Điều mà những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn không muốn là hòa nhập với các nước dân chủ. Họ thừa biết như thế chế độ sẽ bị đào thải. Điều mà họ muốn là thần phục Trung Quốc để có chỗ dựa và tiếp tục kéo dài chế độ toàn trị. Tuy vậy họ vẫn bị bắt buộc phải tách khỏi ảnh hưởng Trung Quốc và đứng hẳn về phía Mỹ và các nước dân chủ. Tại sao ?
Chúng ta cần một kết họp dân chủ mạnh với một dự án chính trị vừa đúng và khả thi vừa có thể động viên mọi khối ốc và mọi bàn tay trong cố gắng xây dựng một đất nước Việt Nam dân chủ, hòa giải, giầu mạnh, đáng yêu và đáng tự hào.
Đối với những ai theo dõi sát tình hình đất nước và thế giới thì không còn gì để ngờ vực nữa : ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chọn ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc để sáp lại với Mỹ và các nước dân chủ. Nói một cách nôm na là "bỏ Tầu theo Mỹ". Câu hỏi mà nhiều người có thể đặt ra là tại sao họ lại chọn con đường mà từ hơn ba thập niên qua họ không ngừng khẳng định là sẽ khiến Đảng cộng sản tiêu vong ?
"Đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" là câu ngạn ngữ thời đại mà mọi đảng viên cộng sản Việt Nam đều biết. Dầu vậy các ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam kế tiếp nhau từ 1985 đã chọn thà mất nước chứ không để mất đảng. Họ chỉ bắt đầu nghĩ lại, có lẽ từ năm 2014, giữa nhiệm kỳ khóa 11, khi Việt Nam đã trở thành một bãi rác công nghiệp của Trung Quốc khiến họ nhận ra rằng lệ thuộc Trung Quốc chỉ mắc tội bán nước chứ không giữ được Đảng, hơn thế nữa còn mất Đảng sớm hơn và bi đát hơn. Đây đã là chọn lựa nhức nhối nhất trong lịch sử Đảng cộng sản.
Không thể tiếp tục đu dây nữa
Bối cảnh thế giới đã bắt đầu thay đổi từ cuối năm 2012 khi Tập Cận Bình lên cầm quyền tại Trung Quốc sau đại hội 18 của Đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc đó thế giới đang dần dần phục hồi sau cuộc khủng hoảng 2008 nhưng Trung Quốc lại đang cực kỳ bối rối. Họ đã chọn giải pháp chạy trốn về phía trước trong suốt bốn năm. Thay vì nhìn nhận thực tại khó khăn và đương đầu với nó một cách thận trọng như mọi quốc gia khác họ đã gia tăng ồ ạt chi tiêu công cộng và đầu tư, chủ yếu vào xây dựng. Chính sách này chẳng có gì là độc đáo. Nó chỉ chứng tỏ Hồ Cẩm Đào và bộ tham mưu không dám thẳng thắn đương đầu với những thách đố quá lớn. Kết quả là kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng 8% mỗi năm sau 2008 trong khi mọi nước khác đều suy trầm. Cái giá phải trả là nền tảng của kinh tế Trung Quốc trở thành bệnh hoạn. Khối nợ tăng vọt, tồn kho ứ đọng, năng xuất giảm, khả năng và phương tiện xây dựng quá dư thừa. Nói chung là nguy ngập.
Vấn đề đặt ra cho Trung Quốc vào năm 2012 là phải làm gì trong tình trạng nguy ngập này. Ngừng bơm tiền để duy trì một mức độ tăng trưởng giả tạo thì chắc chắn là không được bởi vì nếu được thì Hồ Cẩm Đào đã làm rồi. Lý do là vì từ năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu chính sách mở cửa, chế độ cộng sản Trung Quốc đặt nền tảng trên một hợp đồng bất thành văn với xã hội Trung Quốc theo đó người dân Trung Quốc chấp nhận sự lãnh đạo độc quyền và tuyệt đối của đảng cộng sản đổi lại với cam kết của đảng cộng sản là cải thiện nhanh chóng mức sống với một tỷ lệ tăng trưởng cao. Ôn Gia Bảo, thủ tướng Trung Quốc vào lúc đó, đã nhắc lại hợp đồng này khi nói rằng nếu tăng trưởng kinh tế thụt xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn.
Như vậy vẫn phải tiếp tục bơm tiền vào kinh tế, vấn đề chỉ là bơm như thế nào để có thể tiếp tục che giấu tình trạng tuyệt vọng và trì hoãn khủng hoảng. Trong hoàn cảnh đó Tập Cận Bình đã xuất hiện như một thiên tài và một cứu tinh của chế độ. Sáng kiến Vành Đai và Con Đường được đưa ra và trình bày như một sáng kiến không những khiến Trung Quốc không suy sụp mà còn vươn lên mạnh mẽ và trở thành bá chủ thế giới. Còn gì đẹp hơn ? Chỉ cần một chút bình tĩnh cũng có thể thấy dự án này chắc chắn thất bại vì nó chỉ làm mạnh hơn với một tên gọi hoành tráng những gì mà Hồ Cẩm Đào đã làm và đưa Trung Quốc vào thế nguy. Sự khác biệt chỉ là tình thế nguy kịch hơn buộc Tập Cận Bình phải cường điệu hơn. Chính Tập cũng ý thức được như vậy nên người ta có thể thấy là ông luôn luôn cố gắng tỏ ra hòa hoãn với thế giới bên ngoài sau khi đã bị bắt buộc phải cường điệu trong đảng.
Một thí dụ là bài diễn văn đầy thiện chí tại diễn đàn Davos tháng 01/2017. Điều mà Tập Cận Bình có lẽ không ý thức được một cách đầy đủ là ngay cả một hành động điên rồ cũng có logic riêng của nó và ông bị bắt buộc phải ngày một cường điệu hơn, cao điểm là Đại hội 19 của Đảng cộng sản Trung Quốc cuối năm 2017 trong đó ông công khai nói ra tham vọng làm bá chủ thế giới của Trung Quốc cả về quân sự vào năm 2049. Cuộc tranh hùng Mỹ - Trung như vậy trở thành đương nhiên. Nghiêm trọng hơn, đây không chỉ là tranh hùng với Mỹ mà còn là một thách thức với cả thế giới dân chủ -Châu Âu, Nhật, Ấn Độ v.v.- bởi vì Trung Quốc đồng thời cũng khẳng định trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và lập các Viện Khổng Tử khắp nơi để truyền bá chủ nghĩa này.
Sai lầm lớn của nhiều người Việt Nam là cho rằng Donald Trump đã khởi xướng cuộc đối đầu Mỹ - Trung. Sự thực trái hẳn. Cuộc đối đầu này đã manh nha ngay từ khi Hồ Cẩm Đào chọn chính sách bung ra sau cuộc khủng hoảng 2008 và được tăng cường dồn dập từ 2012 khi Tập Cận Bình chuẩn bị lên cầm quyền và bộc lộ tham vọng bành trướng. Chính quyền Obama tuyên bố chuyển trục về Châu Á và đẩy mạnh sáng kiến thành lập khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà mục đích công khai là cô lập Trung Quốc. Obama quyết liệt đến độ yêu cầu Quốc hội Mỹ biểu quyết thông qua TPP theo thủ tục cấp tốc (fast track) năm 2015. Sau đó mời Nguyễn Phú Trọng qua bàn bạc. Có những chi tiết của cuộc thăm viếng này cho phép kết luận chắc chắn rằng hai bên đã thỏa thuận. Cũng chính Obama đã tươi cười tới Việt Nam ăn bún chả, uống bia Hà Nội và mượn câu thơ Kiều "rằng trăm năm cũng là đây" để cam kết Mỹ sẽ luôn luôn có mặt bên cạnh Việt Nam.
Tổng thống Obama phát biểu tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội, ngày 24/5/2016 (Ảnh Vietnamnet)
Nếu TPP và chiến lược Obama được thực hiện tới cùng thì chắc chắn Trung Quốc sẽ rất khốn đốn. Nhưng ngay khi lên cầm quyền Donald Trump đã rút Mỹ khỏi TPP. Donald Trump chỉ quan tâm tới ngoại thương và cũng chỉ muốn giải quyết khối thâm thủng mậu dịch cũng như vấn đề quyền sở hữu trí tuệ qua thỏa hiệp song phương với Bắc Kinh. Donald Trump không chống Trung Quốc như nhiều người nghĩ. Ông chỉ dần dần hiểu điều mà người tiền nhiệm của ông đã hiểu và các nước dân chủ lớn cũng đều đã hiểu, đó là phải ngăn chặn sự bành trướng của một chế độ độc tài khổng lồ đang phủ nhận những giá trị phổ cập của nhân loại và lại còn muốn làm bá chủ thế giới.
Cuộc đối đầu này hiện đã khá gay go và sẽ ngày càng gay go hơn. Chính sách đu dây vừa phục tùng Trung Quốc vừa muốn lợi dụng các nước dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam không còn tiếp tục được nữa. Phải chọn một trong hai bên.
Những lý do của một chọn lựa bắt buộc
Các dự đoán chính trị thường có rủi ro là có thể sai, trừ khi người ta lý luận trên những gì mà các tác nhân bắt buộc phải làm dù không muốn. Thí dụ như cả Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình đều muốn tiếp tục chính sách âm thầm phát triển của Đặng Tiểu Bình nhưng vẫn bị bắt buộc phải chọn chính sách bành trướng và trên thực tế khiêu khích thế giới. Lý do là họ phải cố duy trì một mức tăng trưởng giả tạo vì nếu không Trung Quốc sẽ hỗn loạn.
Cũng tương tự, điều mà những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn không muốn là hòa nhập với các nước dân chủ. Họ thừa biết như thế chế độ sẽ bị đào thải. Điều mà họ muốn là thần phục Trung Quốc để có chỗ dựa và tiếp tục kéo dài chế độ toàn trị. Tuy vậy họ vẫn bị bắt buộc phải tách khỏi ảnh hưởng Trung Quốc và đứng hẳn về phía Mỹ và các nước dân chủ. Tại sao ?
Biển Đông cũng là sự sống còn của Việt Nam, mất Biển Đông là mất tất cả.
Lý do đầu tiên và quan trọng nhất là Biển Đông. Trung Quốc trong suốt dòng lịch sử đã luôn luôn chỉ là một đế quốc lục địa không hề có một tham vọng đại dương nào và do đó hầu như không có sức mạnh hải quân. Hậu quả là tuy có hơn 15.000 km bờ biển nhưng Trung Quốc hoàn toàn bị vây bọc về phía Đông, bởi Hàn Quốc, Nhật và dải Điếu Ngư, rồi Đài Loan và Philippines. Tất cả đều là những nước dân chủ đồng minh của Mỹ. Trung Quốc sẽ lập tức bị cô lập trong trường hợp có xung đột. Lối thoát duy nhất của Trung Quốc là Biển Đông (hay Biển Hoa Nam theo cách gọi của họ). Hơn thế nữa nếu làm chủ được Biển Đông Trung Quốc còn có thế để mặc cả giải tỏa thế bị vây bởi vì Biển Đông là đường vận chuyển của gần một nửa hàng hóa của thế giới. Như vậy thế chiến lược buộc Trung Quốc phải chiếm Biển Đông. Đó là lý do khiến họ đã vẽ ra Đường Chín Đoạn (hay Đường Lưỡi Bò) xấc xược tự cho mình là chủ Biển Đông. Nhưng Biển Đông cũng là sự sống còn của Việt Nam. Đối với Việt Nam mất Biển Đông là mất tất cả. Dù muốn hay không những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng không thể và không dám nhượng bộ ; họ sẽ bị lật đổ bởi một cuộc nổi loạn ngay trong nội bộ đảng cộng sản trước sự phẫn nộ bốc lửa của nhân dân và số phận họ sẽ rất bi đát. Một lý do Biển Đông cũng quá đủ để Đảng cộng sản Việt Nam phải quyết định thoát Trung.
Một lý do khác quan trọng không kém đến từ bản chất đế quốc của Trung Quốc. Cụm từ "bản chất đế quốc" ở đây không có ý tố cáo mà chỉ là một nhận xét. Trung Quốc có đặc tính duy nhất là từ ngày thành lập luôn luôn là một đế quốc như chính nó tự gọi mình. Đế quốc hiểu theo nghĩa khách quan là một số nước phục tùng một trung tâm ; trung tâm này áp đặt một ý thức hệ chung và dành độc quyền quân lực hoặc nắm một quân lực đủ mạnh để đập tan dễ dàng và nhanh chóng mọi ý đồ bất phục tùng. Đối với Trung Quốc ý thức hệ đó là Khổng Giáo, ngày nay là chủ nghĩa Mác-Lênin mà kẻ viết bài này đã nhiều lần giải thích rằng đó chỉ là một văn bản cải tiến của Khổng Giáo.
Sự thống nhất của Trung Quốc luôn luôn chỉ được áp đặt và duy trì bằng bạo lực và tàn sát, lần cuối cùng là vào giữa thế kỷ 19 khi nhà Thanh tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây để dẹp tan cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn. Các tỉnh của Trung Quốc trên thực tế là những quốc gia bị khuất phục. Gần đây trước những ý đồ ly khai manh nha Bắc Kinh đã xây các xa lộ trên khắp lãnh thổ vừa để duy trì một tỷ lệ tăng trưởng giả tạo vừa để có thể điều động nhanh chóng tới bất cứ nơi nào một đội quân đủ mạnh để đập tan mọi cuộc nổi dậy đòi độc lập. Các tỉnh tự trị của Trung Quốc -như Quảng Tây, Vân Nam, Tân Cương và Tây Tạng- đều không được quyền có lực lượng vũ trang. Công an và quân đội hoàn toàn thuộc Bắc Kinh. Trong tinh thần và truyền thống đó Bắc Kinh không thể dung túng một chư hầu có quân đội mạnh. Đối với Việt Nam họ lại càng cần nắm quân đội để bảo đảm quyền kiểm soát Biển Đông. Họ phải khống chế được một cách tuyệt đối quân đội Việt Nam để trong tương lai thay thế bằng một quân đội của Bắc Kinh khi cần. Điều này ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng không thể chấp nhận nếu không muốn bị đảo chính lật đổ. Lý do này, cũng như Biển Đông, tự nó cũng đủ để khiến họ phải tìm cách thoát Trung.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cụng ly cùng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại lễ ký kết ở Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, ngày 19/6/2013.
Hai lý do này khiến bất cứ một chính quyền Việt Nam nào cũng không thể chấp nhận lệ thuộc Trung Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam đã khá nhẫn nhục. Tuyên bố chung của hai bên trong chuyến đi Trung Quốc năm 2013 của Trương Tấn Sang cho thấy là họ đã chấp nhận tham khảo Bắc Kinh –trên thực tế là nhận chỉ thị- trong các quan hệ đối ngoại, ngay cả trong khối ASEAN. Họ cũng đã chấp nhận để Trung Quốc huấn luyện các sĩ quan Việt Nam. Nhưng Trung Quốc không thể hài lòng với mức độ phục tùng này và còn đòi hơn thế. Họ muốn Việt Nam chấp nhận chủ quyền của họ trên Biển Đông và đặt các lực lượng vũ trang dưới sự kiểm soát của họ. Ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thể chấp nhận vì chấp nhận đồng nghĩa với lãnh bản án tử hình, theo nghĩa đen, cho chính họ. Sự ly dị là không tránh khỏi và chỉ chờ một tình thế bắt buộc hoặc thuận lợi.
Và một tình thế vừa bắt buộc vừa thuận lợi đã đến khi Trung Quốc trở thành một đe dọa cho thế giới và một đối thủ thực sự của Hoa Kỳ và các nước dân chủ.
Bắt buộc vì không thể đu dây được nữa. Phải chọn lựa và phải chọn đứng hẳn về phía Hoa Kỳ và các nước dân chủ vì tương quan lực lượng quá chênh lệch cả về kinh tế lẫn quân sự. Chọn Trung Quốc đồng nghĩa với chọn một thảm bại chắc chắn. Hơn nữa kinh tế Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ và các nước dân chủ. Xuất nhập khẩu của Việt Nam vào năm 2019 sấp xỉ bằng 250% GDP, nghĩa là gấp năm lần mức độ báo động về lệ thuộc kinh tế vào bên ngoài, và xuất khẩu chủ yếu sang Mỹ và các nước dân chủ.
Thuận lợi vì Việt Nam là nước có vị thế chiến lược quan trọng nhất trong cuộc đối đầu này. Các nước dân chủ, trước hết là Mỹ, bắt buộc phải tận tình bảo vệ Việt Nam và giúp Việt Nam mạnh lên để làm đối trọng với Trung Quốc. Một cách cụ thể xuất khẩu của Việt Nam sang đã Mỹ tăng gần 40% trong năm 2019, từ khi sự thay đổi đồng minh được coi là không thể đảo ngược. Rất nhiều công ty đã hoặc đang rời Trung Quốc để sang Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng vọt. Các công ty và vốn đầu tư này chỉ rời Trung Quốc để tới Việt Nam khi được bảo đảm rằng Việt Nam không còn nằm trong ảnh hưởng Trung Quốc. Một thuận lợi đồng thời cũng đòi hỏi một cam kết thoát Trung. Cam kết này chẳng có gì là nhức nhối bởi vì Trung Quốc là một gánh nặng ngoại thương cho Việt Nam, thâm thủng mậu dịch của Việt Nam với Trung Quốc lên tới gần 40 tỷ USD năm nay.
Sự thay đổi đồng minh không chỉ vừa bắt buộc vừa thuận lợi mà còn dễ dàng bởi vì Trung Quốc là một đế quốc về bản chất. Các đế quốc đều muốn bành trướng, như Trung Quốc đã chứng tỏ tại Việt Nam và qua Sáng Kiến Vành Đai và Con Đường, nhưng đặc tính của chúng là co cụm lại để cố giữ vững nội bộ chứ không cố bành trướng ra ngoài khi gặp khó khăn. Và thực tế Trung Quốc đang gặp những khó khăn rất lớn, họ không còn lòng dạ nào để chuốc thêm một khó khăn lớn khác tại Việt Nam. Họ sẽ không phản ứng mạnh khi Việt Nam thay đổi đồng minh. Cùng lắm là một vài bài báo chửi Đảng cộng sản Việt Nam là đồ lật lọng, điều mà họ đã bắt đầu làm trên Nhân Dân Nhật Báo và Toàn Cầu Thời Báo.
Một cơ hội lớn cho đất nước và dân chủ
Những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chắc chắn không đặt quyền lợi đất nước trên tham vọng quyền lực của họ. Họ đã chọn lệ thuộc Trung Quốc dù đã gây thiệt hại lớn cho đất nước. Họ đã chỉ thay đổi đồng minh khi không còn chọn lựa nào khác. Họ cũng thừa hiểu là không thể duy trì chế độ độc tài đảng trị một khi đã liên kết với Mỹ và các nước dân chủ.
Tuy vậy lúc này họ đang cố tìm mọi lý do để tự trấn an. Họ lý luận rằng Mỹ và các nước dân chủ đang rất cần họ và do đó vừa phải tận tình giúp đỡ họ vừa phải chấp nhận để họ duy trì chế độ độc tài ít nhất trong một thời gian khá dài. Ngoài ra, với sự ưu ái của Mỹ và các nước dân chủ, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh, đời sống người dân sẽ được cải thiện đáng kể và những lý do bất mãn cũng sẽ giảm xuống. Hơn nữa họ cũng có lý do để không đánh giá cao đối lập dân chủ Việt Nam về khả năng hình thành một tổ chức mạnh ngay cả nếu họ phải chấp nhận đa đảng. Hãy cứ để cho họ tự khám phá ra rằng sự thực không phải như thế. Đàng nào thì tiến trình thoát Trung cũng không thể đảo ngược được nữa.
Tình hình mới này buộc Mỹ, Nhật, Châu Âu và nhiều nước dân chủ khác nâng đỡ và hợp tác chặt chẽ với Việt Nam. Đây là một cơ hội có một không hai cho nước ta để trở thành giầu mạnh. Việt Nam cũng hoàn toàn có thể vừa giữ được trọn vẹn các quyền lợi hợp pháp chính đáng trên Biển Đông vừa có một quan hệ hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc để bình tĩnh chờ đợi những diễn biến sẽ rất phức tạp tại đây trong một tương lai không xa.
Dân chúng Sài Gòn vui mừng chào đón Tổng thống Mỹ Barack Obama ngày 24/5/2016.
Cuộc đấu tranh cho dân chủ sẽ đi vào một giai đoạn mới đầy triển vọng bởi vì chắc chắn Đảng cộng sản sẽ phải làm những nhượng bộ quan trọng và ngày càng quan trọng hơn về dân chủ và nhân quyền. Tiến trình dân chủ hóa có thể nhanh chóng hơn hẳn dự đoán của Đảng cộng sản, với điều kiện là chúng ta có được một kết hợp dân chủ mạnh với một dự án chính trị vừa đúng và khả thi vừa có thể động viên mọi khối ốc và mọi bàn tay trong cố gắng xây dựng một đất nước Việt Nam dân chủ, hòa giải, giầu mạnh, đáng yêu và đáng tự hào. Đảng cộng sản tin là sẽ không có kết hợp này, chúng ta tin là sẽ có. Tương lai sẽ cho biết ai có lý.
Có thể nói gì với những người cộng sản vào lúc này ?
Mặc dù những điều kiện khách quan đặc biệt may mắn, sự chuyển hướng thoát Trung để đến với các nước dân chủ đã chỉ có được vì đã có những người yêu nước và sáng suốt ngay trong nội bộ Đảng cộng sản, kể cả ở những cấp cao. Điều này mọi người Việt Nam phải ghi nhận với sự trân trọng. Nhưng các anh em này cũng cần đi thêm một bước quả quyết nữa về tư tưởng và thái độ. Đó là thẳng thắn khẳng định lập trường dân chủ. Để chủ động thay vì chỉ chịu đựng một thay đổi lịch sử phải có và sắp đến.
Nguyễn Gia Kiểng
(17/12/2019)
Đất nước đang thay đổi tác nhân và trong lớp trẻ hôm nay, những tác nhân mới, có một thành phần mà nước ta chưa bao giờ có : những trí thức chính trị, những người đầu tư thời giờ và cố gắng để hiểu rõ những vấn đề của đất nước, dám có ý kiến của mình và sẵn sàng trả giá để dấn thân tranh đấu cho những gì mình nghĩ là đúng cho đất nước. Họ là những người hướng dẫn quần chúng và là trí tuệ của dân tộc.
Truyện thuyết Việt Nam cho tới nay có thể nói một cách vắn tắt là một truyện thuyết Nho Giáo.
Ba mươi chín thanh niên trong tuổi xuân của đời chết ngạt trong một thùng xe đông lạnh. Ai không rơi nước mắt ? Họ đã trả một số tiền tương đương với tài sản của một gia đình Việt Nam trung bình cho cuộc phiêu lưu hiểm nghèo này chỉ để được rời Việt Nam sang Anh và sống cuộc đời lầm lũi của những "người rơm" theo cách gọi của chính họ. Đây không phải là một ngoại lệ mà là một trào lưu đã diễn ra từ nhiều năm. Mộng ước hiện nay của rất nhiều người Việt Nam chỉ giản dị là được ra đi và sống tại một nước khác. Họ không còn hy vọng vào đất nước. Chúng ta đang cần khẩn cấp một truyện thuyết đổi đời.
Trong một thế giới hoang mang
Những ai theo dõi các cuộc thảo luận chính trị đang sôi nổi hiện nay về chủ đề "làm thế nào để thoát khỏi ngõ cụt của chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism) và tránh cho thế giới một cuộc khủng hoảng lớn ?" đều có thể thấy là các nhà tư tưởng có uy tín đều đồng ý trên ít nhất một điều : thế giới đang rất cần một truyện thuyết (story, récit) mới để thay thế chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism) đã tích lũy quá nhiều mâu thuẫn và tật nguyền.
Thế giới đang rất cần một truyện thuyết (story, récit) mới để thay thế chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism) đã tích lũy quá nhiều mâu thuẫn và tật nguyền.
Chúng ta sẽ nói về đề tài này trong một dịp khác, trong bài này hãy tạm chỉ nêu những nét chính cần thiết. Một cách rất vắn tắt chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism), mà nhiều người gọi là tân phóng khoáng (neoliberalism) từ cuối thập niên 1970, là một trong ba ý thức hệ xung đột dữ dội với nhau trong thế kỷ 20. Chủ nghĩa phát xít bị đánh gục sau Thế Chiến II và chủ nghĩa cộng sản sụp đổ cùng với bức tường Berlin năm 1989. Từ ba mươi năm qua chủ nghĩa phóng khoáng là chủ nghĩa duy nhất còn lại. Nhưng kể từ khi đắc thắng, nó đã liên tục trầm trọng hóa những tật nguyền vốn có từ trong bản chất khiến chênh lệch giầu nghèo gia tăng nhanh chóng trong trong mọi quốc gia ; đồng tiền trở thành chúa tể và lấn áp quyền lực chính trị, lợi nhuận trở thành mục tiêu duy nhất ; ý niệm quốc gia mất dần ý nghĩa tạo ra phản ứng ngược là phong trào dân túy bùng lên khắp nơi, kể cả tại Mỹ cho đến nay vẫn được coi là trung tâm của trật tự dân chủ ; các chế độ hung bạo chà đạp nhân quyền không còn bị lên án, Trung Quốc mạnh lên và ngày càng để lộ tham vọng bá quyền đồng thời khẳng định chế độ cộng sản chuyên chính. Ngay cả kinh tế, cứu cánh và niềm tự hào của chủ nghĩa phóng khoáng, cũng ngày càng nguy ngập, các hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 vẫn chưa khắc phục được trong khi một nguy cơ khủng hoảng mới đang ló dạng. Câu hỏi mà các nhà tư tưởng đặt ra là tại sao chủ nghĩa phóng khoáng vẫn còn ngự trị dù đã bộc lộ quá rõ những sai lầm về mặt tư tưởng và dù đang tiếp tục xô đẩy thế giới vào một cuộc khủng hoảng mới ? Câu trả lời của họ là chủ nghĩa phóng khoáng –cũng như chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản- không chỉ là một tư tưởng hay một lý luận, hay một phương pháp mà còn là một truyện thuyết, và một truyện thuyết chỉ có thể thay thế được bởi một truyện thuyết mới đang cần được tìm ra.
Vậy thế nào là một truyện thuyết ?
Trước hết đó là một câu chuyện, nghĩa là một chuỗi những sự kiện kế tiếp nhau theo. Có những câu chuyện ngắn ngủi không ảnh hưởng gì tới cách sống như khi ra đường thấy một người hối hả chạy theo cái nón bị gió thổi bay, nhưng cũng có những câu chuyện dài hơn và diễn tả một ý nghĩa nào đó. Mỗi đời người là một câu chuyện, mỗi quãng đời trong một đời người cũng là một câu chuyện. Mỗi xã hội cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều câu chuyện khác. Những câu chuyện đó có thể khiến người ta bỡ ngỡ trong một thời gian nhưng sau đó vẫn hiểu được trong bối cảnh văn hóa và xã hội mình đang sống. Điều cần được nhấn mạnh là con người dù ở lục địa nào cũng đều sống và nhận định các diễn biến theo trình tự của những câu chuyện. Khi chúng ta muốn hiểu một sự việc nào đó, dù để tán thành hay ngờ vực, thì câu hỏi đầu tiên chúng ta đặt ra, dù có ý thức được hay không, là nó có phù hợp với cách ứng xử của con người và xã hội mà chúng ta chờ đợi hay không, có nằm trong một câu chuyện "có đầu có đuôi" nào không. Con người sống và nhận thức theo khuôn khổ của những câu chuyện. Chúng ta thích đọc tiểu thuyết, coi phim, xem kịch vì đó là những câu chuyện.
Mỗi đời người là một câu chuyện, mỗi quãng đời trong một đời người cũng là một câu chuyện. Mỗi xã hội cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều câu chuyện khác.
Truyện thuyết là một câu chuyện lớn về cuộc sống của một khối người –một cộng đồng, một quốc gia hay cả thế giới- trong khuôn khổ của một chủ thuyết được mọi người chấp nhận. Chủ thuyết được hiểu như là một cách tổng hợp của một số giá trị được đề cao ; sự chấp nhận có thể là vì được thuyết phục hay bị áp đặt và không thể chống lại. Dần dần chủ thuyết tạo ra cho khối người đó một nếp sống và một cách ứng xử. Lịch sử dù góp phần quan trọng tạo ra con người không hẳn là một truyện thuyết vì chỉ tường thuật quá khứ. Một truyện thuyết giải thích quá khứ và hiện tại nhưng đồng thời cũng vạch ra lối đi về tương lai với sự gắn bó của một câu chuyện.
Nói như thế có vẻ phức tạp và mông lung, vậy ta hãy lấy vài thí dụ. Chủ nghĩa phóng khoáng, với hệ luận quyền tư hữu và kinh tế thị trường tối đa của nó, là nền tảng của truyện thuyết chung của các nước dân chủ tư bản từ thế kỷ 19 và trở thành truyện thuyết chung của thế giới từ 30 năm qua sau khi bức tường Berlin sụp đổ, vì là yếu tố nền tảng quyết định chính sách của các quốc gia. Một cách tương tự, chủ nghĩa cộng sản đã là nền tảng của truyện thuyết của các nước cộng sản trước đây, chủ nghĩa phát xít đã là nền tảng của truyện thuyết của các nước Đức, Ý và Nhật cho đến sau Thế Chiến II.
Người ta có thể hỏi có gì khác biệt giữa một truyện thuyết và một lý thuyết, hay một chính sách, hay một kế hoạch, hay một chương trình ? Câu trả lời là không bao nhiêu về nội dung, nhưng rất to lớn về hiệu ứng và hậu quả. Một truyện thuyết có thể rất sai, thậm chí độc hại -như các chủ nghĩa khổng giáo, cộng sản và phát xít- nhưng có tác dụng trên cuộc sống và nếp sống của cả tỷ người trong khi một lý thuyết và một chương trình có thể rất có giá trị, như lý thuyết nước cộng hòa của Plato, nhưng không có ảnh hưởng bao nhiêu. Sự khác biệt là một truyện thuyết không chỉ lý luận mà còn chuyên chở một câu chuyện giải thích quá khứ và vạch ra hình ảnh tương lai.
Một truyện thuyết chứa đựng những phân tích và đề nghị nhưng cũng có cấu trúc của một câu chuyện và do đó có khả năng xâm nhập được nhiều người bởi vì, như vừa nói, con người suy nghĩ và hành động theo trình tự của những câu chuyện. Những lý luận, những sự kiện và những con số dù chính xác tới đâu cũng khó thay đổi được một truyện thuyết, người ta vẫn sống, suy nghĩ và hành xử theo đường xưa lối cũ. Chỉ có một truyện thuyết mới thay thế được một truyện thuyết. Điều mà các nhà tư tưởng đang cố gắng làm là tìm ra một truyện thuyết mới thay thế cho truyện thuyết phóng khoáng, hay tân phóng khoáng, đã lỗi thời và đang dẫn thế giới tới khủng hoảng. Họ chưa tìm ra nhưng họ đã hiểu là truyện thuyết mới đó phải đặt nền tảng trên một tư tưởng chính trị đặt kinh tế và tài chính ở dưới quyền lực chính trị và đề cao con người, tự do cá nhân, hòa bình, liên đới xã hội và môi trường.
Còn truyện thuyết đổi đời ?
Mỗi cố gắng thay đổi truyện thuyết này tự nó cũng là một truyện thuyết. Một truyện thuyết đổi đời, hay một truyện thuyết cách mạng. Nó diễn ra như sau :
Chủ thuyết hiện hành đã bộc lộ sự sai lầm và cho phép một thế lực độc hại thao túng, đưa xã hội tới khủng hoảng và bế tắc. Những anh hùng của kỷ nguyên mới xuất hiện chống lại trật tự cũ nhân danh một truyện thuyết mới hợp tình hợp lý hơn, đánh bại được lực lượng cầm quyền bằng cách phế truất nó hay buộc nó phải thay đổi, thiết lập một trật tự mới, bắt đầu một truyện thuyết mới và hướng dẫn xã hội về một tương lai khác.
Đó đã là kịch bản của cuộc cách mạng dân chủ tại Mỹ và Châu Âu. Đó cũng đã là kịch bản của phong trào cộng sản tại nhiều nước và của các chế độ phát xít tại Đức, ý và Nhật. Nét đậm của các truyện thuyết đổi đời là chúng luôn luôn cần những anh hùng (heros), anh hùng hiểu theo nghĩa "nhân vật chính". Đó là những người kể chuyện, những người chấp nhận một cách nhiệt tình truyện thuyết mới và nỗ lực truyền bá nó vào quần chúng.
Đến đây xin mở một ngoặc đơn ngắn về phong trào dân túy hiện nay. Phong trào này chống lại câu chuyện toàn cầu hóa thể hiện qua các công ty đa quốc và các thỏa ước hợp tác giữa các quốc gia. Nó đã bùng nổ khá mạnh, đưa được Donald Trump, Erdogan, Bolsanero, Dutarte lên cầm quyền. Lý do vì tác động tổng hợp của chủ nghĩa phóng khoáng và phong trào toàn cầu hóa không chỉ tạo ra một khối người bất mãn quá đông đảo mà còn công phá cả khái niệm quốc gia, một khái niệm vừa là phát minh chính trị lớn nhất trong lịch sử thế giới vừa là nền tảng của dân chủ. Tuy vậy phong trào dân túy này sẽ không đi xa bởi vì nó không phải là một truyện thuyết ; nó không có một tư tưởng chính trị mới nào mà chỉ lặp lại một cách gượng gạo và lúng túng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đã từng là một tai họa cho nhân loại.
Và truyện thuyết Việt Nam ?
Chúng ta sẽ thảo luận thêm về một truyện thuyết mới cho thế giới trong một dịp khác nếu cần. Bây giờ hãy trở lại với trường hợp của nước ta.
Cuộc đổi đời tại Việt Nam trong suốt dòng lịch sử hàng ngàn năm qua chỉ là những truyện thuyết nghèo nàn, chỉ có thay đổi người cầm quyền chứ không có thay đổi tư tưởng và mô hình chính trị. Trước sau vẫn là truyện thuyết Khổng Giáo.
Truyện thuyết Việt Nam cho tới nay có thể nói một cách vắn tắt là một truyện thuyết Nho Giáo. Chủ nghĩa cộng sản về bản chất cũng chỉ là một thứ Khổng Giáo cải tiến. Cũng độc tôn giáo điều, cũng cai trị bằng bạo lực, cũng trung ương tập quyền, cũng phân chia giai cấp, cũng bưng bít thông tin, cũng quan niệm pháp luật như một dụng cụ đàn áp, cũng dị ứng với tư doanh. Cả hai đều là những chủ thuyết nửa chính trị nửa tôn giáo. Cả hai có thể gọi bằng một tên chung là chủ nghĩa luồn lách bởi vì chúng đều buộc con người phải cúi rạp và luồn lách để sống. Cải tiến của chủ nghĩa Mác-Lênin so với Khổng Giáo chỉ vụn vặt như xét lý lịch ba đời thay vì chu di tam tộc. Chính sự liên tục đó giữa chủ nghĩa Khổng Giáo và chủ nghĩa cộng sản đã giúp ba chế độ cộng sản Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên tồn tại được sau khi phong trào cộng sản thế giới sụp đổ. Trong ba thập niên gần đây, sau khi bức tường bưng bít không còn đủ kiên cố để che đậy sự phá sản toàn diện, hai chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đã phải chấp nhận chính sách "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" với hậu quả là xã hội không còn bị khống chế chặt chẽ như trước nhưng vẫn ngoan cố tôn sùng chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong chiều sâu "chính sách đổi mới" này chỉ là một triệt thoái về gần hơn chế độ Khổng Giáo. Không phải là một sự tình cờ mà Trung Quốc phục hồi Khổng Giáo và lập các "Viện Khổng Tử" tại khắp nơi.
Trong bối cảnh ý thức hệ đó, các cuộc đổi đời tại Trung Quốc cũng như Việt Nam trong suốt dòng lịch sử hàng ngàn năm qua chỉ là những truyện thuyết nghèo nàn, chỉ thay đổi người cầm quyền mà vẫn giữ nguyên chủ thuyết nền tảng. Lý do của sự thay đổi chính quyền có thể là vì bị ngoại bang chinh phục, hay vì chính quyền suy nhược và bị đảo chính cung đình, hay đôi khi bị một cuộc nổi loạn đánh gục. Chỉ có thay đổi người cầm quyền chứ không có thay đổi tư tưởng và mô hình chính trị. Trước sau vẫn là truyện thuyết Khổng Giáo. Di sản lịch sử này khiến chúng ta thiếu cả hai yếu tố của một truyện thuyết đổi đời : một truyện thuyết mới và những người kể chuyện. Trong truyện thuyết của chúng ta cho tới nay chính trị chỉ có nghĩa là làm quan chức, và làm quan chức đồng nghĩa với hy sinh lẽ phải và phẩm giá của chính mình để làm những tay sai ngoan ngoãn cho một bạo quyền. Những tay sai này không thể có tư tưởng chính trị vì không được quyền có. Tình thế chỉ thay đổi phần nào rất gần đây khi thế giới bước vào kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa buộc chế độ cộng sản phải miễn cưỡng nới lỏng ách thống trị.
Ai sẽ kể truyện thuyết đổi đời nào cho đất nước ?
Trước khi viết bài này tôi đã trao đổi với nhiều bạn bè trong cũng như ngoài nước để cùng với họ kiểm điểm những khuôn mặt trí thức còn có thể có ít nhiều ảnh hưởng lên cuộc vận động dân chủ. Tôi làm như vậy vì nếu một điều cần được nhận định thật dứt khoát thì đó là cuộc cách mạng nào -cách mạng hiểu theo nghĩa là thay đổi cả chính quyền lẫn triết lý cầm quyền- cũng đều phải do các trí thức chủ xướng. Các bạn tôi đều rất bi quan.
Trong nước các nhân vật từng gây được sự chú ý và hy vọng đều đã già yếu, đa số đã ngưng hoạt động, nhiều vị đã qua đời. Ảnh hưởng họ để lại không nhiều bởi vì trừ một vài ngoại lệ rất hiếm hoi họ là những người phản biện trung thành chỉ lên tiếng ở mức độ họ nghĩ là được phép. Phần lớn vẫn còn hãnh diện với những chức vụ "nguyên là" đáng lẽ phải là lý do để xấu hổ cho một quãng đời phải hy sinh lẽ phải và danh dự của mình để phục vụ một chính quyền vừa tồi dở vừa gian ác.
Tình trạng hải ngoại không khá hơn, có lẽ còn đáng buồn hơn. Rất nhiều trí thức có chút tài năng và tiếng tăm đã chết mà không để lại được gì đáng kể. Những người còn lại chỉ sống với quá khứ trong những năm chót của cuộc đời hoặc không còn nuôi một mộng ước nào cho đất nước. Những ngoại lệ cũng hiếm hoi như trong nước.
Trái với các bạn này, tôi không hề bi quan mà còn lạc quan hơn trước. Lớp trí thức cũ, trừ một vài "Phan Châu Trinh mới", ngay cả khi có tấm lòng đáng quý thực ra không có khả năng thúc đẩy cuộc cách mạng dân chủ, dù họ đã đóng góp hâm nóng ý chí đấu tranh, một điều cần được ghi nhận và trân trọng. Có lúc họ còn tạo ra ảo tưởng làm tuổi trẻ yên tâm và mất đi sự bồn chồn cần thiết cho cố gắng đổi đời. Về bản chất họ vẫn là những nhân sĩ, nghĩa là những con người của truyện thuyết cũ. Họ không thể kể truyện thuyết đổi đời. Bây giờ họ rút lui và đặt tuổi trẻ trước trách nhiệm của mình. Đây là một tin mừng : đất nước đang thay đổi tác nhân.
Mừng vì trong lớp "trẻ" hôm nay –những người trưởng thành sau năm 1975- có một thành phần mà nước ta chưa bao giờ có : những trí thức chính trị. Đó là những người đầu tư thời giờ và cố gắng để học hỏi kiến thức chính trị và để hiểu rõ những vấn đề của đất nước, dám có ý kiến của mình và sẵn sàng trả giá để dấn thân tranh đấu cho những gì mình nghĩ là đúng cho đất nước. Họ hiểu rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Họ khinh bỉ chủ nghĩa luồn lách và vất bỏ lối đấu tranh nhân sĩ. Họ là những người hướng dẫn quần chúng và là trí tuệ của dân tộc. Chính sự thiếu vắng thành phần trí thức chính trị này trong suốt dòng lịch sử đã khiến nước ta thua kém và trôi dạt từ sai lầm này đến thảm kịch khác. Họ đã bắt đầu xuất hiện và sẽ là những anh hùng của truyện thuyết đổi đời. Họ đến đúng lúc bởi vì đất nước sắp sống một thay đổi lớn. Chế độ cộng sản sắp bắt buộc phải trải qua một cuộc giải phẫu rất lớn và hiểm nghèo là tách khỏi ảnh hưởng Trung Quốc và sáp lại với các nước dân chủ, vào giữa lúc nó đang rất yếu bệnh.
Truyện thuyết đổi đời của họ sẽ phải là một tư tưởng chính trị lành mạnh và phong phú làm nền tảng cho một dự án chính trị vừa đúng vừa khả thi lại vừa có khả năng tranh thủ sự hưởng ứng nồng nhiệt của tất cả mọi người không phân biệt thành phần xã hội, địa phương và quá khứ chính trị. Nó cũng sẽ phải dự đoán được những thay đổi sẽ tới trên thế giới, nhất là sau cố gắng xét lại chủ nghĩa phóng khoáng.
Một cách cụ thể, nó phải cho phép chúng ta chuyển đổi từ một hệ thống nhất nguyên, tập trung và chuyên quyền sang một chế độ đa nguyên, tản quyền và phân quyền ; thay thế một kinh tế hoạch định đặt nền tảng trên các xí nghiệp quốc doanh bằng một kinh tế thị trường lấy các xí nghiệp tư làm sức mạnh ; thay thế một guồng máy chính quyền tham nhũng, quan liêu, bàn giấy, công cụ của một đảng thành một nhà nước hữu hiệu, trách nhiệm, lành mạnh, phục vụ cho công ích. Nó phải phải nói lên quyết tâm chấm dứt lối quản lý tùy tiện bằng nghị quyết và chỉ thị để thiết lập một nhà nước dân chủ pháp trị đúng nghĩa ; thay thế bộ máy công an được quan niệm và tổ chức như một dụng cụ đàn áp của Đảng Cộng Sản bằng một bộ máy công an bảo vệ trật tự an ninh và dân quyền ; thay thế các tòa án được coi như cánh tay nối dài của công an bằng những tòa án độc lập chỉ có sứ mạng thể hiện luật pháp ; thay thế một nền giáo dục tuyên truyền, nhồi sọ và thiếu phẩm chất bằng một nền giáo dục khách quan, khai phóng và phẩm chất cao, bởi vì giáo dục và đào tạo là cuộc đấu sống còn của đất nước.
Khó khăn lớn nhất là chúng ta kế thừa một đất nước chồng chất hận thù, chia rẽ và thất vọng. Chúng ta sẽ phải hàn gắn những đổ vỡ mà không gây ra những đổ vỡ mới. Chúng ta sẽ phải hòa giải người Việt Nam với nhau và với đất nước Việt Nam để cùng lạc quan bắt tay nhau xây dựng và chia sẻ một tương lai chung trong một đất nước Việt Nam đáng sống, đáng yêu và đáng tự hào.
Có quá khó để tìm ra một truyện thuyết như vậy không ?
Dứt khoát là không. Bằng cớ là đã có một truyện thuyết như vậy : dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai. Đó là một truyện thuyết để thay thế truyện thuyết độc hại cũ mà dân tộc ta đã phải chịu đựng quá lâu và để đưa đất nước Việt Nam từ bóng đêm của nô lệ và nghèo khổ sang ánh sáng của tự do và phồn vinh.
Trí thức chính trị Việt Nam, những anh hùng của hôm nay và ngay mai, sẽ ngày càng nhận ra rằng đó là một truyện thuyết xứng đáng để họ góp ý kiện toàn và kể cho nhân dân Việt Nam nghe.
Nguyễn Gia Kiểng
(13/11/2019)
---------------
Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai có thể đọc và tải xuống với các link này :
https://www.thongluan-rdp.org/thdcdn/item/602-khai-sang-k-nguyen-th-hai
hoặc :
https://drive.google.com/file/d/0B5AGQAxywdFkeGxRU3U3MFBSekk/edit?fbclid=IwAR1hVCA1Aunc4z36_vpB7XbHyCLJK4EgjTrPKsQezGFGfSaAzhL42IQXjqI
Bạn đọc cũng có thể mua sách trên AMAZON theo chỉ dẫn tại đây :
https://www.thongluan-rdp.org/thdcdn/item/6197-khai-sang-k-nguyen-th-2
Các biến động tại Hồng Kông đã được nhiều người dân chủ Việt Nam theo dõi một cách phấn khởi. Nhiều kết luận được rút ra làm nổi bật một lần nữa một phản xạ có trong mọi dân tộc nhưng đặc biệt thông thường nơi người Việt, đó là chỉ cố tìm những lý do để củng cố một lập trường hợp ý mình. Tình trạng nghiêm trọng của đất nước vẫn chưa khiến nhiều người thấy rằng phải suy nghĩ và phát biểu một cách trách nhiệm.
Vấn đề của người Hồng Kông là họ phải rất cảnh giác trước những mưu toan gia tăng kiểm soát của Bắc Kinh trong khi chờ hạn kỳ 2047.
Ngoại lệ Hồng Kông
Trước hết chúng ta không thể rút ra một bài học trực tiếp nào từ Hồng Kông vì Hồng Kông là một ngoại lệ lớn. Năm 1997, giữa cao điểm của một giai đoạn trong lịch sử thế giới được coi là làn sóng dân chủ thứ ba trong đó chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và đa số các chế độ cộng sản chuyển hóa về dân chủ thì Hồng Kông đang có dân chủ được bàn giao cho chế độ cộng sản Trung Quốc. Đó là một sự kiện cực kỳ vô lý của di sản lịch sử.
Người ta thực hiện một giao ước trước đó một thế kỷ, trong một bối cảnh lịch sử hoàn toàn khác. Sự vô lý này khiến Hồng Kông không giống với thực tại của bất cứ dân tộc nào. Trong khi nhiều dân tộc, như Việt Nam, phải tranh đấu loại bỏ ách độc tài để có tự do thì người Hồng Kông tranh đấu để đừng bị áp đặt ách độc tài và giữ nguyên cuộc sống tự do đang có.
Sau đó Hồng Kông giống như một cái chợ hơn là một cộng đồng, càng không phải là một quốc gia. Có một thiểu số rất giầu, trong đó có một số tỷ phú cực kỳ giầu lập nghiệp từ lâu tại Hồng Kông hay vừa đến từ Hoa Lục; những người này làm giầu nhờ Hồng Kông nhưng họ cũng có thể di cư bất cứ lúc nào sang một nước khác, đối với họ Hồng Kông trước hết là một cơ sở kinh doanh. Tiếp theo là một thành phần trung lưu gắn bó với Hồng Kông và lo sợ trước viễn ảnh Hồng Kông bị sáp nhập vào Trung Quốc dưới chế độ toàn trị. Cả hai thành phần này, tổng cộng non một nửa dân số, đều tích cực chống lại mọi toan tính gia tăng quyền kiểm soát của Bắc Kinh lên Hồng Kông. Họ là những người đã xuống đường biểu tình. Nhưng còn cả một khối người nghèo đông đảo hơn, trong đó có hơn một triệu người mới đến từ lục địa sau năm 1997, phần lớn chỉ sống tại Hồng Kông vì không có chọn lựa nào tốt hơn. Họ sống chen chúc trong những căn nhà chật hẹp, trên những thuyền hay những căn "buồng hộp" rộng 2 m² với giá thuê 300 USD mỗi tháng. Những người này chỉ nhìn những cuộc biểu tình, cũng như cuộc sống hàng ngày tại Hồng Kông, với con mắt của những người ngoài cuộc. GDP bình quân trên mỗi đầu người của Hồng Kông là 45.000 USD/năm, cao hơn Châu Âu, nhưng 20% dân chúng và 45% người già trên 65 tuổi sống với thu nhập thấp hơn 15 USD mỗi ngày, trong khi có gần 200.000 triệu phú. Chênh lệch giầu nghèo thách đố và hầu như không có liên đới xã hội. Hồng Kông không giống và cũng không thể trở thành một quốc gia.
Nhưng Hồng Kông còn cả một khối người nghèo đông đảo hơn, họ sống chen chúc trong những căn nhà chật hẹp, trên những thuyền hay những căn "buồng hộp" rộng 2 m² với giá thuê 300 USD mỗi tháng.
Một điều oái oăm khác là Hồng Kông lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc và giầu có chủ yếu vì Trung Quốc là một chế độ cộng sản. Đó là cửa ra vào Trung Quốc của hàng hóa đồng thời là một trung tâm tài chính nhờ vai trò trung gian giữa Trung Quốc và nhiều nước tư bản lớn. Trung Quốc mở cửa ra với thế giới bao nhiêu thì vai trò trung gian kinh tế và lợi nhuận của Hồng Kông giảm đi bấy nhiêu. Điều này có thể nhận thấy rất rõ trong bốn thập niên qua. Vào năm 1978, khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa về kinh tế thị trường, GDP của Hồng Kông gần bằng 40% GDP của Trung Quốc, ngày nay tỷ lệ này là 3%. Hồng Kông giầu có bởi vì Trung Quốc là một chế độ cộng sản. Như thế cuộc đấu tranh của Hồng Kông chỉ là để giữ nguyên tình trạng hiện nay chứ không phải là để tiến tới một tương lai dân chủ như cuộc đấu tranh của Việt Nam.
Vấn đề của người Hồng Kông là họ phải rất cảnh giác trước những mưu toan gia tăng kiểm soát của Bắc Kinh trong khi chờ hạn kỳ 2047. Họ đã liên tục đấu tranh chống lại những toan tính đó. Cuộc đấu tranh của người Hồng Kông tương đối giản dị. Họ luôn luôn biết phải biểu tình ở chỗ nào và vì lý do nào, hơn nữa đấu tranh để chống lại một đe dọa ghê rợn trước mắt dễ động viên hơn nhiều so với đấu tranh cho một tương lai khác.
Năm 2003 tất cả các tổ chức chính trị và xã hội dân sự đã đoàn kết biểu tình rầm rộ chống lại việc Bắc Kinh đòi sửa đổi Luật Căn Bản tương đương với hiến pháp của Hồng Kông.
Năm 2012 họ lại xuống đường chống lại việc Bắc Kinh đòi thêm mục "giáo dục yêu nước", trên thực tế là một tuyên truyền cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vào chương trình trung học.
Năm 2014, họ biểu tình quyết liệt hơn nữa chống lại quyết định của Bắc Kinh giành quyền chọn trước các ứng cử viên vào chức vụ đặc khu trưởng (thị trưởng). Cuộc biểu tình lần này rất quy mô, đươc tổ chức rất chu đáo và mang tên Chiếm Lĩnh Trung Hoàn Với Tình Yêu và Hạnh Phúc (Occupy Central with Love and Peace). Nó cũng còn được gọi là cuộc Biểu Tình Dù Vàng. Năm 2014 đã đánh dấu một bước tiến rất ngoạn mục của cuộc đấu tranh bảo vệ tự do của người Hồng Kông cần được nhìn rõ.
Đầu năm 2016 người Hồng Kông lại xuống đường phản đối việc Bắc Kinh bắt một số công dân lục địa có hoạt động tại Hồng Kông trong lãnh vực sách báo. Cuộc biểu tình này không liên quan đến vấn đề tự quản của Hồng Kông nhưng cũng đã khiến chính quyền Bắc Kinh bối rối.
Mùa hè năm nay các cuộc biểu tình nhắm chống lại một dự luật dẫn độ cho phép chính quyền đặc khu hành chính Hồng Kông giải giao cho Bắc Kinh những công dân Hoa Lục bị truy tố về tội hình sự nghiêm trọng và trốn qua Hồng Kông. Trên nguyên tắc đây là một luật không chỉ chính đáng mà còn cần thiết. Hồng Kông đã có thỏa thuận dẫn độ với rất nhiều nước. Vấn đề là chế độ cộng sản Trung Quốc không đáng tin về mặt công lý. Họ có thể dựng đứng những tội hình sự không hề có để bách hại những người khác chính kiến. Những cuộc biểu tình năm nay -vẫn còn diễn ra trong lúc này- thực ra không chống lại việc dẫn độ mà chỉ phủ nhận sự lương thiện và tính chính đáng của chính quyền Bắc Kinh. Chính vì thế mà nhượng bộ là một quyết định rất mất thể diện cho Bắc Kinh. Họ đã chỉ chấp nhận rút lại dự luật sau ba tháng căng thẳng, năm tháng nếu kể cả giai đoạn có tính chuẩn bị hành động của đối lập Hồng Kông. Các cuộc biểu tình đã đạt quy mô và cường độ chưa bao giờ thấy và khó hình dung : hơn một triệu người ngày 9 tháng 6, gần hai triệu người một tuần sau.
Luôn luôn thắng lợi vượt mục tiêu, nhưng…
Ngoại trừ cuộc biểu tình tháng 01/2016 chỉ nhắm mục đích tố giác những vi phạm nhân quyền tại Hoa Lục, các đợt biểu tình khác đều nhắm bảo vệ hiện trạng Hồng Kông và đều thành công hơn cả mức được coi là trọn vẹn. Sau cuộc tranh đấu năm 2003, Bắc Kinh không chỉ rút lại dự định sửa đổi luật căn bản của Hồng Kông mà vấn đề sửa đổi không đặt ra nữa. Cũng thế, sau năm 2012 việc giảng dạy công dân giáo dục kiểu cộng sản không chỉ được rút lại mà không đặt ra nữa. Sau cuộc đấu tranh năm 2014, Bắc Kinh không chỉ phải rút lại việc đòi chỉ định trước các ứng cử viên vào chức vụ đặc khu trưởng mà còn phải hứa sẽ để cho người dân Hồng Kông trực tiếp bầu ra đặc khu trưởng trong tương lai, dù là lời hứa chưa được thực hiện. Bây giờ, 2019, họ lại còn phải chịu mất mặt bỏ hẳn yêu cầu dẫn độ mà Hồng Kông đã chấp nhận với nhiều nước khác.
Bắc Kinh cứ phải liên tục nhượng bộ mỗi lần người dân Hồng Kông biểu tình không phải vì họ thiếu sự hung bạo. Họ đã chứng tỏ tại quảng trường Thiên An Môn 30 năm trước là họ không hề ngần ngại trước tội ác, nhưng đàn áp như vậy tại Hồng Kông sẽ có hậu quả nghiêm trọng gấp nhiều lần. Các nước dân chủ sẽ bắt buộc phải phản ứng một cách rất cụ thể và quyết liệt trước sự kiện Bắc Kinh tự ý tiêu diệt một nền dân chủ. Hồng Kông sẽ không còn là một con bò sữa nữa mà chỉ còn là lý do của các biện pháp trừng phạt. Hơn nữa giới tài phiệt Hồng Kông đứng sau lưng các cuộc biểu tình này cho đến nay đã đầu tư rất nhiều vào lục địa, họ sẽ trả đũa bằng cách không chỉ rút vốn ra mà còn cố gắng gây thiệt hại tối đa cho Bắc Kinh. Hậu quả là chắc chắn Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng. Thực ra Bắc Kinh không có chọn lựa.
Điều cần được lưu ý trong đợt phản kháng vẫn còn đang tiếp tục hiện nay, sau hơn ba tháng sôi sục, là người Hồng Kông vẫn tiếp tục tranh đấu dù đã thắng lợi hoàn toàn. Dự luật dẫn độ đã bị tuyên bố hủy bỏ và sẽ không còn được đặt ra trong tương lai nữa, nhưng họ vẫn biểu tình và bây giờ là biểu tình chống Bắc Kinh.
Nhưng người Hồng Kông có thể đòi gì ? Họ không thể đòi tự trị hay độc lập vì Bắc Kinh không thể nhượng bộ và thế giới cũng không sẵn sàng hỗ trợ họ trong tham vọng này. Chuyến du thuyết của anh thanh niên Hoàng Chí Phong đã không thành công một phần cũng vì anh không đưa ra được những đòi hỏi mà thế giới có thể ủng hộ. Có lẽ trong thâm tâm người Hồng Kông cũng hiểu là họ không thể mong muốn gì khác hơn là giữ nguyên tình trạng hiện nay và họ chỉ làm mạnh để Bắc Kinh từ nay đừng toan tính kiểm soát và khống chế họ nữa.
Tương lai của Hồng Kông sẽ ra sao ?
Trên nguyên tắc vào năm 2047 qui chế đặc khu sẽ chấm dứt và Hồng Kông sẽ hoàn toàn thuộc quyền cai trị của Bắc Kinh theo thỏa thuận giữa Anh và Trung Quốc. Nhưng có mọi triển vọng chế độ cộng sản Trung Quốc sẽ không còn tồn tại vào lúc đó. Nó sẽ sụp đổ trong một tương lai gần và Trung Quốc có thể sẽ bị phân chia thành nhiều khối trong đó Hồng Kông sẽ là một thành viên trong khối phát triển nhất ở phía Đông Nam cùng với Đài Loan, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Hải Nam. Cuộc đấu tranh của người Hồng Kông như vậy chủ yếu là để đừng có thay đổi. Nhưng đàng nào Hồng Kông cũng sẽ bắt buộc phải tự thay đổi để có thể tiếp tục tồn tại vì không thể duy trì mức độ bất công xã hội thách đố hiện nay.
Bài học thực sự từ Hồng Kông
Một trong những "bài học Hồng Kông" được nhiều người rút ra một cách vội vàng là Hồng Kông đã chứng tỏ rằng có thể đấu tranh cho dân chủ mà chỉ cần những khuôn mặt biểu tượng chứ không cần tổ chức và lãnh đạo. Kết luận này rất sai.
Như đã nói trong đầu bài này Hồng Kông là một ngoại lệ của thế giới, do đó chúng ta không thể rút ra một bài học trực tiếp nào. Tuy vậy Hồng Kông vẫn nhắc lại một lần nữa một quy luật căn bản đúng ở mọi nơi và mọi thời : đấu tranh chính trị chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức.
Thực sự là những đợt biểu tình tại Hồng Kông đã rất có chuẩn bị và tổ chức và cũng có những phương tiện rất dồi dào. Các tài phiệt, như Jimmy Lai hay Quách Văn Quý, đầu tư rất nhiều vào phong trào dân chủ vì tài sản và an ninh của họ. Cuộc đấu tranh của người Hồng Kông là do sự phối hợp của tất cả các tổ chức chính trị và xã hội dân sự trong một mặt trận chung, Mặt Trận Dân Sự Nhân Quyền (CHRF, Civil Human Rights Front), những khuôn mặt thanh niên biểu tượng chỉ là những khuôn mặt trẻ do họ chọn lựa. Những người lãnh đạo không ra mặt không có nghĩa là họ không có. Và họ đã rút kinh nghiệm từ các đợt biểu tình 2003 và 2012.
Theo tiết lộ của đài BBC và được nhiều cơ quan truyền thông lặp lại thì để chuẩn bị cho đợt biểu tình Chiếm Lĩnh Trung Hoàn năm 2014 họ đã gửi khoảng 10.000 thanh niên tham dự các khóa huấn luyện đấu tranh bất bạo động do tổ chức OFF (Oslo Freedom Forum) đảm nhiệm, phần lớn tại New York. Đây là một chương trình huấn luyện rất lớn và tốn kém mà chỉ có một tổ chức rất mạnh và rất giầu mới có thể thực hiện được. Ngay cả các dù vàng cũng không phải ngẫu nhiên mà có. Năm nay, trong hai tuần lễ đầu tháng 6 cuốn phim Lửa Mùa Đông (Fire in Winter) đã được đem chiếu trên 300 lần tại các công trường để thanh niên Hồng Kông học tập cách tranh đấu bất bạo động của cuộc Cách Mạng Mầu tại Ukraine.
Hồng Kông vừa nhắc lại một lần nữa rằng ngay cả những cuộc đấu tranh chính trị giản dị nhất cũng phải có một tổ chức lãnh đạo.
Hồng Kông có khoảng một triệu công nhân từ Hoa Lục được phép qua đây sinh sống. Ai có thể ngây thơ đến độ nghĩ rằng trong số này không có vài trăm ngàn người được gửi sang để hỗ trợ Bắc Kinh bằng cách phá rối những cuộc biểu tình, tạo lý cớ cho công an đàn áp ? Dùng côn đồ để đánh phá những người không cùng chính kiến nằm trong tập quán của các chế độ cộng sản. Trên thực tế các phần tử này đã hành động nhưng chúng đã bất lực bởi vì những cuộc biểu tình đã được chuẩn bị và tổ chức quá chu đáo.
Hãy thử so sánh Hồng Kông với Paris. Từ một năm nay Paris -và nhiều thành phố khác tại Pháp- đã có những cuộc biểu tình Áo Vàng mỗi thứ bẩy. Đây là quả là những cuộc biểu tình không có tổ chức và lãnh đạo, tuy vậy vẫn có những meneurs (những người dẫn dắt). Tôi quen thân với Joelle, một trong những người dẫn dắt này. Dù chỉ quy tụ trung bình vài ngàn người nhưng luôn luôn xẩy ra bạo động và đốt phá vì có một bọn tự gọi là Black Bloc phá đám và không ai dẹp được chúng dù cảnh sát Pháp đàn áp không nương tay.
Chúng ta có thể tưởng tượng cố gắng và lực lượng của ban tổ chức các cuộc biểu tình tại Hồng Kông để đương đầu với hàng trăm ngàn "hiệp sĩ" của Bắc Kinh, ngoài việc tiếp tế ăn uống, lo cứu thương và dịch vụ vệ sinh cho hai triệu người. Làm sao có thể nói những cuộc biểu tình Hồng Kông không có tổ chức ? Đó chỉ là một cách nhìn các sự kiện theo ý mình muốn.
Vậy thì bài học thật sự mà những người dân chủ Việt Nam có thể rút ra từ các biến động tại Hồng Kông là gì ? Có lẽ đó là phải khiêm tốn nhìn các sự kiện một cách trung thực để có thể rút ra những kết luận đúng thay vì nói dối với chính mình. Hồng Kông vừa nhắc lại một lần nữa rằng ngay cả những cuộc đấu tranh chính trị giản dị nhất cũng phải có một tổ chức lãnh đạo.
Nguyễn Gia Kiểng
(02/10/2019)
Thưa quý khán thính giả của Đài RFA, vào hôm Chủ Nhật, ngày 18 tháng 8, có thể nói dư luận thế giới thêm một lần nữa nhìn thấy khoảng 1,7 triệu người dân Hong Kong biểu tình đòi hỏi cho một nền dân chủ ở Đặc khu hành chính Hong Kong. Trước đó 2 tháng, vào ngày 16 tháng 6, cũng gần 2 triệu người Hong Kong khởi đầu xuống đường phản đối Dự luật dẫn độ về Trung Quốc và kể từ đó đến nay, tinh thần của người dân Hong Kong tỏ ra không mệt mỏi mà ngày càng mạnh mẽ hơn, mặc dù Chính quyền Hong Kong và Bắc Kinh sử dụng các biện pháp mạnh để trấn áp các cuộc biểu tình. Hôm nay Đài RFA được hân hạnh đón tiếp ông Nguyễn Gia Kiểng, một trong những người sáng lập Tổ chức Tập hợp Dân chủ Đa nguyên, đến từ Paris, Pháp quốc và mời quý vị cùng theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi xoay quanh đề tài Hong Kong-Trung Quốc và Việt Nam trong tiến trình dân chủ hóa của thế kỷ 21.
Hòa Ái thực hiện
Nguồn : RFA, 19/08/2019
Xin bắt đầu bằng một câu chuyện hoàn toàn có thực. Một gia đình Châu Phi, hình như ở Guinée, mất một con gà. Đây là một biến cố không quan trọng ngay cả đối với một gia đình nghèo. Nhưng hôm sau bà chủ con gà đi chợ gần đó và thấy một người đang bán con gà của mình. Bà đòi lại, gây ra cãi cọ và xô xát. Người phụ nữ này bị thương và quay về gọi làng xóm tới bênh vực. Những người phe kia cũng trở về làng kêu tiếp viện. Kết quả là một cuộc đâm chém dữ dội làm hàng chục người chết. Một biến cố không đáng kể đã tạo ra một thảm kịch khó tưởng tượng. Đó là điều có thể xảy ra trong trường hợp Trung Quốc. Thế giới đang đứng trước một nguy cơ lớn.
Hồng Kông, một biến cố không đáng kể đã tạo ra một thảm kịch khó tưởng tượng. Đó là điều có thể xảy ra trong trường hợp Trung Quốc.
Một trong những hiện tượng lớn nhất trong lịch sử thế giới đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta là sự trỗi dậy kinh ngạc của Trung Quốc. Trong vòng 40 năm, kể từ năm 1978 khi Trung Quốc mở cửa ra với thế giới, tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ 2 USD/ngày đã giảm từ 90% xuống dưới 1%. Nói cách khác hơn một tỷ người Trung Quốc đã thoát cảnh nghèo khổ. Ngày nay từ một quốc gia đáng thương hại Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới, chiếm 1/3 ngoại thương thế giới, xuất khẩu nhiều nhất, nhập khẩu hạng nhì, cạnh tranh với các nước tiên tiến ngay trong cả các kỹ thuật hiện đại nhất. Bẩy trong số mười công ty xây dựng lớn nhất thế giới là của Trung Quốc. Trong ba năm từ 2015 đến 2018 Trung Quốc đã sử dụng một số xi măng lớn hơn tổng số xi măng mà Hoa Kỳ đã sử dụng trong cả thế kỷ 20. Sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung Quốc lan tỏa như vũ bão với "sáng kiến Vành Đai và Con Đường" (Belt and Road Initiative). Từ một nước gần như không có hải quân Trung Quốc đã tạo dựng ra một hải quân hùng hậu nhất thế giới về số tầu chiến và số binh sĩ, dù mới chỉ là về lượng, về phẩm còn thua nhiều nước, nhất là Hoa Kỳ.
Trung Quốc vươn lên nhanh đến nỗi thế giới không kịp nhạc nhiên, như lời cố tổng thống Tiệp Vaclav Havel.
Bẫy Thucydides và hiểm họa Hitler
Những tiến bộ đó bình thường phải đáng mừng và đáng khen nhưng đã gây lo âu vì ít nhất hai lý do.
Lý do thứ nhất là Trung Quốc càng mạnh lên càng hung hăng và bày tỏ quá rõ rệt tham vọng làm bá chủ thế giới. Ngay trong Đại hội 18 của Đảng cộng sản Trung Quốc, năm 2012, khi vừa được bầu làm tổng bí thư, Tập Cận Bình đã dùng ngôn ngữ phục thù, tuyên bố phải rửa mối nhục mà Trung Quốc đã phải chịu đựng trong gần hai thế kỷ trước các nước phương Tây. Trong Đại hội 19, cuối năm 2017, ông không chỉ nhắc lại tham vọng đó mà còn đặt ra ba cột mốc : vào năm 2025 Trung Quốc sẽ phải đứng hàng đầu trong mười công nghệ hiện đại, kể cả xe không người lái, robot và kỹ nghệ truyền thông ; năm 2035 Trung Quốc sẽ phải là cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới, hàng Trung Quốc sẽ tràn ngập mọi thị trường ; năm 2049, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc sẽ phải là cường quốc bá chủ hoàn cầu với một quân đội bách chiến bách thắng. Giấc mơ vĩ đại đó đã cuốn hút các đảng viên cộng sản đang hoang mang và khiến tên của Tập Cận Bình được đưa vào điều lệ của Đảng cộng sản và hiến pháp Trung Quốc. Vinh quang này vừa buộc Tập phải quyết tâm thực hiện cam kết vừa khiến thế giới lo sợ.
Nỗi lo sợ này được sử gia Graham Allison, giáo sư Havard, gọi là "bẫy Thucydides" theo tên của Thycydides, người đã sáng lập ra môn sử học cách đây gần 2500 năm, với cuốn sử đầu tiên trên thế giới mang tựa đề "Lịch sử cuộc chiến Penopolese".
"Bẫy Thucydides" là khi một cường quốc mới xuất hiện đe dọa giành vai trò bá chủ của cường quốc đang chế ngự thì chiến tranh là đương nhiên.
Theo Thucydides khi một cường quốc mới xuất hiện đe dọa giành vai trò bá chủ của cường quốc đang chế ngự thì chiến tranh là đương nhiên. Ông viết về cuộc chiến giữa Sparta và Athens đã làm tan nát vùng Cổ Hy Lạp như sau: "chính sự trỗi dậy của Athens đã gây lo âu cho Sparta và khiến chiến tranh không tránh khỏi". Ngày nay, theo Allison, cường quốc dang trỗi dậy là Trung Quốc, cường quốc đang chế ngự thế giới là Hoa Kỳ. Ông liệt kê 16 trường hợp tranh hùng trong 500 năm qua và cho thấy đã có 12 trường hợp đưa đến chiến tranh. Nếu Allison nghiên cứu lịch sử Châu Á chắc chắn ông sẽ thấy một tỷ lệ chiến tranh cao hơn nhiều. Allison đã được mời điều trần tại Quốc hội Mỹ và đã được nhiều nguyên thủ quốc gia tiếp để trình bày nguy cơ xung đột Mỹ - Trung.
Còn một lý do thứ hai đáng lo ngại hơn nhiều, mà ta có thể gọi là hiểm họa Hitler. Đó là Trung Quốc trong khi trỗi dậy một cách thần tốc về kinh tế và quân sự vẫn ngoan cố khẳng định chế độ chuyên chính, phủ nhận mọi giá trị dân chủ và nhân quyền phổ cập. Từ năm 1978, sau khi Đặng Tiểu Bình giành được chính quyền và theo kinh tế thị trường, Trung Quốc đã bỏ lý tưởng thế giới đại đồng của chủ nghĩa cộng sản nhưng vẫn giữ nguyên bản chất độc tài hung bạo của nó. Với Tập Cận Bình, chế độ của Trung Quốc hiện nay không khác gì chế độ Nazi của Hitler trong thập niên 1930 đã dẫn tới Thế Chiến II. Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc (Trung Quốc đặc sắc xã hội chủ nghĩa) chỉ là một tên gọi mới của chủ nghĩa quốc xã Đức.
Thucydides đã nhận định rất đúng nhưng ông đã không có mặt trong nửa sau của thế kỷ 20 để chứng kiến một bước đột phá tư tưởng của nhân loại. Sau Thế Chiến II, trong đó trên một trăm triệu người thiệt mạng, một số trí thức Âu Mỹ đã nhìn ra nguyên nhân chính của chiến tranh là sự coi thường con người, coi con người chỉ là dụng cụ để thực hiện tham vọng quốc gia và vì thế có thể bị hy sinh. Sau hơn ba năm phấn đấu họ đã thuyết phục được đa số các quốc gia chấp nhận bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập như là thành phần của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập này về bản chất cũng là tuyên ngôn dân chủ vì nội dung của nó quy định những quyền con người trong một nước dân chủ. Họ đã nhìn thấy dân chủ là yếu tố cốt lõi để tránh chiến tranh. Và thực tế đã chứng minh họ có lý. Chiến tranh chỉ xẩy ra khi ít nhất một trong hai chế độ lâm chiến là một chế độ độc tài chứ không bao giờ có chiến tranh giữa hai nước dân chủ. Đức và Nhật đã vươn lên rất mạnh mẽ sau Thế Chiến II nhưng đã không làm ai lo sợ vì đã trở thành những nước dân chủ. Trung Quốc là một đe dọa cho nhân loại bởi vì đã mạnh lên nhưng vẫn là một chế độ độc tài ngang ngược không khác chế độ quốc xã của Hitler. Sự ngang ngược được biểu lộ rõ rệt qua sự khuyến khích và giật dây chế độ côn đồ Triều Tiên, những hăm dọa đối với Đài Loan, những khiêu khích đối với Nhật quanh quần đảo Điếu Ngư và nhất là với đường Lưỡi Bò xấc xược trên Biển Đông song song với những hành động thô bạo, gần đây nhất là tại Bãi Tư Chính, trong vùng độc quyền kinh tế của Việt Nam. Mối nguy Trung Quốc ngày càng hiện rõ.
Sợ hay không sợ ?
Sự lo âu thể hiện qua các phát biểu của phần lớn các chuyên gia Phương Tây về Trung Quốc . Họ nhìn thấy một nguy cơ Thế Chiến III mà hậu quả sẽ rất kinh khủng. Giáo sư Graham Allison kêu gọi tập trung trí tuệ, sáng suốt và dũng cảm để lập lại kỳ tích của giai đoạn sau Thế Chiến II trong đó sau một cố gắng quyết liệt, bền bỉ và có phối hợp, một nhóm trí thức lỗi lạc đã thuyết phục được các chính quyền dân chủ liên kết với nhau thành lập ra Liên Hiệp Quốc như một định chế bảo vệ hòa bình trên nền tảng nhân quyền. Riêng Hoa Kỳ, dù chỉ chấp nhận rất trễ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, cũng đã tận tình giúp Châu Âu phục hồi sau chiến tranh qua kế hoạch Marshall và chủ động liên minh với các nước dân chủ Tây Âu để thành lập Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để đương đầu với sự trỗi dậy của Liên Xô. Do it again! (hãy làm lại như thế) là lời kêu gọi của Allison. Ông không giấu sự lo lắng trước chính sách đơn phương thô lỗ của Donald Trump.
Khá nhiều người, như chuyên gia địa chính George Friedman, coi chiến tranh Mỹ - Trung là khó tránh khỏi và phải chờ đợi nó. Nhiều người khác, như David Brook, chuyên gia ngoại giao Anh từng phục vụ lâu năm tại Trung Quốc và hiện đang giảng dạy về bang giao quốc tế tại London School of Economics, cho rằng Mỹ và các nước dân chủ phải có đủ khôn ngoan để chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc và chia sẻ quyền lãnh đạo thế giới với Trung Quốc, nhất là tại Châu Á, ngay cả nếu phải hy sinh một số giá trị được coi là phổ cập. David Brook còn biện hộ cho thái độ nhân nhượng này bằng cách biện luận rằng văn hóa Trung Quốc thực ra cũng là một văn hóa đa nguyên vì đã cho phép Khổng Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo cùng hiện diện một cách hài hòa ! Thật là nhảm nhí.
Sau cùng cũng có những người như Martin Jacques cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là tự nhiên, không thể đảo ngược và giải pháp duy nhất là chấp nhận để Trung Quốc thống trị thế giới. Cũng may là những "chuyên gia" như Martin Jacques không nhiều và họ chỉ được biết đến nhờ được Trung Quốc thổi phồng.
Nói chung các chuyên gia này đều kinh ngạc trước những tiến bộ ngoạn mục của Trung Quốc và đều tin là Trung Quốc sẽ tiếp tục mạnh thêm nhưng họ không đưa ra một lập luận có cơ sở nào để chứng minh niềm tin đó. Họ suy nghĩ theo kiểu đường thẳng nối dài.
Điều đáng lưu ý là phần lớn các chuyên gia gốc Trung Quốc đứng về phía, ngày càng đông đảo, những người cho rằng Trung Quốc đang đi dần tới khủng hoảng và không đáng sợ. Có lẽ vì họ hiểu Trung Quốc hơn. Phe này đưa ra những lập luận chính xác dựa trên những dữ liệu cụ thể.
Trước hết là núi nợ khổng lồ trên 40.000 tỷ USD, 303% GDP theo Bắc Kinh, cao hơn nhiều theo các định chế tài chính quốc tế, trong đó nợ công –gồm nợ chính phủ và nợ của các công ty nhà nước- là trên 200%. Khối nợ này không thể chịu đựng nổi trong một quốc gia mà GDP trên mỗi đầu người chỉ sấp sỉ 8.000 USD mỗi năm. Chính quyền Bắc Kinh đã nhìn thấy nguy cơ và trong mười năm qua đã nhiều lần đưa ra các biện pháp hạn chế tín dụng. Mỗi lần họ đều phải triệt thoái. Như vậy phải hiểu rằng sự nguy ngập của kinh tế Trung Quốc không có giải pháp. Mặt khác tỷ lệ dân số trong tuổi hoạt động đang giảm, giai đoạn dân trẻ đã qua rồi.
Tỷ lệ tăng trưởng 6,2% trong sáu tháng đầu năm 2019, thấp nhất từ 27 năm qua, cũng không đúng. GDP và tỷ lệ tăng trưởng là những con số mà người ta có thể thao tác và đó là điều mà chính quyền cộng sản Trung Quốc đã làm, bằng cách gia tăng đầu tư và chi tiêu công cộng. Và đầu tư để xây dựng những xa lộ không có xe chạy, những đường sắt với một hay hai chuyến tầu mỗi ngày và những thành phố ma. Trung Quốc hiện đang có hơn 70 triệu căn hộ không người ở. Nếu bỏ qua những "đầu tư" không chỉ vô ích mà còn làm mất đất canh tác này thì tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc là một con số âm.
Tuy vậy kinh tế không phải là nguy cơ chính của Trung Quốc. Nguy cơ chính là môi trường đã bị đã bị hủy hoại ở mức độ không thể phục hồi. Cả miền Bắc đã trở thành khô cằn, nhiều nơi gần như bị sa mạc hóa, hậu quả một chính sách tăng trưởng hoang dại bất chấp con người và môi trường. Trong những năm gần đây Bắc Kinh đã có những cố gắng phục hồi môi trường rất lớn và rất đúng nhưng đã quá trễ. Số người Trung Quốc bị ung thư vì ô nhiễm hiện nay tương đương với dân số Hoa Kỳ. Trong lần tham quan Ai Cập mùa hè năm trước tôi đã gặp một cặp vợ chồng người Bắc Kinh đang tìm cách di cư sang Châu Âu hoặc Mỹ. Họ là một trường hợp trong số hàng trăm triệu người khá giả đang tìm cách rời Trung Quốc không phải lý do kinh tế mà vì sợ chết vì ô nhiễm.
Trung Quốc cũng không đáng sợ về mặt quân sự. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc lớn thứ nhì thế giới nhưng vẫn chưa bằng một nửa ngân sách quốc phòng của Mỹ. Chênh lệch lực lượng giữa hai nước đã rất lớn lại ngày một lớn hơn. Số tầu chiến của hải quân Trung Quốc tuy nhiều nhưng khả năng chiến đấu bị tất cả các chuyên gia về quân sự đánh giá là rất kém so với các tầu chiến của Nhật và Đài Loan, chưa nói tới Mỹ, Anh và Pháp. Không quân còn kém hơn. Đã thế 25% chương trình huấn luyện của quân đội Trung Quốc được dành để học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Những người không sợ Trung Quốc gây ra thế chiến hoàn toàn có lý.
Thái độ hung hăng của Trung Quốc trên Thái Bình Dương, nhất là tại Biển Đông Việt Nam, là một sai lầm rất lớn trong cách tiếp nhận di sản lịch sử.
Trung Quốc trong suốt dòng lịch sử hơn 2200 năm dù từng là đế quốc chế ngự vùng Đông Á nhưng vẫn chỉ là một đế quốc địa phương và lục địa chứ chưa hề có tham vọng đại dương. Cho tới gần đây hải quân và thương thuyền Trung Quốc không đáng kể. Kết quả là tuy có hơn 15.000 km bờ biển nhưng Trung Quốc gần như bị vây hãm. Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Philippines, Indonesia, Singapore và Malaysia đều là những đồng minh của khối NATO. Trung Quốc sẽ tức khắc bị phong tỏa nếu xảy ra xung đột. Cách xử lý đúng đắn và bắt buộc di sản lịch sử đó là dân chủ hóa và dứt khoát chọn đường lối phát triển trong hòa bình như Nhật và Đức đã làm (sau một sai lầm bi đát !). Cả hai nước đều không cần có quân đội mạnh nhưng không hề bị cô lập và đã vươn lên mạnh mẽ sau Thế Chiến II. Nếu cũng chọn con đường đó Trung Quốc sẽ đương nhiên trở thành cường quốc số 1 trên thế giới trong trung hạn mà không gây lo ngại cho bất cứ ai, dù có thể phải chấp nhận một mức độ tản quyền lớn, kể cả sự ly khai của một số tỉnh. Bắc Kinh đã chọn chính sách ngược lại, gây tranh chấp để càng bị cô lập. Phải chăng vì Đảng cộng sản Trung Quốc tin rằng mình không thể tồn tại sau một cuộc chuyển hóa về dân chủ ? Sai lầm lớn nhất của các quốc gia là không nhìn đúng để quản lý đúng lịch sử của mình.
Trung Quốc từng là đồng minh của Liên Xô và hiện đang là đồng minh của Liên Bang Nga, nhưng điều ngạc nhiên là Trung Quốc không rút ra bài học Liên Xô. Thành tích tăng trưởng của Trung Quốc không phải là chưa từng có. Sau Thế Chiến II Liên Xô còn vùng lên nhanh hơn. Dù bị tàn phá tan tành, Liên Xô đã chỉ cần khoảng mười năm để vùng lên gần như về mọi mặt để tranh hùng với Hoa Kỳ. Đã chế tạo được bom nguyên tử, đã gửi được phi thuyên lên không gian trước Mỹ và đã đủ giầu mạnh để yểm trợ các đảng cộng sản anh em khắp nơi, kể cả Đảng cộng sản Việt Nam, đã dồn được Mỹ và các nước dân chủ vào thế thủ. Nhưng rồi chính vì đã cố gắng quá sức mà Liên Xô đã gục ngã. Đó là số phận đang chờ đợi chế độ cộng sản Trung Quốc.
Phải sợ gì ?
Tuy vậy chúng ta không thể chia sẻ sự yên tâm của các chuyên gia thuộc phe không sợ. Chúng ta phải sợ Trung Quốc vì một lý do khác và vì chúng ta là người Việt Nam.
Câu chuyện con gà Châu Phi ở đầu bài này cho thấy là một chuyện nhỏ có thể có những hậu quả lớn vì tâm lý con người phức tạp. Tâm lý của của các quốc gia và các thị trường càng phức tạp hơn. Chúng ta vừa có một thí dụ cụ thể. Ngày chủ nhật 04 tháng 8 vừa qua Donald Trump phát đi một tweet nói rằng sẽ đánh thuế 10% trên số hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá 300 tỷ USD bắt đầu từ tháng 9. Thiệt hại tối đa cho Trung Quốc nếu không ai có phản ứng nào cả là 30 tỷ USD. Nhưng hôm sau các thị trường chứng khoán đã sụt giá trên dưới 3% vì đồng Yuan chao đảo. Sau đó các thị trường chứng khoán tiếp tục sụt giá ở mức độ tương tự hai lần nữa. Tính nhẩm thiệt hại cho các thị trường chứng khoán -và tài sản của những người chủ các cổ phần- vào khoảng 10.000 tỷ USD, nghĩa là 300 lần lớn hơn số tiền mà Donald Trump hy vọng thu được từ Trung Quốc.
Chúng ta phải sợ Trung Quốc ít nhất vì hai lý do. Một là Trung Quốc chắc chắn sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế và có thể tan vỡ trong một tương lai gần kéo theo những dao động lớn trên thế giới trong khi nước ta vừa ở gần đám cháy vừa quá lệ thuộc vào ngoại thương. Hai là nếu vì một hành động mị dân trong lúc bối rối Trung Quốc đánh chiếm các đảo Trường Sa còn lại hay một vùng đất biên giới nào đó Việt Nam vừa khó bảo vệ vừa khó lấy lại. Giai đoạn này đang đòi hỏi một chính quyền rất sáng suốt mà rõ ràng là chúng ta không có.
Biến cố lịch sử lớn nhất trên thế giới cho đến nay đã là sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Một đế quốc chuyên chính độc hại với quân lực mạnh thứ hai trên thế giới đã tiêu tan và nhiều dân tộc đã được tự do mà không có đổ máu cũng không khiến thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế. Thật khó tưởng tượng. Điều phải sợ là sự sụp đổ chắc chắn của chế độ cộng sản Trung Quốc có thể sẽ không diễn ra như thế.
Nguyễn Gia Kiểng
(15/08/2019)
Làm thế nào để có một giấc mơ Việt Nam chung thay vì mỗi người một giấc mơ riêng ? Không khó. Cái khó là phải mơ. Nếu mỗi người tạm từ bỏ cái tôi để trở về với mình và thành thực nghĩ về những gì mà mình có thể mơ ước cho đất nước Việt Nam rồi viết ra giấc mơ Việt Nam của mình họ sẽ thấy giấc mơ đó không khác bao nhiêu giấc mơ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát. Ảnh minh họa
Một người bạn hỏi tôi "tại sao các vị lại kết thúc dự án chính trị của các vị bằng chương "Chung một giấc mơ Việt Nam". Các ngài định đấu tranh hay mơ mộng ?"
Không biết anh hỏi thực hay hỏi đùa nhưng những từ "các vị", "các ngài" chắc chắn cũng có hàm ý trêu chọc là chúng tôi, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, không thực tế và vì thế không phù hợp với chính trị. Câu hỏi khiến tôi khựng lại. Không phải vì không có câu trả lời mà vì không biết phải trình bày nó như thế nào. Dù Giấc Mơ Việt Nam đã là kết luận của các dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ mấy chục năm nay nhưng đây là lần đầu tiên có người hỏi chúng tôi như vậy. Sau một lúc chần chừ tôi quyết định bắt đầu bằng cách hỏi lại anh : "Tôi sẽ trả lời nhưng trước hết xin hỏi lại là ngài có giấc mơ nào cho Việt Nam không ?". Đến lượt anh bạn lúng túng. Anh là một trí thức lớn, uyên bác và chân chính.
Nhưng giấc mơ là gì ? Nó không giản dị như người ta thoạt tưởng.
Ở nghĩa thông thường nhất giấc mơ chỉ là một sản phẩm của hoạt động của khối óc trong giấc ngủ. Các nơ-rôn chuyển động, va chạm và kết hợp với nhau tạo ra các diễn biến ảo –hình ảnh, âm thanh, cảm xúc v.v.- hoàn toàn không có thực mà bình thường chính người mơ cũng không biết và không nhớ. Tất cả đến và đi trong giấc ngủ. Đôi khi người ta nhớ được khúc cuối, lúc sắp thức dậy, khi giấc ngủ đã mất cường độ và ý thức đã dần dần trở lại. Người ta gọi những gì còn nhớ được là giấc mơ. Đặc tính chính của giấc mơ là người mơ hoàn toàn không chủ động. Đó không phải là giấc mơ Việt Nam mà anh em chúng tôi theo đuổi.
Giấc mơ Việt Nam của chúng tôi là một giấc mơ trong lúc thức tỉnh, cả trí tuệ lẫn tâm hồn. Giấc mơ này giống như một ước mơ, nghĩa là những gì chúng ta muốn thấy, xuất phát từ thực tại mà chúng ta đang sống và ý muốn vượt lên thay đổi thực tại đó và đạt tới một thực tại khác đẹp hơn. Tuy vậy nó vẫn là một giấc mơ chứ không phải là một ước mơ bởi vì, khác với một ước mơ, nó vượt thoát hẳn khỏi thực tế và không thể đạt tới được một cách trọn vẹn trong một thời gian dự trù được. Trong giấc mơ không có kết quả cụ thể, cũng không có quyền lợi và tham vọng cá nhân, ngay cả tham vọng chính đáng. Nó là phẩm chứ không phải là lượng, một hướng đi chứ không phải một cột mốc, một lý tưởng chứ không phải một mục tiêu.
Và tại sao phải mơ ?
Trước hết là vì giấc mơ, dù hiểu theo nghĩa nói trên, trong lúc tỉnh, hoàn toàn không có sự giả dối. Lý do là vì không ai bắt mình mơ, mình tự ý mơ trong một khoảng khắc bình yên và chỉ đối diện với chính mình cho nên tuyệt đối không có nhu cầu nói dối. Giấc mơ vì vậy bao giờ cũng là một khoảng khắc chân thành và khiến người ta trong sạch hơn.
Nó cũng khiến người ta gắn bó với đất nước hơn bởi vì người ta luôn luôn mơ bằng tiếng mẹ đẻ. Một điều có thể nhận thấy là các thế hệ di dân thứ hai –con của những người vừa tới định cư ở một nước mới- thường ít mơ mộng. Họ có thể rất năng động và thành công ngoạn mục trong học hành cũng như trong nghề nghiệp nhưng họ ít mơ mộng. Không phải vì phải phấn đấu nhiều và không còn thời giờ để mơ mộng như họ thường nói mà vì không có tiếng mẹ đẻ để mơ. Họ được cha mẹ chăm nom trong những năm đầu đời cho nên tiếng mẹ đẻ vẫn là tiếng của cha mẹ, nhưng rồi họ đi học và sau đó đi làm bằng tiếng của nước nhập cư và dần dần quên đi tiếng mẹ đẻ hay chỉ còn giữ lại được một chút ít không đủ để mơ. Họ không thể mơ vì đã mất tiếng mẹ đẻ. Đó là một thiệt thòi lớn vì mơ mộng là một điều kiện cần để sống hạnh phúc.
Giấc mơ cũng khiến người ta gắn bó với đất nước hơn bởi vì người ta luôn luôn mơ bằng tiếng mẹ đẻ. Ảnh minh họa
Quan trọng hơn, giấc mơ làm đẹp tâm hồn và gắn bó những con người.
Giấc mơ chỉ có thể đẹp và hiền hòa. Một người Cao Ly có thể nguyền rủa Kim Jong-un, rất mong ước hắn bị lật đổ và trừng trị thật đích đáng nhưng người ta không thể mơ như thế. Giấc mơ chỉ có thể có những điều tốt và đẹp. Và vì nó vừa thành thực vừa tốt và đẹp nên nên nó khiến chúng ta cùng hướng về cái Tốt, cái Đẹp và cái Đúng. Nó khiến chúng ta gắn bó với nhau trong sự chia sẻ những điều mà ai cũng muốn. Điều này tổ tiên ta đã biết ngay từ một ngày rất xa xưa. Các cụ gọi những kết hợp tạm bợ là "đồng sàng dị mộng" (cùng một chiếu nhưng không cùng một giấc mơ). Như vậy các cụ đã biết từ lâu điều mà nhiều người đấu tranh chính trị ngày nay, ngay cả những người rất thông thái, không ý thức được một cách rõ ràng là người ta chỉ có thể chung sức hành động lâu dài nếu cùng chia sẻ một giấc mơ. Như vậy giấc mơ tuy xa vời nhưng lại là một nhu cầu rất cụ thể cho một kết hợp bền vững.
Có cần những bằng chứng cụ thể cho những khẳng định này không ?
Hai tôn giáo lớn quen thuộc với chúng ta, Phật Giáo và Kitô Giáo, đã gắn bó hàng tỷ người trong hàng ngàn năm trong một giấc mơ chung là sẽ được vào Niết Bàn, hay lên Thiên Đàng cũng thế vì hai tôn giáo này là anh em (1). Ngày nay cả hai đều đang gặp khó khăn bởi vì giấc mơ đó, ít nhất theo cách mô tả cổ điển, không còn được chia sẻ nồng nhiệt như trước nữa.
Một thí dụ khác, cũng là một thảm kịch cho nhiều dân tộc trong đó có chúng ta, là phong trào cộng sản. Cũng như tất cả mọi đảng cộng sản đã từng xuất hiện trên thế giới và hầu hết đã tiêu vong, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được xây dựng trên danh nghĩa như là một phương tiện để tiến tới giấc mơ Thế Giới Đại Đồng không giai cấp, tuyệt đối bình đẳng và liên đới trong đó mỗi người làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Giấc mơ này rất đẹp cho nên có lúc đã động viên được hàng tỷ người và hàng triệu người đã say mê đến độ sẵn sàng chết cho nó và sẵn sàng giết người vì nó. Tại Việt Nam nó đã qui tụ được một số người không nhiều cũng không có trình độ hiểu biết nào đáng kể, chủ yếu theo cộng sản vì mù quáng, nhưng cuồng nhiệt chia sẻ giấc mơ chung đó và đã có thể lôi kéo hoặc cưỡng bức nhiều người khác theo họ và hy sinh cho họ. Sau cùng họ đã thắng trước một phe chống cộng tuy đông hơn, kiến thức cao hơn, phương tiện dồi dào hơn, nhưng đồng sàng dị mộng. Đó là một trong những bài học lịch sử lớn nhất.
Sau cùng phong trào cộng sản thế giới đã sụp đổ khi giấc mơ tan biến. Lý tưởng này tuy đẹp nhưng không có đường đi tới. Đường đi tới được đưa ra là tư tưởng Mác-Lênin sai cả về phương pháp lý luận lẫn chính lý luận. Và giấc mơ đã chỉ là ác mộng. Các chế độ cộng sản và các đảng cộng sản đã tiêu vong, chỉ còn lại hai chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam và hai chế độ khốn cùng là Triều Tiên và Cuba. Nhưng cả hai chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đều đã chấp nhận kinh tế thị trường và không những thế còn tạo ra một tình trạng chênh lệch giầu nghèo thách đố hơn cả các nước tư bản. Giấc mơ cộng sản đã bị chối bỏ, hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam không thú nhận chỉ vì gian trá và ngụy biện mà thôi. Sự sụp đổ của cả hai chế độ là chắc chắn bởi vì những người cộng sản không còn giấc mơ chung.
Còn đối lập dân chủ Việt Nam ?
Phải nói thật vắn tắt và quả quyết : muốn đánh bại được sự ngoan cố của Đảng Cộng Sản phải có một tổ chức dân chủ mạnh và muốn có một tổ chức dân chủ mạnh chúng ta cũng cần một giấc mơ Việt Nam chung. Chúng ta thiếu một giấc mơ Việt Nam và vì thế không thấy cần có một tư tưởng chính trị để chứng minh rằng có đường đi tới lý tưởng đó và một dự án chính trị để biết phải đi tới như thế nào. Mỗi người theo đuổi một ước vọng cá nhân, có khi chỉ tầm thường như được đóng một vai trò nào đó hay được thừa nhân một tư cách nào đó. Hậu quả là đấu tranh nhân sĩ hoặc đồng sàng dị mộng. Chính vì thế mà chúng ta vẫn chưa có nổi một tổ chức dân chủ có tầm vóc, cuộc vận động dân chủ vẫn dậm chân tại chỗ và chính quyền cộng sản vẫn còn tồn tại dù đã mất lý tưởng, đã phân hóa cùng cực, đã trở thành một lực lượng chiếm đóng cướp bóc và đã thất bại trên mọi phương diện. Nhiều người có thể nghĩ giấc mơ xa vời, nhưng cũng chính vì thế mà nó đoàn kết chúng ta một cách lâu dài.
Sau một hồi trao đổi anh bạn nói : "Thú thực là mình không có một giấc mơ nào cho Việt Nam, chỉ ghét bọn cầm quyền hiện nay vì chúng nó quá nhảm nhí thôi. Có lẽ là vì trong thâm tâm mình cũng không yêu nước lắm". Anh là một người hiểu biết và chân thực, anh thành công lớn, được mọi người quý trọng ; các con anh cũng đều rất thành đạt, nhưng họ chủ yếu quan tâm tới cuộc sống cá nhân.
Rồi anh hỏi tôi làm thế nào để có một giấc mơ Việt Nam chung thay vì mỗi người một giấc mơ riêng ?
Không khó. Cái khó là phải mơ. Nếu mỗi người tạm từ bỏ cái tôi để trở về với mình và thành thực nghĩ về những gì mà mình có thể mơ ước cho đất nước Việt Nam rồi viết ra giấc mơ Việt Nam của mình họ sẽ thấy giấc mơ đó không khác bao nhiêu giấc mơ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên :
Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.
Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát.
Giấc mơ chung đó chắc chắn sẽ nhanh chóng khiến cuộc vận động dân chủ khởi sắc.
Nguyễn Gia Kiểng
(31/07/2019)
-----------------
Đề nghị đọc thêm :
Sai lầm lớn là cho rằng chỉ cần đồng ý với nhau trên những vấn đề cụ thể và bắt tay nhau hành động. Sự thực là người ta không bao giờ có thể liên tục đồng ý trên những vấn đề cụ thể bởi vì chúng gần như luôn luôn có thể có những giải đáp khác nhau. Do đó nếu tình cờ người ta đồng ý trên một mục tiêu cụ thể nào đó thì tháng sau sẽ không đồng ý trên một vấn đề cụ thể khác, và chia tay. Đồng thuận trên một tư tưởng chính trị khiến người ta không có những suy nghĩ quá khác nhau trên những chọn lựa cụ thể và do đó có thể hiểu nhau và thỏa hiệp với nhau ngay cả khi không đồng ý.
Cuộc vận động dân chủ sắp có một cơ hội rất lớn không nên để lỡ.
Từ hai tháng nay chúng ta đã bước vào năm thứ 45 từ ngày Đảng cộng sản ngự trị trên cả nước. Dịp kỷ niệm ngày 30/04/1975 năm nay hơi khác với những năm trước ở chỗ ít ai còn đặt ra một câu hỏi quan trọng, rất quan trọng, quan trọng nhất nếu không phải là duy nhất cho những ai mong muốn điều mà cả nước đều muốn, nghĩa là dân chủ. Có lẽ vì sau quá nhiều lần đặt câu hỏi người ta tưởng là đã có câu trả lời, một câu trả lời đau nhức mà người ta không muốn nghe lại nữa.
Câu hỏi đó là : "Tại sao đến giờ này Việt Nam vẫn chưa có được một lực lượng dân chủ có tầm vóc ?". Nó đi đôi với và hầu như cũng là câu trả lời cho một câu hỏi khác : "Tại sao sau gần nửa thế kỷ được áp đặt lên cả nước chế độ cộng sản vẫn còn tồn tại dù đã thất bại hoàn toàn trên mọi phương diện, trong tất cả mọi địa hạt và theo tất cả mọi tiêu chuẩn ?".
Chúng ta tưởng là đã có câu trả lời, nhưng thực ra đã có chưa ? Hay chỉ vì không dám thẳng thắn trả lời chúng ta đã dừng lại ở những câu trả lời phiến diện, loanh quanh và nhàm chán – như thiếu lãnh đạo, ai cũng muốn lãnh đạo dù không có những khả năng cần có của một người lãnh đạo v.v.- rồi với thời gian tưởng rằng mình đã hiểu. Câu trả lời không giản dị như nhiều người có thể nghĩ. Nó là một câu hỏi không phải chỉ đặt ra cho lý luận mà còn đặt ra cho lương tâm, không phải chỉ đặt ra cho dân tộc mà còn cho mỗi người. Một câu hỏi mà người ta chỉ có thể hy vọng trả lời đúng nếu đồng thời cũng thực tình muốn đóng góp giải quyết.
Với những ai dám chấp nhận sự đau nhức của một câu trả lời thẳng thắn tôi xin góp một vài ý kiến của một kẻ đã đấu tranh chính trị từ hơn một nửa thế kỷ qua và đã trăn trở nhiều trong cố gắng đóng góp xây dựng một tổ chức dân chủ.
Ba lý do đến từ lịch sử
Có ba lý do chính khiến chúng ta vẫn chưa có được một lực lượng dân chủ mạnh.
Lý do thứ nhất là chúng ta, người Việt Nam, rất thiếu văn hóa tổ chức, rất thiếu khả năng hợp tác để hành động có tổ chức.
Điều này hầu như ai cũng đồng ý vì nó quá hiển nhiên. Không thiếu trường hợp các tổ chức chính trị cũng như ái hữu tan vỡ vì những xung khắc vớ vẩn, người ta tranh giành quyền lực ngay cả trong những tổ chức không có một tầm quan trọng nào. Các hội ái hữu cựu học sinh một trường trung học hay các hội đồng hương mà hoạt động chính là tổ chức vài năm một lần một bữa cơm thân mật cũng có thể tan vỡ vì những tranh chấp vô lý. Tuy vậy rất ít ai ý thức được rằng thực trạng này rất nghiêm trọng và chúng ta phải khắc phục với tất cả quyết tâm.
Khả năng cốt lõi của giống người, khiến loài người thống trị được mọi loài vật không phải là trí khôn, sức khỏe, sự nhanh nhẹn và khéo léo của cơ thể hay các giác quan, hay ngay cả khả năng thích nghi với môi trường chung quanh, mà là khả năng hợp tác một cách uyển chuyển để tạo ra các tổ chức phù hợp với tình huống. Một người không là gì cả nếu phải đương đầu với một con voi hay một con cọp nhưng một trăm người chắc chắn sẽ chế ngự được cả một trăm con voi lẫn một trăm con cọp. Lý do là vì các loài vật hoặc không biết tổ chức (như những con đại bàng), hoặc chỉ biết hợp thành những nhóm nhỏ (như những con sư tử), hoặc các đàn lớn nhưng cứng nhắc theo bản năng sẵn có và không thể thay đổi cơ cấu để thích nghi với hoàn cảnh (như những đàn ong, đàn kiến).
Trình độ tiến hóa và văn minh của một dân tộc trước hết biểu lộ qua khả năng kết hợp thành tổ chức. Tôi đã sống và làm việc khá lâu và có may mắn được đi thăm nhiều nước, quan sát nhiều dân tộc và tiếp xúc với nhiều người trên mọi lục địa để có thể kết luận chắc chắn rằng trí khôn quan trọng nhất của một con người cũng như của một dân tộc là biết cách hợp tác để làm việc có tổ chức. Thiếu khả năng này là chưa thông minh và chưa văn minh. Những kinh nghiệm này cũng cho tôi một nhận xét đáng buồn là tuy kiến thức có thể cao hơn nhưng khả năng kết hợp của người Việt chỉ ngang hàng với các dân tộc Châu Phi Da Đen và Châu Mỹ La Tinh.
Và đó chỉ là so sánh dân tộc Việt Nam nói chung với các dân tộc khác chứ trí thức Việt Nam thì rất không bình thường. Thí dụ có những người dân chủ viết những bài tham luận khẳng định rằng muốn đấu tranh cho dân chủ thì phải có tổ chức, giảng giải về sự cần thiết của tổ chức, khuyên người khác nên dẹp cái tôi của mình để tham gia vào một tổ chức nhưng chính mình lại không tham gia và cũng không có ý định tham gia hay thành lập một tổ chức nào cả mà không hề thấy mâu thuẫn.
Tại sao ? Ảnh hưởng của Khổng Giáo không quan trọng bằng di sản của lịch sử khiến chúng ta thiếu văn hóa tổ chức và khả năng kết hợp. Phải hiểu lịch sử để hiểu lý do. Chúng ta đã là nạn nhân của một cách viết sử đặt tự ái dân tộc lên trên sự chính xác. Chúng ta nhắc đi nhắc lại rằng mình có bốn ngàn năm văn hiến, có trống đồng làm chứng cho một nền văn minh cao. Nhiều người, như Kim Định, còn nói người Trung Quốc chỉ học ở người Việt, rằng văn hóa Việt Nam là văn hóa tinh hoa và lâu đời bậc nhất. Rồi chúng ta tự mãn và định cư trong sự sai lầm. Sự thực trái hẳn.
Do điều kiện địa lý tổ tiên ta, cũng như các dân tộc Đông Nam Á nói chung, đã chỉ bắt đầu được khai hóa từ khi tiếp xúc với hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, từ hai thế kỷ trước công nguyên. Trước đó chúng ta chỉ là những bộ lạc bán khai. Một bằng chứng là không có vết tích của các tập trung lớn để một nền văn minh có thể xuất hiện. Một bằng chứng khác là ngôn ngữ của chúng ta chỉ có những từ cụ thể, tất cả những từ ngữ và khái niệm trừu tượng chuyên chở tư tưởng và ý kiến đều được du nhập từ tiếng Hán. Không quá nếu nói rằng văn hóa Trung Hoa, và Ấn Độ ở phía Nam, đã giúp chúng ta bắt đầu văn minh. Những người đặt những viên đá đầu tiên cho đất nước Việt Nam –Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, Đào Hoàng, Lý Bôn, Khúc Thừa Dụ v.v.- đến từ Trung Quốc. Hai triều đại lớn đầu tiên của chúng ta –nhà Lý và nhà Trần- cũng đều do những người di dân Trung Quốc. Ngay gần đây, nửa thế kỷ trước, những người Trung Hoa đói khổ tha phương cầu thực chỉ sau một thời gian ngắn đã nắm gần hết kinh tế Việt Nam. Chúng ta chưa đủ văn minh và vì thế chưa có khả năng kết hợp của nhiều dân tộc khác.
Tuy nhiên nói như vậy không phải để tuyệt vọng và chán nản mà ngược lại để có hy vọng và niềm tin. Có thể nói trước công nguyên, khi bắt đầu tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, chúng ta chậm trễ khoảng 4.000 năm so với thế giới văn minh lúc đó về ý thức tổ chức và khả năng kết hợp ; đầu thế kỷ 16 khi người phương Tây đến, chúng ta chỉ còn chậm trễ khoảng 2000 năm. Hiện nay chúng ta còn chậm trễ khoảng 50 năm. Chúng ta đã tiến rất nhanh mặc dù những trở ngại lớn : văn hóa Khổng Giáo rồi chế độ cộng sản, cả hai đều ngăn cấm các kết hợp của xã hội dân sự. Chúng ta cần cố gắng hơn nữa nhưng không cần phải bi quan.
Gần đây nếu nhìn kỹ thì cũng có thể thấy chúng ta đã tiến những bước rất dài. Cuộc tranh đấu giằng co của xã hội Việt Nam để tự cởi trói trong hơn 40 năm qua đã có tác dụng ngày càng mở rộng thêm không gian tự do và chúng ta hiện đã đạt tới tình trạng mà một kết hợp giữa những người dân chủ trong nước có thể hình dung được, dĩ nhiên với những thận trọng cần thiết. Văn hóa tổ chức ngày càng được phản ánh trong các suy nghĩ và phát biểu. Chỉ vài năm trước còn có rất nhiều nhân sĩ thản nhiên nói rằng mình không tham gia một tổ chức nào cả và coi đó như một vinh dự. Bây giờ trái lại ít ai còn chối cãi rằng đấu tranh chính trị chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức. Trí tuệ Việt Nam đã được khai thông. Vấn đề chỉ là làm thế nào để nhanh chóng biến ý thức thành phản xạ. Muốn như vậy phải nhìn nhận văn hóa tổ chức như là văn hóa cao nhất và cần nhất, khả năng sinh hoạt trong một tổ chức là khả năng phải được trân trọng nhất trong một con người. Tiêu chuẩn để đánh giá một người đấu tranh chính trị phải là người đó đã đóng góp xây dựng tổ chức nào và với kết quả nào.
Lý do thứ hai là người Việt Nam rất thiếu, quá thiếu, kiến thức chính trị.
Chúng ta không thấy được điều này chỉ vì chúng ta quá kém để thấy được là mình kém. Đây cũng chủ yếu là di sản của văn hóa Khổng Giáo, một qui luật sống của kẻ nô lệ được tôn lên thành một đạo lý. Hơn nữa Khổng Giáo mà chúng ta tiếp thu và độc tôn cho tới cuối thế kỷ 19 lại chỉ là Khổng Giáo từ đời nhà Đường về trước, nghĩa là một Khổng Giáo xưa cũ trong đó các nho sĩ trúng tuyển các khoa thi thơ phú được cho làm quan để cai trị và bóc lột quần chúng. Tư tưởng và kiến thức chính trị hoàn toàn vắng mặt. Chúng ta tự hào có bốn ngàn năm văn hiến nhưng tuyệt đối không có tư tưởng chính trị, có lẽ chỉ trừ hai câu đầu của bài Bình Ngô Đại Cáo.
Ngoại trừ một ngoặc đơn ngắn và lộn xộn dưới các chính quyền quốc gia thiếu cả tài năng lẫn ý chí, Khổng Giáo đã chỉ được tiếp nối bằng chủ nghĩa cộng sản về bản chất cũng chỉ là một thứ Khổng Giáo mới trong đó chính trị cũng chỉ có nghĩa là độc quyền thống trị của Đảng cộng sản. Trong lịch sử của nước ta, kiến thức và tư tưởng chính trị chưa bao giờ được khuyến khích, trái lại còn bị cấm đoán. Không ngạc nhiên nếu người Việt Nam thiếu tư tưởng và kiến thức chính trị, ngay cả những người chống cộng sống ở nước ngoài. Đoạn tuyệt với một văn hóa rất khó.
Do di sản lịch sử và văn hóa này rất phần lớn người Việt cho rằng làm chính trị không cần phải học hỏi mà chỉ cần nghị lực và ý chí. Họ không hiểu rằng chính trị đòi hỏi sự hiểu biết về tất cả các bộ môn ở mức độ đủ cao để có thể dung hòa và tổng hợp chúng trong một dự án quốc gia. Sự ngộ nhận này vẫn còn đang tiếp tục bởi vì phải có một trình độ nào đó để biết rằng mình không biết. Nó khiến nhiều người nghĩ rằng mình cũng có thể thành lập hoặc lãnh đạo một tổ chức chính trị. Trong tiềm thức của họ chắc chắn chính trị vẫn chỉ là tranh giành ảnh hưởng và tiếng tăm. Kết quả tất nhiên là những "cố gắng đấu tranh" này chỉ có tác dụng đánh lạc sự chú ý khỏi các tổ chức nghiêm túc, sau cùng gây thất vọng và chán nản cho chính mình và cho phong trào dân chủ.
Một nhận định thường gặp trong các bài tham luận là đối lập dân chủ có quá nhiều tổ chức và các tổ chức không chịu kết hợp với nhau. Nhận định này không còn đúng nữa. Tuyệt đại đa số các tổ chức được thành lập hoặc tuyên bố thành lập trên thực tế đều không còn nữa hoặc đang tàn lụi một cách không thể đảo ngược. Số tổ chức thực sự còn tồn tại và có hy vọng phát triển chưa chắc đã bằng số ngón tay của một bàn tay. Nguyên nhân chính là do không hiểu rằng không thể duy trì, chưa nói phát triển, một tổ chức chính trị nếu không có một tư tưởng chính trị, nghĩa là một đồng thuận trên những câu hỏi nền tảng. Thí dụ như quốc gia và lòng yêu nước phải được quan niệm lại như thế nào trong thế giới này ; cứu cánh của hoạt động chính trị là gì, những khả năng và đức tính nào là cần thiết và đáng tôn vinh nơi một người hoạt động chính trị ; những thử thách nào đang và sẽ đặt ra cho đất nước và thế giới và có thể có những giải đáp nào v.v.
Sai lầm lớn là cho rằng chỉ cần đồng ý với nhau trên những vấn đề cụ thể và bắt tay nhau hành động. Sự thực là người ta không bao giờ có thể liên tục đồng ý trên những vấn đề cụ thể bởi vì chúng gần như luôn luôn có thể có những giải đáp khác nhau. Do đó nếu tình cờ người ta đồng ý trên một mục tiêu cụ thể nào đó thì tháng sau sẽ không đồng ý trên một vấn đề cụ thể khác, và chia tay. Đồng thuận trên một tư tưởng chính trị khiến người ta không có những suy nghĩ quá khác nhau trên những chọn lựa cụ thể và do đó có thể hiểu nhau và thỏa hiệp với nhau ngay cả khi không đồng ý. Nhiều người và nhiều tổ chức vẫn chưa ý thức được là những chọn lựa cụ thể luôn luôn là hệ luận của một niềm tin nền tảng nào đó và không thấy sự cần thiết của một tư tưởng chính trị. Đó là lý do khiến các tổ chức tê liệt và tàn lụi, cùng lắm chỉ có tiếp tục tồn tại trong một thời gian nhờ những điều kiện thuận lợi.
Có nên bi quan không ? Những phát biểu gần đây trên báo chí, trên mạng xã hội cũng như trong những tiếp xúc cho thấy rất nhiều người dân chủ đã ý thức được rằng xây dựng và phát triển tổ chức rất khó, đòi hỏi những cố gắng kiên trì và những kiến thức chính trị vững chắc. Nhiều người cũng đã bắt đầu hiểu rằng tham gia một tổ chức chính trị không có một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị chỉ là một phí uổng thời giờ và công sức. Chúng ta đã tiến và cũng đã tiến khá nhanh mặc dù một di sản văn hóa rất bất lợi. Vấn đề chỉ là cần tiến nhanh hơn nữa.
Lý do thứ ba là chúng ta có một quan hệ quá phức tạp đối với sự thực và lẽ phải.
Nói rằng giả dối có thể hơi quá nhưng cũng không sai bao nhiêu. Chúng ta coi trọng hình thức hơn nội dung và đặt tình cảm trên lý trí mà không ý thức được rằng khi tình cảm thách thức lý trí nó không thể thành thực và lâu bền. Chúng ta coi điều người khác nghĩ về mình quan trọng hơn là điều chính mình nghĩ về mình, rồi vì khó tự dối mình nên chúng ta ít nghĩ về mình. Chúng ta mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm. Chúng ta coi thảo luận không phải là để học hỏi và hiểu nhau hơn mà chỉ là để tranh giành hơn thua.
Một người Việt ở nước ngoài có thể lên án một tổ chức là không chống cộng triệt để nhưng lại rất sợ bị coi là thuộc "các thế lực thù địch" và không được về Việt Nam du lịch. Một người trong nước có thể chửi chế độ một cách thậm tệ trong trò chuyện giữa bạn bè nhưng lại tránh quan hệ với những người dám bày tỏ lập trường. Một người có thể rất tốt trong lúc bình thường nhưng lại không lên án, thậm chí còn bênh vực những hành động sai trái khi chúng đến từ những người thân quen v.v. Tất cả những khuyết tật đó có trong mọi dân tộc, nhưng nơi người Việt Nam, chúng hiện diện một cách áp đảo. Nghiêm trọng hơn, ít người ý thức được rằng sự giả dối ngăn cản mọi kết hợp. Sinh hoạt tổ chức, nhất là các tổ chức tự nguyện, đòi hỏi sự thành thực ở mức độ rất cao bởi vì không có sự giả dối nào có thể che giấu lâu được, nhất là khi tổ chức khá đông đảo. Những người giả dối cô đơn cả với chính mình thì còn kết hợp được với ai ?
Vậy có phải bi quan không ? Một lần nữa câu trả lời là không. Sự giả dối ở mức độ hiện nay chủ yếu là di sản lịch sử, một lịch sử trong đó con người luôn luôn sống trong sự lo sợ. Dưới chế độ cộng sản nó đã biến nó thành một phản xạ sống còn. Trong lòng khinh bỉ và căm thù nhưng ngoài miệng vẫn phải ca tụng và biết ơn Đảng. Chế độ cộng sản không chỉ tàn phá đất nước, nó còn tàn phá cả tâm hồn Việt Nam.
Sau khi ở tù ra và trước khi ra nước ngoài tôi có một người bạn cũng là một người anh em họ xa. Anh này là một sĩ quan được huân chương anh hùng và cũng là một đảng viên xuất sắc được bầu làm đại biểu cho đại hội Đảng cộng sản năm 1982. Anh tâm sự : "mình ghét chúng nó thậm tệ nhưng sợ quá nên đành làm anh hùng". Nguyễn Chí Thiện là một ngoại lệ rất hiếm, ông đáng được tạc tượng để làm chứng cho danh dự còn lại của dân tộc trong một giai đoạn. Tuy vậy nét đậm của đất nước hiện nay là cái sợ đang tan. Chúng ta đang sống trong giai đoạn chuyển hóa. Con người Việt Nam nhiễm thêm nhiều tật xấu khác trong một xã hội băng hoại nhưng ngày càng bớt sợ, đang trút bỏ sự giả dối và tìm lại chính mình.
Ngoại lệ cộng sản ?
Tới đây một số bạn đọc có thể đặt câu hỏi với di sản văn hóa và lịch sử đó tại sao những người cộng sản vẫn thành lập được một đảng đủ mạnh để giành được chính quyền và cầm quyền lâu như vậy, phải chăng họ tài giỏi phi thường ?
Câu trả lời dứt khoát là không. Tổ chức mà chúng ta đang thảo luận là kết hợp của những con người tự do tự nguyện hợp tác với nhau vì cùng trân trọng một số gia trị và cùng chia sẻ một tư tưởng chính trị. Đó không phải là trường hợp của Đảng cộng sản và vì thế họ không có những khó khăn của những người dân chủ. Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chỉ là một thứ Khổng Giáo mới vì thế người cộng sản không cần một cố gắng về văn hóa và ý thức. Các đảng cộng sản về bản chất cũng không khác với các đảng cướp (chính ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản chứ không phải ai khác đã nói là họ "CƯỚP" chính quyền tháng 8-1945) và vì thế họ có thể dùng bạo lực và khủng bố để xây dựng và giữ gìn đảng, như câu chuyện người bạn mà tôi vừa kể.
Một kết luận cho một khúc quanh lớn
Trở lại câu hỏi tại sao đến giờ này Việt Nam vẫn chưa có được một lực lượng dân chủ có tầm vóc. Có nhiều lý do nhưng ba lý do kể trên đủ để giải thích tại sao. Quá đủ vì thực ra chỉ cần một trong ba lý do đó cũng đủ. Chúng ta có cả ba và còn có những lý do khác, như sự đàn áp thô bạo của Đảng cộng sản mà theo tôi không còn là lý do chính. Tình trạng hiện nay không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy vậy với một cái nhìn bình tĩnh chúng ta có thể thấy là người Việt đang rũ bỏ di sản văn hóa và lịch sử và vượt qua những trở ngại đó. Chúng ta sẽ còn tiến nhanh hơn, rất nhanh, nếu ý thức được những lý do chính đã khiến cuộc vận động dân chủ chưa mạnh và rút ra một kết luận dứt khoát.
Kết luận đó là : Đấu tranh chính trị chỉ có thể là đấu tranh có tổ chức và một tổ chức chính trị đúng nghĩa chỉ có thể là thành quả của những cố gắng bền bỉ của những người có đủ kiến thức chính trị và cùng chia sẻ một tư tưởng chính trị đúng. Như thế phải bác bỏ chủ nghĩa nhân sĩ, không ủng hộ những tổ chức thành lập vội vã hay không có tư tưởng chính trị, chỉ tham gia và ủng hộ những tổ chức nghiêm túc.
Điều cần được ý thức rất rõ ràng là cuộc đấu tranh cho dân chủ là cuộc đấu tranh cách mạng hoàn toàn mới trong lịch sử nước ta bởi vì chúng ta chưa bao giờ có tự do và dân chủ. Đó là cuộc chiến đấu để mở ra cả một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thứ hai trong lịch sử nước ta, kỷ nguyên của những con người Việt Nam tự do và của một nước Việt Nam dân chủ. Chính vì thế mà nó khó khăn, đòi hỏi một tư tưởng chính trị mới và một văn hóa mới. Nhưng cũng chính vì thế mà nó vinh quang.
Không chỉ vinh quang mà còn có triển vọng thắng lợi trong một tương lai gần. Đảng cộng sản Việt Nam, cũng như Đảng cộng sản Trung Quốc, đã chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Đây là chặng đường miễn cưỡng trong tiến trình đào thải tất yếu của các chế độ cộng sản khi họ không còn một tư tưởng chung –chính họ cũng đã thấy "tư tưởng Mác-Lênin" là nhảm nhí- để có thể lấy những quyết định tập thể, như người ta đã thấy tại Liên Xô và Đông Âu. Kinh nghiệm cũng cho thấy là các chế độ này đều sụp đổ ngay trong nhiệm kỳ của nhà lãnh đạo "nhất thể hóa" đầu tiên.
Việt Nam còn có thể thay đổi nhanh hơn. Tình trạng sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng không còn cho phép ông đảm nhiệm vai trò mà ông đã được chọn để làm, nghĩa là lấy những quyết định cần thiết thay thế cho một ban lãnh đạo chia rẽ trên gần như mọi vấn đề, và sẽ khó tìm được người thay thế ông. Đảng cộng sản Việt Nam đang rất nguy ngập. Càng ngày sẽ càng có nhiều đảng viên cộng sản hiểu rằng sự cáo chung của chế độ không còn xa và họ phải chọn lựa đứng vào hàng ngũ dân chủ để làm tác nhân thay vì nạn nhân của một thay đổi bắt buộc và đang tới.
Cuộc vận động dân chủ sắp có một cơ hội rất lớn không nên để lỡ.
Nguyễn Gia Kiểng
(27/06/2019)
Liên Hiệp Châu Âu là kết hợp chính trị duy nhất trong lịch sử thế giới được thành lập một cách hoàn toàn tự nguyện và thuần túy đặt nền tảng trên những giá trị chính trị và đạo đức cao đẹp. Đã không hề có một tiếng súng chinh phục, không có bất cứ nước nào bị ép buộc phải gia nhập Liên Hiệp, chỉ có những nước muốn gia nhập mà chưa được. Liên Hiệp Châu Âu đã là đế quốc thực sự văn minh đầu tiên trên thế giới.
Liên Hiệp Châu Âu đã không tan nát sau cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu kết thúc ngày 26/05/2019 vừa qua. Liên Hiệp Châu Âu được thêm 5 năm để củng cố và giải quyết những thách thức và tiến lên.
Trái với sự lo âu của của nhiều người, và hy vọng của nhiều người khác, Liên Hiệp Châu Âu đã không tan nát sau cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu kết thúc ngày 26/05/2019 vừa qua. Liên Hiệp Châu Âu được thêm 5 năm để củng cố và giải quyết những thách thức và tiến lên.
Các khuynh hướng ủng hộ quả quyết Liên Hiệp Châu Âu vẫn giữ được một đa số áp đảo, 456 ghế và 67,25% trong nghị viện, dù thành phần có thay đổi, trong khi các khuynh hướng chống hay hoài nghi chỉ được 190 ghế, hay 25%. Điều có ý nghĩa hơn là, trừ một vài thành phần không đáng kể, thiểu số 25% này cũng không còn tuyên bố chống lại Liên Hiệp Châu Âu nữa mà chỉ đòi cải tiến, điều mà đa số ủng hộ nhiệt tình Liên Hiệp Châu Âu cũng đồng ý bởi vì Liên Hiệp đang ở trong tiến trình hình thành. Như vậy giờ này người ta có thể khẳng định là sự tồn tại và tương lai của Liên Hiệp Châu Âu không còn bị đe dọa.
Khác với một cách nhìn phiến diện
Nhìn một cách bình tĩnh phải nói rằng sự lo âu cho sự sống còn của Liên Hiệp Châu Âu không có cơ sở. Nó chủ yếu do một cách nhìn phiến diện về sự trỗi dậy của các lực lượng dân túy khiến người ta nghĩ rằng chúng là một đặc sản mới của Châu Âu. Thực ra phong trào dân túy -kêu gọi triệt thoái về biên giới quốc gia- chỉ là một phản xạ tư nhiên và nông nổi trong mọi dân tộc mỗi khi sự giao lưu giữa các quốc gia tăng lên. Người ta rất dễ có cảm giác rằng mình mất nhiều hơn là được, nhất là khi mình thuộc thành phần đang bị thua thiệt. Phong trào dân túy khai thác cảm giác đó. Nó không mới, nó đã xuất hiện tại tại Châu Âu và Nhật ngay từ đầu thế kỷ trước như là một sản phẩm của làn sóng chinh phục thuộc địa -về bản chất cũng là một phong trào toàn cầu hóa- và đã dẫn tới các chế độ nazi, phát-xít, quân phiệt đặt nền tảng trên một tinh thần dân tộc hẹp hòi, với những hậu quả mà chúng ta đã biết. Gần đây nó tái xuất hiện như một phản ứng trước phong trào toàn cầu hóa mới sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt. Nó không giới hạn tại Châu Âu mà là một hiện tượng toàn cầu. Và nếu chúng ta nhìn kỹ thì Châu Âu còn ít bị dao động hơn là Mỹ, Nga và Châu Mỹ La Tinh. Các nước Châu Âu không bị phong trào dân túy tác động đến độ đưa lên cầm quyền những nhà độc tài hiểm độc như Putin hay mỵ dân trắng trợn như Donald Trump, Bolsonaro, Dutarte. Lý do khiến người ta có cảm tưởng Châu Âu bị dao động nhất là vì Châu Âu đã cảnh giác và báo động trước. Điều này thực ra chỉ chứng tỏ sức khỏe tinh thần của Châu Âu.
Một lý do khác khiến khiến người ta nghi ngờ khả năng tồn tại của Liên Hiệp Châu Âu là vì Liên Hiệp đang trong giai đoạn thành lập và vì thế không tránh khỏi những lủng củng, điển hình là vụ Brexit, nghĩa là nước Anh rút khỏi Liên Hiệp.
Những thử thách lớn không riêng của Châu Âu
Tuy vậy cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu vừa chứng tỏ Liên Hiệp Châu Âu vẫn vững vàng. Và sẽ có 5 năm tương đối an toàn để đương đầu với những thử thách và tiến tới, trong đó ta có thể nhận diện bốn thử thách lớn.
Thử thách đầu tiên, đồng thời cũng là một triển vọng, là đạt tới một đồng thuận trên một chính sách chung về môi trường. Đồng thuận này tuy khó khăn nhưng chắc chắn sẽ đạt được vì tất cả các nước thành viên đều đã ý thức rằng diện tích Châu Âu quá nhỏ -4,5 triệu km2 cho 520 triệu người của 27 quốc gia- để cho phép mỗi nước có một chính sách môi trường riêng. Một nét đậm của cuộc bầu cử vừa qua là trong khi các chính đảng truyền thống đều bị thiệt hại thì tất cả các đảng Xanh trong mọi nước đều đã mạnh lên một cách ngoạn mục và đều biểu lộ sự gắn bó chặt chẽ với Liên Hiệp Châu Âu. Đồng thuận về môi trường sẽ là chất keo gắn bó các nước Châu Âu trong một tương lai chung. Môi trường là một vấn đề khoa học và vì thế không có chỗ đứng cho các luận điệu mỵ dân. Chúng ta có thể lưu ý là các lãnh tụ dân túy, dù là Donald Trump hay Putin, hay Marine Le Pen, hay Bolsonaro hay Dutarte, sau cùng đã chỉ tránh né chứ không còn tấn công các quan tâm về môi trường nữa.
Thử thách thứ hai là đương đầu với làn sóng di dân. Phải nói ngay rằng Châu Âu đã là nạn nhân của chính quyền Mỹ dưới thời Barack Obama. Obama, với Hillary Clinton làm ngoại trưởng, đã tồi dở ngoài mọi tưởng tượng trong chiến lược đối ngoại. Cuộc tấn công của Mỹ vào Iraq -bất chấp sự phản đối của Liên Hiệp Châu Âu- đã là một sai lầm và đã gây thiệt hại lớn về nhân mạng cũng như về tài chính cho Mỹ nhưng đã gần như thành công vào lúc Obama lên cầm quyền. Quyết định triệt thoái hấp tấp của Obama đã cho phép lực lượng Nhà Nước Hồi Giáo Daesh bùng phát, suýt nữa đánh gục chính quyền dân chủ mà Hoa Kỳ vừa giúp thành lập, buộc Hoa Kỳ phải khẩn cấp can thiệp trở lại, sau khi đã để quân Daesh chiếm được nhiều vùng rộng lớn với nhiều giếng dầu và vô số vũ khi tối tân mà Hoa Kỳ trang bị cho chính quyền Iraq để trở thành một lực lượng rất mạnh. Barack Obama và Hillary Clinton còn phạm một sai lầm lớn khác trong Mùa Xuân Ả Rập 2011. Họ hùng hổ kêu gọi đánh đổ chính quyền độc tài Bachar Al-Assad rồi không dám can thiệp như đã tuyên bố khiến cuộc chiến Syria kéo dài, cùng với cuộc chiến Iraq, làm trên 500.000 người chết và trên 5 triệu người tỵ nạn, trong đó khoảng hai triệu người tìm cách sang Châu Âu. Dù phải chịu đựng một cuộc khủng hoảng lớn mà mình không gây ra nhưng Liên Hiệp Châu Âu nói chung đã ứng xử một cách văn minh, khác hẳn với thái độ của chính quyền Donald Trump đối với người tỵ nạn từ Nam Mỹ. Làn sóng di dân từ Trung Đông và Châu Phi tuy đã khiến Liên Hiệp Châu Âu khủng hoảng nhưng đang dần dần dần được giải quyết và sẽ cho người Châu Âu thêm một lý do để tự hào và để gắn bó với nhau.
Thử thách thứ ba là thành công trong cuộc tranh đua khoa học kỹ thuật. Châu Âu đang có vẻ bị tụt hậu trong cuộc cách mạng 4.0, về truyền thông, tự động và trí khôn nhân tạo. Các công ty lớn nhất, như Google, FaceBook, Apple, Samsung, Huawei, Alibaba, Amazon, đều không phải là những công ty Châu Âu. Tuy vậy Châu Âu vẫn đứng đầu, hay đứng hàng đầu, trong nhiều ngành khác như công nghiệp dược phẩm, xe ôtô, đường sắt cao tốc, máy bay, mỹ phẩm và du lịch v.v. Sự thua kém về công nghiệp 4.0 có nguyên nhân của nó. Đó là Châu Âu cho tới nay vẫn coi mình và Hoa Kỳ "tuy hai mà một" và không hề cảm thấy mất mát khi những phát minh của mình được ứng dụng và khai thác tại Mỹ. Một thí dụ cụ thể là mạng Internet đã xuất phát từ Pháp, với tên Minitel, nhiều năm trước khi được khai thác tại Mỹ. Sự di chuyển chất xám từ Âu sang Mỹ không là bí mật với bất cứ ai. Sự đồng hóa này đang chấm dứt từ khi Donald Trump ra mặt chống Châu Âu và công khai vận động làm tan vỡ Liên Hiệp Châu Âu. Các tổng thống Mỹ sau Trump sẽ thân thiện hơn nhưng quan hệ Âu–Mỹ sẽ không thể nào như trước và Châu Âu sẽ bắt buộc phải cạnh tranh với Mỹ. Kết quả sẽ ra sao là một câu hỏi lớn, nhưng điều chắc chắn là tiềm năng khoa học kỹ thuật của Châu Âu không thua Mỹ. Châu Âu cũng có những ưu thế khác. Tuy không giầu bằng Mỹ nhưng cũng hơn xa phần còn lại của thế giới, vượt trội về văn hóa và tri thức, có một nền giáo dục phẩm chất mở cửa cho mọi người và do đó có thể đào tạo và động viên tối đa tài nguyên trí tuệ.
Thử thách thứ tư và lớn nhất là xét lại và cải tiến mô hình chính trị. Đây cũng là thử thách cho toàn thế giới. Các khái niệm tự do, dân chủ, chủ quyền, quốc gia, dân tộc, bình đẳng, liên đới v.v. phải được định nghĩa lại như thế nào trong kỷ nguyên toàn cầu này ? Kinh tế và tài chính có thể được có chỗ đứng nào trong chính trị ? Tổ chức chính trị - xã hội nào phù hợp với thế giới ngày nay ? v.v. Khi tư tưởng chính trị không đi trước để chuẩn bị và hướng dẫn những thay đổi trong xã hội thì khủng hoảng là điều chắc chắn như lịch sử thế giới đã chứng minh. Và đó là điều đang xảy ra.
Thế giới đang sa vào khủng hoảng –phong trào dân túy chỉ là một trong những thể hiện- bởi vì từ sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và chiến tranh lạnh chấm dứt hầu như đã không còn thảo luận chính trị. Dân chủ tư bản được coi như đã toàn thắng, kinh tế thị trường dần dần dẫn đến xã hội thị trường trong đó đồng tiền vừa là trên hết vừa được tập trung vào tay một số người càng nhỏ. Dân chủ mất dần nội dung. Cuộc thảo luận đã bùng phát trở lại sau khi quá nhiều mâu thuẫn đã tích lũy. Nó đã rất sôi nổi và gay go tại Châu Âu, thí dụ như với phong trào Áo Vàng. Nó đã khiến nhiều người nghĩ Châu Âu đang rất bất ổn. Nhận xét này rất hụt hẫng. Châu Âu thật ra có ít mâu thuẫn xã hội hơn phần còn lại của thế giới. Châu Âu đã tranh cãi sôi sục chỉ vì đi trước thế giới về tư tưởng và nhìn thấy trước nhu cầu xét lại này. Trên thực tế Châu Âu ít bị đe dọa nhất về mặt chính trị và xã hội. Chênh lệch giầu nghèo không thách đố như tại các nước khác, hệ thống an sinh xã hội vững mạnh, sinh hoạt chính trị luôn luôn được sự tham gia đông đảo của quần chúng. Tư tưởng chính trị chính là bàn tay vô hình điều khiển xã hội mà Adam Smith nói tới. Vô hình cho nên khó nắm bắt. Không có khủng hoảng nào đáng sợ bằng khủng hoảng tư tưởng chính trị. Trong cuộc thử thách nguy hiểm này Châu Âu có nhiều hy vọng thoát hiểm và sau đó vươn lên hơn hẳn phần còn lại của thế giới.
Tương lai nào ?
Nét đậm của Liên Hiệp Châu Âu là nó đã là kết hợp chính trị duy nhất trong lịch sử thế giới được thành lập một cách hoàn toàn tự nguyện và đặt nền tảng trên những giá trị chính trị và đạo đức cao đẹp. Đã không hề có một tiếng súng chinh phục, không có bất cứ nước nào bị ép buộc phải gia nhập Liên Hiệp, chỉ có những nước muốn gia nhập mà chưa được. Liên Hiệp Châu Âu đã là đế quốc (hiểu theo nghĩa một kết hợp chính trị lớn mạnh) thực sự văn minh đầu tiên trên thế giới. Văn minh và hùng mạnh vì Liên Hiệp Châu Âu có GDP ngang với Hoa Kỳ, nghĩa là đứng đầu thế giới, với một trình độ văn hóa, nghệ thuật và khoa học có phần cao hơn.
Những khó khăn mà Liên Hiệp Châu Âu vừa trải qua và đang vượt qua có hai nguyên nhân. Một là Liên Hiệp đã bành trướng quá nhanh, từ 12 nước năm 1995 lên 28 nước năm 2013, để có thể giải quyết ổn thỏa mọi vấn đề nội bộ đặt ra. Hai là sự lớn mạnh nhanh chóng của Châu Âu đã gây lo ngại cho nhiều thế lực tại Nga và Mỹ. Đối với Putin bản chất dân chủ của Châu Âu là một đe dọa trực tiếp đối với chế độ độc tài của ông ta. Thành phần thủ cựu cực hữu chung quanh Donald Trump cũng nhìn Liên Hiệp Châu Âu như một đe dọa đối với địa vị số 1 của Hoa Kỳ và vai trò đồng tiền thanh toán và dự trữ quốc tế của đồng đôla. Cả Putin lẫn Trump đều chống Liên Hiệp Châu Âu ra mặt. Nhưng cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu vừa chứng tỏ Liên Hiệp Châu Âu mạnh hơn họ tưởng và sẽ không hề chao đảo. Châu Âu thua xa Hoa Kỳ về sức mạnh quân sự nhưng cũng sẽ không bao giờ xung đột với Hoa Kỳ. Quan hệ giữa hai bên tuy không còn "tuy hai mà một" như trước đây nhưng vẫn là quan hệ thân tình. Giai đoạn Donald Trump đang kết thúc, nhưng hiện tượng Trump vừa chứng tỏ nước Mỹ đã phân hóa lớn và có thể sẽ rất lúng túng trong tương lai, nhất là khi đồng đôla không còn vai trò hiện nay. Trump là một dấu hiệu hơn là một nguyên nhân, dấu hiệu rằng Hoa Kỳ không còn muốn và cũng không còn có thể đảm nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới.
Ngoài Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu còn những thế lực lớn nào trên thế giới ?
Có thể loại bỏ ngay vai trò của Nga. Nước Nga tuyệt đối không có tương lai nào. Ngoài kho vũ khí mà nó không còn khả năng để tiếp tục duy trì, chưa nói phát triển, Nga hầu như không có khả năng công nghiệp nào. Kinh tế Nga nói chung chỉ là xuất khẩu dầu khí để nhập khẩu hàng hóa, nhưng thời đại của dầu khí đang cáo chung. Trọng lượng kinh tế của Nga hiện chỉ là 1,5% kinh tế thế giới và sẽ còn giảm trong khi chế độ chính trị Nga cần được xét lại toàn diện. Tương lai của Nga trong trường hợp may mắn nhất chỉ là tương lai của một nước không quá dưới mức trung bình.
Trung Quốc dù cố tình phô trương một bề ngoài hào nhoáng đang sắp lâm vào khủng hoảng kinh tế lớn và bắt đầu tiến trình tan vỡ trong một tương lai rất gần. Cuộc chiến thương mại của Donald Trump chỉ gây những thiệt hại kinh tế không đáng kể so với những thiệt hại mà Trung Quốc gây ra cho chính mình trong khi lại giúp Trung Quốc đoàn kết trước một kẻ thù chung. Dầu vậy mô hình chính trị và kinh tế Trung Quốc quá sai và đã tích lũy quá nhiều mâu thuẫn để có thể tồn tại.
Ấn Độ có tương lai đầy hứa hẹn nhưng sẽ chỉ thực sự trở thành một cường quốc trong nửa sau của thế kỷ 21 này, trong khi Nhật bị giới hạn về địa lý và dân số.
Trong khi chờ đợi, nghĩa là trong vài thập niên sắp tới, vai trò lãnh đạo thế giới sẽ được đảm nhiệm bởi sự hợp tác giữa các quốc gia và các tập hợp dân chủ lớn trong đó, trái với cái nhìn của nhiều người, Liên Hiêp Châu Âu sẽ có vai trò ngày càng quan trọng hơn.
Một lời sau cùng.
Tại sao quan tâm tới vai trò và tương lai của các nước lớn trong khi chúng ta chỉ là một nước nhược tiểu chưa lo nổi cho chính mình ? Đó là vì chúng ta đã là chúng ta ngày nay sau khi lạc lõng và bế tắc trong những ngõ cụt vì không hiểu thế giới. Chọn lựa chủ nghĩa Mác Lênin và phục tùng Liên Xô của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam là một thí dụ.
Nguyễn Gia Kiểng
(04/06/2019)
Buổi thuyết trình và họp báo của tổng thống Macron đã thất bại. Cũng như cái gọi là "cuộc thảo luận lớn trên quy mô quốc gia" mà ông muốn đúc kết. Lý do là vì Pháp, cũng như mọi nước dân chủ lớn, đang trải qua một cuộc khủng hoảng tư tưởng đòi hỏi xét lại những khái niệm và giá trị nền tảng sau khi trong một thời gian dài tư tưởng chính trị đã không theo kịp các đảo lộn về khoa học, kỹ thuật và nếp sống. Cuộc thảo luận đã chỉ tập trung vào những vấn đề cụ thể trong khi người ta không thể thỏa hiệp trên những biện pháp cụ thể nếu chưa nhìn rõ những vấn đề nền tảng.
Từ ngày 15/01/2019, nước Pháp đã có một cuộc Thảo luận quốc gia lớn - Le Grand Débat National - về hiện tình và tương lai đất nước…
Trong ba tháng qua, chính xác là từ ngày 15 tháng 01, nước Pháp đã có một cuộc Thảo luận quốc gia lớn - Le Grand Débat National - về hiện tình và tương lai đất nước. Các cuộc thảo luận được tổ chức ở mọi tỉnh và thành phố. Tổng thống Emmanuel Macron cũng đi khắp nơi tham gia giải thích và đối thoại, như thủ tướng và các bộ trưởng của ông. Chưa bao giờ nước Pháp có một cuộc thảo luận chính trị lớn và kéo dài như thế. Tuy vậy tất cả các bạn Pháp của tôi, kể cả những trí thức quan tâm đến tình hình chính trị, đều có cùng một câu trả lời khi tôi hỏi họ đã ghi nhận được những gì qua cuộc thảo luận này. Họ đều nói "không có gì hết", rien du tout. Con voi đã đẻ ra con chuột. Có một cái gì đó rất không bình thường cần được nhìn rõ.
Thảo luận để nhượng bộ và chữa cháy
Trước hết cần nhắc lại lý do và hoàn cảnh của cuộc "thảo luận quốc gia lớn" này. Từ ngày 17/11/2018 nước Pháp đã sôi động với những cuộc biểu tình của những người mặc "áo vàng", áo không tay, bằng vải nhựa của các công nhân công trường hay những người hư xe bên đường đang sửa xe hoặc chờ được cứu trợ. Lý do tức khắc của các cuộc biểu tình này là để phản đối quyết định tăng thuế xăng dầu. Những cuộc biểu tình này không do một chính đảng, hay một công đoàn, hay ngay cả một tổ chức xã hội dân sự nào kêu gọi và tổ chức. Chúng thuần túy tự phát, do những người dân thường dùng mạng xã hội rủ nhau và hẹn nhau đi biểu tình.
Điều ngạc nhiên là họ đã tập trung được hàng trăm nghìn người trên một lý do không mấy quan trọng bởi vì giá xăng chỉ tăng khoảng 2%, dầu tuy tăng gần 10% nhưng vẫn còn rẻ hơn xăng. Hơn nữa biện pháp tăng thuế xăng dầu đã được chuẩn bị từ lâu về mặt tâm lý như là một biện pháp giới hạn sử dụng xe ôtô, nhất là ôtô chạy bằng dầu, để giảm ô nhiễm và có vẻ đã ít nhiều được chấp nhận. Thì ra việc tăng giá xăng dầu chỉ là giọt nước làm tràn bình. Các băng rôn và khẩu hiệu Macron dégage ! (Macron, cút đi !) cũng cho thấy là cuộc biểu tình này nhắm trước hết chống tổng thống Macron bị một thành phần khá đông nhìn như là le président des riches (tổng thống của người giầu). Cách nhìn này hơi oan. Macron tuy sinh ra trong một gia đình giầu có, làm việc trong giới ngân hàng và được giới tài phiệt hỗ trợ nhưng là một người hiểu biết, yêu nước, có viễn kiến và có trách nhiệm. Tuổi trẻ và sự thành công đôi khi làm ông lạc lối vào sự cao ngạo -như khi tự ví với Jupiter, khi nói có những người thất nghiệp vì làm biếng, hay khi bảo một thanh niên đang thất nghiệp rằng anh ta chỉ cần "qua bên kia đường", hàm ý làm một cố gắng nhỏ, là có việc làm ngay- nhưng Emmanuel Macron hoàn toàn không giống Donald Trump. Hai việc làm gây chú ý nhất của ông là bãi bỏ thuế người giầu chỉ giữ lại thuế trên tài sản nhà đất và nhất là làm lại luật lao động mới. Cả hai đều đúng và cần thiết nhưng đều được nhìn như nhắm phục vụ các công ty, hay giới chủ nhân, hơn là giới công nhân.
Khải Hoàn Môn Paris và nhiều công trình, cửa hàng tại nhiều nơi bị những người mặc áo vàng đốt phá.
Trong cuộc biểu tình đầu tiên ngày 17/11/2018 họ tập hợp được gần 300.000 người trên cả nước. Đúng là một thành công kỷ lục đối với những người chỉ biết nhau trên mạng. Một cuộc thăm dò dư luận ngay sau đó cho thấy là hơn 80% người Pháp ủng hộ họ. Trong thứ bẩy sau đó số người tham gia biểu tình còn đông hơn và bắt đầu có bạo lực. Khải Hoàn Môn Paris và nhiều công trình, cửa hàng tại nhiều nơi bị đốt phá. Phản ứng của Macron và chính phủ của ông, như thường lệ, là không nhượng bộ gì hết. Họ dõng dạc tuyên bố là vẫn giữ vững lập trường. Trong thâm tâm chắc chắn họ nghĩ rằng những cuộc biểu tình không có tổ chức này sẽ mất khí thế nhanh chóng. Họ đã lầm to. Các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục mỗi thứ bảy và ngày càng gay cấn hơn. Số người chết và bị thương ngày càng nhiều (cho đến nay đã có 11 người chết và hơn 4.000 người bị thương, hơn 10.000 người bị bắt trong đó hơn 2.000 bị giải tòa và hơn 400 bị tù giam). Thêm vào đó các cuộc biểu tình của giáo chức và học sinh, của các bác sĩ và y tá, của nông dân và cả cảnh sát càng đóng góp gây ra tình trạng hỗn loạn mà những người biểu tình áo vàng mong muốn, trong khi đại đa số người Pháp vẫn ủng hộ họ. Chính phủ Macron bối rối thấy rõ. Riêng tổng thống Macron, thông thường đầy tự tin, hoàn toàn im lặng, gần như biến mất trong gần một tháng. Rồi tái xuất hiện không những nhượng bộ trên tất cả các biện pháp thuế khóa mà còn nhận khuyết điểm, tăng lương, thêm tiền thưởng. Gần như đầu hàng. Các nhượng bộ được ước lượng là sẽ gây tốn kém cho ngân sách hơn 10 tỷ Euro mỗi năm, sau những thiệt hại trên 15 tỷ Euro do các cuộc biểu tình gây ra. Đồng thời ông Macron cũng thông báo là sẽ mở một cuộc thảo luận lớn trên quy mô quốc gia về tất cả những vấn đề lớn của đất nước bắt đầu từ ngày 15/01/2019.
Lớn thực nhưng vô ích
Câu hỏi đầu tiên mà người ta có thể và phải đặt ra là có thể nào tổ chức được một cuộc thảo luận nghiêm chỉnh, chưa nói là "thảo luận lớn trên quy mô quốc gia", trong không khí sôi động và đốt phá như vậy không ?
Và rồi thế nào là những vấn đề lớn ? Đó là những vấn đề nền tảng hay chỉ là những vấn đề đang gây căng thẳng ? Đâu là những vấn đề lớn của nước Pháp ? Thảo luận theo nhật thứ nào? Những ai được ưu tiên phát biểu ? v.v.
Sau một tuần lễ lúng túng. Chính quyền quy định cuộc thảo luận sẽ tập trung vào bốn chủ đề chính : chuyển tiếp môi sinh, thuế và chi tiêu công cộng, dân chủ và tư cách công dân, tổ chức bộ máy nhà nước và các dịch vụ công cộng.
Vào ngày 18/03, khi cuộc thảo luận được coi là đã kết thúc vì thời gian thảo luận dự trù đã hết, một thống kê cho biết là đã có 10.452 cuộc họp và gần hai triệu ý kiến được phát biểu, chính xác là 1.932.884 góp ý được ghi lại trong 16.000 sổ góp ý và hơn 10.000 điện thư. Nếu căn cứ vào những con số này thì đúng là một cuộc thảo luận rất lớn. Tuy vậy, như đã nói ở đầu bài này, không ai ghi nhận được một ý kiến quan trọng nào cả. Các chủ đề đều không được tôn trọng. Các cuộc thảo luận chủ yếu chỉ xoay quanh những vấn đề thường ngày đã được tranh cãi từ rất lâu rồi và trên đó không thể có đồng thuận vì ai cũng có lý : thuế, mãi lực, các trường học, các nhà hộ sin,h v.v. Đa số các nhóm áo vàng tuyên bố ngay từ đầu là không tham dự vì nguyện vọng của họ là đòi tổng thống Macron từ chức chứ không phải là những yêu cầu cụ thể.
Tổng thống Macron tuyên bố sẽ đúc kết cuộc thảo luận quốc gia này trong một diễn văn vào ngày thứ hai 15/04, sau đó sẽ họp báo ngày 17/04 để trả lời mọi thắc mắc. Ngày 15/04, một giờ trước diễn văn, nhà thờ Notre Dame de Paris, di sản lịch sử quý nhất của nước Pháp và được thăm viếng nhiều nhất trên thế giới, bốc cháy. Diễn văn được hoãn lại. Sau cùng diễn văn được gom lại với cuộc họp báo ngày 25/04 trong đó ngoài cố gắng lấy lại cảm tình của quần chúng, ông công bố những biện pháp cụ thể như đóng cửa trường Quốc Gia Hành Chính (ENA), giới hạn số học trò tiểu học ở mức tối đa 24 em mỗi lớp v.v. Biến cố này được đưa lên các đài truyền hình cho cả nước Pháp trực tiếp theo dõi. Kết quả là không một nhà báo nào hài lòng và một thăm dò dư luận sau đó cho thấy 80% người Pháp cho rằng đúc kết của Macron sẽ không giải quyết được cuộc khủng hoảng, 64% còn cho rằng các biện pháp mà ông công bố sẽ không thể thực hiện được một cách đúng đắn. Những người Áo Vàng tuyên bố sẽ "đi tới cùng" và một nửa người Pháp cho biết vẫn ủng hộ họ.
Những lý do của một thất bại biết trước
Buổi thuyết trình và họp báo của tổng thống Macron như vậy đã thất bại. Cũng như cái gọi là "cuộc thảo luận lớn trên quy mô quốc gia" mà ông muốn đúc kết. Lý do là vì Pháp, cũng như mọi nước dân chủ lớn, đang trải qua một cuộc khủng hoảng tư tưởng đòi hỏi xét lại những khái niệm và giá trị nền tảng sau khi trong một thời gian dài tư tưởng chính trị đã không theo kịp các đảo lộn về khoa học, kỹ thuật và nếp sống. Cuộc thảo luận đã chỉ tập trung vào những vấn đề cụ thể trong khi người ta không thể thỏa hiệp trên những biện pháp cụ thể nếu chưa nhìn rõ những vấn đề nền tảng mà cuộc cách mạng 4.0 và phong trào toàn cầu hóa đang đòi hỏi phải nghĩ lại một cách triệt để.
Cả bốn chủ đề thảo luận -chuyển tiếp môi sinh, thuế và chi tiêu công cộng, dân chủ và tư cách công dân, tổ chức bộ máy nhà nước và các dịch vụ công cộng- đều chưa phải là những vấn đề nền tảng và chỉ có thể thảo luận một cách nghiêm chỉnh khi những vấn đề thực sự nền tảng -về triết lý và đạo đức chính trị- đã được nhận định rõ, ngay cả nếu chưa có đồng thuận. Thí dụ như : thế nào là một quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa này ? Tinh thần quốc gia và lòng yêu nước phải được quan niệm lại như thế nào ? Làm thế nào để bảo đảm mọi người đều được trân trọng trong một xã hội mà chỗ đứng và tầm quan trọng của các ngành nghề không ngừng thay đổi và đồng tiền ngày càng hống hách ? Thỏa hiệp nào là tối ưu giữa liên đới xã hội và tăng trưởng kinh tế ? Thế nào là một quốc gia thành công trong thời đại này ? Chính trị là gì và đâu là những đức tính cần thiết và đáng được tôn vinh nơi một cấp lãnh đạo chính trị ? Thể chế chính trị nào phù hợp nhất với nhu cầu thảo luận và thỏa hiệp thường trực từ nay ? Bảo vệ môi trường cần được dành chỗ đứng nào trong chính sách quốc gia và quan hệ quốc tế ? v.v. Chỉ sau khi những câu hỏi đó được đặt ra và thảo luận nghiêm túc, ngay cả nếu chưa có đồng thuận, thì những vấn đề cụ thể như sức mua, thuế và chi tiêu công cộng mới có thể tìm được thỏa hiệp chấp nhận được và hòa bình trong xã hội và giữa các quốc gia mới được bảo đảm.
Một thí dụ là Donald Trump đang gây bất hòa tại Mỹ và trên thế giới vì quan niệm quốc gia như một lãnh thổ, một chính quyền và một khối người tranh hùng với các dân tộc khác như hồi đầu thế kỷ 20, trong khi quan niệm đúng của thời đại này là định nghĩa quốc gia như một tình cảm, một không gian liên đới và một dự án tương lai chung, với ước vọng đóng góp cho một thế giới ngày càng lành sạch và thân thiện hơn (*).
Và phải thảo luận như thế nào ?
Ba đặc tính chung của các vấn đề nền tảng, nghĩa là thuộc phạm trù triết lý và đạo đức chính trị, là :
Một là, chúng lúc nào cũng đặt ra và quyết định cách mà chúng ta giải quyết những vấn đề cụ thể. Không thảo luận để cố tìm giải đáp cho chúng chỉ đồng nghĩa với chấp nhận chia rẽ và bế tắc, dọn đường cho các thế lực dân túy.
Hai là, chúng đòi hỏi một chuẩn bị chu đáo về kiến thức và tư tưởng để có thể thảo luận, do đó không thể bắt đầu từ quần chúng.
Ba là, chúng phải được quần chúng hiểu và chia sẻ để đi vào văn hóa quốc gia và được thể hiện trong sinh hoạt xã hội.
Vì thế chúng phải được đặt ra và thảo luận lúc ban đầu bởi các chuyên gia và các nhà tư tưởng, được đào sâu hơn trong các trường đại học và các nhóm trí thức trước khi được phổ biến vào quần chúng để ghi nhận những phản ứng và điều chỉnh nếu cần.
Khó khăn lớn nhất là đưa các nhận thức vào quần chúng. Và đây chủ yếu là vai trò của các chính đảng. Các chính đảng tham gia trong suốt tiến trình hình thành của tư tưởng chính trị -mọi chính đảng đều phải có các chuyên gia, các nhà tư tưởng và các ủy ban nghiên cứu- nhưng vai trò quan trọng nhất của các chính đảng là đưa tư tưởng chính trị vào quần chúng.
Một ảo tưởng sai lầm là cho rằng các mạng xã hội và các phương tiện truyền thông đại chúng -truyền thanh, truyền hình, sách báo- có thể thay thế được các chính đảng. Các phương tiện này có thể phổ biến các ý kiến đúng nhưng cũng có thể truyền bá những ý kiến sai và độc hại. Chúng cũng có thể là dụng cụ của những người không có kiến thức và thiện chí mà chỉ có nhu cầu tự thể hiện. Quần chúng cần những tiếp xúc trực tiếp mà chỉ có các chính đảng mới cống hiến được. Các chính đảng là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến chính trị và đồng thời tìm ra cách diễn đạt mà quần chúng có thể tiếp thu. Nhưng quan trọng hơn hết đó là khối hàng triệu hay hàng trăm nghìn người chuyên chở kiến thức và tư tưởng chính trị đến quần chúng bằng ngôn ngữ của quần chúng. Đó là những động cơ không thể thiếu của các thảo luận quốc gia trên những chọn lựa quan trọng.
Cuộc thảo luận chính trị vừa qua tại Pháp đã đi ngược hẳn với tinh thần và các tiêu chuẩn của các cuộc thảo luận chính trị lớn. Thực ra nó chỉ là một sự triệt thoái lúng túng của một chính quyền hoảng hốt trước sự bùng nổ của những bất mãn tích lũy. Thất bại là tự nhiên.
Điều ngạc nhiên là vấn đề thể chế chính trị đã không được đặt ra trong cuộc "thảo luận lớn" này dù chế độ tổng thống của Pháp đã là một nguyên nhân quan trọng đưa đến khủng hoảng và đáng lẽ phải được nhìn lại. Có lẽ vì nó không thực sự lớn. Trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai (*) chúng tôi đã phân tích những khuyết tật của chế độ tổng thống : khuyến khích các khuynh hướng dân túy và mỵ dân, dễ đưa tới độc tài vì tập trung quá nhiều quyền lực vào một người, nguy cơ xung đột bế tắc giữa lập pháp và hành pháp (như trường hợp nước Mỹ hiện nay). Nhưng tác hại lớn nhất của chế độ tổng thống là vô hiệu hóa và làm suy sụp các chính đảng. Lý do là vì chế độ tổng thống khiến các thảo luận trong các chính đảng trở thành không quan trọng, thậm chí không cần thiết, khi quyền quyết định thuộc một tổng thống mà đảng không thể thay thế và do đó không cần tuân thủ các kết luận của đảng. Các cuộc thảo luận chính trị vì vậy xuống cấp và đàng nào cũng không còn được chuyên chở một cách đầy đủ tới quần chúng khi các chính đảng đã suy yếu. Nếu hiểu rằng thế giới từ nay thay đổi từng ngày và thảo luận chính trị trở thành nhu cầu thường trực của mọi quốc gia thì cũng phải hiểu rằng chế độ tổng thống không còn phù hợp.
Người ta cũng có thể nhận xét là đa số các chế độ khủng hoảng nhất hiện nay -dù là Mỹ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Brasil, Philippines hay Syria và Algeria- là những chế độ tổng thống. Các chế độ đại nghị cũng gặp những khó khăn do tình trạng chung trên thế giới -là tư tưởng chính trị không thích ứng đủ nhanh với các thay đổi xã hội- nhưng ở một mức độ ít nghiêm trọng hơn nhiều.
Merci la France
Nước Pháp không chỉ đã lập một kỷ lục là vận động thành công một chuỗi những cuộc biểu tình lớn bằng mạng xã hội mà còn cống hiến cho thế giới một bài học chính trị lớn với ba điểm rất quan trọng :
Một là thảo luận trên các vấn đề triết lý chính trị là điều tối cần thiết để sau đó có thể thảo luận nghiêm chỉnh và đạt tới thỏa hiệp trên những chính sách cụ thể, tránh xung đột bế tắc.
Hai là thảo luận trên những vấn đề này phải đi theo một lộ trình phương pháp trong đó vai trò của các chính đảng là cốt lõi.
Sau cùng là chế độ tổng thống không còn phù hợp với bối cảnh thế giới hiện nay. Cho tới nay Mỹ vẫn được coi là ngoại lệ duy nhất mà chế độ tổng thống đã thành công nhờ tản quyền, nhưng ngoại lệ đó cũng đang chấm dứt. Chế độ đại nghị, trong đó đa số các đại biểu quốc hội được bầu theo thể thức đơn danh, dù không hoàn hảo, vẫn là thể chế chính trị tương đối lành mạnh nhất.
Nguyễn Gia Kiểng
(30/04/2019)
(*) Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
LTS/TL : Nhân dịp ông Lê Đức Anh qua đời chúng tôi đăng lại bài sau đây để nhắc lại trách nhiệm của ông Lê Đức Anh đối với đất nước trong một khúc quanh lịch sử quan trọng.
Lê Đức Anh đã là nhân vật quyền lực nhất trong chế độ cộng sản Việt Nam trong giai đoạn Liên Bang Xô Viết suy yếu rồi sụp đổ và nhiều năm sau đó. Quyền lực của ông có thể còn hơn cả hai tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười cùng thời với ông. Sau khi chính thức về hưu năm 2001, Lê Đức Anh vẫn còn tiếp tục chi phối quyền lực trong hậu trường cho đến đại hội 11 của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 2011. Với ảnh hưởng đó Lê Đức Anh đã có thể chọn con đường dân chủ và đi vào lịch sử như một con người mở ra một giai đoạn vinh quang cho đất nước, nhưng ông đã chọn hàng phục Trung Quốc. Lê Đức Anh không gian nhưng thiển cận và đã đặt Đảng Cộng Sản lên trên đất nước. Ông sẽ được nhớ tới như một người đã góp phần quyết định đưa đất nước vào thảm kịch tụt hậu, mất chủ quyền, mất đất, mất đảo và mất biển.
Cũng cần lưu ý là chính Lê Đức Anh và Nguyễn Văn Linh đã giúp cho Trung Quốc có mặt tại Trường Sa từ năm 1988 sau khi đánh chiếm một số đảo của Việt Nam. Trung Quốc đã dựa vào sự kiện này để vẽ ra đường lưỡi bò và xấc xược tuyên bố chủ quyền trên gần như toàn bộ Biển Đông.
Nếu chính quyền cộng sản Việt Nam làm quốc táng cho Lê Đức Anh thì đó sẽ là một xúc phạm lớn đối nhân dân và lịch sử.
Thông Luận
*****************
Một nghi vấn về Trường Sa
Nguyễn Gia Kiểng, tháng 3/2013
So với những thiệt hại mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã gây ra cho đất nước việc Mạc Đăng Dung dâng đất cầu hòa hồi thế kỷ 16 chẳng thấm vào đâu.
Hai người có trách nhiệm lớn nhất trong chọn lựa phục tùng Trung Quốc, mà sự nhượng bộ tại Trường Sa là hệ quả, là Nguyễn Văn Linh (trái) và Lê Đức Anh (phải).
Tháng 3 này là tròn 25 năm ngày hải quân Trung Quốc đánh chiếm nhiều đảo đá ở Trường Sa làm 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam thiệt mạng. Đây là dịp để đặt ra một câu hỏi lớn và nghiêm trọng : Trung Quốc đã thực sự lấn chiếm Trường Sa hay đã có thỏa hiệp ?
Thỏa hiệp có thể chỉ là một thỏa hiệp ngầm không thành văn tự, mà có thể cũng không cần được nói ra một cách minh bạch để ai đó có thể ghi lại nguyên văn trong một báo cáo hay một hồi ký. Nó có thể là sự hiểu ngầm giữa hai bên sau nhiều trao đổi.
Đàng nào thì câu hỏi cũng rất nghiêm trọng. Nếu câu trả lời là Trung Quốc đã thực sự đánh chiếm Trường Sa thì có lý do gì để Việt Nam chủ trương "giữ nguyên trạng" trên Biển Đông như lời ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và hơn thế nữa còn trân trọng tình hữu nghị "4 tốt, 16 chữ vàng" ?
Còn nếu ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận, dù là thỏa thuận ngầm, nhượng cho Trung Quốc một phần Trường Sa thì họ đã mang một tội vô cùng lớn. Không phải chỉ là tội phản trắc đối với các chiến sĩ hải quân đã hy sinh tính mạng. Cũng không phải chỉ là tội làm mất một số đảo đá mà còn là, và nhất là, tội đã làm mất quyền lợi vô cùng lớn của Việt Nam trên Biển Đông. Trước năm 1988 Trung Quốc không có mặt tại Trường Sa, chỉ sau khi đã lấy được một số đá của Việt Nam họ mới có lý cớ để vẽ ra cái lưỡi bò liếm gần hết Biển Đông. Tình trạng này đặt Việt Nam trong thế phải mãi mãi tranh chấp với Trung Quốc trên một vùng biển đáng lẽ ra đương nhiên là của mình.
Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma 1988 - VTV 15/03/2016
Trước mọi thảo luận chúng ta có thể khẳng định hai điểm.
Một là, đối với các chiến sĩ hải quân đã chiến đấu tại Trường Sa ngày 14/03/1988, nhất là đối với 64 người đã hy sinh, Trung Quốc đã lấn chiếm thực sự và họ đã chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Sự hy sinh của họ phải được ghi nhận trọn vẹn. Nhưng họ có thể không biết những tính toán của ban lãnh đạo cộng sản.
Hai là chắc chắn ít ra đã có sự chấp nhận, dù là miễn cưỡng, để Trung Quốc chiếm một số đá trong vùng của Việt Nam để có mặt tại Trường Sa. Bằng cớ là Trung Quốc đã đưa hải quân đến Trường Sa ngay từ đầu năm 1988 và trong hai tháng 1 và 2 đã chiếm nhiều đá trong khu vực thuộc Việt Nam nhưng chính quyền cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn không có phản ứng nào. Nếu họ dừng lại ở đó thì đã không có vấn đề gì. Hải chiến chỉ đã xảy ra ngày 14/03/1988 khi Trung Quốc tấn công ba đảo đá mà hải quân Việt Nam đang trấn giữ: Gạc Ma, Len Đao và Cô Lin.
Các diễn biến tại Trường Sa đã xảy ra như thế nào ? Theo những tài liệu của chính quyền Việt Nam thì từ đầu năm 1988 hải quân Trung Quốc đã đến vùng Trường Sa của Việt Nam. Ngày 31/01 họ chiếm đá Chữ Thập phía Bắc đảo Trường Sa Đông, ngày 18/02 chiếm đá Châu Viên, ngày 26/02 chiếm đá Ga Ven sâu trong khu vực Việt Nam ngay kế bên đảo Nam Yết, ngày 28 chiếm đá Tư Nghĩa (Hughes) kế cận và ở giữa hai đảo Sinh Tồn và Sinh Tồn Đông. Chính quyền Việt Nam hoàn toàn không có phản ứng nào dù những đá này đều là những đá mà Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền và thuộc hải phận Việt Nam tính từ các đảo mà Việt Nam đã có chủ quyền từ lâu. Sự im lặng này không thể có giải thích nào khác hơn là một sự chấp nhận, nếu không phải là một thỏa hiệp từ trước.
Đầu tháng 3, Trung Quốc lại tăng cường thêm lực lượng hải quân lên đến 12 tầu chiến. Ngày 14/03 hải quân Trung Quốc tiến đánh các đá Gạc Ma, Len Đao và Cô Lin, bắn chìm ba tầu HQ-604, HQ-505 và HQ-605 đang trấn giữ. Lực lượng quá chênh lệch đã khiến hải quân Việt Nam không gây được một thiệt hại nào cho phía Trung Quốc. Điều lạ là dù đã đánh bại hoàn toàn lực lượng phòng vệ Việt Nam Trung Quốc chỉ chiếm đá Gạc Ma, được coi là có vị trí quan trọng nhất, mà không chiếm hai đá Len Đao và Cô-Lin. Ngày 23/03 họ chiếm thêm đá Xu Bi. Mãi đến ngày 31/03, vào lúc trận chiến đã chấm dứt hẳn từ hai tuần rồi, một lực lượng nhỏ của hải quân Việt Nam mới được điều động đến nơi nhưng cũng tránh đụng độ với tầu Trung Quốc.
Những sự kiện quá không bình thường trong biến cố này buộc người ta phải đặt câu hỏi phải chăng giữa lãnh đạo hai bên đã có thỏa hiệp.
Tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn không có phản ứng nào, kể cả lên tiếng phản đối, trong suốt hai tháng đầu năm 1988 khi Trung Quốc tuần tự chiếm đóng đá này rồi đá khác trong khu vực của mình ? Cũng nên biết là chính quyền cũng như các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước cũng như sau biến cố này, chỉ có bộ ngoại giao ra một tuyên bố phản đối có lệ ngày 14/03. Rồi thôi.
Tại sao Trung Quốc mặc dù đã đánh bại hoàn toàn hải quân Việt Nam lại chỉ chiếm đá Gạc Ma chứ không chiếm hai đá Len Đao và Cô Lin ? Sau này bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng họ lấy làm tiếc rằng đã có sự "hiểu lầm" để xẩy ra đụng độ chứ họ không có ý định đánh chiếm những đảo và đá mà Việt Nam có đóng quân (dầu vậy họ vẫn giữ Gạc Ma). Như vậy nếu "hiểu đúng" thì họ có thể chiếm các đá khác mà không xẩy ra đụng độ ? Người ta càng có thêm lý do để tin rằng đã có thỏa hiệp.
Câu hỏi lớn nhất là tại sao không quân Việt Nam đã không tham chiến dù chỉ cách Trường Sa một giờ bay và có thừa khả năng tiêu diệt nhanh chóng toàn bộ lực lượng hải quân Trung Quốc có mặt tại trận lúc đó mà không chịu một thiệt hại nào. Trường Sa nằm ngoài tầm hoạt động của không quân Trung Quốc, các tầu chiến Trung Quốc tại đó cũng quá sơ sài để có thể đương đầu với máy bay chiến đấu. Lý do chỉ có thể là vì không quân Việt Nam đã nhận được lệnh cấm tham chiến và lệnh này chỉ có thể đến từ ông Lê Đức Anh, lúc đó vừa là bộ trưởng quốc phòng vừa là cánh tay mặt của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nên lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch về mặt đối ngoại. Mặt khác Trung Quốc cũng phải tin là không quân Việt Nam sẽ không can thiệp mới dám hành động như thế.
Tất cả những sự kiện trên đây đã quá đủ để tin là giữa hai chính quyền đã có thỏa hiệp để Trung Quốc chiếm một phần Trường Sa, nhưng bối cảnh quan hệ Việt Trung vào lúc đó còn hỗ trợ hơn nữa giả thuyết này.
Cần nhớ lại là chiến thắng 30/04/1975 đã khiến Đảng Cộng Sản Việt Nam hân hoan đến mức gần như mất trí. Họ tin mình là thiên tài, chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng, phong trào cộng sản do Liên Xô lãnh đạo sắp thành công đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang giãy chết. Họ đặt điều kiện để cho phép Mỹ được bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Lúc đó họ đã đứng hẳn về phía Liên Xô trong cuộc xung đột giữa hai đàn anh, quan hệ của họ đối với chế độ cộng sản Trung Quốc đã chuyển sang thế kình địch. Trong Đại hội IV cuối năm 1976 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Trung Quốc không gửi phái đoàn sang tham dự. Dầu vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam bất chấp Trung Quốc. Đại hội IV đã là đại hội liên kết toàn diện và tuyệt đối với Liên Xô, thách thức cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc. Tháng 11/1978 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập khối COMECON và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô ; tháng sau quân Việt Nam tràn qua Campuchia và đánh gục chế độ Khmer Đỏ thân Trung Cộng. Tháng 2/1979 Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Mặc dầu bị thiệt hại nặng, chế độ cộng sản Việt Nam huênh hoang là đã chiến thắng ; họ hoàn toàn tin tưởng vào hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Năm 1980 một hiến pháp mới của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành với lời nói đầu coi "bọn bá quyền Trung Quốc" là kẻ thù. Năm 1982 tại Đại hội đảng lần thứ 5, các phần tử bị coi là thân Trung Quốc bị thanh trừng, trong đó có cả Nguyễn Văn Linh. Bản điều lệ đảng cũng được sửa đổi để tuyên chiến với Trung Quốc.
Sự thức dậy đã rất kinh hoàng. Liên Xô sụp đổ thay vì toàn thắng. Tháng 4/1984 Trung Quốc tung đợt tấn công thứ 3 kéo dài hơn ba tháng vào Việt Nam, với cao điểm là trận Lão Sơn được Trung Quốc coi là một chiến thắng lịch sử của họ trong đó báo chí Trung Quốc cho biết là ba quân đoàn của họ đã đánh gục ba sư đoàn Việt Nam. Hà Nội cầu cứu Liên Xô để chỉ được trả lời rằng Liên Xô đã kiệt quệ và Việt Nam nên cố gắng để thương thuyết với Trung Quốc. Lúc đó Liên Xô đang sa lầy thê thảm tại Afghanistan, Brezhnev đã chết và Andropov đang cố gắng hòa giải với Trung Quốc. Trong cơn hoảng loạn tuyệt vọng đó, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm thầm lấy quyết định đầu hàng, và đối sách với Trung Quốc đã thay đổi hẳn từ tháng 7/1984. Xấc xược nhường chỗ cho khúm núm, thách thức nhường chỗ cho van xin. Hà Nội khẩn khoản xin hòa và Trung Quốc đắc thắng làm cao.
Năm 1985 Nguyễn Văn Linh, người đã thất sủng vì thân Trung Quốc, được đưa trở lại bộ chính trị và làm thường trực ban bí thư, năm sau lên làm tổng bí thư. Trung Quốc chỉ chấp nhận nói chuyện với những cấp lãnh đạo Việt Nam do họ chọn. Trong cuốn Hồi Ức và Suy Nghĩ của ông Trần Quang Cơ, thứ trưởng ngoại giao đặc trách quan hệ Việt Trung, tiết lộ : "từ năm 1980 đến năm 1988 ta đã ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ". Đúng ra là từ 1984, vì trước đó Việt Nam không sợ Trung Quốc. Còn 1988 ? Đó là năm Trung Quốc xâm chiếm Trường Sa.
Có mọi xác xuất Trường Sa đã là cái giá mà chế độ cộng sản Việt Nam phải trả để được bình thường hóa quan hệ đối với Trung Quốc. (Theo Trần Quang Cơ thì phải nói là để được lệ thuộc Trung Quốc mới đúng). Người ta có quyền và phải tin như thế vì chỉ hai tháng sau, ngày 25/05/1988, bộ chính trị họp và ra Nghị Quyết 13 khẳng định phải "phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau". Các nghị quyết chiến lược của bộ chính trị đều được chuẩn bị rất lâu trước khi công bố. Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu chỉnh để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Thật là kỳ diệu, Trung Quốc không còn là kẻ thù sau khi đã đánh chiếm Trường Sa ! Cũng kể từ đó đàm phán giữa hai bên đã tăng vận tốc để nhanh chóng tiến đến tình hữu nghị "4 tốt, 16 chữ vàng".
Cho dù có những dữ kiện hội tụ đến đâu đi nữa thì cho đến khi các hồ sơ được mở ra và các nhân chứng có đủ mạnh dạn để nói hết những điều họ biết, đây cũng chỉ mới là một giả thuyết, dù là một giả thuyết gần như chắc chắn đúng, nhất các tiết lộ lẻ tẻ của những người trong cuộc ngày càng xác nhận chính ông Lê Đức Anh đã ra lệnh cho không quân không được can thiệp.
Điều hoàn toàn chắc chắn là đụng độ đã chỉ xẩy ra và bộ ngoại giao Việt Nam đã chỉ lên tiếng phản đối vì Trung Quốc đánh vào ba đá Gạc Ma, Len Đao và Cô Lin ngày 14/03/1988. Nếu Trung Quốc chỉ chiếm những đá khác, như họ đã làm trong hai tháng trước đó, thì tất cả đã êm xuôi. Như thế thì phải kết luận rằng đàng nào ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã chấp nhận để Trung Quốc lấy một số đá của Việt Nam để hiện diện tại Trường Sa. Sự kiện này đặc biệt nghiêm trọng vì nếu không có sự hiện diện này thì Trung Quốc hoàn toàn vắng mặt tại nửa phía Nam của Biển Đông và không có lý cớ gì để tuyên bố Biển Đông là vùng "quyền lợi cốt lõi" của họ. Trận hải chiến chung quanh Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao không cần thiết cho Trung Quốc và có thể chỉ là một dàn dựng, do phía Việt Nam yêu cầu, có mục đích cho phép ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam biện luận trước nhân dân Việt Nam rằng Trung Quốc đã đánh chiếm Trường Sa chứ không phải họ đã dâng đảo. Một lần nữa không nên để cây che khuất rừng, điều nghiêm trọng nhất và vô cùng tai hại cho Việt Nam là Trung Quốc đã có mặt tại Trường Sa để có lý cớ đòi quyền lợi trên phần lớn Biển Đông, và điều này ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chấp nhận. Họ phải chịu trách nhiệm.
Nước ta là một dải bờ biển. Biển là tài sản lớn nhất của chúng ta. Tài sản đó đang bị đe dọa vì chủ trương đầu hàng Trung Quốc của ban lãnh đạo đảng cộng sản. Không phải là không có chọn lựa nào khác. Một chọn lựa khác, hiển nhiên cho quyền lợi dân tộc, là thẳng thắn bắt tay với Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước dân chủ để được các thị trường lớn, các nguồn đầu tư, các cơ hội chuyển giao kỹ thuật và đồng thời được bảo vệ bởi công pháp quốc tế để có thể có quan hệ hợp tác lành mạnh với Trung Quốc. Ban lãnh đạo cộng sản đã từ khước chọn lựa hiển nhiên đó bởi vì nó đòi hỏi phải từng bước dân chủ hóa, nghĩa là sau cùng từ bỏ độc quyền chính trị. Đối với họ giữ độc quyền chính trị là mục tiêu duy nhất, quyền lợi dân tộc nếu có cũng chỉ đi rất sau quyền lợi của Đảng. Trường Sa chỉ là một thí dụ.
Hai người có trách nhiệm lớn nhất trong chọn lựa phục tùng Trung Quốc, mà sự nhượng bộ tại Trường Sa là hệ quả, là Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh. Họ là hai người quyền lực nhất lúc đó và cũng là hai người quả quyết nhất trong chủ trương này. So với những thiệt hại mà họ gây ra cho đất nước, việc Mạc Đăng Dung dâng đất cầu hòa hồi thế kỷ 16 chẳng thấm vào đâu. Nhưng họ cũng đã chỉ hành động như mọi lãnh tụ cộng sản Việt Nam khác. Trước họ, Hồ Chí Minh, qua Phạm Văn Đồng, đã ký công hàm nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc để được viện trợ trong cuốc nội chiến. Sau họ, Lê Khả Phiêu đã ký hiệp định nhường cho Trung Quốc hàng ngàn kilômet vuông trên đất liền và hàng chục ngàn kilômet vuông trên biển để được yên thân. Các lãnh tụ cộng sản đều được đào tạo và sàng lọc như nhau qua các thế hệ theo cùng một khuôn mẫu Stalin, một khuôn mẫu khủng bố trong đó quyền lực là tất cả và tổ quốc vắng mặt.
Từ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đến Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng qua Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đỗ Mười, họ có thể xung đột với nhau, thậm chí căm thù nhau nhưng họ đều giống nhau trên ít nhất hai điểm : họ đều đặt quyền lực của đảng lên trên hết và trước hết và đều chống dân chủ. Lợi ích dân tộc nếu có cũng chỉ là thứ yếu. Họ có thể làm những điều khó tưởng tượng để giữ lấy quyền lực. Họ đều tin rằng nhân dân Việt Nam thù ghét họ và sẽ bỏ phiếu sa thải họ nếu được chọn lựa tự do. Nguyễn Minh Triết đã chỉ phát biểu lập trường chung của ban lãnh đạo cộng sản khi ông ta nói "bỏ điều 4 là ta tự sát". Họ không thể liên kết với các nước dân chủ bởi vì như thế cái giá phải trả cuối đoạn đường là dân chủ. Não trạng đó buộc họ phải phục tùng Trung Quốc, không phải để có chỗ dựa mà chủ yếu là để được nhẹ tay trong thế cô lập tuyệt vọng. Dù trong thâm tâm không ai thực sự yêu Trung Quốc.
Phải hiểu não trạng này để ý thức rằng không thể hy vọng có dân chủ chỉ bằng những yêu cầu và kiến nghị. Người ta có thể ủng hộ Đảng Cộng Sản vì quyền lợi cá nhân nếu muốn nhưng không nên ngộ nhận bản chất của nó. Đảng Cộng Sản không phải là một đảng yêu nước.
Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 03/2013)