược, biên pháp "trị" dân và bảo vệ quyền lực của một chế độ độc tài.
Những chiến lược, biện pháp đó là gì ? Có lẽ, phần đông chúng ta cũng đã biết, đã hiểu sau bao nhiêu năm sống hoặc quan sát các chế độ độc tài toàn trị nói chung và Việt Nam nói riêng :
1. Dối trá. Mọi chế độ độc tài đều tồn tại nhờ sự dối trá. Mọi chế độ độc tài đều sợ hãi sự thật.
2. Tuyên truyền tẩy não. Viết lại lịch sử đen thành trắng, trắng thành đen.
3. Sử dụng bạo lực để làm cho người dân sợ hãi.
4. Tiêu diệt những giá trị tốt đẹp trong con người như lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần công dân, tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng, danh dự, lòng trung thực, tính liêm sỉ, lòng dũng cảm, khao khát tự do, dân chủ… Bởi vì khi những phẩm chất tốt đẹp này trong mỗi người dân càng mạnh thì người dân sẽ không thể chấp nhận được cái chế độ độc tài tệ hại mà họ đang phải sống. Thay vào đó phải tạo ra một xã hội trong đó con người sống vô cảm, hèn nhát, không quan tâm đến những mối quan tâm của xã hội hay vận nước, tương lai dân tộc, chỉ biết có bản thân, chỉ chạy theo vật chất và những giá trị bên ngoài, dối trá v.v…
5. Bẻ gãy ý chí, bẻ gãy mọi sự kháng cự dù nhỏ nhất.
6. Coi mọi người dân, mọi tổ chức dù là vô hại nhất, đều là những mối nguy tiềm tàng cho chế độ và phải triệt từ trong trứng nước, "thà giết nhầm còn hơn bỏ sót" chứ không phải "thà bỏ sót còn hơn giết nhầm".
Đối với các chủ trương, biện pháp, chiến lược 1, 2, 3, 4 đã quá rõ ràng với thực tế ở Việt Nam, chỉ xin nói rõ hơn một chút biện pháp, chiến lược số 5 và 6.
Bẻ gãy ý chí, bẻ gãy mọi sự kháng cự dù nhỏ nhất
Trở lại câu chuyện của tử tù Lê Văn Mạnh, luật sư Đặng Đình Mạnh – một trong 3 luật sư bị nhà nước truy lùng đến mức phải bỏ nước ra đi sống tỵ nạn ở Mỹ mới đây, trong một status "AI LÀ KẺ SÁT NHÂN ĐỐI VỚI LÊ VĂN MẠNH" đăng ngày 26/9/2023 trên Facebook có viết :
"Tôi đã từng nghe "Tử hình sạch đám kêu oan, thì sẽ không còn án oan nữa !!!" cứ nghĩ là câu đùa quá trớn. Hóa ra, nó là chủ trương. Cho nên, sau khi giết Lê Văn Mạnh như một phép thử, mà công chúng vẫn bàng quan, thì sẽ đến lượt Nguyễn Văn Chưởng, Hồ Duy Hải…".
Nghe rợn người. Nhưng đúng là như vậy. Khi người dân càng kêu oan, nhà cầm quyền càng dập mạnh, để tiêu diệt luôn, lần sau không còn ai kêu nữa. Sau khi Lê Văn Mạnh bị đem đi giết, rất nhiều người trên mạng xã hội đã thốt ra những câu như : Buồn quá ! Tuyệt vọng ! Không còn muốn nói gì nữa v.v… Và thế là nhà cầm quyền đã đạt được ý định của họ. Đó là bẻ gãy ý chí kháng cự của người dân, buộc người dân tiếp tục chấp nhận mọi sự tàn ác, phi nhân của nhà cầm quyền. Và thế giới cũng thế. Trước khi Lê Văn Mạnh bị xử tử, đã có hàng chục quốc gia phương Tây lên tiếng kêu gọi nhà nước Việt Nam dừng thi hành án tử hình ông Lê Văn Mạnh, sau khi Việt Nam đem Lê Văn Mạnh ra xử tử, nhiều quốc gia, tổ chức nhân quyền quốc tế lên án gay gắt việc này.
Nhưng có ăn thua gì không ? Sau gần nửa thế kỷ độc quyền cai trị trên toàn cõi Việt Nam, đối nội đảng cộng sản ra sức đàn áp, tiêu diệt ý chí của người dân, đối ngoại mở cửa làm ăn với thế giới và trong cái nhìn của thế giới, chế độ độc tài Việt Nam dù sao cũng không phải là mối đe dọa đối với hòa bình, trật tự thế giới như chế độ độc tài Trung Quốc nên Hoa Kỳ và phương Tây cũng ít cảnh giác hơn, mới đây Việt Nam lại ký kết nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ (đối với Hoa Kỳ như vậy là Việt Nam đã là một kiểu đồng mình nào đó, còn đối với Đảng cộng sản Việt Nam, như vậy là Hoa Kỳ đã chấp nhận mô hình thể chế của Việt Nam, chấp nhận "tính chính danh" của đảng cộng sản). Chính vì vậy mà nhà cầm quyền Việt Nam có đầy đủ tự tin để sẵn sàng chà đạp lên nhân quyền, bất chấp dư luận trong ngoài nước.
Coi mọi người dân, mọi tổ chức dù là vô hại nhất, đều là những mối nguy tiềm tàng cho chế độ
Điều này giải thích cho việc đàn áp, bắt bớ những người bất đồng chính kiến ôn hòa tay không tấc sắt, mọi tổ chức, nhóm hoạt động dân sự hay tôn giáo dù nhỏ, lẻ, thậm chí chỉ là một nhóm tu tại gia như Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ. Và mới đây, là những vụ bắt bớ liên tiếp đối với các nhà hoạt động hàng đầu trong lĩnh vực môi trường như Hoàng Thị Minh Hồng, Mai Phan Lợi, Đặng Đình Bạch, Bạch Hùng Dương, Ngụy Thị Khanh, Hoàng Ngọc Giao. Tất cả đều bị bắt và bị xử với tội danh "trốn thuế". Nhờ áp lực của quốc tế mà Mai Phan Lợi và Ngụy Thị Khanh đã được trả tự do trước thời hạn. Mới đây, lại thêm bà Ngô Thị Tố Nhiên, giám đốc điều hành tổ chức mang tên Sáng kiến Chuyển đổi Năng lượng Việt Nam (VIET). Đồng thời, bà Hoàng Thị Minh Hồng, Sáng lập kiêm Giám đốc tổ chức CHANGE đã bị tuyên ba năm tù về tội 'trốn thuế' trong phiên sở thẩm ngày 28/9.
Nhiều người cũng lại đặt câu hỏi tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại hành đông như vậy trong khi chính phủ Hà Nội đang nỗ lực thực hiện cam kết về giảm phát thải khí carbon thông qua chương trình "Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng" (JETP), để nhận được gói tài trợ trị giá 15,5 tỷ đô la, từ Hoa Kỳ, Liên Âu và một nhóm các nước giàu có của khối này ? Nhà cầm quyền Việt Nam không sợ sẽ gặp khó trong việc nhận gói hỗ trợ khi liên tục đàn áp các nhà hoạt động môi trường ?
Một khi đã hiểu bản chất của một chế độ độc tài và những chính sách, chiến lược "trị" dân của họ, chúng ta đã có câu trả lời. Những nhà hoạt động môi trường vừa bị bắt đều là những người có tài năng, có mối quan hệ làm việc tốt với các tổ chức nước ngoài, được thế giới biết đến, và tiếng nói của họ có ảnh hưởng – dù hoạt động của họ chỉ liên quan đến lĩnh vực môi trường, biến đổi khí hậu, bảo vệ thiên nhiên, động vật chứ không liên quan đến chính trị, đòi tự do dân chủ, nhưng vì những yếu tố trên, họ vẫn là những "mối nguy tiềm tàng" cho chế độ.
***
Khi Hoa Kỳ-Việt Nam trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, có lẽ phần lớn người Việt, dù trong hay ngoài nước, đều vui mừng. Có điều, nếu vì vui mừng hồ hởi quá mà chúng ta ngợi khen đảng cộng sản đã sáng suốt, khen ông Nguyễn Phú Trọng biết nghĩ tới dân tới nước, hoặc hy vọng đảng cộng sản sẽ thay đổi theo hướng dân chủ là khen quá đà, là lạc quan quá sớm. Thực tế chứng mình, từ giai đoạn 1930-1975 mục tiêu lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam là giành được quyền lực tuyệt đối trên toàn quốc, và từ sau ngày 30/4/1975 trở đi, mục tiêu lớn nhất của đảng là giữ được quyền lực. Chuyện phải "đổi mới" về kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường – thật ra là "đổi lại cái cũ", hay chuyện quay đầu xin làm lành với Trung Quốc năm 1991 hay bây giờ, xích lại gần hơn với Mỹ, cũng đều chỉ là để giữ được đảng, giữ được chế độ. Bởi vì nếu thực tâm nghĩ đến dân đến nước thì đảng cộng sản phải thấy rằng cần phải thay đổi triệt để cái mô hình độc tài độc đảng, đi theo con đường dân chủ hóa, đa đảng, tam quyền phân lập, là bạn bè đồng minh của các cường quốc dân chủ thì mới thống nhất được lòng dân, giải phóng được mọi nguồn lực của dân tộc, để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh, tiến bộ, nhân dân được tự do, hạnh phúc thực sự và mới bảo vệ được lãnh thổ, chủ quyền.
Cũng đừng quên đảng cộng sản đã ký kết bao nhiêu thứ hiệp định, hiệp ước trên đời nhưng có bao giờ tôn trọng cái gì đâu ? Có nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ lên cỡ nào thì chính sách đối nội cũng sẽ chẳng có gì thay đổi.
Thì rõ ràng, vừa ký kết nâng cấp quan hệ với Mỹ xong là bắt ngay thêm một nhà hoạt động môi trường tài năng, giết ngay thêm một người tù ròng rã kêu oan 19 năm, và quyết tâm phá hủy cho bằng được hơn 600 hecta rừng tự nhiên ở Bình Thuận, bất chấp mọi lời phản đối v.v…
Phải chính tay chúng ta tự viết lại trang sử của chính mình
Bao giờ họ thay đổi cách cư xử đối với chính nhân dân Việt Nam, bao giờ họ có những chính sách và hành động thực sự hòa giải với dân tộc, với quá khứ… thì lúc đó chúng ta mới có thể tin rằng họ thực sự muốn thay đổi, rằng họ thực sự biết nghĩ vì vận mệnh, tương lai của đất nước và dân tộc. Mọi sự ký kết, mọi hiệp định, hiệp ước bắt tay với các nước, mở cửa kết nối với thế giới… sẽ hoàn toàn không có nghĩa lý gì khi đảng cộng sản còn hành xử tàn ác, phi nhân tính đối với chính người dân của mình, khi đảng cộng sản còn viết lại lịch sử, đổi trắng thành đen, đen thành trắng, khi đảng cộng sản còn quyết tâm thua đủ với nhân dân từng chút một.
Người Việt và việc cần làm
Chúng ta không ngây thơ nhưng cũng đừng để cho sự cứng rắn, tàn nhẫn của đảng cộng sản tiêu diệt lương tri, ý chí, niềm tin vào tương lai và sức quật khởi của dân tộc Việt Nam. Nếu để cho bị bẽ gãy ý chí, tuyệt vọng và buông xuôi, mặc nhiên coi đất nước Việt Nam là tài sản riêng của đảng cộng sản, tương lai, vận mệnh đất nước, dân tộc nằm trong tay đảng là đúng với mục tiêu, thủ đoạn, chiến lược của đảng cộng sản.
Tự do, dân chủ, hạnh phúc cho người Việt Nam không thể trông đợi từ sự sụp đổ của Trung Quốc, từ vai trò của một ông Tổng thống Mỹ nói riêng hay cả nước Mỹ nói chung, cũng không thể đến từ khả năng biết nghĩ lại và tự thay đổi của đảng cầm quyền.
Tự do, dân chủ, hạnh phúc chỉ có thể đến từng bước, từng bước từ sự đấu tranh, gây sức ép lên nhà nước từng ngày từng giờ của chính người dân Việt Nam.
Chỉ riêng từ thế kỷ XX cho tới nay, dân tộc Việt Nam đã chịu đựng quá nhiều, dân tộc này xứng đáng được sống trong một xã hội tốt đẹp hơn, một thể chế tiến bộ, văn minh hơn, mang khuôn mặt con người hơn.
Song Chi
Nguồn : RFA, 29/09/2023
Tại sao đã sống gần trọn đời, mà bây giờ đến gần cuối đời thì tôi lại đặt câu hỏi là : "Tôi đã được sinh ra chưa ?", trên thượng nguồn về chuyện tổng kết một đời người của tôi từ lâu đã có sự hiện diện của hai sự phụ trong văn chương, họ đã gieo cho tôi phiền muộn này, đã tới từ phiền não của họ. Người thứ nhất là thi hào Rimbeau mà thi nghiệp có thể được tóm gọn trong câu kết là : "Đời sống thật của đời tôi chắc là nó ở một nơi khác, một chốn nào đó, mà bản thân tôi không được sống thật với đời sống thật đó". Người thứ nhì là văn hào Kafka mà văn nghiệp cũng có thể được tóm thâu trong câu cuối là : "Tôi đã sống rồi, nhưng không biết là tôi đã được sinh ra đời chưa ?".
Câu chuyện của hai sự phụ của tôi là Rimbeau và Kafka, không hề là câu chuyện sinh đẻ ; cũng chẳng phải câu chuyện sinh, lão, bịnh, tử, mà đây là câu chuyện của suy tưởng làm nên tư tưởng. Với tư duy mong cầu được sống với cuộc đời bằng chính nhân sinh quan của mình, được chia sẽ với đồng bào của mình bằng chính thế giới quan của mình, được chung chia với đồng loại của mình bằng chính vũ trụ quan của mình. Xin được kể về nhân lộ của tôi, không một chút phiền muộn, phiền não hoặc phiện lòng gì cả để tự trả lời câu hỏi cho chính tôi là : "Tôi đã được sinh ra chưa ?".
Arthur Rimbaud và Franz Kafka
* Sự thật, tới với cá nhân như một biến cố bắt cá nhân phải thay đời đổi kiếp ngay tức khắc, trong bây giờ và ở đây, vì thời gian sẽ không đợi được và sẽ không còn một cơ hội nào khác. Đó là khi tôi thấy-để-thấu bản chất của bạo quyền độc đảng toàn trị đang cai trị đồng bào, giống nòi, đất nước của tôi. Khi tôi sử dụng khảo sát, vận dụng nghiên cứu, tận dụng học thuật để xem-rồi-xét là trong một xã hội đang nằm trong quyền sinh sát của một bạo quyền độc đảng toàn trị thì tôi hiểu là nó có cả một ổ ung thư ngay trong bạo quyền đó. Tại đây, tôi đã thấy có : công an trị, thanh trừng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị, ngu dân trị, tuyền truyền trị, lạm quyền trị, cực quyền trị, cuồng quyền trị… nơi mà nhân quyền cùng nhân phẩm của đồng bào tôi không bằng cái móng chân của bọn chúng.
* Sự cố, của sự thật đã làm nên biến cố ngay trong cuộc đời của tôi, vì biến cố này bắt buộc tôi không được nhắm mắt, cúi đầu, khom lưng, khoanh tay, quỳ gối, rạp đất. Mà tôi phải thức tỉnh để thức dậy, thẳng lưng để đi tới, mở mắt để sáng lòng, dấn bước để dấn thân… Dù biết dấn thân sẽ có ngày bị bạo quyền độc đảng toàn trị, cùng có các đứa con cốt tử của nó là : tà quyền mưu hèn kế bẩn, là quỷ quyền truy cùng diệt tận, là ma quyền chó cắn trộm, là âm quyền chém sau lưng sẽ tù đày tôi, hãm hại tôi, ám sát tôi, thủ tiêu tôi… Nhưng khi sự cố của thực tại của cả một xã hội đã trở thành biến cố sâu đậm trong cuộc đời của một cá nhân, thì biến cố này mang tầm vóc của chuyện vật đổi sao dời ngay trong tư tưởng của cá nhân đó. Tại đây, nhân kiếp của một cá nhân luôn thấp, bé, ngắn, cụt so với nhân phẩm của đồng bào, nhân đạo của đồng loại, đây chính là thượng nguồn của các quá trình dấn thân. Chính sự cố tập thể của nhân sinh đã tạo ra biến cố cá nhân ngay trong nhân kiếp của cá nhân đó ; nơi mà sự thật đòi hỏi sự dấn thân, mà sự dấn thân đòi hỏi lòng can đảm.
* Phép mầu, báo tin là sự cố không bi thảm, biến cố không phải là bi nạn, mà sự dấn thân xem sự cố như một phép lạ, mà lòng can đảm xem biến cố như phép màu, đã khai thị nhân sinh quan, rồi khai sáng thế giới quan, mà thử thách của một nhân kiếp là phải thấy phép màu của nhân tính để tiếp nhận phép lạ của nhân phẩm. Vì nhân phẩm không ai trao tặng chúng ta, mà mỗi người trong chúng ta phải sử dụng nhân quyền, vận dụng nhân lý, tận dụng nhân tri để dấn thân trong đấu tranh mà tiếp nhận nhân phẩm. Câu chuyện phép mầu ở đây không hề là câu chuyện mê tín, dị đoan, cũng chẳng phải là câu chuyện của tôn giáo kể về một phép lạ của ơn trên ; mà là câu chuyện của nhân thế có ngay trong nhân gian khi nhân lý nhận ra nhân quyền để bảo vệ nhân phẩm. Câu chuyện phép mầu giữa người và người này là câu chuyện của nhân loại, nó sinh tồn với đồng loại, và nó là câu chuyện thật đẹp, và rất thông minh, không cực đoan, chẳng cuồng đạo.
* Công lý, là câu chuyện cũng rất thông minh khi nhân tính và nhân lý đi tìm để được hạnh ngộ với nhân tri và nhân trí, cụ thể là tìm kiến thức để tổ chức tri thức, tiếp ý thức để đón nhận thức, để tất cả cùng nhau tỉnh thức trước bất bình đẳng. Trong phong kiến thủa xưa thì con vua lại được làm vua, trong chế độ bạo quyền nội đảng trị hiện nay thì con quan lại được làm quan. Nơi mà bạo quyền độc tài nhưng bất tài trong quản lý, lại tự vỗ ngực như một bà lãnh đạo thành Hồ : "Con cán bộ mà làm cán bộ là hồng phúc cho dân tộc". Dân tộc nào vậy ? Có dân tộc nào chấp nhận được độc tài nhưng bất tài ? Có dân tộc nào chấp nhận được độc trị nhưng không biết quản trị ? Có dân tộc nào chấp nhận được độc tôn nhưng không biết gì về tôn ti trật tự trong đạo lý của tổ tiên, đạo đức của dân tộc, luân lý của giống nòi ? Bất bình đẳng sinh đôi với bất công, khi nhân lý gào lên "bất bình đẳng quá !", khi nhân tính thét lên "bất công quá !", thì nhân phẩm sẽ gào lên : "bất nhân thất đức quá !". Từ đây, công lý đã xây dựng nên nền, móng, tường, mái cho sự xuất hiện của chủ thể.
"Nếu tôi đang sống mà mang đầy những nỗi lo, nỗi sợ, nỗi đau, nỗi khổ, nỗi hoảng, thì thật sự là tôi chưa xứng đáng được sinh ra trên cõi đời này !"
* Chủ thể, không còn là một cá thể đơn lẻ, không còn là một cá nhân đơn độc, mà là chủ trong chính nhân kiếp của mình, để trực tiếp trả lời câu hỏi : "Tôi đã sinh ra rồi, và tôi sinh ra với nỗi khổ của đồng bào trước bạo quyền độc đảng công an trị, với niềm đau của đồng loại trước bạo quyền độc đảng tham nhũng trị, đã biến dân lành thành dân oan, dân tốt thành dân đen. Tôi đã sinh ra rồi, và tôi phải lớn khôn với công lý, và tôi phải cõng, bổng, ẵm, bế ngay trong âm giới của âm binh đang chực chờ để mai phục tôi, đang rình rập để hãm hại tôi. Nhưng tôi phải chấp nhận cái giá này ! Cái giá được dẫn dắt bằng nhân quyền vì công lý, được dìu dắt bằng sự dấn thân của lòng can đảm !". Tôi sinh ra trên đất nước này, trong vòng tay của dân tộc này, tôi luôn có một dòng sinh mệnh với giống nòi của tôi, như vậy tôi đã định được thời gian lẫn không gian của sự ra đời của tôi : "Tôi sinh ra trong bất công nhưng tôi biết lớn lên trong đấu tranh vì công lý để bảo vệ công bằng".
* Can đảm, nơi mà lòng quả cảm làm nên chí kiên cường trong đấu tranh của chủ thể đã nhận bổn phận với đồng bào, trách nhiệm với đất nước, sứ mệnh với giống nòi, như nhận thử thách bằng chính nhân tâm của mình, nhận thăng trầm chính nhân từ của mình. Chủ thể không còn là thường dân, vì thường dân này đã lấy sự can đảm để dấn thân vì công lý, để trực diện mà trực luận bằng bất bạo động với bạo quyền độc đảng toàn trị, với các đứa con âm bịnh của nó là : công an trị, thanh trừng trị, tham nhũng trị, tham tiền trị, ngu dân trị, tuyên truyền trị, lạm quyền trị, cực quyền trị, cuồng quyền trị… Chủ thể đứng về phía nước mắt để đối thoại trong đối lý, đối luận trong đối trọng, đối lực trong đối kháng để vạch mặt chỉ tên bất bình đẳng, bất công, bất tài… Tính can đảm của chủ thể không đứng chung với tà quyền mưu hèn kế bẩn, không ngồi cùng với quỷ quyền truy cùng diệt tận các đứa con tin yêu của Việt tộc, mà chủ thể Việt đứng đối diện để đối đầu với bạo quyền độc đảng chỉ thạo thanh trừng trị.
* Nỗi lo, có trong chủ thể là nỗi lo bình thường của nhân tính khi cá nằm trên thớt trước bạo quyền công an trị, và tà quyền thanh trừng trị ; nhưng nỗi lo này không vùi dập được nhân lý, không chôn sống được nhân quyền, không thủ tiêu được nhân phẩm. Chính nhân phẩm phải có lý luận xác đáng để nỗi lo không làm nên nỗi sợ ; chính nhân tâm phải có lập luận thích đáng để nỗi sợ không làm nên nỗi đau ; chính nhân quyền phải có giải luận thích hợp để nỗi đau không làm nên nỗi khổ ; chính nhân đạo phải có diễn luận chính xác để nỗi khổ không làm nên nỗi hoảng.
***
Nếu bạo quyền độc đảng toàn trị cố tình với ý đồ, cố ý với mưu đồ của nó là thường xuyên tạo ra nỗi lo, nỗi sợ, nỗi đau, nỗi khổ, nỗi hoảng để cai trị dân tộc, thì chủ thể của lòng quả cảm làm nên chí kiên cường, sẽ tự trả lời với thâm tâm của mình rằng : "Nếu tôi đang sống mà mang đầy những nỗi lo, nỗi sợ, nỗi đau, nỗi khổ, nỗi hoảng, thì thật sự là tôi chưa xứng đáng được sinh ra trên cõi đời này !".
Lê Hữu Khóa
(01/03/2021)
---------------------
Lê Hữu Khóa
- Giáo sư Đại học Lille
- Giám đốc Anthropol-Asie
- Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
- Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCOLiên Hiệp Quốc
- Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris
- Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á
- Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.
Trung Quốc với nhiều tội ác chống lại nhân loại
Ngày 30/6 vừa qua Chủ tịch nước Công hòa nhân dân Trung Hoa, ông Tập Cận Bình, đã ký ban hành Luật An ninh quốc gia Hồng Kông ngay sau khi quốc hội thông qua luật này.
Luật An ninh vừa có hiệu lực thì ngày 1/7, kỷ niệm 23 năm Hong Kong được Anh trao trả lại cho Trung Quốc, hàng ngàn người Hong Kong đã xuống đường biểu tình phản đối, lập tức cảnh sát đã bắt giữ hơn 300 người, trong đó có nhiều người bị bắt theo luật an ninh mới.
Rồi đây, với Luật An ninh Hong Kong, mà hành vị phạm tội được diễn giải rất rộng và mơ hồ, bất cứ người Hong Kong nào cũng có thể bị ghép vào các tội "ly khai, lật đổ, khủng bố và thông đồng với các lực lượng nước ngoài để gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia". Không chỉ ảnh hưởng đến người trong Hong Kong mà bất kỳ ai, kể cả người nước ngoài, những người không thường trú tại Hong Kong nếu bị xem là có tội theo luật này cũng có thể bị trục xuất hoặc truy tố.
Sẽ là những phiên tòa vô pháp, người bị bị bắt sẽ bị tra tấn, bức cung, buộc nhận tội, sẽ nhận những bản án nặng nề hoặc sẽ bị dẫn độ qua Trung Quốc. Những ngày đau thương của Hong Kong bắt đầu.
Như nhiều nhà bình luận chính trị quốc tế cũng nhận xét, Luật An ninh Hong Kong sẽ thay đổi Hong Kong vĩnh viễn.
Trước đó, ngày 29/6, một nghiên cứu do quỹ Jamestown Foundation của Mỹ thực hiện, đã công bố những nghiên cứu cho thấy có khả năng Trung Quốc đang tiến hành một chính sách kiểm soát sinh sản bằng cách ép buộc triệt sản nhắm vào cộng đồng người Duy Ngô Nhĩ. Phụ nữ tại đây bị ép buộc triệt sản hoặc đặt vòng nếu không muốn bị gửi đến các trại cải huấn. Theo nhà nghiên cứu người Đức Adrian Zenz, một chuyên gia về sắc tộc này, tại hai tỉnh lớn vùng Tân Cương, nơi đa số dân là người Duy Ngô Nhĩ, chính sách triệt sản bắt buộc đã khiến dân số giảm một cách đáng ngại từ 2016.
Đây là một chiến lược rộng lớn nhằm làm giảm dân số Duy Ngô Nhĩ, thay thế dần dần bằng dân Hán.
Đối với dân Tây Tạng, dân Duy Ngô Nhĩ, trong nhiều năm qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã thi hành những chính sách, thủ đoạn vừa vô cùng tàn bạo vừa hết sức tinh vi, thâm độc. Không thể nào kể hết những tội ác của Trung Quốc.
Với dân Tây Tạng, có thể tìm thấy trong những bản báo cáo về vấn đề Nhân quyền của tổ chức Liên Hiệp Quốc (United Nations), tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), trong những báo cáo nghiên cứu Chính sách kiểm soát sinh đẻ của Trung Quốc tại Khu tự trị Tây Tạng, những báo cáo của Trung tâm Nhân quyền và Dân chủ Tây Tạng (Tibetan Centre for Human Rights and Democracy)… về những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Trung Quốc, bao gồm tước đoạt mạng sống, mất tích, tra tấn, điều kiện nhà tù tồi tệ, bắt bớ và giam giữ tùy tiện, từ chối xét xử công bằng, từ chối tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do Internet. Nó cũng bao gồm đàn áp chính trị và tôn giáo, phá hủy đền đài của người Tây Tạng, những chương trình kiểm soát sinh đẻ nghiêm ngặt kể cả buộc phải phá thai, triệt sản và thậm chí là giết trẻ sơ sinh… Những biện pháp để "tẩy não" các nhà sự, tu sĩ như ép buộc học về chính trị, ép buộc thay đổi quan điểm về Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, thay đổi niềm tin tôn giáo v.v… Trong hàng chục năm qua, hàng trăm hàng ngàn tu sĩ và người dân Tây Tạng đã chọn con đường tự thiêu để phản đối.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã cáo buộc rằng 1,2 triệu người Tây Tạng đã bị giết dưới sự cai trị của Trung Quốc.
Các biện pháp dành cho dân Duy Ngô Nhĩ cũng tương tự như thế.
Các báo cáo lên án chiến dịch thanh trừng sắc tộc Duy Ngô Nhĩ đang diễn ra tại Trung Quốc, ngày một nhiều.
Hiệp hội Nhà báo điều tra quốc tế (International Consortium of Investigative Journalists - ICIJ) ngày 24.11.2019 tiết lộ các tài liệu bị rò rỉ của Trung Quốc, với nhiều bằng chứng cho thấy việc "tẩy não" có hệ thống của Trung Quốc đối với hàng trăm ngàn người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương. Những người này đã bị đưa vào những nhà tù mà chính quyền Bắc Kinh gọi là "trung tâm giáo dục và đào tạo tự nguyện" nhưng thực tế là những nhà tù an ninh cao, ở đó học viên bị giam giữ không xét xử, bị buộc phải học thuộc những thông tin được truyền bá, học tiếng Quan Thoại, và bị trừng phạt.
Điều đáng tiếc là những gì đang diễn ra ở Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ hàng chục năm nay, một phần do bị nhà cầm quyền Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ, khiến việc xác định chính xác phạm vi vi phạm nhân quyền trở nên khó khăn, phần khác, người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ hết sức cô đơn, những phản ứng của thế giới không có tác động gì bao nhiêu đến Bắc Kinh.
Chưa kể tội ác của nhà cầm quyền Trung Quốc với chính người dân Trung Hoa qua các cuộc thanh trừng, cải cách ruộng đất, chiến dịch kinh tế Đại nhảy vọt, đã khiến từ 18 đến 45 triệu người chết bởi nạn đói do nông nghiệp đình trệ, cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã khiến cho hàng nghìn người trở thành nạn nhân tại Trung Quốc, sự kiện thảm sát Thiên An Môn 1989...Hay chính sách đàn áp Pháp Luân Công chính thức khởi xướng từ thời Giang Trạch Dân, với hàng vạn hàng triệu học viên Pháp Luân Công bị bắt giam, tra tấn, hãm hiếp…Và một trong những tội ác rúng động thế giới là nhiều học viên bị mổ nội tạng khi còn sống để cung cấp cho ngành cấy ghép sinh học của Trung Quốc.
Trong thế kỷ XX có hai chủ nghĩa gây đại họa cho nhân loại, đó là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản.
Thế giới nói rất nhiều về tội ác của phát xít Đức nhưng so với chủ nghĩa phát xít, cái hại của chủ nghĩa cộng sản còn lớn hơn nhiều, chỉ riêng con số nạn nhân bị chết tại các nước do đảng cộng sản lãnh đạo là 100 triệu người (1).
Các nước phát xít như Đức, Ý, Nhật bạo phát bạo tàn còn các nước do đảng cộng sản lãnh đạo từ Liên Xô trước kia cho tới Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn, Việt Nam, thời gian nắm quyền tuyệt đối đều từ hơn sáu thập niên cho tới hơn bảy thập niên, chính vì vậy di họa của nó đối với từng đất nước, từng dân tộc là vô cùng lớn. Và như đã nói, chế độ cộng sản nào cũng phạm nhiều tội ác chống lại loài người nhưng trong 4 quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo còn lại trên thế giới (Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn, Việt Nam) chỉ có Trung Quốc là có đủ tham vọng, có đủ sức mạnh về kinh tế, quân sự và có chiến lược đường dài thực sự đe dọa đến sự bình yên của thế giới.
Trung Quốc : tham vọng càng lớn, hiểm họa với thế giới càng cao
Bài học về sự tỉnh thức và phản ứng chậm chạp của các nước Châu Âu trước sự trỗi dậy của phát xít Đức trước kia, đường như đang lập lại với thế giới trước sự trỗi dậy của Trung Quốc !
Cho đến giờ phút này thì tham vọng của Trung Quốc đã quá rõ ràng, không chỉ dừng lại ở việc khống chế các nước láng giềng, tiến tới đánh chiếm Đài Loan, biến Biển Đông thành "ao nhà" mà còn vươn xa hơn, âm mưu chia lại trật tự thế giới, kể cả vươn lên thay thế vị trí của Mỹ. Nhưng khác với phát xít Đức, ít nhất trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ né tránh đối đầu về mặt quân sự với Hoa Kỳ và các nước phương Tây hết mức có thể, thay vào đó nhà cầm quyền Bắc Kinh sẽ chọn con đường khôn ngoan hơn, đạt được mục đích mà ít tốn kém hơn : Một mặt tiếp tục lấn chiếm từ từ về mặt lãnh hải, không phận trên Biển Đông, mặt khác, đánh phá, thao túng, lũng đoạn thế giới trên mọi mặt trận, từ kinh tế, sản xuất hàng nhái, hàng giả, hàng hóa độc hại, xâm lăng văn hóa, đánh cắp công nghệ, đánh cắp thông tin, trí tuệ, sử dụng fake news, mua chuộc, len lỏi vào mọi tổ chức trên thế giới để lèo lái theo hướng có lợi cho mình v.v…
Đấu với Trung Quốc vì thế là một cuộc chiến toàn diện, trong đó cần sự đoàn kết, phối hợp chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và các nước trên thế giới, và phải có những chiến lược bao vây, cô lập Trung Quốc về mọi mặt.
Ngăn chặn những tham vọng và tội ác của Trung Quốc bây giờ phải trở thành một mục tiêu lớn nhất, có ý nghĩa nhất của thế giới tự do dân chủ.
Riêng Việt Nam, một trong những tội ác lớn nhất của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam là đã tự nguyện đút đầu vào mối quan hệ bất xứng, đầy thiệt thòi và nguy hiểm đối với Trung Quốc, trước kia là do mắc nợ Trung Quốc (và Liên Xô) để tiến hành cuộc chiến chống lại Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, giành độc quyền lãnh đạo trên toàn quốc, còn sau này là do hèn nhát và muốn bảo vệ chế độ nên đã đặt quyền lợi của đảng, của chế độ lên trên quyền lợi của đất nước, dân tộc.
Nếu trong tương lai gần, Việt Nam có bị Trung Quốc tiến chiếm nốt các đảo còn lại, có bị Trung Quốc lấn lướt thì cũng chẳng có nước nào quan tâm vì Việt Nam đã tự nguyện chọn con đường không có đồng minh, không liên minh với bất cứ ai nhưng lại răm rắp học theo Trung Quốc nên trước mắt thế giới, các nước vẫn mặc nhiên xem Việt Nam là một phiên bản nhỏ, phiên bản lỗi của Trung Quốc.
Ngược lại, nếu thế giới có xảy ra đối đầu với Trung Quốc thì Việt Nam lại mất cơ hội để đứng về phía chính nghĩa chống lại cái ác.
Song Chi
Nguồn : RFA, 03/07/2020 (songchi's blog)
(1) 100 Years of Communism - and 100 Million Dead, WSJ. Đọc thêm : Mass killings under communist regimes, wikipedia
Ngay sau khi Tập Cận Bình "lên ngôi" tổng bí thư đảng cộng sản kiêm chủ tịch nước Trung Quốc thâu tóm trọn quyền lực trong tay đã mở cuộc chống tham nhũng "đả hổ, diệt ruồi" trừng phạt các đối tượng tham nhũng trong đảng không thuộc phe mình để củng cố quyền lực, mang lại chút sinh lực, uy tín của đảng cầm quyền.
Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo độc tôn tại Trung Quốc - Ảnh minh họa
Mặc dù điều tra tội tham nhũng phức tạp nhưng chỉ trong thời gian rất ngắn Tập đã diệt hết quan chức này đến quan chức khác mà chỉ trước đó ít ngày họ vẫn là những lãnh đạo cao quý, bỗng bị phơi ra cả núi trọng tội với lượng tiền bạc, của cải thu được ngoài sức tưởng tượng.Những quan chức như Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang… bị tịch thu mà cả nhiều chuyến xe tải mới chở hết tiền bạc, châu báu…
Ở Châu Phi, độc tài Gadhafi năm trước vẫn là những "cha mẹ", ân nhân của nhân dân, được coi là "thủ lĩnh Châu Phi" cho đến khi mất quyền thì mới thành kẻ độc tài tàn bạo, có hàng chục tỷ đô la trên khắp Âu, Mỹ, bắt hàng trăm cháu gái nhỏ làm nô lệ tình dục…
Ở Việt Nam ta, những Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng… từ chục năm trước đã khét tiếng lộng hành phá phách nhưng mãi đến mãi gần đây một phần tội trạng mới được làm sáng tỏ thì những trăm, nghìn tỷ của dân đã trở thành mây khói… Đó là hậu quả của một chế độ chỉ duy nhất một đảng nắm quyền.
Thời còn vinh quang, mỗi động tác của Đinh La Thăng đều có vô số người tung hô, bợ đỡ
Ở chế độ dân chủ đa đảng quan chức bị giám sát chặt chẽ : đảng đối lập, các tổ chức xã hội dân sự, báo chí tư nhân soi mói, tòa án độc lập phán xét, dân biểu tình phản đối… nên tham nhũng rất khó và ít. Ngược lại, trong bộ máy nhà nước ta hiện nay gần như không có ai giám sát quan chức, chức càng cao thì càng "an toàn", bất khả xâm phạm. Mặc dù ở địa phương có tổ chức đảng, hội đồng nhân dân, mặt trận tổ quốc, thanh tra nhân dân, thanh niên, cựu chiến binh, người cao tuổi ; ở doanh nghiệp nhà nước có cấp ủy đảng, hội đồng thành viên, công đoàn, ban kiểm soát… có chức năng giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý nhưng họ đều dưới sự phán xét của lãnh đạo đảng, chính quyền (sa thải, kỷ luật, lên chức, lên lương…) nên cái bộ máy khổng lồ có chức năng giám sát ấy chỉ là hình thức, "quân xanh" tất cả gần như tê liệt trước mọi quyết định của lãnh đạo doanh nghiệp, địa phương. Thậm chí nhiều người còn phải xu nịnh, đút lót cấp trên để được hưởng ân huệ nên những hành vi tham nhũng, phá phách không bị đưa ra ánh sáng dù mọi người, báo chí có biết.
Báo chí, một trong những cơ quan giám sát quan trọng của xã hội với quan chức, chính quyền nhưng vẫn do lãnh đạo cơ quan chủ quản (lãnh đạo địa phương, trung ương, bộ ngành, hiệp hội… đều do đảng lãnh đạo) quản lý chỉ định tổng biên tập, ăn lương do chính quyền phân phát nên họ chỉ dám đăng báo trong trường hợp "an toàn" có lợi hoặc được phép của lãnh đạo cấp trên, cơ quan chủ quản. Rất nhiều tin báo đăng không sai nhưng ngay lập tức phải gỡ bỏ khi các thế lực tham nhũng, cấp trên không cho phép là như thế. Ngược lại họ miệt mài "tô son, trát phấn" cho lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp để được an toàn, hưởng lợi từ phong bì, quảng cáo, cất nhắc...
Một trong những cách kiếm tiền quan trọng của nhà báo, tờ báo quốc doanh là bảo kê quan chức, doanh nghiệp. Tức chuyên tâng bốc ca ngợi quan chức, doanh nghiêp và đăng bài bênh vực khi cần để nhận tài trợ bằng nhiều hình thức. Vụ ông Đinh La Thăng phản ánh rõ, đầy đủ nhất tính chất phụ thuộc thảm hại vào chức, quyền, tiền của truyền thông nhà nước. Khi ông Đinh La Thăng đang nắm quyền, tiền, lợi ích… dư luận có cảm tưởng nhiều nhà báo suốt 24 g đi cùng, ăn, nằm cạnh giường ngủ của "bộ trưởng, bí thư Thăng" để không bỏ sót một câu nói, hành động nào mang tính phô trương của ông. Từ đây những lộng hành sai phạm của quan chức này bị vùi lấp bởi những lời nói, việc làm mị dân. Thậm chí ông còn trở thành ngôi sao sáng trên chính trường.
Vụ MobiFone mua AVG các quan chức còn tập hợp được một nhóm lợi ích lý tưởng mà chỉ ở chế độ độc tài mới làm được : Nhóm gồm bộ Thông tin và truyền thông, công an, tài chính, kế hoạch đầu tư, văn phòng chính phủ, các cơ quan kiểm định… đều "nhất trí cao" với việc làm sai lại còn tạo cái vỏ giáp : "Bí mật" để vô hiệu mọi sự nhòm ngó. Hồi Trịnh Xuân Thanh ở Đức đã tố cáo công khai trên mạng hàng chục năm liền nhóm người giám sát việc xuất khẩu dầu ngoài khơi gồm đại diện văn phòng chính phủ, bộ giao thông, công an, tài chính thông đồng bán cho Trung Quốc một nửa số dầu trả tiền mặt với giá thấp hơn thị trường lấy chênh lệch chia nhau. Mỗi khi họ trở về đất liền mang những ba lô đầy ắc đô la… thì ít người dám tin nhưng qua vụ AVG và nhiều vụ khác thì tố cáo của Trịnh Xuân Thanh là có cơ sở.
Do không có lực lượng nào tranh giành, giám sát, đấu tranh lại được truyền thông bưng bít cái sai, phóng đại cái tốt nên hầu hết quan chức tìm mọi cách tham nhũng, vơ vét, cướp bóc của cải xã hội, lợi ích quốc gia, địa phương. Thấy cán bộ lớn ăn lớn, bé ăn bé mà an toàn nên việc lên chức được tôn vinh là "tiến bộ"người người "phấn đấu" làm cán bộ, hầu hết các địa phương, doanh nghiệp nhà nước "cả họ lãnh đạo làm quan" để cùng giàu sang nên chức quyền trở thành "tài khoản" vô giá. Cô hotgirl Quỳnh Anh xứ Thanh, anh thanh niên Yên Bái Phạm Sĩ Quý… chỉ có chức trưởng phòng, giám đốc sở tỉnh miền núi nghèo rớt nhà nước thường phải trợ cấp lương thực mà la liệt tài sản, biệt phủ, xe sang nghênh ngang trước sự đói rách của nhân dân...
Vơ vét quá dễ lại an toàn, sang trọng nên quan chức "ăn của dân không từ cái gì", ăn cả của người tàn tật, tai họa, người chết… Đến tướng cảnh sát có nhiệm vụ trấn áp tội phạm dù "lương cao, lộc hậu" đã rất giàu nhưng lại vẫn bảo kê tội phạm thu những khoản tiền khủng khiếp, tướng công an vô tư công văn cho các địa phương phải nhượng rẻ chỗ đất này, nọ cho tay chân (nếu những công khai trên mạng vừa qua là sự thật) kiếm lời bất chính hàng trăm, ngàn tỷ ngon ơ… Tham nhũng đã như một nghề của quan chức nên họ cũng không thèm giấu diếm tài sản bẩn mà còn tự hào về sự sang trọng, "quý phái" của mình. Thời gian qua dân được chiêm ngưỡng cơ man những lâu đài, biệt phủ cực kỳ hoành tráng, xe sang lộng lẫy của quan chức lớn, bé trước sự nhọc nhằn, khốn khó của dân.
Quan chức tham nhũng không thể "ăn một mình" mà phải luôn có ô dù, bè cánh, "nhóm lợi ích" thế lực lớn hơn cất nhắc, bảo kê. Để "nuôi", giữ được ô dù,tất nhiên quan chức phải có tiền (ngày càng đắt đỏ) dẫn đến quy trình khép kín : Tham nhũng để có tiền thuê bảo kê, muốn có tiền phải tham nhũng… Và cả bộ máy trở thành một "tập quyền tham nhũng" khăng khít là như thế. Quan chức "không tham nhũng bị người tham nhũng cô lập" (Lời đại biểu quốc hội Nguyễn Ngọc Phương tại diễn đàn quốc hội). Do tham nhũng quá dễ lại an toàn nên hầu hết quan chức là tham nhũng đúng như lời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng : Tham nhũng "nhìn đâu cũng thấy, sờ đâu cũng có" và "Nếu kỷ luật cả(tham nhũng) lấy ai làm việc" (Lời nguyên chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng) là rất chuẩn xác.
Khi thế lực, ô dù trong cơ quan, doanh nghiệp hoặc phe phái tham nhũng mạnh, đoàn kết thì quan chức an toàn thậm chí "hùng mạnh", chỉ đến khi, ô dù phe cánh suy yếu thì mới có nguy cơ bị phanh phui, trừng phạt. Vụ Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh thể hiện rõ điều này. Trước và ít ngày sau đại hội 12 những ông này vẫn là những "ngôi sao sáng" của đảng cộng sản, ông Trịnh Xuân Thanh vào quốc hội, lên chức vù vù,ông Đinh La Thăng vào Bộ chính trị lên chức bí thư thành phố lớn nhất Việt Nam mặc dù trước đó dư luận không lạ gì sự lộng hành, phá phách của ông Đinh La Thăng (năm 2012 tôi đã đăng công khai bài : "Dưới thời ông Đinh La Thăng ngành Hàng không Việt Nam hãy coi chừng" trên blog Huỳnh Ngọc Chênh). Chỉ đến giữa năm 2017 thì các ông mới có tội. Việc chỉ cần thời gian cực ngắn tòa đã đưa ra xét xử với vụ án rất phức tạp như vụ ông Đinh La Thăng chứng tỏ tội trạng từ hàng chục năm qua của ông đã quá rõ không cần nhiều thời gian điều tra.
Đến nay có thể khẳng định phần lớn (nếu không nói là hầu hết) quan chức đều tham nhũng không nhiều thì ít. Những quan chức đã bị hầu tòa chưa chắc có tội nặng hơn nhiều vị vẫn hàng ngày dạy dỗ người khác phải liêm chính.
Chế độ độc tài, cái bẫy tham nhũng quá hấp dẫn để chiêu dụ quan chức.
Chưa bao giờ, xu hướng "tự diễn biến, tự chuyển hóa" lại làm lung lay sự tồn vong của chế độ cộng sản rõ rệt như lúc này.
Xu hướng "tự diễn biến, tự chuyển hóa" đang làm lung lay sự tồn vong của chế độ cộng sản
Trong vài năm trở lại đây, đã rất nhiều lần, các đảng viên cấp cao của đảng, đã phải than vãn "kêu Trời" vì lo sợ sự phân hóa cùng cực sẽ giật sập chế độ. Sự rạn nứt và phân hóa trong nội bộ Đảng đã quá rõ ràng và ngày càng nghiêm trọng. Ngay cả ông Tổng bí thư đảng cộng sản đã phải thừa nhận rằng :
"Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và chế độ".
Rõ ràng là điều lệ, chủ trương, chính sách, nghị quyết của đảng… được phần lớn các đảng viên quăng vào sọt rác không thương tiếc. Chưa hết, niềm tin của đại đa số các đảng viên, đối với sự lãnh đạo của đảng, cũng chẳng còn. Trong thực tế, hơn 95% đảng viên vẫn còn cố bám víu vào đảng cũng chỉ vì lợi ích, nên họ không dám thoát đảng bởi không có sự lựa chọn nào tốt hơn quyền lợi mà đảng ban cho vào thời điểm này. Đảng cầm quyền đã và đang bán tài nguyên của đất nước để gồng gánh và "nuôi" bộ máy sâu bọ khổng lồ, là những đảng viên với nhiệm vụ hàng đầu là tham nhũng, đục khoét và vơ vét để chuẩn bị cất cánh bay xa. Dám chắc rằng 99% đảng viên cộng sản đã và đang chuyển tài sản ra nước ngoài, tìm sẵn đường chốn chạy, trong lúc đợi chờ cơn bão kéo phăng chế độ đang kéo đến.
"Đảng cộng sản đã phân hóa. Nó không còn một lý tưởng chung để gắn kết các đảng viên. Đã thế tham nhũng, bất tài và vô đạo đức còn gây sự ganh ghét và khinh thường lẫn nhau trong toàn bộ đảng, kể cả ở cấp cao nhất. Bộ chính trị không còn quyền lãnh đạo tối cao vì mâu thuẫn với ban chấp hành trung ương, một định chế không thường trực nhưng lại có thẩm quyền tối hậu trong việc chỉ định và kỷ luật các cấp lãnh đạo. Đảng cộng sản chỉ còn là một hư cấu. Chế độ như một con tầu không còn đoàn thủy thủ và đang chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân" (Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai – Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên).
Chính vì thế, vào ngày 18/4/2017, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phải ban hành một nội dung, nhằm ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng trong nội bộ, đó là yêu cầu các công chức kí cam kết không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Đảng cộng sản chưa kịp tìm phương án để đối phó với sự suy thoái cùng cực trong nội bộ, thì giờ đây lại phải điên đầu tìm cách ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội ; đồng thời, lo sợ quá trình "tự diễn biến" ngay bên trong quần chúng nhân dân. Ngày 6/6/2017, báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam (VoV) có đăng bài : "Thông tin xấu, độc trên mạng xã hội, khiến nhiều người tự diễn biến".
Ông Lê Quang Tự Do, Phó Cục trưởng Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử - Bộ Thông tin và truyền thông, đã phải răn đe các đồng chí của mình :
"Các địa phương phải làm tốt các công tác cung cấp thông tin cho báo chí chính thống và đội ngũ báo cáo viên tuyên truyền viên phải làm tốt công tác thông tin cho người dân ở trên mạng. Các cơ quan quản lý nhà nước phải xây dựng chính sách để hỗ trợ xây dựng được mạng xã hội của Việt Nam để cạnh tranh với mạng xã hội nước ngoài để chống lại các thế lực thù địch".
Không cần bàn luận thêm, niềm tin của phần lớn người dân đối với đường lối lãnh đạo của đảng chỉ còn là một con số không tròn chỉnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, thì :
"Sự chuyển hóa này diễn ra trong những điều kiện rất bất lợi : đảng phân hóa cùng cực, nhân dân thù ghét trong khi không có một nhân vật nào có uy tín. Tình trạng chỉ có thể dẫn tới sự sụp đổ. Trong lịch sử Châu Á thường có hai nguyên nhân chính đưa tới sự sụp đổ của các chế độ. Một là, cho tới khi tiếp xúc với Phương Tây, vì lớp người thống trị cướp bóc quá đáng, nhất là cướp đất của người dân ; hai là, sau khi tiếp xúc với Phương Tây, vì chế độ ngoan cố theo đuổi một hệ tư tưởng đã quá lỗi thời. Chế độ cộng sản Việt Nam có cả hai yếu tố đó. Nó không thể tồn tại" (Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai – Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên).
Hiện tại, đảng cộng sản đang rệu rã và sợ hãi cho sự tồn vong của chế độ, khi vừa phải tìm giải pháp đối phó với đại đa số người dân và sự phân hóa cùng cực trong nội bộ đảng. Do đó, nhiều cán bộ cấp cao, có tư tưởng tiến bộ, đã nỗ lực "hiến kế" mong sửa đổi đảng. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, chế độ cộng sản không thể nào cải tiến được, bởi bản chất và thuộc tính của chủ nghĩa cộng sản, là tham nhũng, mị dân và sử dụng bạo lực để cai trị, không bao giờ thay đổi được.
Như cố Tổng thống Ronald Regan đã nói : "Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thành công ở 2 nơi : thiên đường, nơi mà không cần nó ; và địa ngục, nơi mà đã có nó".
Vận mệnh của đảng và chế độ phụ thuộc vào tuyên truyền dối trá và mị dân, nhưng vào thời điểm này nó đã không còn nhiều tác dụng.
Tổng thống Abraham Lincoln đã nói : "You can fool some of the people all the time, and all of the people some of the time, but you cannot fool all of the people all the time" ("Anh có thể lừa dối một số người trong mọi lúc, và lừa dối mọi người trong vài lúc, nhưng anh không thể mãi mãi lừa dối tất cả mọi người").
Vâng, chắc chắn là đảng cộng sản không thể mãi mãi lừa dối toàn dân Việt Nam. Sự thật sẽ luôn chiến thắng bịp bợm và dối trá.
Làn sóng dân chủ thứ IV và đặc biệt nhu cầu khao khát Tự Do của người dân ngày càng mạnh mẽ, sẽ mau chóng quét sạch những độc tài, dối trá, và phản bội của chế độ. Chính vì thế, sự sụp đổ của chế độ độc tài cộng sản là chắc chắn. Thoát đảng để "thoát Trung" là mệnh lệnh cấp bách của thời đại. Kỷ nguyên của Dân chủ - Đa nguyên sẽ phải đến với Dân tộc Việt Nam.
Đã đến lúc đảng cộng sản cần "nhìn xa trông rộng" chọn một kết thúc ít đau thương tang tóc nhất, để trở về với Nhân dân, xây dựng lại ý niệm Quốc gia và niềm tự hào làm người Việt Nam.
Mai V. Pham
08/06/2017
Nguồn :
http://infonet.vn/tphcm-cong-chuc-se-ky-cam-ket-khong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa-post225683.info
http://vov.vn/xa-hoi/thong-tin-xau-doc-tren-mang-xa-hoi-khien-nhieu-nguoi-tu-dien-bien-632794.vov