Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

jeudi, 13 décembre 2018 06:17

Thử nhận diện bài toán Trung Quốc

Có những trường hợp phải lùi xa để nhìn rõ và một vấn đề chỉ có giải đáp nếu được nhìn như là thành phần của một vấn đề lớn hơn. Bài toán Trung Quốc đối với Việt Nam là một trong những trường hợp này.

Ngày nay nghĩ đến Trung Quốc chúng ta nghĩ ngay đến Hoàng Sa và Trường Sa với một tâm sự đau nhức và bất lực. Chúng ta không hy vọng gì lấy lại hai quần đảo này mà còn có nguy cơ mất thêm. Nhưng vấn đề không giản đơn như thế và rất có thể là cũng may mà nó không giản đơn như thế.

baitoan1

Hai Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt - Trung chứng kiến tuần tra liên hợp tại mốc 1117 (Ảnh Biên Phòng, 30/03/2016)

Chúng ta chưa biết rõ đã thực sự mất những gì. Chính quyền cộng sản Việt Nam không công bố bản đồ biên giới theo thỏa ước phân định biên giới trên đất liền tháng 12-1999 để chúng ta có thể so sánh với bản đồ của hiệp ước 1887, văn kiện qui định biên giới giữa hai nước trước đó. Chắc chắn là chúng ta mất nhiều hơn những gì chính quyền nhìn nhận. Ông Lê Công Phụng, người đặc trách vấn đề biên giới nói rằng trong những vùng tranh chấp (khoàng 272 km2) hai bên đã thỏa thuận chia đôi. Điều này có thể đúng, vấn đề là có những vùng đã mất hẳn và không còn được coi là "vùng có tranh chấp". Cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc (Nhà xuất bản Sự Thật) và nhiều tài liệu tình cờ được công bố cho thấy những vùng này nhiều lắm. Có những vùng các sắc tộc biên giới trước đây thuộc Việt Nam bị Trung Quốc mua chuộc và tự nhận là người Trung Quốc và cũng có những vùng Trung Quốc đã đánh chiếm và sáp nhập.

Một câu hỏi lớn cần được đặt ra : tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam lại phải ký hiệp ước biên giới 1999 trên đất và vô lý hơn nữa là hiệp ước 2000 về Vịnh Bắc Bộ trong đó chúng ta thiệt hại nặng ? Tại sao nếu không đòi lại được những gì đã mất lại không giữ nguyên tình trạng pháp lý cũ ? Tại sao phải chính thức hóa những mất mát ?

Nói rằng ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã bán nước, dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Quốc là nói một cách giận dữ, và những gì nói trong cơn giận thường quá đáng và sai. Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chắc chắn là có trách nhiệm nặng, rất nặng. Cũng có khả năng họ bị đã mua chuộc, nhưng đây không thể là lý do chính. Không một chính quyền nào, dù tồi tệ đến đâu, lại muốn mất đất cả. Lời tuyên bố của ông Lê Công Phụng theo đó "càng để lâu càng khó khăn hơn" cần được lưu ý.

Càng đáng được lưu ý vì hiện nay chính Việt Nam muốn cắm mốc biên giới cho thật nhanh trong khi Trung Quốc viện đủ lý cớ để trì hoãn. Như vậy việc nhanh chóng ổn định biên giới theo hiệp ước 1999 cần thiết cho Việt Nam chứ không phải cho Trung Quốc. Điều này phải được hiểu là vùng đất của ta giáp biên giới phía Bắc đang bị đe dọa nặng và sẽ ngày càng mất thêm nếu biên giới không được cụ thể hóa ngay tức khắc. Không ý thức được điều này thì chúng ta sẽ không thể hiểu nổi sự vô lý cùng cực của hiệp ước phân định lãnh hải Vịnh Bắc Bộ năm 2000 trong đó Việt Nam không những đã từ bỏ hết những ưu đãi của hiệp ước 1887 mà còn phải chấp nhận những bất công mới. Hơn 10.000 Km2 bị mất trắng cho Trung Quốc một cách vô lý. Nếu không ký kết gì hết thì hiệp ước 1887 vẫn còn là văn kiện pháp lý duy nhất. Mặt biển không thể bị chiếm đóng và sáp nhập như đất liền, Trung Quốc chỉ có thể vi phạm nhưng hải phận vẫn là của ta trên pháp lý, và Trung Quốc cũng không có khả năng bất chấp công pháp quốc tế và sự lên án của thế giới. Như vậy phải hiểu rằng chính quyền cộng sản Việt Nam đã chỉ ký hiệp ước phân định lãnh hải Vịnh Bắc Bộ như là cái giá phải trả để Trung Quốc chấp nhận ký hiệp ước phân định biên giới trên đất liền, và Hà Nội muốn ký cho bằng được hiệp ước biên giới trên đất liền để giới hạn những mất mát. Mối nguy mất thêm đất phải rất lớn mới có thể khiến chính quyền cộng sản Việt Nam chấp nhận một hy sinh to lớn như vậy. Điểm này nhiều người chống chế độ cộng sản hoặc không hiểu hoặc không muốn hiểu.

Núi phải có chân. Núi thuộc về kẻ ở chân núi. Biên giới Việt Trung dài 1.350 km và là một vách núi dầy gần 100 km nằm bên phía nước ta. Chính vách núi này đã giúp chúng ta tồn tại được như một dân tộc độc lập trong khi các dân tộc Bách Việt ở phía Bắc bị sáp nhập và Hán hóa. Nếu mất những vùng sát chân núi, và trên thực tế chúng ta đã mất nhiều vùng sát chân núi, thì trên thực tế chúng ta cũng mất luôn những ngọn núi gần kề, nghĩa là mất nhiều, rất nhiều. Phải hiểu sự hốt hoảng của chính quyền cộng sản Việt Nam.

Nếu chỉ giới hạn trong quan tâm bảo toàn lãnh thổ thì trong quan hệ Việt Trung chúng ta cũng có hai loại vấn đề khác nhau, trước mắt và dài hạn. Trước mắt là làm thế nào để đừng mất thêm nữa, về lâu về dài là tìm ra một phương thức để triệt tiêu những mất mát đã phải chịu đựng, để những vùng đã mất nếu không chính thức được tái hội nhập vào lãnh thổ Việt Nam thì cũng không còn thực sự là những mất mát.

baitoan2

Biên giới Việt Trung dài 1.350 km và là một vách núi dầy gần 100 km nằm bên phía nước ta - Ảnh vùng đồi núi Lạng Sơn

Muốn không mất thêm đất thì phải hiểu tại sao chúng ta đã mất đất.

Không nên chối cãi một sự thực là chúng ta chậm tiến hơn người Trung Quốc. Gần một thế kỷ Pháp thuộc tuy có rút ngắn khoảng cách nhưng chưa khiến ta bắt kịp người Trung Quốc, bằng cớ là những người Trung Quốc nghèo khổ phải rời quê hương sang Việt Nam lập nghiệp đã nắm gần hết kinh tế Việt Nam dù họ chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Từ sau thế chiến II khoảng cách giữa Trung Quốc và chúng ta, nhất là miền Bắc nước ta, lại còn dài ra một cách bi thảm. Trung Quốc có hòa bình từ 1949 trong khi chúng ta bị chiến tranh tàn phá cho dến năm 1975, tiếp theo đó là hơn mười năm đập phá thẳng tay để xây dựng mô hình Liên Xô, năm 1988 còn có nạn đói làm nhiều người chết.

Miền Bắc, ngoại trừ là một trại lính, bị kiệt quệ hoàn toàn. Giữa hai nước quá cách biệt về mức độ phát triển như thế áp lực bành trướng là tự nhiên, chưa kể là chính quyền miền Bắc lại theo đuổi một chủ nghĩa quốc tế, coi Trung Quốc là nước anh ruột, bỏ ngỏ biên giới phía Bắc và dồn tất cả mọi ưu tư để chinh phục miền Nam và tiêu diệt những mầm mống chống đối trong nước. Cũng ông Lê Công Phụng trong một bài phỏng vấn dành cho báo chí trong nước đã nói rằng có những mốc biên giới biết chắc là đã bị dời sâu vào trong lãnh thổ Việt Nam nhưng không biết từ bao giờ, khi hỏi dân địa phương thì họ nói rằng cột mốc đã ở đó từ lâu rồi ! Cẩu thả đến thế là cùng !

Giữa lúc đó thì Trung Quốc lại ở vào cao điểm của một cuộc chuyển hóa lớn với trọng lượng kinh tế và chính trị chuyển dần về phía Nam, làm gia tăng áp lực Nam tiến. Trong lịch sử chúng ta đã giữ được độc lập nhờ vách núi và cũng nhờ ở xa trung tâm quyền lực của Trung Quốc, Tây An hoặc Bắc Kinh. Từ thế kỷ 20 sự dời đổi trung tâm quyền lực của Trung Quốc đã rất rõ rệt. Trước thế kỷ 20 mọi dòng vua Trung Quốc đều xuất phát từ phía Bắc và đóng đô ở phía Bắc. Từ cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 tất cả các lãnh tụ Trung Quốc dù là Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, Giang Trạch Dân đều là những người phía Nam sông Dương Tử. Hồ Cẩm Đào là một ngoại lệ nhưng cũng không phải là người phương Bắc mà thuộc miền Tây, tỉnh Tứ Xuyên. Còn trọng lượng kinh tế thì đã dời hẳn về phía Nam. Trọng lượng của vùng Hoa Nam sẽ còn tiếp tục gia tăng bởi vì miền Bắc đang cằn cỗi dần và bị sa mạc hóa. Áp lực Nam tiến gia tăng là tự nhiên, nhất là văn hóa Trung Quốc vẫn còn là văn hóa nông dân thèm đất.

Cũng không phải chỉ có thế. Trung Quốc bắt đầu mở cửa kinh tế từ thập niên 1970 với cuộc thăm viếng của Nixon và tuyên ngôn Thương Hải, Việt Nam chỉ đổi mới từ 1987 và chỉ ra khỏi vũng lầy Campuchia từ 1991. Đã tụt hậu mà lại khởi hành sau và còn chạy chậm hơn cho nên sự thua kém ngày càng bi đát. Trong một cuộc gặp gỡ tình cờ tại Bắc Kinh một nhóm chuyên gia Việt Nam đã nói với tôi người ta mười mình chưa được một. Đó mới chỉ là so sánh về trình độ, về phẩm. Nếu kể cả lượng thì so sánh lực lượng có thể chỉ là 1 chọi 30, nghĩa là trứng chọi đá. Sức mạnh áp đảo đó khiến Trung Quốc có khả năng thu hút hơn hẳn Việt Nam đối với các dân tộc vùng biên giới và họ đã tận dụng thế thượng phong này.

baitoan3

Đời sống trẻ em sắc tộc thiểu số Vân Nam còn rất thấp so với trẻ em thành thị - Ảnh minh họa

Với một so sánh lực lượng quá chênh lệch như vậy và với một ý đồ bành trướng đã quá rõ rệt của Trung Quốc chúng ta không có hy vọng nào giữ vững được biên giới phía Bắc nếu chúng ta cũng theo mô hình Trung Quốc và chỉ là một ấn bản mờ nhạt của Trung Quốc. Chúng ta chỉ có hy vọng thoát hiểm nếu song song với nỗ lực phát triển miền núi phía Bắc chúng ta đem lại cho các dân tộc vùng biên giới điều mà Trung Quốc không có : một cách tổ chức xã hội khác trong đó tự do, dân chủ, đa nguyên, liên đới, phẩm giá con người được lấy làm những giá trị nền tảng.

Đồng thời chúng ta cũng phải đem vấn đề ra trước thế giới, vận dụng tối đa công pháp quốc tế và hậu thuẫn của các nước dân chủ. Chắc chắn chúng ta sẽ được hỗ trợ mạnh mẽ bởi vì Trung Quốc đang là mối lo âu của cả thế giới. Trung Quốc đang mạnh lên về cả kinh tế lẫn quân sự trong khi không dân chủ hóa, hơn nữa còn nâng đỡ các chế độ độc tài bạo ngược và xuất hiện như là nước lãnh đạo của cả một liên minh chống dân chủ trên thế giới trong một cuộc chiến tranh lạnh mới. Hậu thuẫn này sẽ có hiệu lực quyết định bởi vì Trung Quốc vẫn còn rất yếu so với các nước dân chủ và cũng lệ thuộc nặng nề vào thị trường của các nước này. Nhưng muốn được các nước dân chủ tận tình yểm trợ thì Việt Nam cũng phải là một nước dân chủ.

Quan trọng hơn hết là chúng ta phải có đoàn kết dân tộc để giữ nước, nhưng chúng ta chỉ có đoàn kết dân tộc nếu cùng với một cố gắng dân chủ hóa thành thực và quả quyết chúng ta thực hiện được hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận thù do chiến tranh, tham nhũng và các chính sách phân biệt đối xử, độc quyền độc tôn để lại.

Tuy những bài học lịch sử chỉ có giá trị tương đối nhưng chúng ta cũng vẫn phải rút ra và suy ngẫm. Ngoài những xâm thực ở biên giới đã có ba lần Trung Quốc trắng trợn dùng quân đội xâm chiếm nước ta, năm 1974 đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1979 tấn công vào các tỉnh phía Bắc và năm 1988 đánh chiếm Trường Sa. Cả ba lần xâm chiếm đều có chung một đặc điểm : chúng ta chia rẽ, kiệt quệ và cô lâp. Bài học lịch sử mà chúng ta có thể rút ra là muốn giữ được vẹn toàn bờ cõi trước áp lực của Trung Quốc thì phải tranh thủ được cảm tình của thế giới và phải có đoàn kết dân tộc.

Muốn như thế chỉ có một con đường : dân chủ hóa và thực hiện hòa giải dân tộc.

Và vì đe dọa đang đặt ra một cách cấp bách, hiện tượng xâm thực dưới nhiều hình thức đang tiếp diễn hàng ngày, chúng ta cũng phải khẩn cấp thực hiện dân chủ và hòa giải dân tộc.

baitoan4

Chúng ta chỉ có đoàn kết dân tộc nếu thực hiện được hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận thù do chiến tranh, tham nhũng và các chính sách phân biệt đối xử, độc quyền độc tôn để lại.

Dĩ nhiên câu hỏi đặt ra ngay trong lúc này -khi chế độ độc tài cộng sản vẫn còn đó, dân chủ chưa tới và hòa giải dân tộc chưa được thực hiện- thì chúng ta có thể và phải làm gì ?

Ngay trong lúc này điều phải làm, và cần làm ngay, là tách rời hai vấn đề chống chính sách bành trướng của Trung Quốc và chống chế độ độc tài cộng sản. Phải nói rõ : không phải chúng ta tạm ngưng chống độc tài để tập trung đương đầu với chính sách bành trướng của Bắc Kinh. Chúng ta vẫn đẩy mạnh tối đa cả hai cuộc đấu tranh nhưng không lẫn lộn hai mặt trận. Trên mặt trận giữ nước mọi người Việt Nam phải cùng một phe. Lẫn lộn hai cuộc đấu tranh này không những tai hại cho đất nước mà còn là một sự dại dột đối với chính những người dân chủ.

Các cuộc biểu tình chống việc Trung Quốc sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa đã do Đảng cộng sản, hay ít nhất là một bộ phận của Đảng cộng sản, khởi động, nhưng đã bị cấm ngay sau đó vì, ngoài lý do Hà Nội sợ Bắc Kinh, chúng đã nhanh chóng trở thành cơ hội để tố giác Đảng cộng sản và cũng có khả năng trở thành những cuộc biểu tình chống cộng. Thật là đáng tiếc bởi vì chúng ta đã bỏ lỡ một dịp để đưa vấn đề ra trước dư luận thế gìới.

Tại nước ngoài, trong một cuộc mít tinh vào thời điểm đó, tôi đã chứng kiến một diễn giả tuyên bố một cách hùng hồn rằng mục tiêu duy nhất của cuộc đấu tranh đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa là để lật đổ chế độ cộng sản và được một tràng pháo tay hoan hô. Không phải người chống cộng nào cũng là người dân chủ nhưng nếu diễn giả này là một người dân chủ thì ông ta là một người dân chủ vô trách nhiệm và rất khờ khạo. Tội của Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải là đã dụng tâm bán đất hay dâng đất cho Trung Quốc mà là đã làm mất đất và đã để xẩy ra nông nỗi này. Trách nhiệm của Đảng cộng sản là rất lớn, rất nghiêm trọng và không thể tha thứ nhưng nói quá đáng chỉ phản tác dụng. Nếu ngăn chặn Trung Quốc xâm lấn trở thành một đồng thuận dân tộc thì số phận của đảng và chế độ cộng sản kể như đả giải quyết xong. Đưa vấn đề biên giới ra trước công pháp quốc tế và dư luận thế giới, thay vì thương thuyết song phương dấm dúi trong thế yếu như hiện nay, là điều cần cho quyền lợi đất nước nhưng cũng là điều rất nhức nhối cho Đảng cộng sản, phải khuyến khích nó trong chiều hương này, ít nhất bằng cách không lợi dụng cuộc đấu tranh bảo vệ lãnh thổ cho mục đích chính trị quốc nội.

Trong một tương lai xa hơn tình hình có thể rất thuận lợi nếu chúng ta có được những người cầm quyền biết nhìn xa và biết thích nghi với tình thế. Thế giới đang trải qua một cuộc chuyển hóa lớn và vùng Đông Á còn chuyển hóa một cách trọng đại hơn bởi vì tại đây còn có nhiều điều chưa hợp lý và không thể tiếp tục tồn tại lâu dài. Nhiều biên giới quốc gia có thể sẽ mờ nhạt đi. Nhiều khối hợp tác sẽ hình thành giữa các quốc gia hoặc giữa một số vùng của các quốc gia trên cơ sở gần gũi nhau về địa lý, ngôn ngữ, văn hóa và bổ túc cho nhau về kinh tế. Với thời gian các khối hợp tác này sẽ trở thành những liên bang trên thực tế. Cũng có những quốc gia không thuộc hẳn vào một khối nào trong một thời gian dài và sẽ là gạch nối giữa các khối. Và cũng có những nước và vùng mà chúng ta chưa thể dự đoán tương lai vào lúc này. Điều chắc chắn là Trung Quốc không thể tồn tại dưới hình thức hiện nay. Nó vốn đã có quá nhiều xung đột lịch sử và mâu thuẫn văn hóa. Cho tới nay ly khai là khuynh hướng thường trực, sự thống nhất đã chỉ được duy trì bằng một vũ khí duy nhất mà ngày nay chính quyền Bắc Kinh không còn sử dụng được nữa : tàn sát.

Trong hơn ba thập niên qua Trung Quốc lại đã lao vào một mô thức kinh tế nguy hiểm, có hiệu quả cao nhất thời nhưng rất tệ hại cho tương lai, đó là mô thức tăng trưởng bất chấp con người, môi trường và liên đới xã hội. Mối liên hệ vốn đã không mạnh giữa một số tỉnh thực ra không còn gì trên thực tế. Trong một thời gian có thể dài, Trung Quốc có thể vẫn tồn tại trong biên giới chính trị hiện nay nhưng biên giới chính trị này sẽ mất dần ý nghĩa và tầm quan trọng. Ngược lại, những quan hệ kinh tế và văn hóa sẽ dần dần tạo ra những liên minh mới. Ngay trong lúc này tỉnh Quảng Đông đã có nhiều quan hệ với Đài Loan hơn là với Bắc Kinh, quan hệ kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc trên thực tế chỉ là những quan hệ với các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Hồng Kông.

Trong cái nhìn này một số khối hợp tác sẽ hình thành trong và chung quanh Trung Quốc :

Khối 1 gồm hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong một tương lai xa hơn khối này có thể gồm cả tỉnh Quý Châu.

Khối 2 gồm Đài Loan, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Hồng Kông, Hải Nam.

Khối 3 gồm một số lớn các tỉnh phía Bắc Trung Quốc chung quanh Bắc Kinh.

Trong khối 1 Việt Nam có vai trò trung tâm gần như tự nhiên với vị trí thuận lợi và dân số đông đảo nhất, gần một nửa dân số toàn khối. Việt Nam cũng có những ưu thế khác : bờ biển dài và tốt, kinh nghiêm tiếp xúc với các nước phương Tây, thông thạo ngoai ngữ. Tiếng Việt, dù còn cần được cải thiện, cũng là một lợi khí lớn vì dễ học. Chúng ta cũng là một nước ít ảnh hưởng tôn giáo, đó cũng là một điểm mạnh. Một khi khối này đã thành hình, đã có sự lưu thông tự do của người và hàng hóa trong nội bộ khối, thì vấn đề biên giới phía Bắc không còn đặt ra nữa.

Khối 2 trong suốt thế kỷ 21 chắc chắn sẽ là khối mạnh nhất cả về kinh tế lẫn văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhưng sẽ không là một đe dọa cho ai bởi vì sẽ là một khối văn minh, không còn văn hóa giành dân lấn đất. Những căng thẳng trên biển Đông sẽ tan biến dần và cũng có thể đạt tới một thỏa hiệp hợp tình hợp lý cho Hoàng Sa và Trường Sa.

Điều ngược đời là nếu chỉ muốn lấy lại Hoàng Sa và Trường Sa thôi thì chúng ta hoàn toàn tuyệt vọng nhưng nếu chúng ta dám nhìn xa hơn thì vấn đề lại dễ hơn nhiều. Sự hình thành của khối 1 gần như là một diễn biến tự nhiên. Hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây có nhiều quan hệ văn hóa và lịch sử với Việt Nam và chưa hẳn hội nhập vào Trung Quốc, mới cách đây hơn một thế kỷ họ đã chiến đấu rất dữ dội để giành độc lập và đã chỉ bị khuất phục bằng bạo lực sau khi không còn chiến binh và quá phân nửa dân chúng bị tàn sát ; (theo một số tài liệu 90% dân số tỉnh Quý Châu đã bị tàn sát trong cuộc chiến này). Khát vọng độc lập, hay ít ra được thực sự tự trị còn rất lớn. Cũng phải nhấn mạnh rằng sự hình thành khối này, cũng như các khối khác, không phải là một sự xâm lược đối với Trung Quốc mà chỉ là một tiến trình tự nhiên do hợp tác văn hóa và kinh tế. Vả lại hiện nay Vân Nam đã có nhiều khu tự trị, Quảng Tây đã là một tỉnh tự trị trên nguyên tắc.

Cũng không nên quá lo sợ Trung Quốc mà đi đến thái độ thù địch. Người Trung Quốc, và người Hán nói riêng, về bản chất là một dân tộc hiền hòa dễ mến. Dưới những thái độ và ngôn ngữ có thể gây hiểu lầm họ thực ra không kỳ thị chủng tộc, không có tinh thần quốc gia mạnh và cũng không nhiều tự hào dân tộc. Các dân tộc nhỏ như Mông Cổ và Mãn Thanh đã có thể cai trị Trung Quốc mà hầu như không bị chống đối. Các triều đại Nguyên và Thanh đã sụp đổ vì thối nát và bất lực chứ không phải vì là kẻ thống trị nước ngoài. Trong văn hóa và tâm lý của chính nó, Trung Quốc không được nhìn như một nước mà như thiên hạ, nghĩa là thế giới, hay không là gì cả.

Tóm lại, dù là nhu cầu trước mắt –ngăn chặn sự xâm thực- hay là đòi hỏi trong tương lai dài hạn –vượt qua những mất mát và vươn tới một không gian thăng tiến lớn rộng- thì lời giải của bài toán Trung Quốc vẫn là phải hòa giải dân tộc, phải dân chủ hóa, phải là một chế độ dân chủ đúng nghĩa và phải có những người cầm quyền lương thiện và sáng suốt.

Không thể khác vì phong trào toàn cầu hóa đang đặt ra cho mọi quốc gia và cho chính khái niêm quốc gia những thử thách rất lớn. Sẽ chỉ còn lại sau cuộc chuyển hóa vĩ đại này những quốc gia được quan niệm như là một không gian liên đới và như sự chấp nhận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Nói cách khác những quốc gia thực sự dân chủ và đa nguyên, được cai trị một cách lương thiện, khiêm tốn và thông minh.

Nguyễn Gia Kiểng

(08/2008)

Published in Quan điểm
jeudi, 13 décembre 2018 06:29

Những Vạn Lý Trường Thành mới ?

Ba tuần lễ tham quan không cho phép tôi nói về Trung Quốc như một chuyên gia, dù trước đó tôi cũng đã nghiên cứu và suy nghĩ khá nhiều về đất nước này. Tôi chỉ ghi ở đây những cảm nghĩ của một người mới thăm Trung Quốc lần đầu.

vanly1

Vạn Lý Trường Thành

Tuy vậy, có một câu nói mà tôi tin là đúng : những ấn tượng đầu tiên thường đúng. Kinh nghiệm cho thấy như vậy, và cũng dễ hiểu. Những cảm nghĩ đầu tiên là những cảm nghĩ của một người còn giữ nguyên vẹn khả năng so sánh, còn có thể quan sát trong toàn cảnh và một cách độc lập, không bị chìm đắm trong những chi tiết. Và nhất là chưa bị bối cảnh khống chế đến độ chấp nhận những giá trị và những điều "hiển nhiên phải như thế" trong cách suy nghĩ của những người trong cuộc. Chúng vừa có sự khách quan của một người ngoài cuộc, vừa có cái mãnh liệt của sự ngạc nhiên.

Mọi thực tại đều có lý do hiện hữu của nó. Xã hội Trung Quốc đã sinh hoạt một cách có tổ chức từ ít nhất ba ngàn năm và là một xã hội khá ổn vững, ít nhất về nhân sinh quan và chế độ chính trị, vậy tất nhiên thực trạng Trung Quốc phải có lý của nó. Điều quan trọng là không được chấp nhận cái "lý" này nếu ta muốn phán đoán về nó một cách đúng đắn. Trên cách tiếp cận đó, tôi đã từ chối quan sát và suy nghĩ về Trung Quốc như một người Trung Hoa dù tôi có thể hiểu họ, cũng như tôi vẫn thường cố không suy nghĩ về Việt Nam như một người Việt Nam, dù tôi hiểu tại sao đồng bào tôi lại ứng xử như thế.

vanly2

Cảnh đẹp Quảng Tây

Cuộc thăm viếng Trung Quốc của tôi dĩ nhiên là để tìm hiểu đất nước bao la này. Nhưng còn một lý do khác không kém quan trọng, đó là tìm hiểu thêm về đất nước mình và chính mình. Trung Quốc hiện diện một cách áp đảo trong lịch sử, tâm lý và văn hóa Việt Nam. Chúng ta tiếp xúc lần đầu tiên với một nền văn minh thực sự nhờ người Trung Quốc. Họ trực tiếp đô hộ chúng ta trong hơn một ngàn năm và gián tiếp đô hộ chúng ta qua văn hóa trong gần hết phần còn lại của lịch sử. Tư tưởng, thi ca, nghệ thuật của chúng ta đầy những điển tích, nhân vật và địa danh Trung Quốc.

Trong ngôn ngữ của chúng ta, hầu hết những khái niệm trừu tượng là mượn của tiếng Trung Hoa. Chính sách mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang theo đuổi cũng rập khuôn theo Trung Quốc và trái ngược với trào lưu chung của thế giới. Chính vì vậy mà chúng ta khó có thể hiểu rõ đất nước mình nếu không hiểu khá rõ Trung Quốc. Tôi đã đầu tư khá nhiều thời giờ để học hỏi về Trung Quốc và đến đây trong một cố gắng tìm những sự kiện phản bác những gì mình cho là đã biết hoặc hiểu về đất nước này.

Nhận xét đầu tiên của tôi là Trung Quốc rất biệt lập với thế giới bên ngoài. Không thể tìm thấy một cuốn sách, một tạp chí hay một tờ báo nước ngoài nào trong các nhà sách hay sạp báo. Trong suốt ba tuần lễ tôi chưa gặp được một người Trung Hoa biết nói một ngôn ngữ nào ngoài tiếng Trung Quốc, trừ một vài hướng dẫn viên du lịch và nhân viên phi trường.

Đoàn của chúng tôi hơn mười người, nửa Pháp nửa Việt, đi theo một chương trình do chúng tôi tự sắp đặt. Chúng tôi đã biết trước là rất khó tìm được những người Trung Quốc biết ngoại ngữ và đã thuê trước những hướng dẫn viên thạo tiếng Việt, nhưng chúng tôi không thể ngờ người Trung Quốc kém ngoại ngữ đến mức độ đó. Ngay trong những khách sạn dành cho du khách mà chúng tôi đi qua không có bất cứ ai, kể cả các tiếp viên và ban quản lý, biết một chữ tiếng Anh nào (đừng nói những ngôn ngữ phương Tây khác). Tôi cũng không tìm ra những quán café-internet, mặc dù chúng tôi luôn luôn ở những khu trung tâm náo nhiệt nhất.

Tôi vẫn biết Trung Quốc là một nước đóng kín nhưng không thể ngờ là họ ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài đến mức độ đó. Trừ tôi, tất cả những bạn trong đoàn đều đã thăm viếng Việt Nam gần đây. Họ đều đồng ý là về điểm này Việt Nam và Trung Quốc khác hẳn nhau. Mặt khác, tôi cũng lưu ý là chỉ có rất ít du khách đến từ nước ngoài. Cho tới nay du lịch Trung Quốc chủ yếu là du lịch nội địa.

Vài ngày trước khi lên đường đi Trung Quốc, tôi có đọc trên một tạp chí Mỹ một chương trình dạy tiếng Anh cho 175 triệu người, nghĩa là 12% dân số Trung Quốc. Chương trình này hình như chưa khởi sự.

Mỗi ngôn ngữ đều chuyên chở một lịch sử và một cách suy nghĩ. Người Trung Quốc chỉ biết một ngôn ngữ của họ. Cách suy nghĩ của họ sẽ không thay đổi bao nhiêu trong một tương lai gần. Người Trung Quốc có thể làm việc một cách khác nhưng họ sẽ vẫn tiếp tục suy nghĩ như trước trong một thời gian dài. Nhận xét này khiến tôi tự hỏi logic nào đã khiến cho những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam trong cố gắng đổi mới lại chọn bắt chước Trung Quốc, một quốc gia chưa thể đổi mới thực sự ?

Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là người Trung Quốc rất trẻ. Trong tất cả những thành phố mà chúng tôi đi qua chỉ thấy những thanh thiếu niên, từ 15 đến 30 tuổi, và trẻ em. Tất cả những người bạn cùng đi với tôi đều khẳng định người Trung Quốc trẻ hơn người Việt Nam nhiều. Rất khó mà gặp ở ngoài đường, trong khách sạn, những nhà hàng hay những cửa hiệu một người mà tôi có thể đoán là ngoài 50 tuổi.

Vậy những người đứng tuổi và những người già ở đâu ? Họ tập trung ở những công viên, tập thái cực quyền, từng toán từ 20 đến 30 người. Một cảnh ngộ nghĩnh thường gặp là có những người ngồi ghế công viên đánh đàn và hát một mình. Ai thích thì đứng lại nghe, người hát hoàn toàn không có vẻ bị làm phiền hay được khuyến khích.

Nhưng nếu kể cả trong những người già trong các công viên, và ước lượng một cách rộng rãi, thì số lượng của họ cũng không đáng kể so với thanh thiếu niên. Sự trẻ trung của người Trung Quốc là một trong những hiện tượng làm tôi bối rối nhất trong cuộc thăm viếng này. Tôi được biết là từ gần nửa thế kỷ nay chính quyền Trung Quốc thi hành triệt để chính sách "mỗi gia đình một đứa con duy nhất". Một người bạn Trung Quốc của tôi gọi là chính sách 421, nghĩa là bốn ông bà, hai cha mẹ, một đứa con. Nếu đúng như thế thì dân số Trung Quốc đã phải giảm đi rất nhanh chóng và tuổi trung bình của người Trung Quốc phải cao chứ không thể trẻ, quá trẻ, như vậy được. Như vậy cả chính sách một con lẫn cái tuổi thọ trung bình 71, theo thống kê chính thức, đều rất xa sự thực.

Về chính sách một con, tôi có dịp trò chuyện với một anh hướng dẫn viên. Anh này cười nói với tôi là đã có hai con gái và còn muốn có thêm một con trai như hầu hết mọi người Trung Quốc. Anh ta là công chức như hầu hết mọi nhân viên các công ty du lịch, nếu bị phát giác là có quá một con sẽ bị đuổi việc và mất hết mọi quyền lợi. Vợ anh ta về nhà quê đẻ đứa con thứ hai, chính quyền địa phương không làm khó dễ, coi như không biết đến việc chị ấy đẻ con, một thời gian sau chị ấy bồng con về thành phố sống bình thường, không ai thắc mắc chuyện họ có hai đứa bé trong nhà. Thế còn đến lúc cháu bé phải đi học ? Cũng không sao vì nhà trường chỉ đòi hỏi khai qua loa. Tại cơ quan, ông giám đốc dù biết anh ta có hai con cũng làm như không biết. Nói chung, về điểm này, cả xã hội sống trong sự giả dối.

Tôi có hỏi về cuộc sống của những người già. Anh ta nói tùy trường hợp. Ban ngày họ ra công viên sống với các bạn cùng tuổi và ăn trưa với nhau, nếu thuận với con cháu thì về sớm nấu cơm cho các cháu, nếu không thì tối mịt mới về, ăn uống cho xong rồi đi ngủ. Còn nếu yếu quá không đi ra công viên được nữa ? Hay nếu ban ngày mệt mỏi muốn nằm nghỉ ? Anh hướng dẫn của tôi trả lời bằng một nụ cười. Hình như chưa ai hỏi anh như vậy.

Tôi từng đọc nhiều bài và sách nhận định rằng "phát triển của Trung Quốc chỉ có bề mặt chứ không có chiều sâu". Ngay ngày đầu tiên tới đây tôi ý thức rằng câu nói này phải được hiểu theo cả nghĩa đen của nó. Các khách sạn dù là cao nhiều chục tầng đều không có các tầng hầm. Tuyệt đối không có bãi đậu xe dưới mặt đất. Không cần cố gắng lắm cũng có thể suy ra rằng hệ thống cống rãnh thoát nước được đơn giản hóa tới mức tối đa, nếu có.

Trên máy bay từ Tây An về Côn Minh, tôi đọc trên tờ China Daily, tờ nhật báo duy nhất bằng ngoại ngữ tại Trung Quốc, dĩ nhiên là báo nhà nước và cũng chỉ tìm thấy trên máy bay : 278 thành phố, 5.000 thị xã và 20.000 thị trấn hoàn toàn không có hệ thống xử lý nước thải. Một trong những hậu quả thấy được của sự kiện "phát triển bề mặt mà không có bề sâu" này là kẹt xe. Dù trong những thành phố giàu có nhất, nếu kể cả ngoại thành, số hộ có xe hơi mới chỉ ở mức 30% (riêng ở thành phố Quảng Châu, thành phố giàu có nhất Trung Quốc, hơn cả Thượng Hải và Thẩm Quyến, tỷ lệ này là 50%), giao thông đã kẹt cứng hầu như suốt ngày. Lý do đầu tiên là vì các xe đều phải đậu trên mặt đất và choán lề đường. Lý do kế tiếp là vì các thành phố Trung Quốc chủ yếu chỉ có những đại lộ rất rộng ở khá xa nhau và rất thiếu những đường nhỏ cho phép đi tắt. Do đó có thể xe phải chạy một lộ trình dài gấp nhiều lần khoảng cách theo đường chim bay giữa điểm đi và điểm tới. Sự thiếu hệ thống thoát nước thải có lẽ không có trách nhiệm về tình trạng dơ bẩn và hôi thối của các cầu tiêu. Các anh hướng dẫn viên nói đùa rằng đây là hương vị quốc hồn quốc túy của Trung Quốc. Trừ những ngoại lệ rất hiếm hoi, các WC không có giấy vệ sinh.

Nói đến hệ thống thoát nước là đã đề cập đến vấn đề môi trường. Một lần nữa không gì bằng đến tận nơi và nhìn tận mắt. Cả thế giới biết rằng Trung Quốc đang có vấn đề môi trường nghiêm trọng. Một mặt miền Bắc Trung Quốc đang dần dần bị sa mạc hóa và rất thiếu nước, lượng nước để sử dụng cho mỗi người Trung Quốc chỉ bằng từ 10 đến 15% mức trung bình thế giới. Mặt khác, chính sách phát triển kinh tế bất chấp môi sinh, xây ồ ạt các nhà máy, không xử lý nước thải và phế liệu, sử dụng tối đa phân hóa học đã khiến toàn bộ sông ngòi và các mạch nước ngầm bị nhiễm độc.

Những thống kê tôi đã đọc cho biết 2/3 dân chúng Trung Quốc không có nước sạch để uống. Khi đến nơi tôi nhận ra rằng con số này rất sai. Sự thực là toàn dân Trung Quốc, có lẽ trừ một thiểu số không đáng kể ở miền Tây ngay thượng nguồn các dòng sông, đều không có nước uống được. Tất cả mọi người Trung Quốc đều quả quyết điều này. Họ phải uống nước đã được đun sôi. Các hướng dẫn viên khuyên chúng tôi đừng đánh răng bằng nước máy. Nhưng đun sôi chắc chắn không phải là giải pháp, bởi vì các hóa chất độc vẫn còn nguyên vẹn. Thật khó tưởng tượng một khối một tỷ rưỡi người không còn nước sạch.

vanly3

Mặt trời không còn mọc trên bầu trời Trung Quốc

Một điều khó tưởng tượng khác mà tôi nhận ra khi đến đây và không hiểu tại sao các tài liệu không nhấn mạnh là mặt trời không còn mọc trên Trung Quốc. Ngay cả trong những ngày nóng nực, người ta biết là mặt trời ở đâu đó trên đầu mình nhưng không thể nhìn thấy, bởi vì nó bị cả một khối hơi vàng đục che khuất. Tôi hỏi cả bốn anh hướng dẫn viên của tôi, họ đều trả lời đó là vì khí thải của các nhà máy. Đã bao giờ nhìn thấy mặt trởi chưa ? Một anh đáp không nhớ. Các anh khác lắc đầu.

Chính sách đổi mới kinh tế đã giúp người Trung Hoa đủ ăn và đủ mặc nhưng đã cướp mất của họ hai tài sản quí báu hơn nhiều : nước và không khí. Một tài liệu của Liên Hiệp Quốc cho biết chính quyền Trung Quốc đã bỏ ra một ngân khoản 5 tỷ USD để cứu con sông Dương Tử. Chương trình này được khởi sự năm 2002 và vừa chấm dứt sau khi số tiền đã tiêu hết với kết luận : không thể cứu được sông Dương Tử, nước sẽ ngày càng độc hơn và mọi sự sống sinh vật sẽ chấm dứt trên dòng sông này trong vài năm nữa. Dĩ nhiên nếu nhanh chóng thiết lập hệ thống xử lý nước thải một cách nghiêm chỉnh cho tất cả mọi nhà máy, hay nếu đóng cửa các nhà máy, trên lưu vực thì trong một vài năm nước sông Dương Tử sẽ sạch trở lại, nhưng như thế kinh tế sẽ phá sản và Trung Quốc sẽ rơi vào bạo loạn. Nhiều chuyên viên về Trung Quốc đã khẳng định rằng tất cả những thành tựu kinh tế của 30 năm hiện đại hóa nếu qui ra tiền thì cũng không đủ để sửa chữa những tàn phá gây ra cho môi trường trong cùng thời gian. Phải đến đây mới thấy rằng họ nói đúng.

vanly4

Thắng cảnh Tây Sơn Long Môn

Sự tàn phá môi trường không phải chỉ do chính sách mà còn do sự ngu xuẩn của những người lãnh đạo. Một thí dụ là hồ Điền Trì ở Côn Minh (Vân Nam) mà tôi đã thấy khi thăm thắng cảnh Tây Sơn Long Môn. Hồ này là cả một kỳ quan của thiên nhiên. Nó rộng 320 km2, trên cao độ 2.000 m. Ba mươi năm trước chính quyền đã cho xây dựng trên bờ hồ một số nhà máy hóa chất. Chỉ vài năm sau khi các nhà máy này bắt đầu hoạt động nước hồ bị nhiễm độc hoàn toàn. Người ta nhận ra và hốt hoảng gỡ bỏ các nhà máy, nhưng đã quá trễ, các chuyên gia ước lượng phải 50 năm nữa nước hồ mới trở lại tình trạng bình thường. Hiện nay vẫn còn một lớp váng xanh dầy bao phủ mặt hồ.

Sự hủy hoại môi trường, và chính đất nước Trung Quốc, có thể ngăn chặn và đảo ngược được không ? Tôi nghĩ là không dưới chế độ này. Một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao là sự chính đáng duy nhất của chế độ vì thế nó phải được duy trì bằng mọi giá. Họ không thể đóng cửa những nhà máy gây ô nhiễm, cũng không thể bắt buộc các nhà máy phải có hệ thống xử lý chất thải vì như thế giá thành của hàng Trung Quốc sẽ tăng vọt và xuất khẩu sẽ sụp đổ. Và họ cũng không thể ngừng xây dựng các nhà máy, kể cả những nhà máy phát điện chạy bằng than đá, vì như thế đà tăng trưởng sẽ khựng lại ngay. Trên thực tế họ đang dự trù xây dựng thêm hàng trăm nhà máy phát điện chạy bằng than đá khác dù chúng là nguyên nhân ô nhiễm chính. Chế độ Trung Quốc đã đi vào logic tự sát, nó sẽ phải tiếp tục tàn phá môi trường. Thay đổi sẽ chỉ đến khi người Trung Quốc thấy rằng họ không thể sống được nữa với tình trạng ô nhiễm này. Trong lịch sử của họ người Trung Quốc đã chỉ nổi dậy khi họ bị dồn vào chỗ chết. Lần này có thể họ sẽ chỉ phản ứng khi đã quá trễ để Trung Quốc còn có thể có một tương lai đúng nghĩa.

Và làm sao người Trung Quốc có thể sống với nước và không khí ô nhiễm đến mức độ như vậy và còn đang tiếp tục ô nhiễm hơn ? Điều này có thể giải thích tại sao người Trung Quốc trẻ như vậy. Họ không thể sống thọ.

Tôi đã từng nghe nói tới một khối từ 100 đến 200 triệu người Trung Hoa từ nông thôn ra các thành phố lớn sống lang thang bằng những công việc chân tay tạm bợ. Tôi mới chỉ có dịp tiếp xúc rất giới hạn với họ. Tại nhà ga Bắc Kinh. Trước nhà ga, trên quảng trường dài khoảng một kilômét và rộng trên 200 mét, chen chúc những con người. Họ đi lại, nằm và ngủ la liệt bên cạnh những gói hành lý. Người đông và chật đến độ phải chen lấn mới vào được nhà ga. Cả đoàn chúng tôi chỉ sợ lạc nhau, không ai nghĩ tới chụp ảnh. Tôi chưa bao giờ thấy một đám đông như thế. Buổi sáng chúng tôi tới nhà ga Tây An và cũng thấy một đám đông ghê gớm, dù không thể so sánh được với Bắc Kinh. Tây An cũng đang phát triển mạnh và người ta cũng đổ xô về đây tìm việc làm.

Chúng tôi đi đường sắt ba lần, Bắc Kinh-Tây An, Côn Minh-Quảng Châu và Quảng Châu-Hàng Châu. Tất cả đều là những tuyến đường rất dài, trên 12 giờ. Chặng đường Côn Minh-Quảng Châu kéo dài 18 giờ. Những chặng đường dài đó cho phép tôi nhận xét nông thôn Trung Quốc còn rất nghèo, đồng thời cũng cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo giữa miền Đông và miền Tây, giữa miền Nam và miền Bắc. Ngay tại miền Nam, giàu có hơn hẳn so với miền Bắc, đồng quê Trung Quốc cũng còn tiều tụy hơn hẳn những làng tại Pháp đã bị bỏ rơi từ một nửa thế kỷ qua. Điều này chứng tỏ rằng trong chiều sâu Trung Quốc còn chậm hơn Châu Âu ít nhất một thế kỷ.

Sự phồn vinh của Trung Quốc chỉ tập trung trong một vài thành phố lớn : Bắc Kinh, Tây An, Trùng Khánh, Côn Minh, Quảng Châu, Thẩm Quyến, Thượng Hải… Và như trên đã nói, nó chỉ có bề mặt chứ không có chiều sâu, xây dựng dưới lòng đất quá tốn kém, không đem lại lợi nhuận trước mắt, lại không phơi bày được sự hào nhoáng. Phải nói thêm là nó cũng chỉ có bề ngoài chứ không có bề trong. Tôi đã cố gắng để ước lượng bề dầy của nó. Ngay tại những khu rất sang, chỉ cần đi vào các đường hẻm - mà tiếng Trung Quốc gọi là hutong (hồ đồng) - là đã có thể nhìn thấy sự nghèo khổ. Ấn tượng khá mạnh vì, khác với Việt Nam, sự nghèo khổ đi đôi với dơ bẩn và hôi hám.

vanly5

Ai đến Quế Lâm mà không đi du thuyền trên dòng Lý Giang từ Quế Lâm tới Dương Sóc thì quả là một sai lầm, cảnh đẹp ở đây chỉ có thể nhìn và ngưỡng mộ chứ không thể tả.

Những gì tôi viết trên đây có thể cho cảm giác một bức tranh đen tối về Trung Quốc. Không hẳn như vậy. Có những nơi tuyệt đẹp. Thạch Lâm (Vân Nam) xứng đáng là "thiên hạ đệ nhất kỳ quan". Quế Lâm đẹp hơn mọi thành phố trên thế giới, rất sang và cũng rất sạch, bên cạnh dòng sông Lý Giang thơ mộng (rất tiếc là đang cạn dần nước, cũng như sông Châu Giang mà nó đổ vào). Quế Lâm không đẹp đến độ gây sửng sốt như Thạch Lâm, nhưng rộng hơn và thơ mộng hơn. Quế Lâm giống như một Hoa Lư phóng đại ở tỷ lệ Trung Quốc/Việt Nam. Nguyên soái Trần Nghị, có lúc làm bộ trưởng ngoại giao, từng nói đã tới Quế Lâm rồi thì cũng không cần mơ tới chốn thần tiên nữa. Tôi chia sẻ cảm giác này.

Ai đến Quế Lâm mà không đi du thuyền trên dòng Lý Giang từ Quế Lâm tới Dương Sóc thì quả là một sai lầm, cảnh đẹp ở đây chỉ có thể nhìn và ngưỡng mộ chứ không thể tả. Trên bờ sông này có núi Phục Ba thờ Mã Viện, danh tướng Hán có tước hiệu Phục Ba Tướng Quân, người đã đánh bại cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng và áp đặt ách đô hộ trong gần một ngàn năm của Trung Quốc trên nước ta. Quế Lâm như vậy có một ý nghĩa biểu tượng của sự thống trị của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đó cũng là nơi mà năm 1948 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chọn để gửi một ngàn thiếu niên ở lứa tuổi từ 10 đến 15 để đào tạo thành những đảng viên cốt lõi ; nhiều người sau này trở thành những cấp lãnh đạo cao cấp, trong đó có ông Trần Đình Hoan, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban tổ chức trung ương đảng. Một sự tình cờ có ý nghĩa.

Từ Côn Minh tới Quảng Châu, đường sắt nhiều đoạn đi song song với dòng sông Việt Giang, con sông lớn thứ ba của Trung Quốc. Con sông này đã là nguyên nhân khiến nước ta mang tên Việt, bởi vì người Trung Hoa gọi gộp tất cả những dân tộc phía Nam cách khá xa sông Dương Tử, nơi có sông Việt Giang, là Bách Việt. Những dân tộc này nói chung là những dân tộc ở Nam Hoa và hầu như không có liên hệ chủng tộc nào với chúng ta trước khi người Trung Quốc áp đặt sự thống trị của họ.

Một cách ngộ nghĩnh, dân tộc Việt duy nhất còn lại không phải là Việt theo nghĩa ban đầu của người Trung Hoa. Chỉ còn rất ít người biết đến tên Việt Giang. Con sông này mang nhiều tên qua các tỉnh khác nhau. Ở Vân Nam nó mang tên Bàn Long Giang, sang tỉnh Quảng Tây trở thành Ung Giang, vào Quảng Đông nó thành Hương Giang, từ Quảng Đông ra biển nó mang tên Châu Giang. Ngày nay người ta thường biết tới nó như là Châu Giang, do tầm quan trọng kinh tế áp đảo của khu vực Quảng Châu, Thẩm Quyến, Hồng Kông, Chu Hải.

Chuyến đi này cũng đã cho phép tôi đến những địa danh và dấu tích của những nhân vật đã hiện diện một cách mạnh mẽ trong lịch sử và văn học nước ta, và đã phần nào nuôi dưỡng trí tưởng tượng của tôi trong tuổi thiếu thời. Cung cấm Bắc Kinh, Vạn Lý Trường Thành, Tần Thủy Hoàng, Võ Tắc Thiên, Đường Cao Tông, Huyền Trang, Đường Minh Hoàng, Dương Quý Phi, v.v. Tôi cũng đã đi dạo thuyền trên Tây Hồ để nhớ đến Tây Thi, và thăm lăng Triệu Văn Vương (tức Triệu Hồ, cháu nội Vũ Vương Triệu Đà). Lăng này được coi là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất của Trung Quốc. Nó còn nguyên vẹn và ngày nay một viện bảo tàng lớn được xây dựng ngay trên ngôi mộ, trưng bày hàng chục ngàn di vật được chôn theo vị vua thứ hai của nước Nam Việt, cùng với di cốt của 15 người, trong đó có hoàng hậu và bốn cung nữ, bị chôn theo để tháp tùng hầu hạ vua trong thế giới bên kia.

Từ trước vẫn có một cuộc tranh luận chung quanh câu hỏi : nhà Triệu có phải là một dòng vua Việt Nam không ? Đại Việt Sử Ký Toàn Thư coi nhà Triệu là một dòng vua Việt Nam, Nguyễn Trãi cũng nghĩ như thế khi ông viết trong Bình Ngô Đại Cáo : "Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần dựng ra nước ta…". Một số sử gia lại chỉ coi nhà Triệu như một ngoại bang thống trị. Cho tới nay tôi không có ý kiến trong cuộc tranh luận này, nhưng sau khi thăm viếng ngôi mộ này và những di vật của nó, tôi thiên về lập trường thứ hai. Tất cả mọi dấu hiệu cho thấy nhà Triệu thuần túy là một triều đình Trung Quốc. Vả lại, bản đồ nước Nam Việt được các nhà sử học vẽ lại và trưng bày trong viện bảo tàng cũng chỉ gồm có hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và một phần rất nhỏ của miền Bắc nước ta ven vịnh Hạ Long. Sử Việt Nam cũng không chép lại được một việc gì nhà Triệu đã làm trên nước ta, dù họ kéo dài một thế kỷ. Nhận định thực tế nhất có lẽ là Nam Việt chỉ là một vương quốc tự trị ở Quảng Tây, Quảng Đông có uy quyền trên một phần nhỏ của Bắc Việt mà thôi.

Có một nét đặc trưng nổi bật trong suốt dòng lịch sử Trung Quốc và vẫn còn rõ rệt ngày nay, đó là người Trung Hoa có khuynh hướng lấy lượng để thay thế cho phẩm, lấy sự to lớn thay thế cho sự sáng tạo, lấy số nhiều tạo ấn tượng cho sự độc đáo. Các nhà trong các cung điện không khác gì nhau, chúng chỉ gây ấn tượng vì số lượng. Ngày nay người Trung Quốc hình như vẫn giữ tâm lý đó. Họ phát triển về lượng hơn là về phẩm. Khác với Ấn Độ, kinh tế Trung Quốc tập trung vào những sản phẩm kỹ thuật thấp. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh nhờ xuất khẩu nhiều chứ không phải nhờ xuất khẩu những mặt hàng đắt giá. Và họ dùng tiền thu được của xuất khẩu để mua những mặt hàng có giá trị khoa học kỹ thuật cao. Họ phải xuất khẩu một tỷ áo sơ mi để mua vào một máy bay Airbus 380. Cũng vẫn một công thức.

Tôi cũng đến Trung Quốc để nhận định về mô hình phát triển Trung Quốc vì đó là mô hình mà Đảng cộng sản Việt Nam đang cố bắt chước.

Cho tới nay Trung Quốc luôn luôn hóa giải những dự đoán bi quan về họ. Đã có rất nhiều chuyên gia quả quyết Trung Quốc sẽ lâm vào bế tắc và phá sản. Họ là những chuyên gia thượng thặng, lý luận của họ rất vững chắc và không thể sai, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng hơn 10% mỗi năm và ngày càng tỏ ra giàu đẹp hơn. Có một bí mật nào đó cần được giải thích. Trong chuyến viếng thăm này, tôi có cảm tưởng đã nắm bắt được phần đầu của câu trả lời : Trung Quốc còn một dự trữ khổng lồ của một khối người nghèo khổ siêng năng và cần mẫn, sẵn sàng chấp nhận tất cả. Trung Quốc vẫn còn có thể tiếp tục như hiện nay - nghĩa là khai thác và xuất khẩu sự nghèo khổ - khá lâu, rất lâu. Với cái giá mà đại đa số người Trung Quốc sẽ phải trả. Họ sẽ phải sống rất cực nhọc và sẽ không sống thọ với nước và không khí rất ô nhiễm và ngày càng ô nhiễm hơn.

Một cái giá khác là Trung Quốc sẽ định cư trong sự thua kém trong một thế giới đã đi vào kỷ nguyên văn minh tri thức, trong đó ý kiến và sáng kiến quyết định chỗ đứng của các dân tộc. Nhưng ý kiến và sáng kiến chỉ phát triển trong những xã hội tự do, nơi con người liên tục từ chối hiện tại để đổi mới và vươn lên. Tôi không thảo luận những vấn đề chính trị và xã hội với những người bạn Trung Quốc của tôi. Qua ánh mắt họ tôi biết trước họ không có gì để nói. Tôi có thói quen quan sát một dân tộc qua cái nhìn và thái độ của họ. Cái nhìn của những người Trung Quốc là cái nhìn của những người sống bên lề cuộc đời, thái độ của họ là thái độ nhẫn nhục và chịu đựng. Họ không đòi hỏi và chờ đợi gì ở đất nước họ. Chắc chắn họ cũng không đặt vấn đề về cái trở thành của Trung Quốc. Không cần biết tới hay vì mặc cảm bất lực ?

Các hướng đẫn viên của tôi đều quả quyết nếu được ra nước ngoài sinh sống thì người Trung Quốc nào cũng đi. Như vậy họ cũng biết một cái gì đó mà không nói ra, như tập quán của ông cha họ. Trong khu mộ Tần Thủy Hoàng ở Tây An tôi đã xem những bức tranh cổ được tái tạo để ghi lại cảnh xây lăng. Một người vì kiệt lực đánh rơi tảng đá đang vác trên vai và lập tức bị chém. Một thanh niên phục xuống lạy cha bị đem đi chôn sống vì đã đến tuổi 60 và bị coi như không còn sức lao động. Người Trung Quốc chấp nhận tất cả. Khi các vua chúa đày đọa họ, họ coi là số phận. Khi các vua chúa để họ sống, họ mang ơn. Các triều đại Nguyên và Thanh đã kéo dài rất lâu và đã chỉ bị sụp đổ, như mọi triều đại thuần túy Trung Quốc khác, vì quá suy đồi và đẩy dân vào chỗ chết chứ không phải vì là những chế độ thống trị ngoại bang. Cuộc cách mạng cộng sản đã là một ngoại lệ, nhờ Thế Chiến 2. Tinh thần dân tộc hoàn toàn không phải là một đặc tính của người Trung Quốc.

Trung Quốc là thiên hạ, là thế giới, hơn là một nước. Việc nước là việc của thiên hạ. Hơn nữa đa số người Trung Quốc hiện còn có vẻ cảm ơn đảng cộng sản đã nới lỏng dây trói cho họ. Điều này tôi nhận thấy rất rõ trong những con người ở mọi nơi tôi đã đi qua. Nguyện vọng dân chủ của họ còn rất yếu, có lẽ vì dân chủ cũng chỉ được nhìn như là một vấn đề của thiên hạ. Như vậy chế độ độc tài đảng trị của Trung Quốc sẽ còn có thể kéo dài rất lâu. Những người đấu tranh cho dân chủ còn cô đơn hơn những người dân chủ Việt Nam. Một tỷ rưỡi người Trung Quốc chỉ là một tỷ rưỡi người cô đơn và cam chịu. Điểm khác biệt căn bản giữa Trung Quốc và Việt Nam là tại Trung Quốc những biện pháp nới lỏng đến từ lãnh đạo, tại Việt Nam chúng đến từ áp lực quần chúng.

Trong cách nhìn của họ, đảng trước nước sau, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã có lý khi gắn bó chế độ của họ với Trung Quốc, Trung Quốc quả là một chỗ dựa rất vững chắc. Dân chủ và tự do chỉ có thể từ Việt Nam ảnh hưởng vào Trung Quốc chứ không thể từ Trung Quốc lan tới Việt Nam.

vanly6

Tô Châu có chùa Hàn San, nổi tiếng qua bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.

Trong những ngày cuối cùng chúng tôi thăm viếng Hàng Châu, Tô Châu và Thượng Hải. Hàng Châu và Tô Châu tuyệt đẹp. Tô Châu có chùa Hàn San, nổi tiếng qua bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. Người Trung Quốc có câu "chưa tới Bắc Kinh chưa thấy chức mình nhỏ, chưa tới Hàng Châu chưa thấy vợ mình xấu, chưa tới Thượng Hải chưa thấy nhà mình thấp". Bắc Kinh là nơi tập trung những quan chức cao cấp từ nhiều thế kỷ nay. Phụ nữ Hàng Châu và Tô Châu quả là rất đẹp.

Còn Thượng Hải ? Đó đúng là thành phố của những nhà chọc trời. Có hơn 1.600 cao ốc trên 40 tầng. Đi thuyền trên dòng sông Hoàng Phố về đêm là một bắt buộc đối với mọi người thăm Trung Quốc lần đầu. Tráng lệ. Thượng Hải đồ sộ hơn hẳn New York.

Thượng Hải, theo lời những người bạn Trung Quốc của tôi, là điều mà Trung Quốc muốn chứng tỏ với thế giới họ có thể làm. Đúng vậy. Người Trung Quốc đã chứng tỏ họ có thể làm những điều khó tưởng tượng. Họ đã xây Vạn Lý Trường Thành, lăng Tần Thủy Hoàng, lăng Võ Tắc Thiên, Minh Thành Tây An, Cấm Thành Bắc Kinh, Lâu Đài Mùa Hạ v.v. Tất cả đã làm kiệt quệ Trung Quốc, như những kim tự tháp đã làm kiệt quệ Ai Cập. Thượng Hải, Thâm Quyến và những kiến trúc vĩ đại tại Bắc Kinh, Tây An, Côn Minh, Quảng Châu có thể chỉ là những Vạn Lý Trường Thành mới. Phải lo hơn là mừng cho người Trung Quốc.

vanly7

Đời sống thường ngày trong một phố cổ ở Vân Nam

Dĩ nhiên tôi cũng muốn đo lường nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc tại vùng biên giới với nước ta. Cảm nghĩ rất rõ rệt của tôi là nguy cơ này hoàn toàn không thể có nếu chúng ta có được một chính quyền khá. Người dân trong cả hai tỉnh giáp ranh với Việt Nam, Vân Nam và Quảng Tây, đều không gắn bó với Bắc Kinh, và với Trung Quốc nói chung. Trong thế kỷ 19 họ đã chiến đấu quyết liệt để ly khai với kết quả là hơn 70% dân chúng bị tàn sát. Ngày nay nguyện vọng chính của họ cũng vẫn chỉ là một mức độ tự trị lớn hơn, độc lập nếu có thể được. Vả lại hiện nay Vân Nam đã có rất nhiều khu tự trị sắc tộc, Quảng Tây đã là một tỉnh tự trị. Người dân trong cả hai tỉnh này đều có thiện cảm đối với Việt Nam, rất nhiều người nói được tiếng Việt. Nếu Việt Nam có được một chính quyền sáng suốt thì không có gì phải lo ngại Trung Quốc cả, nhưng đây là một chữ NẾU khá lớn.

Một cách tình cờ, tôi đã gặp một nhóm viên chức Việt Nam sang Bắc Kinh tham dự một hội nghị. Chúng tôi đã thảo luận về mô hình Trung Quốc và đồng ý là mô hình này chắc chắn dẫn tới thảm kịch. Tất cả vấn đề là lúc nào và như thế nào. Những anh chị em này đều khẳng định là Việt Nam đang làm một điều rất dại dột là cóp nhặt mô hình Trung Quốc. Nhưng họ lại nhận định là không thể có hướng đi khác dưới chế độ này, dù họ là những viên chức của chế độ.

Và khi qua câu chuyện họ biết tôi là tác giả cuốn Tổ Quốc Ăn Năn thì không khí thay đổi hẳn. Chúng tôi thực sự là anh em.

Nguyễn Gia Kiểng

(30/10/2007)

Published in Quan điểm

I. Sau mười năm thách đố

Lần trước tôi thăm Trung Quốc là vào cuối năm 2007. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 chưa nổ ra. Kinh tế Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ như chưa bao giờ thấy và đang ở đỉnh cao của sự thành công dưới mắt thế giới. Tăng trưởng trên 10% trong gần 20 năm liền. Và đang tưng bừng chuẩn bị tổ chức Thế Vận 2008.

Chinese dragon statue at twilight time

Vào cuối năm 2007, kinh tế Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ như chưa bao giờ thấy và đang ở đỉnh cao của sự thành công dưới mắt thế giới.

Trong suốt một tháng tôi đã vội vàng đi khắp Trung Quốc từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây chỉ để tìm những ấn tượng xác nhận hay phủ nhận những gì đã học hỏi trước đó qua các tài liệu. Đối với Trung Quốc tôi tự cho mình hai nguyên tắc chỉ đạo, một là phải theo dõi thật chăm chú bởi vì những gì xảy ra tại Trung Quốc có thể có ảnh hưởng lớn lên thế giới và nước ta, hai là phải hết sức khách quan và trung thực bởi vì mọi nhận định sai lầm về Trung Quốc đều có thể dẫn tới sai lầm trong cách nhìn những thử thách của đất nước ta ; nói cách khác nạn nhân của sự chủ quan sẽ là chính mình.

Trái với tâm lý bài Hoa của nhiều người Việt Nam kể cả một số bạn tôi, tôi yêu Trung Quốc. Tôi không đồng hóa Trung Quốc với chế độ mà nó đang phải chịu đựng. Tôi lớn lên với những điển tích và địa danh Trung Quốc. Phạm Lãi Tây Thi, Hán Sở tranh hùng, Chiêu Quân cống Hồ, Tam Quốc, Thủy Hử, Dương Quý Phi v.v. Tuy vậy tôi không thăm Trung Quốc để du ngoạn.

Lần trước cũng như lần này tôi tới Trung Quốc với một số dữ kiện và ý kiến đã gom góp được trong mục đích nhận ra những gì cần xét lại. Kinh nghiệm đã cho tôi thấy là ngay cả nếu những gì mình đã biết và nghĩ đều đúng chúng cũng sẽ đúng một cách khác sau khi được bổ túc thêm bằng những gì mắt thấy tai nghe. Giác quan có những khả năng riêng của nó. Cuộc thăm viếng Trung Quốc lần đầu đã diễn ra trong lúc mô hình "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đang được coi là rất thành công và đã tạo ra "phép màu Trung Quốc" nhưng đã khiến tôi có một cái nhìn khác với nhiều chuyên gia. Tôi đã viết một bài đánh giá mô hình này là độc hại và đang tàn phá Trung Quốc. Sau đó tôi cũng đã viết thêm một số bài khác theo cùng quan điểm này (1).

tq2

Tu viện Songzanlin nổi tiếng và chùa Vàng ở Shangri-La - Tây Tạng

Năm nay trở lại Trung Quốc tôi chỉ có thì giờ để tập trung vào Vân Nam và Tây Tạng, hai trong số những vùng nhạy cảm và nhiều thay đổi nhất của Trung Quốc trong khúc quanh lịch sử hiện nay. Nhưng trước hết ghé Quảng Châu.

Cảm giác đầu tiên là Trung Quốc hoành tráng hơn rất nhiều so với mười năm trước. Phi trường Bạch Vân lớn hơn, đẹp hơn và sạch hơn hẳn. Quảng Châu cũng thế. Quảng Châu không chỉ là thành phố lớn thứ ba mà còn là thành phố giầu nhất của Trung Quốc, hơn cả Hồng Kông và Thượng Hải.

Đi kèm với cảm giác này là một nhận xét : Trung Quốc đã không thành công lắm trong dự án được tung ra một cách rầm rộ vào năm 2007 là huấn luyện cho 175 triệu người biết nói tiếng Anh trước Thế Vận 2008. Tại phi trường Bạch Vân nhóm chúng tôi lạc mất mấy người, chủ yếu do không được hướng dẫn chính xác vì ngôn ngữ bất đồng. Họ đi lạc sang một hướng khác. Tôi cố tìm họ và hỏi rất nhiều nhân viên phi trường, an ninh cũng như dân sự, nhưng không ai biết tiếng Anh, dù là một cách sơ sài. Chật vật mãi mới tìm lại được họ nhờ may mắn.

Điều này tôi cũng nhận thấy ở khắp nơi trong suốt thời gian thăm viếng, dù trong các khách sạn một số tiếp viên bắt đầu biết chút tiếng Anh. Tôi không ngạc nhiên vì rất khó học một ngoại ngữ nếu không hiểu văn hóa của nó. Đàng sau mỗi ngôn ngữ là một cách suy nghĩ và diễn tả. Ông bà hàng xóm của tôi cũng người Trung Quốc, họ sống ở Pháp đã gần 40 năm, con cái đều đã tốt nghiệp đại học, nhưng họ vẫn không nói được tiếng Pháp. Phi trường Bạch Vân bây giờ không còn những người nghèo khổ chầu chực để khuân vác đồ cho du khách. Cảnh sát cũng nhã nhặn hơn nhiều dù chưa hẳn là thân thiện. Mười năm trước họ nhìn du khách như những phần tử đáng ngờ vực và sẵn sàng can thiệp không chút nể nang.

kunming0

Thành phố Côn Minh ngày nay

Những thiện cảm càng mạnh hơn khi tôi tới Côn Minh, bắt đầu cuộc tham quan thực sự. Côn Minh đã thay đổi hẳn. Mười năm trước đây là một thành phố duyên dáng còn giữ được phần lớn quá khứ của nó. Đó cũng là thành phố mà tôi thích nhất một phần vì nó có nhiều liên hệ với nước ta trong thế kỷ 20, chủ yếu nhờ đường xe lửa Hà Nội – Côn Minh. Thành phố bây giờ hoàn toàn khác. Tấp nập và hoành tráng. Các cao ốc mọc lên như nấm.

Côn Minh cũng như tất cả các nơi tôi đi qua trong hai tuần lễ đều xác nhận một tiến bộ ngoạn mục của Trung Quốc về vệ sinh và môi trường. Sạch không thua gì các thành phố Châu Âu, có phần hơn cả Paris. Không còn rác rưởi. Cách đây mười năm nỗi kinh hoàng của các du khách, ngay cả trong các khách sạn bốn sao, là các nhà vệ sinh. Dơ bẩn và hôi thối ở mức độ khó mô tả và nhiều khi không có giấy vệ sinh. Hình ảnh quen thuộc là một nhân viên đứng trước nhà vệ sinh của các nhà hàng phát cho mỗi khách hàng một số lượng giấy vệ sinh vừa đủ dùng. Bây giờ các nhà vệ sinh trong các khách sạn đều sạch sẽ, trong các nhà hàng chúng cũng đều ít nhất chấp nhận được. Tôi chắc các nhà vệ sinh trong các nhà hàng dành cho người Trung Quốc cũng đã phải sạch hơn rất nhiều. Tuy vậy người ta không dễ đoạn tuyệt với một di sản văn hóa, và văn hóa Trung Quốc khá đặc biệt.

tq4

Một WC trong một nhà hàng sang

Một hiện tượng ngộ nghĩnh vẫn còn khá phổ biến là trong nhiều nhà hàng khá sang trọng vẫn còn những nhà vệ sinh trong đó nhiều người, dĩ nhiên là cùng giới tính, ngồi đại tiện bên nhau một cách rất tự nhiên vừa làm động tác tiêu hóa vừa trò chuyện hoặc lướt mạng internet bằng điện thoại di động một cách thoải mái. Vài lần trong những nhà hàng sang tôi còn thấy những cầu tiêu rất sạch với hai bệ kiểu ngồi xổm kế bên nhau. Tôi được giải thích là hai người bạn thân có thể rủ nhau cùng đi đại tiện để trò chuyện. Không phải để tiết kiệm chỗ mà vì lý do văn hóa.

Người Trung Quốc hình như không coi đại tiện, hoặc khạc nhổ, là những việc hoàn toàn cá nhân và kín đáo, trái lại họ coi đại tiện là một khoảng khắc thoải mái có thể chia sẻ với bạn bè. Tôi còn nhớ một đoạn trong cuốn The New Emperors (Những hoàng đế mới) của Salisbury được giải Pulitzer trong đó người y sĩ cá nhân của Mao Trạch Đông thuật lại rằng Mao và bộ tham mưu trong giai đoạn Trường Chinh thường thảo luận trong khi cùng đại tiện. Phải nói rằng có những điểm trên đó người Trung Quốc và người Việt Nam rất khác nhau.

tq5

Thạch Lâm ngày nay trở thành một công viên

Tiến bộ rất đáng phục khác của Trung Quốc trong mười năm qua là về môi trường. Trung Quốc không chỉ nói là phải cải thiện môi trường, họ thực sự làm với tất cả quyết tâm. Hầu như không còn xe gắn máy chạy bằng xăng, chúng đã bị thay thế bởi xe đạp điện im lặng và sạch sẽ.

Tuy vậy tiến bộ lớn nhất chính là con người. Chỉ vài ngày sau khi tới đây tôi nhận ra là con người Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều. Mười năm về trước họ là những con người sợ sệt, lầm lũi và đầy nghi kỵ, nhìn du khách như những con bò sữa, thậm chí như những đe dọa, không dám có quan hệ nào ngoài buôn bán. Phần lớn từ chối chụp ảnh với du khách.

tq6

Người dân Trung Quốc ngày nay không còn sợ chụp ảnh với du khách

Ngày nay họ khác hẳn. Họ tươi cười vồn vã, sẵn sàng trò chuyện với khách lạ hoặc qua một vài câu tiếng Anh lõm bõm kèm theo động tác cơ thể, hoăc qua thông dịch của hướng dẫn viên mà họ thừa biết là công an. Một đặc điểm của Trung Quốc là các công ty du lịch không chỉ là của công an mà còn chính là công an. Bây giờ có hơi khác so với mười năm trước. Cô hướng dẫn viên của tôi cho biết trước đây cô ấy là công an và đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhưng bây giờ cô ấy đã xin ra khỏi công an để làm hướng dẫn viên tự do, tư cách đảng viên cũng không còn trên nguyên tắc vì từ hai năm nay cô ấy không đóng đảng phí ; theo nội quy của đảng như vậy là mất tư cách đảng viên trừ khi chịu đóng liễm trở lại, điều mà cô ấy sẽ không làm.

Người Trung Quốc không còn là những con người ngoài cuộc lầm lũi ngay trên chính quê hương mình nữa. Họ đang tự cởi trói để làm chủ đời mình trước khi, chắc chắn, giành quyền làm chủ đất nước. Tôi cũng đã làm một việc mà trước đây mười năm tôi không hề nghĩ đến. Trên đường bộ hoành tráng ở trung tâm Côn Minh tôi chợt nhìn thấy một công an trẻ đẹp đang canh gác. Tôi nhìn anh ta và anh ta mỉm cười. Tôi nhờ cô hướng dẫn viên hỏi anh ta có bằng lòng chụp một tấm hình kỷ niệm với tôi không và anh ta vui vẻ nhận lời. Mười năm trước điều này không thể tưởng tượng nổi.

Phải nói cảm giác trong những ngày đầu tiên của tôi là ngạc nhiên, thú vị và thán phục. Nhưng vài ngày sau sự lạc quan dần dần nhường chỗ cho ngờ vực và phân vân, rồi sau cùng một kết luận ảm đạm cho tương lai của cả chế độ cộng sản Trung Quốc lẫn đất nước Trung Quốc nói chung. Tất cả không tốt đẹp như ấn tượng ban đầu.

tq7

Bác sĩ dược thảo Hồ Thạch Thấu

Sự nghi hoặc bắt đầu khi tôi gặp người mà tôi muốn gặp nhất tại Vân Nam, bác sĩ dược thảo Hồ Thạch Thấu (Hu Shixui). Ông là một trong những người Trung Quốc nổi tiếng và được ái mộ nhất. Đã có vài chục cuốn phim tài liệu về ông và những khảo cứu về dược thảo của ông được phổ biến trên khắp thế giới, không phải do chính quyền cộng sản Trung Quốc thực hiện mà do các hãng thông tấn phương Tây. Năm nay ông đã 96 tuổi nhưng vẫn còn rất tỉnh táo. Điều làm tôi ngạc nhiên là ông ngồi một mình cô đơn nhìn ra đường phố ngay trước cửa tiệm thuốc trống trơn được gọi là y viện của ông, dù Lệ Giang và "bác sĩ Hồ" là một chặng đường bắt buộc của mọi du khách muốn tìm hiểu Trung Quốc. Lúc đó tôi mới nhận ra là số du khách nước ngoài không có bao nhiêu. Hỏi ra mới biết là số du khách nước ngoài ngày càng giảm đi trong khi du khách Trung Quốc không tăng lên.

Sau đó dần dần những sự kiện mà tôi không quan tâm lúc ban đầu trở thành rõ rệt. Các khách sạn mà tôi đã ghé qua đều vắng, chỉ vào khoảng một phần ba số phòng có khách. Chúng sẽ không thể trụ lâu, sự bi quan có thể nhìn thấy ngay trên nét mặt của những người quản lý khách sạn. Lý do không khó tìm ra. Trung Quốc đúng là đồ sộ và sạch sẽ hơn hẳn so với mười năm trước nhưng thực ra không đẹp hơn, trái lại đã mất đi vẻ đẹp tự nhiên. Một thí dụ điển hình là Thạch Lâm, một "Vịnh Hạ Long trên đất liền" từng được ca tụng là "thiên hạ đệ nhất kỳ quan". Bây giờ Thạch Lâm không còn là một thắng cảnh thiên nhiên nữa, chưa nói thắng cảnh thiên nhiên đẹp nhất thế giới, mà đã trở thành một công viên. Một công viên lớn và đẹp nhưng không còn gì là thiên nhiên. Quá nhiều xây dựng và bê tông đã cướp đi tâm hồn của nó. Đây cũng là tình trạng chung của mọi thành phố Trung Quốc, ngay cả những địa danh du lịch như Shangri-la, Lệ Giang và Đại Lý. Hy vọng Quế Lâm vẫn còn nguyên vẹn.

tq8

Côn Minh nhìn từ lầu cao, mù mịt và xây cất vô trật tự

Tôi may mắn được ở một trong những khách sạn cao nhất tại ngay chính trung tâm Côn Minh và qua cửa kính của phòng ăn có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố. Nhận xét rất rõ rệt là các cao ốc được xây một cách lộn xộn không theo một quy hoạch đô thị nào cả. Một nhà chọc trời có thể mọc lên cô đơn ngay chính giữa một khu lụp xụp.

Không khí vẫn vẩn đục vì khói dù Côn Minh, với cao độ 2000m và hồ Điền Trì rộng lớn ngay kế bên, chắc chắn phải là một trong những thành phố ít ô nhiễm nhất. Môi trường Trung Quốc đã bị hủy hoại quá nặng để có thể phục hồi trong vòng một hai thế hệ. Vật giá cũng đã gia tăng khá nhiều. Khó chịu nhất là sự cô lập. Không có Google, Facebook, Youtube, Gmail, Twitter, điện thoại và SMS rất đắt. Chỉ có thể truy cập những mạng của Trung Quốc với điều kiện là phải cài đặt những software của Trung Quốc. Trung Quốc là một thế giới riêng. Tập Cận Bình cổ võ cho toàn cầu hóa tối đa nhưng chủ trương toàn cầu hóa của ông phải được hiểu là Trung Quốc can thiệp trên toàn thế giới chứ không có nghĩa là Trung Quốc hội nhập vào thế giới.

Và tôi nhận ra là không thể đi 50 mét mà không gặp một toán cảnh sát võ trang, điều này chứng tỏ chính quyền cộng sản Trung Quốc đang rất lo sợ trước thái độ ngày càng tự tin của quần chúng. Đáng lẽ tôi đã phải nhận ra điều này ngay khi tới Côn Minh. Hôm đó, vừa nhận phòng và cất hành lý xong tôi xuống đi dạo trên đường bộ hành trung tâm thành phố. Đường này là niềm kiêu hãnh của Côn Minh. Rộng lớn và nhộn nhịp, đầy rẫy những cao ốc mới. Vừa ra khỏi khách sạn chừng vài chục bước tôi gặp một ông già gánh một thứ trái cây rất lạ đi bán rong. Bọn tôi tới coi và ông hạ gánh xuống. Chưa kịp hỏi gì thì bất ngờ hàng chục công an đã ập tới một người khóa tay một người bẻ cổ ông già kéo đi bất chấp sự vùng vẫy la hét của nạn nhân, những người kia bao vây gánh hàng. Cô hướng dẫn viên giải thích rằng công an nghi ông ấy giấu chất nổ dưới trái cây. Thế là ông già và quang gánh bị đẩy lên xe bít bùng chở đi đâu không biết. Chắc chán là oan vì sau đó không thấy tin tức gì trên báo.

Mười năm qua, từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 nổ ra đã là mười năm Trung Quốc thách đố thế giới. Họ đã cố gắng phủ nhận cuộc khủng hoảng này và cố gắng bằng mọi cách duy trì một tỷ lệ tăng trưởng cao bởi vì, theo như lời cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo, một tỷ lệ tăng trưởng dưới 8% chắc chắn sẽ dẫn Trung Quốc tới bạo loạn sau những hy sinh về con người và môi trường mà mô hình gọi là "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã áp đặt. Các phương cách đã được thử nghiệm là tăng lương công nhân để tăng cường thị trường nội địa, bơm tiền và vận động dân chúng dồn tiền vào chứng khoán để biến Thượng Hải và Thẩm Quyến thành những trung tâm tài chính quốc tế, và nhất là tăng chi tiêu công cộng và tín dụng để đẩy mạnh xây dựng, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng ở cả trong lẫn ngoài nước qua sáng kiến Đai và Đường (Belt and Road Initiative). Kết quả là chi phí công nhân lên cao khiến xuất khẩu giảm nhưng tiêu thụ nội địa vẫn không tăng, các thị trường chứng khoán Thương Hải và Thẩm Quyến đang nguy ngập sau khi đã làm mất hàng ngàn tỷ USD, các thành phố ma mọc lên khắp nơi với con số ước lượng năm 2016 là 64 triệu căn hộ không người ở, bây giờ có thể là trên 70 triệu. Còn sáng kiến Đai và Đường ? Cho tới nay nó đã chỉ khiến Trung Quốc chi hàng nghìn tỷ USD chứ chưa thu lại được gì.

Và mối nguy lớn nhất -vượt rất xa mọi khó khăn kinh tế dù không được các chuyên gia nói tới- là cuộc đấu ngày càng gay go giữa một bên là nhân dân Trung Quốc ngày càng mạnh hơn, tự tin hơn đang quyết tâm tự cởi trói và một bên là Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã mất lý tưởng, đã phân hóa và bối rối nhưng lại cố xiết chặt hơn nữa ách độc tài toàn trị. Kết cuộc là hiển nhiên và có thể sẽ rất dữ dội.

Chính quyền cộng sản Trung Quốc không chỉ thách thức thế giới. Họ thách thức cả thực tế và mọi logic. Cụ thể là nếu chính sách kinh tế này của Trung Quốc mà thành công thì phải xét lại ngay cả những kiến thức kinh tế nền tảng nhất. Tuy vậy cho tới nay những dự đoán về sự sụp đổ của Trung Quốc đều đã không thành sự thực. Lý do là vì người ta đã lý luận về Trung Quốc như một quốc gia trong khi nó là một đế quốc, nghĩa là một thế giới nhỏ. Thực ra sự suy yếu của Trung Quốc đã bắt đầu rồi và ngày càng khó che giấu. Điển hình là khối nợ đã vượt mức 300% GDP và hàng trăm triệu người đã phải quay trở lại nông thôn sau khi mất việc. Tuy vậy, khác với trường hợp một quốc gia, gian đoạn suy tàn của một đế quốc có thể kéo dài khá lâu như lịch sử thế giới đã cho thấy. Cũng khác với một quốc gia điều quan trọng mà lịch sử cũng đã chứng tỏ là một đế quốc suy yếu không còn là một mối nguy cho thế giới nữa. Nó phải lo giải quyết những khó khăn nội bộ.

Tôi chia sẻ quan tâm của nhiều thân hữu về mối quan hệ lệ thuộc nhập nhằng và mờ ám của chính quyền cộng sản Việt Nam với Bắc Kinh. Tôi cũng đồng ý là chúng ta phải rất cảnh giác, nhưng tôi thành thực nghĩ rằng chúng ta không cần phải hoảng hốt và mất lòng tin vào tương lai đất nước.

Nguyễn Gia Kiểng

(20/11/2018)

(1)  Tôi cũng đã viết thêm một số bài khác theo cùng quan điểm này :

Trung Quốc : Những Vạn Lý Trường Thành mới ?

Nhận diện bài toán Trung Quốc

Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang

Published in Quan điểm
lundi, 05 novembre 2018 23:59

Những tiết lộ của Donald Trump

Cái nhìn trìu mến của thế giới dành cho nước Mỹ đã nhường chỗ cho cái nhìn ngao ngán đối với một dân tộc có thể bầu một người như Trump lên làm tổng thống. Dù chắc chắn Trump sẽ không được tái cử năm 2020 sự kính trọng của thế giới đối với Mỹ đã mất và không thể phục hồi hoàn toàn, như một ly nước đã đổ xuống đất.

********************

Ngày mai Mỹ sẽ có cuộc bầu cử chính giữa nhiệm kỳ tổng thống, bầu lại Hạ viện và 1/3 Thượng viện. Theo các cuộc thăm dò dư luận thì Đảng Dân Chủ sẽ giành được một đa số khít khao trong Hạ viện nhưng Đảng Cộng Hòa, hiện đang kiểm soát cả hai viện, vẫn giữ được đa số trong Thượng viện. Nếu như thế, và ngay cả nếu Đảng Dân Chủ được một đa số đáng kể hơn trong Hạ viện, thì có thể coi cuộc bầu của này là bình thường chứ không phải là một thất bại của Donald Trump. Có điều là lần này phải coi chừng, điều quan trọng và nghiêm trọng nhất có thể chính là điều bình thường.

mid1

Donald Trump trong một cuộc vận động bầu cử giữa kỳ 2018 - Ảnh minh họa

Hiện tượng Trump

Cá nhân tôi nghĩ đa số dân chủ trong Hạ viện mới sẽ khá hơn dự đoán bởi vì nhiều người chống Trump sẽ cảm thấy có bổn phận phải đi bầu, Đảng Đân Chủ có thể hơn Đảng Cộng Hòa trên 40 ghế trong Hạ viện, nhưng ngay cả như thế cũng không phải là thất bại cho Donald Trump. Các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tại Mỹ từ trước tới nay vẫn thường bất lợi cho đảng cầm quyền và mặt khác kết quả tại các địa phương tùy thuộc ở uy tín của các ứng cử viên hơn là cảm tình mà cử tri dành cho tổng thống trừ khi sự ủng hộ hay phản đối tổng thống quá mạnh. Trump chỉ có thể bi coi là thất bại nếu Đảng Cộng Hòa thảm bại, thí dụ như thua xa tại Hạ viện và mất luôn đa số tại Thượng viện, nhưng điều này rất khó xẩy ra. Trump có một khối cử tri khá lớn ủng hộ ông đến cùng và bằng mọi giá.

Không phải người ta không có lý do lớn nào để phản đối Trump. Trái lại người ta có rất nhiều lý do rất chính đáng và rất nghiêm trọng. Ông là một người dối trá và vô đạo đức, đi chơi gái rồi trả tiền để mua sự im lặng và hoàn toàn không biết xấu hổ. Ông không hề quan tâm tới những giá trị dân chủ và nhân quyền, ông ca tụng Putin và Kim Jong-un, coi Châu Âu là kẻ thù của nước Mỹ, mạt sát và đối xử tàn bạo với những người di dân muốn tới Mỹ để tìm một cuộc sống mới cho họ và cho con cái. Từ chối những người di dân là điều có thể hiểu được, đối xử với họ như Trump là một điều rất khác. Một người có tâm hồn sạch sẽ không thể chấp nhận phong cách đó.

Trump cũng thiếu ngay cả những kiến thức cơ bản phải có của một người lãnh đạo chính trị. Ông rút khỏi thỏa ước COP21 về khí hậu mà Mỹ đã ký với cả thế giới và rút ra với những lời lẽ rất khiếm nhã. Ông đòi phục hồi kỹ nghệ than mà không biết rằng kỹ nghệ này đàng nào cũng không thể phục hồi. Ông bất chấp lẽ phải và dư luận khiêu khích và biến cả khối Ả Rập thành thù địch với Mỹ làm phí uổng không biết bao nhiêu cố gắng ngoại giao, chỉ để lấy lòng Israel. Trump không chỉ nói những câu vô duyên thô lỗ mà còn nói không đúng nơi, thí dụ như huênh hoang khoe rằng trong hai năm ông đã làm được nhiều hơn tất cả mọi tổng thống trong lịch sử nước Mỹ trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc, làm cả hội trường phải phì cười. Thật xấu hổ cho nước Mỹ.

Những người ủng hộ Trump không thể phủ nhận ông thiếu kiến thức, đạo đức và văn hóa, những yếu tố đáng lẽ phải đủ để khiến một người phải bị loại bỏ tức khắc và không nể nang khỏi mọi vai trò lãnh đạo chính trị, nhưng họ bất chấp. Họ biện bạch rằng ông đã đạt được những kết quả tốt.

Nhưng kết quả nào ? Kết quả rõ nét nhất là ông đã gây thiệt hại cho cả thế giới, buộc tất cả mọi quốc gia, kể cả Mỹ, phải điều chỉnh lại những tiên liệu về tăng trưởng kinh tế theo chiều hướng sút giảm, đã làm liên minh Châu Âu – Mỹ - Nhật gần như tan rã, đã khiến Mỹ bị cô lập và thù ghét, đã khiến các chế độ bạo ngược tại Nga, Trung Quốc, Venezuela và Việt Nam trở thành bớt ghê tởm. Trái với khẩu hiệu Make America great again của ông, Donald Trump đã làm nước Mỹ cô lập, yếu đi và nhỏ lại.

Khó có thể thuyết phục những người ủng hộ Trump một cách cuồng nhiệt, chiếm quá phân nửa tổng số người bầu cho ông, bởi vì họ không ủng hộ Trump vì những lý do mà họ nêu ra, họ ủng hộ Trump để phản đối một trật tự quốc gia và thế giới làm họ tức giận vì đang gạt họ và những giá trị mà họ trân trọng ra ngoài lề. Cuộc cách mạng 4.0 mà chúng ta đang sống hàng ngày đã khiến quá nhiều người trở thành vô dụng và lạc lõng trong một đất nước mà họ đã góp công xây dựng ra và cảm thấy có quyền đòi lại. Đối với họ không thể lý luận rằng hành động của Trump có lợi hay có hại cho nước Mỹ và thế giới bởi vì nước Mỹ này và thế giới này không còn là của họ nữa.

Trump không phải là hiện tượng riêng của nước Mỹ. Ông chỉ là một trong những biểu tượng của một phong trào dân túy toàn cầu phẫn nộ trước một phong trào toàn cầu hóa không phương hướng. Nó không chỉ đưa Trump lên cầm quyền tại Mỹ mà còn đưa Erdogan lên cầm quyền tài Turkey, Duterte tại Philippines và cách đây vài ngày Bolsonaro tại Brazil. Nó cũng đã đưa nhiều đảng dân túy tới ngưỡng cửa quyền lực tại nhiều nước dân chủ khác. Đặc tính chung của các lãnh tụ dân túy, ngày nay cũng như ngày xưa, là họ đều lợi dụng một sự phẫn nộ có thực và chính đáng để đề nghị một giải pháp giản dị nhưng độc hại cho một thực tế xã hội phức tạp cần được xét lại một cách thận trọng để cải tiến.

Vấn đề trung tâm hiện nay là thế giới dân chủ dần dần lẫn lộn các giá trị và không còn phân biệt được phải trái. Trong chiến tranh lạnh –từ sau thế chiến II đến khi bức tường Berlin sụp đổ- ít ra còn có tranh luận giữa hai phe dân chủ và cộng sản về thế nào là đúng hay sai trong tổ chức xã hội, nhưng từ ba thập niên qua, khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, cuộc thảo luận này đã chấm dứt. Chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism) tự coi là đã toàn thắng không còn gì để thảo luận nữa và chính trị đã xuống cấp. Đồng tiền trở thành cứu cánh thay vì phương tiện. Và những Trump, Erdogan, Duterte, Bolsonaro xuất hiện. Họ không phải là giải pháp mà chỉ là những mối nguy, các giá trị đạo đức và nhân bản cần được phục hồi chứ không thể bị gạt đi. Nhưng họ cũng đồng thời là những tiếng còi báo động.

Những gì đang và sắp diễn ra ?

Thay đổi lớn và nghiêm trọng mà cuộc bầu cử ngày mai tại Mỹ sẽ chính thức xác nhận, trừ khi có một bất ngờ rất lớn, nghĩa là Trump và Đảng Cộng Hòa thua rất nặng, là Mỹ không còn là nước lãnh đạo khối các nước dân chủ nữa. Trump và những người "cuồng Trump" không muốn Mỹ đảm nhiệm vai trò này, hay chỉ chấp nhận đảm nhiệm mà không có trách nhiệm với bất cứ ai, nhưng bây giờ thì chính thế giới cũng không còn chấp nhận để Mỹ đảm nhiệm vai trò này nữa.

Sự kiện cần được lưu ý để hiểu những gì đang và sắp diễn ra là cho tới nay thế giới và nhất là Châu Âu yêu nước Mỹ và người Mỹ, dù đôi khi có chế nhạo để đùa giỡn trên một vài điểm. Đặc biệt là Châu Âu do quan hệ chủng tộc, văn hóa và lịch sử. Châu Âu yêu Mỹ và áp đặt tình yêu này lên thế giới. Người Châu Âu nhìn nước Mỹ như một phần của chính quê hương mình, như một ước mơ và một cơ hội. Họ nhìn người Mỹ như một người anh em năng động và tốt bụng. Người Mỹ là một người Âu đã ra đi và người Âu là một người Mỹ chưa lên đường. Một thanh niên Châu Âu sau khi được đào tạo một cách rất tốn kém tại những trường đại học danh tiếng nhất có thể thoải mái sang lập nghiệp tại Mỹ và trở thành công dân Mỹ mà không hề cảm thấy như vậy là bội bạc với đất nước đã nuôi nấng và đào tạo ra mình. Gia đình và bè bạn cũng tuyệt đối không có cảm giác đó và rất vui vẻ chúc anh ta may mắn. Chính vì liên hệ tình cảm này mà Châu Âu đã góp phần quyết định tạo ra sức mạnh và sự giầu có của nước Mỹ, và ngược lại Mỹ đã hai lần hy sinh xương máu để bảo vệ Châu Âu. Trong trao đổi phải nói là Châu Âu, mặc dù hai cuộc thế chiến và chương trình Marshall, đã đóng góp cho Mỹ hơn hẳn Mỹ cho Châu Âu. Riêng trao đổi chất xám thì chỉ có một chiều từ Châu Âu qua Mỹ. Người ta có thể thấy là phần lớn những phát minh lớn của Mỹ đã do những người di dân từ Châu Âu, hay có cha mẹ là những người di dân từ Châu Âu. Donald Trump không nhìn thấy điều này khi nói Châu Âu là kẻ thù của Mỹ.

Chính quan hệ máu thịt này đã khiến Châu Âu chấp nhận và ủng hộ vai trò lãnh đạo của Mỹ để bảo vệ một trật tự dân chủ, lôi kéo theo Nhật, Canada, Úc và nhiều quốc gia khác. Nhưng ngày nay, với Trump làm tổng thống Mỹ, cái nhìn của Châu Âu và thế giới, về nước Mỹ đã thay đổi. Các cuộc thăm dò dư luận gần đây cho thấy có gần 80% người Châu Âu và một tỷ lệ gần như thế tại các nước dân chủ khác khinh bỉ Trump. Cái nhìn trìu mến đã nhường chỗ cho cái nhìn ngao ngán đối với một dân tộc có thể bầu một người như Trump lên làm tổng thống. Dù chắc chắn Trump sẽ không được tái cử năm 2020 sự kính trọng của thế giới đối với Mỹ đã mất và không thể phục hồi hoàn toàn, như một ly nước đã đổ xuống đất.

Trật tự thế giới sẽ ra sao ? Có còn một trật tự đân chủ nào không hay từ nay các chế độ độc tài bạo ngược sẽ tha hồ chà đạp nhân quyền ? Đó là những câu hỏi lớn, rất lớn.

Thế giới đang bước vào một giai đoạn đầy bất trắc nhất là khi Trung Quốc của Tập Cận Bình vừa đang lộng hành vừa đang tiến sát tới một cuộc khủng hoảng kinh tế rất lớn và có thể có những hành động điên rồ. Trái với ngộ nhận của nhiều người, Trung Quốc không hề khốn đốn vì cuộc "chiến tranh thương mại" mà Trump gây ra. Thuế của Trump trên hàng nhập khẩu cùng lắm chỉ gây thiệt hại tối đa 62 tỷ USD, thực sự có lẽ vào khoảng 40 tỷ, cho Trung Quốc. Không thấm tháp gì so với số tiền gần 1.000 tỷ USD mà Trung Quốc phải trả hàng năm cho tiền lãi của món nợ khổng lồ trên 30.000 tỷ USD, hay khoảng 500 tỷ USD đào thoát khỏi Trung Quốc mỗi năm. Kinh tế Trung Quốc sẽ suy sụp không phải vì Trump mà mặc dù có Trump.

Tuy vậy không nên đổ hết trách nhiệm cho Donald Trump. Ông chỉ là sản phẩm của một tiến trình xuống cấp về tư tưởng và đạo đức chính trị đã bắt đầu từ ba thập niên qua tại Mỹ. Trump chỉ tiết lộ và báo động rằng sự xuống cấp này đã đạt tới mức độ nguy kịch.

Trump và người Việt

Donald Trump đồng thời cũng tiết lộ về tình trạng tâm thần của người Việt. Một thăm dò dư luận cách đây không lâu cho thấy người Việt Nam là một trong một vài dân tộc rất hiếm hoi tại Châu Á ủng hộ Trump, không những thế người Việt Nam còn ủng hộ với một đa số áp đảo. Một cuộc thăm dò khác mới đây tại Mỹ cho thấy là 2/3 người Mỹ gốc Châu Á chống Trump trong khi 2/3 người Mỹ gốc Việt ủng hộ Trump.

Dù ở trong nước hay ngoài nước, người Việt Nam chúng ta quả là không giống ai. Phải chăng đó chính là lý do khiến chúng ta không vươn lên được ?

Nguyễn Gia Kiểng

(05/11/2018)

Published in Quan điểm

Xã luận

Thông tư 19 và những câu hỏi phải được trả lời

Cùng với Thông tư 19 và sự phát giác của Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN đã đến lúc Đảng cộng sản phải trả lời một loạt câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và ngày càng gây lo âu và phẫn nộ trong nhân dân Việt Nam.

thongtu1

Trên thực tế đồng nhân dân tệ đã được người Việt ở các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc sử dụng từ lâu - Ảnh minh họa (BBC tiếng Việt)

Thông tư 19 (số 19/2018/TT-NHNN) đã gây một xúc động lớn trong dư luận rồi sau một hai tuần không còn được nhắc lại nữa. Người ta xúc động mạnh vì thấy chủ quyền quốc gia bị xâm phạm nhưng không biết nói gì vì thông tư này dài, nhập nhằng, khó hiểu, nhiều chi tiết và quy chiếu tới nhiều văn bản khác. Tuy vậy không nên để bị lạc lõng trong các chi tiết và để cho cây che khuất rừng.

Điều chắc chắn là Thông tư 19, có hiệu lực từ ngày 12/10/2018, chính thức nhìn nhận, đúng ra là tái xác nhận, đồng Nhân dân tệ (CNY) như là đồng tiền chính thức trong bảy tỉnh biên giới Việt Trung (theo các điều 3 và 8). Các điều khoản khác trong Thông tư chủ yếu có mục đích giới hạn hậu quả của việc cho lưu hành đồng CNY. Thí dụ như quy định rằng việc xuất và nhập đồng CNY của các thương nhân phải có chứng từ ; một hợp đồng thanh toán bằng CNY chỉ được sử dụng một tài khoản ngay cả nếu thương nhân có nhiều tài khoản CNY tại nhiều chi nhánh ngân hàng biên giới ; các ngân hàng phải báo cáo mỗi quý khối lượng CNY xuất và nhập ; cư dân Việt Nam tại biên giới không được nộp tiền mặt CNY vào tài khoản v.v. Tuy nhiên tất cả đều mơ hồ và lúng túng, thí dụ như quy chế "cư dân có hoạt động thương mại biên giới". Có khác gì một thương nhân ?

Quan trọng nhất trong Thông tư này là câu :

"Quyết định số 689/2004/QĐ-NHNN ngày 07/6/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ tại khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc hết hiệu lực thi hành".

Vậy Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN ngày 07/6/2004 là gì ?

Một cách vắn tắt, đó là quyết định cho phép đồng Nhân dân tệ (CNY) được lưu hành tự do, tương đương với đồng tiền Việt Nam tại các tỉnh biên giới và vì, một mặt, mọi ngân hàng đều có thể mở chi nhánh tại các tỉnh biên giới và, mặt khác, không có gì trong quyết định này phân biệt một chi nhánh biên giới với các chi nhánh khác nên đồng CNY trên thực tế cũng là một phương tiện thanh toán như đồng tiền Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Quyết định này do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành theo chỉ thị của thủ tướng.

Thủ tướng lúc đó là ông Phan Văn Khải nhưng người ta phải hiểu đây là một quyết định của ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông Dũng lúc đó là phó thủ tướng thường trực nhưng có quyền hành áp đảo hơn hẳn ông Khải. Ông là con đỡ đầu của ông Lê Đức Anh -nhân vật có mọi quyền lực vào lúc đó- và được công khai chuẩn bị để làm lãnh tụ của chế độ trong khi ông Khải gần như chỉ là một gia nhân của Lê Đức Anh. Hơn nữa ngoài chức vụ phó thủ tướng thường trực, ông Dũng còn là chủ tịch Hội đồng Tài chính và Tiền tệ. Ông cũng đã là thống đốc Ngân hàng Nhà nước trước khi giao chức vụ này cho ông Lê Đức Thúy. Ngoài ra Nguyễn Tấn Dũng còn giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng khác là Thường vụ Bộ chính trị Đảng cộng sản.

thongtu2

Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ 5/1998 đến 12/1999 (Báo Mới, 11/04/2016)

Quyết định 689/2004 này rất nghiêm trọng. Tuy ngoài mặt và trên nguyên tắc nó chỉ áp dụng cho các tỉnh biên giới phía Bắc (còn có hai quyết định khác cho các vùng biên giới với Lào và Campuchia) nhưng vì không có quy định ngân hàng nào được có chi nhánh biên giới và cũng không có phân biệt một tài khoản biên giới với một tài khoản bình thường nên có thể nói tóm tắt là trên thực tế bất cứ ai, doanh nghiệp cũng như cá nhân, đều có thể có tài khoản CNY và tài khoản này có thể được sử dụng trên toàn lãnh thổ. Hơn nữa quyết định này còn cho phép mọi ngân hàng và doanh nghiệp đều được mở những "bàn đại lý" để trao đổi tiền Việt Nam và tiền Trung Quốc, các ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc còn được quyền tự do thỏa thuận hối suất trao đổi. Nếu dụng tâm của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, hay ít nhất của các ông Lê Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng và Nông Đức Mạnh, không phải là chuyển giao dần dần chủ quyền Việt Nam cho Bắc Kinh thì quyết định này hoàn toàn không thể hiểu được.

Và tại sao đây lại là một "quyết định" thay vì một đạo luật do quốc hội biểu quyết ? Tiền là một vấn đề chủ quyền đặc biệt quan trọng. Vô tình hay cố ý quyết định 689/2004 là một hành động vừa lạm quyền vừa phản quốc.

Đàng sau đồng tiền nào cũng là một uy quyền. Khi một người đổi một tài sản của mình –một con gà, một chiếc xe hay một căn nhà- lấy một tờ giấy, dù tiền mặt hay chi phiếu, thì phải hiểu là người đó tin rằng đàng sau tờ giấy đó có một uy quyền bảo đảm sẵn sàng trao lại một tài sản tương đương bất cứ lức nào. Tiền là chủ quyền. Nhìn nhận cho tiền Trung Quốc tự do lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam tương đương với nhìn nhận quyền lực của Bắc Kinh trên đất nước Việt Nam, cụ thể là chấp nhận hậu quả của những quyết định kinh tế tài chính của Bắc Kinh.

Không thể ngụy biện rằng việc cho lưu hành một đồng tiền nước ngoài đã có tại một số nước. Chỉ có một vài nước hoặc quá nhỏ để vấn đề chủ quyền không đặt ra hoặc đã quá suy sụp về mặt kinh tế khiến đồng tiền quốc gia mất hết giá trị mới phải chấp nhận một đồng tiền nước ngoài làm phương tiện thanh toán.

Quyết định 689/2004 đồng thời cũng là một hành động gian trá dấm dúi, gần như lén lút, vì ngay cả nhiều chuyên gia kinh tế và tài chính làm việc trong bộ máy nhà nước cũng không biết tới. Dĩ nhiên các ngân hàng đều nhận được để thi hành và quyết định này có lẽ cũng được đăng trên Công Báo nhưng nó đã bị chìm khuất trong vô số công bố khác. Mọi người đều có thể biết nhưng thực tế là hầu như không ai biết. Một số biết được thì im lặng thay vì báo động dư luận. Do thiếu tinh thần trách nhiệm hay thiếu hiểu biết hay cả hai ? Kết quả là một hành động gây tác hại nghiêm trọng cho chủ quyền và quyền lợi quốc gia đã bị giấu nhẹm.

Một câu hỏi mà bây giờ nhiều người có thể đặt ra là tại sao dù được ban hành từ năm 2004, Quyết định 689/2004 đã không khiến đồng CNY tràn ngập Việt Nam và gây sự phẫn nộ đáng lẽ phải có ? Đó là vì một lý do thuần túy kỹ thuật. Cho đến gần đây đồng CNY được coi là một đồng tiền rất mạnh, tỷ giá hối đoái so với các đồng tiền khác, kể cả đồng tiền Việt Nam, chỉ có thể lên chứ không thể xuống, Mỹ và Châu Âu có lúc còn gây áp lực để Trung Quốc tăng giá đồng CNY. Vì thế nên đồng CNY đã không được dùng làm đồng tiền thanh toán mà là đồng tiền để cất giữ. Tiền xấu đuổi tiền tốt và đồng CNY là một đồng tiền tốt.

Nhưng ngày nay tình hình đã thay đổi, kinh tế Trung Quốc dù trên mặt thống kê chính thức vẫn còn tăng trưởng ở tỷ lệ hoang đường gần 7% mỗi năm nhưng trên thực tế đã suy thoái từ nhiều năm nay. Bắc Kinh ngày càng khó che đậy sự suy thoái ngày càng lộ liễu này bằng những chi tiêu công cộng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Thế giới đã dần dần nhận ra là Trung Quốc sắp khủng hoảng. Trong một năm qua các chỉ số chứng khoán Trung Quốc đã xuống giá gần 20% và đồng CNY cũng đã sụt giá gần 10% so với đồng đô la Mỹ trong khi đồng tiền Việt Nam chỉ sụt giá khoảng 5%. Hậu quả là đồng CNY trở thành một đồng tiền xấu so với đồng tiền Việt Nam. Đồng CNY vì vậy đang trở thành đồng tiền để tiêu xài thay vì để cất giữ và nó đe dọa tràn ngập thị trường Việt Nam. Trên thực tế người ta có thể thấy từ mấy năm qua du khách Trung Quốc sang Việt Nam chủ yếu mua sắm trong các cửa hàng Trung Quốc để thanh toán bằng đồng CNY. Tình trạng mới này chắc chắn đã là lý do ra đời của Thông tư 19 : thay thế để giảm bớt hậu quả độc hại của Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN.

Chưa đủ. Chúng ta cần một quy định rõ ràng và dứt khoát rằng đồng CNY cũng chỉ là một ngoại tệ như mọi ngoại tệ khác và đồng tiền duy nhất được dùng làm phương tiện thanh toán là đồng tiền Việt Nam, trừ những hợp đồng hợp tác quốc tế trong đó các đối tác đã thỏa thuận trước về một đồng tiền thanh toán. Quản lý tiền tệ là một vấn đề phức tạp, các nước phát triển đã có kinh nghiệm và đã cùng rút ra những kết luận căn bản. Việt Nam cần học hỏi và áp dụng những kết luận của họ thay vì đòi phát minh lại môn tài chính quốc tế, nhất là với trình độ hiểu biết rất sơ sài và sự vô trách nhiệm của các quan chức tài chính.

Phải rất cảnh giác. Bãi bỏ thẳng thắn và toàn bộ mọi quan hệ đặc biệt với đồng CNY không chỉ cần thiết mà còn khẩn cấp. Nền kinh tế Trung Quốc và đồng CNY có thể khủng hoảng bất cứ lúc nào. Trung Quốc khó còn che đậy lâu hơn nữa tình trạng suy thoái và một căn bệnh bị cố tình che giấu có thể sẽ rất dữ dội khi không còn che giấu được nữa. Việt Nam có thể bị lôi kéo vào một khủng hoảng lớn cùng với Trung Quốc. Càng nguy hiểm hơn vì về mặt kinh tế "biên giới Việt - Trung" không chỉ là các tỉnh phía Bắc. Lào và Campuchia trên thực tế đã gần như là những vùng kinh tế của Trung Quốc. Đây cũng là một thành tích đáng ghi nhận của Đảng cộng sản Việt Nam và khiến chúng ta bị Trung Quốc bao vây.

Cùng với Thông tư 19 và sự phát giác muộn màng của Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN đã đến lúc Đảng cộng sản phải trả lời một loạt câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và ngày càng gây lo âu và phẫn nộ trong nhân dân Việt Nam.

- Việt Nam nợ Trung Quốc bao nhiêu và trong những điều kiện nào ?

- Các khu rừng đầu nguồn cho Trung Quốc thuê dài hạn có quy chế nào ?

- Dự án Bôxit Tây Nguyên sẽ bị đình chỉ hay không ?

- Vũng Áng là một đặc khu kinh tế hay là một nhượng địa ?

- Có hay không có một mật ước Thành Đô?

Cho tới nay Đảng cộng sản vẫn cố tình làm ngơ nhưng càng ngoan cố không chịu trả lời họ càng mặc nhiên nhìn nhận giả thuyết bất lợi nhất cho đất nước và cho chính họ.

Nguyễn Gia Kiểng

(30/09/2018)

Published in Quan điểm
jeudi, 30 août 2018 15:16

Chúng ta đang cần gì nhất ?

Bài học lớn nhất mà đáng lẽ chúng ta phải rút ra nhưng vẫn chưa rút ra từ giai đoạn lịch sử bi đát gần đây là phải bỏ hẳn tâm lý coi hành động, hiểu theo nghĩa hành động cụ thể, là tất cả. Lời nói là hành động và là hành động quan trọng nhất ngay cả trong đấu tranh cách mạng bạo động. Ngày nay, khi vấn đề đấu tranh bằng bạo lực không còn đặt ra nữa, lời nói gần như là vũ khi duy nhất.

loinoi1

Chúng ta đang ở trong giai đoạn xây dựng lực lượng dân chủ trong đó hành động chủ yếu là thuyết phục và kết hợp…

Những ai quan tâm theo dõi tình hình đất nước trong lúc này đều phải đồng ý trên một điểm. Đó là hầu như tất cả các tổ chức đối lập dân chủ trong nước, tổ chức chính trị cũng như tổ chức xã hội dân sự, đều bị tê liệt, thậm chí tan rã trên thực tế. Một giải thích thường gặp là không thể làm gì trong không khí đàn áp ngột ngạt này. Giải thích dễ dàng này có thể không đúng.

Không ai phủ nhận là Đảng cộng sản đang rất hung bạo. Bày tỏ lập trường và thái độ có thể khiến người ta bị xử 15 hay 20 năm tù. Các phụ nữ trẻ có con thơ có thể bị mười năm tù vì tố giác tham nhũng và cướp bóc trên mạng xã hội. Một lực lượng chiếm đóng nước ngoài cũng không thể dã man hơn. Tuy vậy đó không thể là lý do khiến đối lập dân chủ bị tê liệt. Tại sao ?

Trong bất cứ địa hạt nào hành động cũng chủ yếu là truyền thông, là bằng lời như Jürgen Habermas đã nhận định từ gần 40 năm nay và chưa hề bị một nhà nghiên cứu nào phản bác. Đặc biệt là trong chính trị thì hành động gần như đồng nghĩa với truyền thông. Điều này càng đúng trong lúc này cho đối lập dân chủ Việt Nam. Chúng ta đang ở trong giai đoạn xây dựng lực lượng dân chủ trong đó hành động chủ yếu là thuyết phục và kết hợp. Nếu hiểu như vậy thì chừng nào chúng ta vẫn còn phương tiện tương đối an toàn để trao đổi và phổ biến các ý kiến trên mạng xã hội thì khả năng hành động của chúng ta vẫn còn. Các tổ chức rã rượi vì mất sức thu hút hơn là vì bị đàn áp. Vấn đề của phong trào dân chủ như vậy là cần nâng cao phẩm chất của cuộc thảo luận chính trị để xây dựng lực lượng và có sức thuyết phục. Phải nói rằng cho đến nay dù đã có một vài tiến bộ cuộc thảo luận chính trị của chúng ta vẫn chưa đạt trình độ cần có. Có hàng chục ngàn dư luận viên được trả lương chỉ để phá đám và làm xuống cấp cuộc thảo luận về tương lai đất nước nhưng cũng có những nhốn nháo do chính những người tự nhận là dân chủ gây ra.

loinoi2

Vấn đề của phong trào dân chủ là cần nâng cao phẩm chất của cuộc thảo luận chính trị để xây dựng lực lượng và có sức thuyết phục.

Một đạo lý thảo luận

Điều mà chúng ta cần là một đạo lý thảo luận. Đạo lý đó như thế nào là một đề tài để chúng ta cùng góp ý. Theo tôi nó phải có những điểm sau đây :

1. Hoàn toàn cởi mở, không có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không thể có những đề tài cấm bàn đến.

2. Tuyệt đối bình đẳng. Không thể có vấn đề trọng lượng của người nói, một ý kiến đúng hay sai là tự nó đúng hay sai chứ không tùy thuộc người nói. Một tên lưu manh mà nói 2 cộng 2 là 4 cũng là đúng, một giáo hoàng mà nói những người đồng tính là những người bệnh hoạn cần được điều trị cũng vẫn sai.

3. Tuyệt đối lương thiện. Chỉ nói những điều mình thực sự nghĩ sau khi đã cố gắng học hỏi và tìm hiểu, trong thiện chí sẵn sàng thay đổi ý kiến, chứ không phải nói theo cảm tính, nói theo phe phái, hay nói hồ đồ. Thí dụ nếu có những người nói rằng tự do và dân chủ không cần thiết cho đất nước thì chúng ta không nên mất thì giờ thảo luận với họ. Họ là những dư luận viên, họ chỉ phá đám chứ không thảo luận, họ chỉ nói những điều đã được trả công để nói. Nếu có những người không biết gì về một đề tài đang thảo luận mà vẫn cứ khẳng định một cách chắc nịch thì họ cũng cần được cảnh giác một cách thẳng thắn, sự vô lễ đối với kiến thức là điều không thể chấp nhận trong một cuộc thảo luận. Thái độ thiếu lương thiện thường gặp là bóp méo các sự kiện để biện hộ cho một lập trường mà mình đã sẵn có từ trước.

4. Mục đích duy nhất của thảo luận là tìm đến cái đúng. Cái đúng có thể là một giải pháp đúng cho một vấn đề được đặt ra hay là một suy nghĩ đúng trên một chủ đề, một khái niệm hay một giá trị, cũng có thể chỉ giản dị là sự hiểu biết đầy đủ hơn hoặc chính xác hơn về một sự kiện. Phải nhận diện và cô lập những người chỉ coi truyền thông như một phương tiện để tự đánh bóng mình hay bôi nhọ người khác.

5. Ngôn ngữ và thái độ thảo luận phải tương kính. Chúng ta có thể phản bác nhưng không thể xúc phạm, dù là một cách thô lỗ hay xỏ xiên.

6. Phải hiểu triết lý của một cuộc thảo luận là để cải tiến, cải tiến sự hiểu biết hay cái nhìn của chúng ta trên một chủ đề nào đó. Như vậy không có vấn đề thắng bại mà chỉ có vấn đề ai được hưởng lợi nhiều hơn, nghĩa là cải tiến được nhiều hơn trong cuộc trao đổi. Người "thắng" thực sự trong cuộc thảo luận đúng nghĩa chính là người mà ngôn ngữ thông thường gọi là người "thua" vì tiếp thu được nhiều hơn.

Ôn lại một kinh nghiệm lịch sử

Chúng ta đang ở trong giai đoạn kỷ niệm Cách Mạng Tháng 8/1945, một khúc quanh lịch sử rất quan trọng và cũng rất đáng tiếc bởi vì nếu chọn một hướng đi khác – nghĩa là nếu Đảng cộng sản không nắm được thế chủ động và cướp được chính quyền - thì chúng ta đã không phải trải qua 30 năm nội chiến khốc liệt và 43 năm cộng sản để trở thành một nước nghèo khổ và tụt hậu bi đát như hiện nay. Chúng ta đã có thể là một trong mười hay mười lăm nước giầu mạnh nhất thế giới.

Những ai bỏ thì giờ để nghiên cứu giai đoạn này đều phải nhận thấy rằng nguyên nhân chính khiến chúng ta lao vào ngõ cụt của nội chiến và cộng sản thay vì bước lên đại lộ thênh thang của dân chủ và phồn vinh là vì chúng ta đã hoàn toàn không có tư tưởng chính trị. Tư tưởng chính trị đã vắng mặt vì đã không có thảo luận nghiêm túc trong suốt thời gian dài trước đó.

Giai đoạn Pháp thuộc, 83 năm hay 62 năm tùy cách nhìn, đã rất phức tạp ; chúng ta mất chủ quyền nhưng đồng thời cũng tiến lên rất nhanh chóng về mọi mặt như chưa bao giờ thấy. Trí thức Việt Nam đã không hiểu phải nghĩ gì giai đoạn này và đã không nghĩ gì cả. Những người chủ trương phải hợp tác với Pháp cũng như người chủ trương chống Pháp đều không giải thích được lập trường của mình. Họ chỉ hô hào và đả kích chứ không thảo luận và vì thế không vươn lên được về mặt tư tưởng.

Không hề có bóng dáng một dự án chính trị cho Việt Nam. Những người theo Pháp chỉ biết ca tụng nước Pháp và thỉnh thoảng đưa ra một vài thỉnh cầu khúm núm ; những người chống Pháp chỉ nhìn thấy một con đường bạo lực dù không có phương tiện của bạo lực, trừ Đảng cộng sản được sự trợ giúp của Đệ Tam Quốc Tế nhưng để tranh đấu cho Đệ Tam Quốc Tế hơn là cho Việt Nam. Cả hai khuynh hướng đều không thuyết phục và đa số nhân nhân Việt Nam, trí thức cũng như quần chúng, vẫn đứng ngoài cuộc.

Sự hy sinh dũng cảm ngày 17/6/1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng –sau cuộc khởi nghĩa tuyệt vọng bốn tháng trước đó- và cuộc bạo động đẫm máu Xô Viết Nghệ Tĩnh của Đảng cộng sản đã chỉ được tiếp nối bằng một thời kỳ nở rộ của thơ, nhạc và tiểu thuyết. Cho đến Cách Mạng Tháng 8/1945 đại đa số trí thức Việt Nam vẫn chỉ biết học để thi lấy bằng và làm quan. Kết quả là khi Thế Chiến II chấm dứt, Nhật đầu hàng và Đồng Minh chưa đến, Cách Mạng Tháng 8 đã diễn ra như nó đã diễn ra và dẫn chúng ta vào một thảm kịch đến nay vẫn chưa chấm dứt.

Tôi rất kính trọng Phan Bội Châu, ông vừa có tài hùng biện vừa có một nhân cách lớn, nhưng phải đau lòng mà nhận định rằng "tinh thần Phan Bội Châu" đã lôi kéo nhiều thế hệ sau ông vào tâm lý manh động, nghĩa là chỉ hành động theo cảm xúc và nhiệt huyết mà không cần có tư tưởng và dự án chính trị. Ở một mức độ nào đó có thể nói Phan Bội Châu đã là người cha tinh thần của cả Đảng Cộng Sản Việt Nam lẫn Việt Nam Quốc Dân Đảng và các đảng phái quốc gia khác ra đời trước Cách Mạng Tháng 8. Không may cho chúng ta Phan Chu Trinh đã mất quá sớm, không đầy một năm sau khi từ Pháp về, và không được tiếp nối.

Ra khỏi bế tắc và vươn lên

Bài học lớn nhất mà đáng lẽ chúng ta phải rút ra nhưng vẫn chưa rút ra từ giai đoạn lịch sử bi đát gần đây là phải bỏ hẳn tâm lý coi hành động, hiểu theo nghĩa hành động cụ thể, là tất cả. Lời nói là hành động và là hành động quan trọng nhất ngay cả trong đấu tranh cách mạng bạo động. Ngày nay, khi vấn đề đấu tranh bằng bạo lực không còn đặt ra nữa, lời nói gần như là vũ khi duy nhất. Để thuyết phục, tập hợp và động viên trên nền tảng một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị.

Nhưng làm thế nào để đạt tới đồng thuận trên một tư tưởng chính trị đúng đắn và một dự án chính trị khả thi nếu không có thảo luận nghiêm chỉnh ? Cuộc đấu tranh cho dân chủ cho tới nay không mạnh lên được vì chúng ta chưa biết thảo luận. Nó hiện đang bế tắc cũng vì thế chứ không phải vì bị đàn áp. Nhưng muốn biết thảo chúng ta cần một đạo lý thảo luận mà tôi vừa trình bày một vài đặc tính cần thiết để chờ đợi những ý kiến khác.

Thảo luận đúng đắn cũng sẽ giúp chúng ta giải đáp được vấn đề mà nhiều người cho là quan trọng nhất : lãnh đạo. Theo họ cuộc đấu tranh cho dân chủ bắt buộc phải có một hay một vài lãnh tụ nếu muốn thành công. Có thể đúng, nhưng giải pháp nào ? Chúng ta đã thấy một số người cố gắng, bằng những phương pháp khác nhau, để được nhìn nhận vai trò ngọn cờ này nhưng chưa ai thành công. Lý do là vì không ai có thể thành công. Con đường duy nhất để giải bài toán nan giải này cũng vẫn là thảo luận đứng đắn. Chính qua thảo luận thành thực và tương kính mà chúng ta hiểu nhau, gần nhau và tin nhau hơn. Chúng ta dần dần sẽ nhìn ra khả năng của từng người và những gì mà mỗi người có thể đảm nhiệm. Cùng với đồng thuận trên một tư tưởng chính trị, một dự án chính trị và một lộ trình đấu tranh thảo luận cũng sẽ giúp chúng ta tìm ra được một đội ngũ nòng cốt với những ý kiến chính xác về từng người. Vấn đề lãnh đạo tự nó sẽ được giải quyết.

Một lời sau cùng

Bế tắc hiện nay của cuộc vận động dân chủ nên được nhìn như là tự nhiên và hơn nữa cần thiết. Nó buộc chúng ta xét lại phương thức đấu tranh để đúng hẹn với lịch sử vì lịch sử sắp sang trang.

Chế độ này đang đàn áp hung bạo không phải vì nó tự tin mà vì nó tuyệt vọng. Nó không có gì để nói cả dù có hàng chục ngàn cán bộ tuyên giáo và dư luận viên. Khi một chính quyền không còn gì để nói thì sự sụp đổ là chắc chắn. Vả lại thời điểm cáo chung của các chế độ cộng sản còn lại, tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, đã đến. Mô hình "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã hụt hơi vá sắp tắt thở.

Đừng sợ chế độ này còn sống lâu mà nên sợ nó sụp đổ khi một giải pháp thay thế chưa chuẩn bị xong.

Nguyễn Gia Kiểng

(30/08/2018)

Published in Quan điểm

Thay vì bước vào kỷ nguyên độc lập và dân chủ và bây giờ có thể đã là một nước giầu mạnh, chúng ta đã chỉ bắt đầu cùng với Cách Mạng Tháng 8 một giai đoạn nội chiến rồi cộng sản với thực trạng bi đát hiện nay. Chúng ta đang là một quốc gia không đáng kể.

cmt81

Một câu hỏi lớn, rất lớn, cần được đặt ra là tại sao vào lúc đó, khi Thế Chiến II chấm dứt và một triển vọng độc lập và dân chủ mở ra cho Việt Nam, lực lượng được ủng hộ nhiều nhất lại là Đảng Cộng Sản ?

Một lần nữa chúng ta lại kỷ niệm Cách Mạng Tháng 8-1945. Một câu hỏi lớn, rất lớn, cần được đặt ra là tại sao vào lúc đó, khi Thế Chiến II chấm dứt và một triển vọng độc lập và dân chủ mở ra cho Việt Nam, lực lượng được ủng hộ nhiều nhất lại là Đảng Cộng Sản, một đảng theo một chủ nghĩa chuyên chính mà mục đích sau cùng là xóa bỏ các quốc gia, hơn nữa chủ nghĩa này đã bị nhận diện là sai và bị bác bỏ trên chính quê hương của nó từ 70 năm trước ?

Cố gắng trả lời câu hỏi này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn giai đoạn lịch sử kế tiếp và đồng thời cũng giúp chúng ta hiểu phải tranh đấu như thế nào để mở ra cho đất nước kỷ nguyên dân chủ.

Ba lý do của một quốc hận

Có ba nguyên nhân chính khiến Đảng Cộng Sản đã được quần chúng Việt Nam ủng hộ và đã cướp được chính quyền.

cmt82

Tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như một cải tiến của Khổng Giáo.

Lý do thứ nhất là lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của chúng ta quá yếu.

ự thực này hầu như bị mọi người cố tình phủ nhận vì trong bối cảnh nội chiến sau Cách Mạng Tháng 8 lòng yêu nước đã là một khẩu hiệu của mọi phe phái, không ai dám nhận rằng mình không yêu nước dù rất ít ai thực sự yêu nước. Tuy vậy nếu ta suy nghĩ bình tĩnh thì sự thiếu vắng của lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của người Việt Nam chỉ là đương nhiên. Yêu nước trước hết là yêu đồng bào mình và tinh thần quốc gia trước hết là nguyện ước xây dựng và chia sẻ một tương lai chung với đồng bào mình. Chúng ta không thấy, hay cùng lắm chỉ thấy được một cách rất mờ nhạt, tình yêu và nguyện ước đó khi nhìn vào lịch sử.

Trong suốt quá trình lập quốc của chúng ta, từ thời tiền sử cho đến thế kỷ 10 khi Ngô Quyền mở đầu kỷ nguyên tự chủ, chúng ta đã chỉ thấy những cuộc chiến giữa các phe phái môn phiệt để tranh giành quyền thống trị trên một khối dân chúng bị coi như những kẻ nô lệ. Không hề có dấu vết của tình dân tộc nghĩa đồng bào. Vào cuối thế kỷ thứ 3 Đào Hoàng là tướng Đông Ngô cai trị nước ta. Đào Hoàng đã đàn áp thẳng tay mọi ý đồ tự trị và thực hiện một chính sách Hán hóa quả quyết, buộc những thành phần bất khuất phải rút vào rừng núi và trở thành người Mường. Tuy vậy khi Đào Hoàng qua đời dân chúng đã khóc thương ông như khóc cha chỉ vì ông đã để cho họ sống yên.

Trong suốt dòng lịch sử, đối với tuyệt đại bộ phận quần chúng, các lãnh chúa địa phương hay các quan cai trị Trung Quốc đều chỉ là những kẻ thống trị trong khi họ vẫn chỉ là những người nô lệ. Các giai đoạn tự chủ chỉ thay thế một ách nô lệ ngoại bang bằng một ách nô lệ bản xứ. Những người nô lệ không có lý do để yêu nước.

Sự vắng mặt của tinh thần quốc gia dân tộc vẫn tiếp tục dưới hai triều đại Lý và Trần. Nhà Trần còn chủ trương lấy lẫn nhau trong họ để máu hoàng tộc không bị pha trộn với dân gian. Phải đến thế kỷ 15, trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi mới nhắc tới "dân" khi buộc tội quân Minh "nướng dân đen trên lửa hung tàn". Nhưng cũng chỉ có thế. Ngay cả sau thế kỷ 19 nhà Nguyễn cũng vẫn chỉ tự coi là một lực lượng thống trị. Các vua nhà Nguyễn dành những đặc quyền lớn cho tỉnh Thừa Thiên của mình và rất ít khi vào Nam hay ra Bắc.

Người ta có thể biện luận rằng mọi quốc gia đều bắt đầu từ một tham vọng thống trị của một nhóm nhỏ, tinh thần quốc gia và dân tộc chỉ hình thành chậm chạp sau đó với thời gian. Đúng, nhưng vấn đề là đối với chúng ta tinh thần này đã gần như không có trong gần suốt dòng lịch sử khá dài. Chúng ta không có tinh thần quốc gia và dân tộc bởi vì nền tảng ý thức hệ của chúng ta là Khổng Giáo, một ý thức hệ vừa rất sơ đẳng vừa vô tổ quốc. Các nho sĩ theo phương châm "nước nguy không đến, nước loạn không ở" (nguy bang bất nhập loạn bang bất cư). Họ chỉ mong ước được làm tôi tớ cho các vua chúa để sống sung túc và tiếp tay ức hiếp khối dân chúng nghèo khổ.

(Chính bản chất vô tổ quốc của Khổng Giáo đã khiến các nước nhỏ bé như Mông Cổ và Mãn Thanh có thể chinh phục và thống trị Trung Quốc trong một thời gian dài trước khi sụp đổ vì phân hóa nội bộ chứ không phải vì bị chống đối như những lực lượng ngoại xâm).

Một trong những chủ trương nền tảng của chủ nghĩa Marx là xóa bỏ các quốc gia, nhưng điều này nhiều người Việt Nam không biết, hoặc có biết cũng không khiến nó bị từ khước bởi vì lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của chúng ta gần như không có. Trái lại lời kêu gọi đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giầu nghèo của nó có sức thu hút đặc biệt, nhất là sau nạn đói đầu năm 1945 khiến gần hai triệu người chết.

Vả lại tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như một cải tiến của Khổng Giáo. Về bản chất hai chủ nghĩa này gần giống nhau. Cũng giáo điều chuyên chính, cũng kỳ thị giai cấp, cũng thù ghét thương mại, cũng vô tổ quốc. Điều khác biệt chỉ là chủ nghĩa cộng sản, ít nhất trên danh nghĩa, chủ trương bênh vực người nghèo trong khi Khổng Giáo công khai phục vụ giai cấp quyền quý.

cmt83

Chủ nghĩa Marx đã xuất hiện dưới mắt nhiều người như một tư tưởng chính trị mới, mạch lạc và thuyết phục

Lý do thứ hai là sự thiếu vắng tư tưởng, tư tưởng nói chung cũng như tư tưởng chính trị.

Chúng ta tự hào có lịch sử dài, bốn ngàn năm hay hai ngàn năm, nhưng chúng ta không có một nhà tư tưởng nào hay một tác phẩm tư tưởng nào. Nguyễn Trãi có được một câu nói đúng "chính trị cốt mưu tìm hòa bình, chiến tranh trước hết là để trừ bạo ngược", nhưng ông cũng chỉ dừng lại ở đó thôi.

Tư tưởng của chúng ta cho đến rất gần đây chỉ là Khổng Giáo du nhập từ Trung Quốc, nhưng Khổng Giáo không phải là một triết lý mà trái lại còn là một phản triết bởi vì nó chỉ lặp lại những xác quyết chứ không lý luận trong khi lý luận là nền tảng của triết. Mãi đến đầu thế kỷ 20 mới có Phan Châu Trinh, nhưng Phan Châu Trinh mới chỉ mở đầu cho tư tưởng chính trị và đã không được tiếp nối. Phạm Quỳnh là một học giả chân chính nhưng cũng mới chỉ là một học giả. Dầu vậy Phan Châu Chinh và Phạm Quỳnh đã là hai trí thức lỗi lạc bậc nhất của chúng ta trong thế kỷ 20.

Vào thời điểm của Cách Mạng Tháng 8 chúng ta không có một tư tưởng chính trị nào cả. Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ lặp lại qua loa khẩu hiệu Tam Dân của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Các đảng Đại Việt -ra đời từ cuối thập niên 1930- nói chung chỉ sao chép lại chủ nghĩa Nazi, một chủ nghĩa tồi tệ sắp gây ra Thế Chiến II và bị đào thải. Chủ nghĩa "dân tộc sinh tồn" của Đại Việt Quốc Dân Đảng, do đảng trưởng Trương Tử Anh viết trên hai trang giấy, chỉ tóm lược một cách rất thô sơ chủ nghĩa quốc gia cực đoan của Quốc Xã Đức. Đại Việt Dân Chính của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì theo lời ông Nguyễn Tường Bách, một đảng viên cốt cán, chỉ có một cương lĩnh luộm thuộm nửa Tam Dân nửa Phát Xít. "Chủ nghĩa Duy Dân" cũng hoàn toàn trống rỗng. Việc Lý Đông A được nhiều trí thức khoa bảng coi là một lý thuyết gia chỉ chứng tỏ chúng ta không có tư tưởng. Các đảng phái quốc gia không chịu đầu tư vào học tập tư tưởng chính trị chủ yếu vì không hiểu tư tưởng chính trị là gì để nhìn thấy sự cần thiết của nó.

Trong giai đoạn Pháp thuộc chúng ta đã có nhiều người học được nhiều kiến thức phương Tây ở mức độ cao, nhưng họ chủ yếu học để thi lấy bằng và làm quan chứ không quan tâm tới tư tưởng, càng không quan tâm tới tư tưởng chính trị. Về mặt tư tưởng chúng ta vẫn chưa có gì. Chính vì sự trống vắng tư tưởng đó mà vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8 đại đa số người Việt, kể cả trí thức, không biết một sự thực khổng lồ là chủ nghĩa Marx đã bị nhận diện là sai và bị loại bỏ ngay trên quê hương của nó từ 70 năm rồi, chính xác là từ đại hội Gotha của Đảng Xã Hội Dân Chủ Đức năm 1875. Nếu Hồ Chí Minh có kiến thức hơn một chút thì khi được biết tới chủ nghĩa cộng sản, gần 50 năm sau khi nó đã bị bác bỏ, ông đã không say sưa đến độ mê sảng và không làm nhiều người mê sảng theo ông và điên cuồng tàn sát những người mà họ nghi ngờ là không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

Bi đát hơn nữa là trong sự trống vắng tư tưởng đó, chủ nghĩa Marx đã xuất hiện dưới mắt nhiều người như một tư tưởng chính trị mới, mạch lạc và thuyết phục, nhất là khi nó lại quả quyết đứng về phía những người nghèo khổ và kêu gọi họ đứng dậy đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống. Và như đã nói nó còn có sức động viên mãnh liệt sau nạn đói Ất Dậu kinh khủng vừa xẩy ra vài tháng trước đó và vẫn chưa chấm dứt hẳn.

cmt84

Vào thời điểm tháng 8/1945, trong khoảng trống chính trị và quyền lực toàn diện khi Nhật đầu hàng, quân Đồng Minh chưa tới và chính quyền Trần Trọng Kim tan rã, Đảng Cộng Sản là lực lượng duy nhất.

Lý do thứ ba là quần chúng Việt Nam vào lúc đó cũng không có chọn lựa nào khác.

Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hoàn toàn tê liệt từ năm 1930 sau khi bị đàn áp dã man. Đảng viên cơ sở vẫn còn nhiều, kể cả ở nông thôn, chủ yếu là những người tham gia vì cảm phục sau sự hy sinh anh dũng ngày 17/6/1930 tại Yên Bái, nhưng đầu não thì đã bị tiêu diệt gần hết, số nhỏ thoát nạn thì phần lớn đã đào thoát qua Trung Quốc. Việt Nam Quốc Dân Đảng thực ra không có lãnh đạo sau năm 1930 để vận dụng cảm tình của dân chúng. Các đảng Đại Việt chỉ mới thành lập và cũng chỉ là những tổ chức lỏng lẻo không có dự án chính trị và chỉ giới hạn trong giới trí thức đô thị. Điểm chung của tất cả các đảng phái quốc gia là một sai lầm : tất cả đều tin rằng chỉ có con đường đấu tranh võ trang dù không có và cũng không thể có phương tiện. Như vậy tất cả đều rất yếu và đã mang sẵn thất bại ở trong lòng.

Nhiều người thường nhắc lại với sự tiếc nuối là vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8 chính phủ Trần Trọng Kim đã thiếu quả quyết. Nhưng chính phủ Trần Trọng Kim chưa bao giờ là một chính phủ. Nó chỉ có trên danh nghĩa và giấy tờ vài tháng trước đó, sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945. Các bộ trưởng chỉ được phong chức chứ chưa nhận chức. Họ ở rải rác trên ba miền Nam Trung Bắc và hình như chưa bao giờ họp lại. Khi họ họp lại, có lẽ là lần đầu, hai tuần lễ trước Cách Mạng Tháng 8, họ cãi lộn rồi tất cả từ chức. Chính quyền Trần Trọng Kim không nhượng bộ Đảng Cộng Sản vào ngày 19/8/1945 như nhiều người nghĩ, nó chưa bao giờ có thực và đàng nào cũng đã tan rã rồi.

Ông Trần Trọng Kim không phải là một chính trị gia. Ông chỉ là một nhà giáo và một nhà sử hoàn toàn không có kinh nghiệm lãnh đạo nào trên bất cứ địa hạt nào. Khi được vua Bảo Đại mời làm thủ tướng ông đã mời một số nhân sĩ có tiếng tăm làm bộ trưởng. Những người này không có một kiến thức và kinh nghiệm chính trị nào. Họ không phải là một đội ngũ và cũng không biết nhau để có thể đồng ý. Họ chỉ là những nhân sĩ cùng lắm có thể tham gia vào một guồng máy có sẵn, khi không có guồng máy họ bối rồi và bỏ cuộc. Đó là điều đã xảy ra. Sau này tại Paris tôi đã có nhiều dịp trao đổi với bác sĩ Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế trong chính phủ Trần Trọng Kim. Ông Hồ Tá Khanh là một người tốt nhưng ông nhìn nhận là không biết gì về cả kinh tế lẫn chính trị. Ông hoàn toàn đồng ý với những nhận xét của tôi về chính phủ Trần Trọng Kim.

Trong cuốn hồi ký Một cơn gió bụi ông Trần Trọng Kim đã nhìn nhận rằng vào lúc đó Đảng Cộng Sản gần như là lực lượng duy nhất và họ đã rất mạnh. Có thể lực lượng quân sự của họ chưa mạnh nhưng họ có tổ chức và hậu thuẫn, ngay cả trong hàng ngũ vệ binh của triều đình Huế. Các cấp lãnh đạo của họ cũng đã được huấn luyện tại Liên Xô và Trung Quốc. Họ đáng lẽ còn mạnh hơn nữa nếu không tổ chức cuộc "Nam Kỳ Khởi Nghĩa" dại dột và vụng về vào cuối năm 1940 để rồi thảm bại và phần lớn các cơ sở miền Nam bị tiêu diệt. Tuy vậy vào thời điểm tháng 8/1945, trong khoảng trống chính trị và quyền lực toàn diện khi Nhật đầu hàng, quân Đồng Minh chưa tới và chính quyền Trần Trọng Kim tan rã, Đảng Cộng Sản là lực lượng duy nhất. Thắng lợi của họ là đương nhiên. Chỉ tiếc một điều là họ đã là chính họ, nghĩa là Đảng Cộng Sản.

Ngày 19/8/1945 xứng đáng được coi là một ngày quốc hận lớn trong lịch sử Việt Nam. Ân hận, đáng tiếc và đáng buồn chứ không thù hận. Thay vì bước vào kỷ nguyên độc lập và dân chủ, và bây giờ có thể đã là một nước giầu mạnh, chúng ta đã chỉ bắt đầu cùng với Cách Mạng Tháng 8 một giai đoạn nội chiến rồi cộng sản với thực trạng bi đát hiện nay. Chúng ta đang là một quốc gia không đáng kể. Nghèo khổ, tụt hậu và ô nhiễm, không một công ty, một phát minh khoa học kỹ thuật hay một sáng tác văn học nghệ thuật, hay ngay cả một thành tích thể thao nào được thế giới biết đến. Đã thế còn mất biến, mất đất, mất đảo, mất cả một phần chủ quyền. Người Việt Nam vẫn còn bị từ chối những quyền làm người căn bản nhất, vẫn còn bị thống trị bởi một đảng coi mình cao hơn đất nước, thẳng tay vơ vét và đàn áp không khác một lực lượng chiếm đóng. Trên thực tế chúng ta đang ở trong một tình trạng nội chiến. Tất cả đã bắt đầu ngày 19/8/1945.

Những bài học vẫn còn rất thời sự

Như chúng ta cùng vừa nhìn lại, ba lý do đã khiến Cách Mạng Tháng 8 diễn ra như nó đã diễn ra là vào thời điểm đó lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của chúng ta quá yếu, tư tưởng chính trị của chúng ta thiếu vắng và nhân dân Việt Nam không có chọn lựa nào khác ngoài Đảng Cộng Sản. Chúng ta có thể rút ra những bài học nào cho tương lai ?

Trước hết chúng ta cần thực thà nhìn nhận rằng lòng yêu nước và tinh thần quôc gia, hay tinh thần trách nhiệm với đất nước, là điều chúng ta phải tạo ra, củng cố và tăng cường chứ chưa phải là điều đã sẵn có để có thể sử dụng và lạm dụng. Một dân tộc sau một cuộc nội chiến, dù chỉ một vài năm, chỉ có hai chọn lựa. Một là hòa giải dân tộc để đất nước tiếp tục, hai là không hòa giải và chấp nhận tan vỡ. Như thế chúng ta phải đồng ý với nhau rằng cuộc đấu tranh cho dân chủ hiện nay và mọi chính sách của chính quyền dân chủ sau này phải đặt nền tảng trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc một cách thành thực, quả quyết và trọn vẹn.

Tư tưởng chính trị thiếu vắng vào giai đoạn Cách Mạng Tháng 8 đã khiến chúng ta trôi dạt vào thảm kịch bởi vì một quốc gia không có tư tưởng chính trị không khác một con tầu đi biển không có la bàn, không đụng vào đá ngầm này thì cũng đâm vào một băng đảo khác. Tai họa là chắc chắn. Chúng ta cần chấm dứt tức khắc và dứt khoát thái độ vô lễ với kiến thức để đầu tư một cách nghiêm túc vào tư tưởng và kiến thức chính trị. Mọi hợp tác phải được quyết định trước hết theo tiêu chuẩn này. Phải dứt khoát tẩy chay sự nông cạn và hời hợt, nhất là khi nó đi đôi với sự tự mãn.

Và tại sao không có một lực lượng chính trị đáng kể nào trước mặt Đảng Cộng Sản vào thời điểm 1945 ? Đó là vì một tổ chức đấu tranh chính trị đúng nghĩa chỉ có thể là thành quả của một cố gắng xây dựng bền bỉ trong nhiều năm, bắt đầu bằng một đội ngũ nòng cốt, đặt nền tảng trên một tư tưởng chính trị lành mạnh và một dự án chính trị vừa nghiêm túc vừa khả thi.

Chúng ta cần khẩn cấp rút ra những bài học vẫn còn rất thời sự này.

Nguyễn Gia Kiểng

(19/08/2018)

Published in Quan điểm

Món quà quý của Lê Mạnh Hùng :

Việt Nam đã hình thành như thế nào ?

 

Sử gia Lê Mạnh Hùng vừa quyết định tặng đồng bào của ông một món quà quý. Ông cho phép chúng tôi phổ biến trên mạng quyển đầu tiên –cũng là quyển độc đáo nhất- của bộ sử Việt Nam mới mà ông hoàn tất cách đây ba năm sau gần 40 năm sưu tập và tổng hợp.

suviet1

Sử gia Lê Mạnh Hùng vừa quyết định tặng đồng bào món quà quý.

Bộ sử này mang tên là "Nhìn Lại Sử Việt" và quả nhiên nó đúng là một cái nhìn mới và một cách viết sử mới đối với người Việt Nam, thành quả của một công trình tìm kiếm tài liệu công phu và một khả năng tổng hợp và lý luận hiếm thấy của một sử gia chân chính và hoàn toàn độc lập.

Bộ sử này, tổng cộng khoảng 2.500 trang, gồm năm quyển :

1. Từ tiền sử đến tự chủ (khi Ngô Quyền mở ra kỷ nguyên độc lập) ;

2. Từ Ngô Quyền đến thuộc Minh (939 – 1407) ;

3. Từ thuộc Minh đến thống nhất (1407 – 1802) ;

4. Từ Gia Long đến Cách Mạng Tháng 8-1945 (1802 – 1945) ;

5. Thời cận hiện đại (1945 – 1975).

Có thể nói một cách không mấy quá đáng rằng Lê Mạnh Hùng đã dành phần chính của đời mình cho công trình này, một bộ sử Việt Nam hơn hẳn các bộ sử mà tôi đã đọc.

Nhưng cuộc đời Lê Mạnh Hùng đã như thế nào ?

Sinh năm 1942, ông mơ ước được vào trường sĩ quan hải quân sau khi tốt nghiệp trung học nhưng số phận đã quyết định khác. Lê Mạnh Hùng trúng tuyển kỳ thi học bổng và được đi du học Mỹ, tốt nghiệp Bachelor rồi Master tại MIT (Massachussetts Institute of Technology), một trong những trường đại học danh tiếng nhất tại Mỹ, không chỉ về kỹ thuật mà còn cả về kinh tế. Về nước, ông đã làm chuyên viên tại bộ kinh tế và tại nhiều ngân hàng, làm giám đốc trường kỹ sư công nghiệp Phú Thọ và sau cùng tại bộ kế hoạch với chức vụ tổng giám đốc vào ngày 30 tháng 4-1975.

Lê Mạnh Hùng là một trong những người trẻ có nhiều điều kiện lý tưởng nhất để thành công vào giai đoạn đó : tài giỏi, trung thực, nhiệt tình và được mọi người quý trọng. Hơn thế nữa còn có diễm phúc được một người vợ trẻ đẹp, tài ba và danh giá : Phan Lâm Hương, con gái bác sĩ Phan Huy Quát, một chính trị gia đầy uy tín, từng nhiều lần làm bộ trưởng trong các chính quyền quốc gia, từng là thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa. Ông Phan Huy Quát đáng lẽ đã là người lãnh đạo chính quyền quốc gia sau hiệp định Genève nếu ông Ngô Đình Nhu không bất ngờ vận động thành công với Pháp để đưa ông Ngô Dình Diệm lên cầm quyền. Và sự thực là Lê Mạnh Hùng đã rất thành công, thăng tiến rất nhanh trong khi bạn bè còn muốn ông tiến nhanh hơn nữa. Nhưng lần này số phận cũng đã quyết định khác, và một cách bi thảm. Ngày 30-4-1975 đã ập tới. Lê Mạnh Hùng thuộc thành phần tinh hoa đúng nghĩa của miền Nam vào thời điểm đó, lớn lên trong không khí vừa khá cởi mở vừa đầy biến động, có ý thức quốc gia mạnh, lương thiện và đầy thiện chí, lại được đào tạo trong những điếu kiện lý tưởng. Những con người này, ở lứa tuổi trung bình ba mươi lúc đó, đã có thể mở ra cho Việt Nam một kỷ nguyên rất sán lạn, nhưng họ đã trưởng thành quá trễ, chưa giành được vai trò chủ động thì lịch sử đã sang trang.

Lê Mạnh Hùng bị đi tù 7 năm sau chiến thắng cộng sản. Trong cái sui của đất nước và của thế hệ ông lần này Lê Mạnh Hùng là một trong những người sui nhất. Có lẽ trong những ngày hẩm hiu trong tù mà ông đã tự hỏi tại sao Việt Nam lại phải chịu đựng nhiều nghịch lý như thế và quyết định dành phần còn lại của đời mình để nghiên cứu lịch sử, để hiểu và giúp đồng bào cùng hiểu đất nước mình. Trong tù ông đã học chữ Hán để có thể tham khảo các tài liệu Trung Quốc, điều mà ông đã làm trong tám năm sống tại Việt Nam sau khi ra khỏi nhà tù với sự tiếp tay của ông chú vợ Phan Huy Lê, cũng là một sử gia. Ra nước ngoài năm 1990, với phản xạ "phải biết làm thì hãy làm" của một chuyên gia Lê Mạnh Hùng đi học về sử và đậu tiến sĩ sử học tại London trước khi tổng hợp các tài liệu và ghi chép của chính mình thành bộ sử. Nhìn Lại Sử Việt đã hoàn tất năm 2015.

Lê Mạnh Hùng cũng vừa viết xong một cuốn sử thế giới với tựa đề "Văn minh, con đường tới xã hội hiện đại" mà ông cũng có nhã ý cho phép phổ biến trên mạng và tôi hy vọng có thể viết bài giới thiệu trong một tương lai gần.

Trở lại với quyển 1 của bộ Nhìn Lại Sử Việt

Theo tôi đây là cuốn nhiều phát giác mới và quan trọng nhất trong bộ sử rất công phu này. Nó đảo lộn nhiều điều tưởng như đã chắc chắn và cho chúng ta biết nước ta đã hình thành như thế nào, từ lúc nào và trong bao lâu.

Chúng ta tự hào là có một lịch sử dài và một truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang nhưng nếu được hỏi một cách nghiêm chỉnh đất nước Việt Nam đã hình thành như thế nào thì đa số, kể cả trí thức, sẽ trả lời rằng tổ tiên ta từ phương Bắc cùng nhau theo vua Hùng xuống miền Nam dựng nước từ một thời rất xa xưa, ba hoặc bốn ngàn năm rồi. Hiến pháp hiện nay của chế độ cộng sản bắt đầu bằng câu : "Trải qua mấy ngàn năm lịch sử…". Nhưng "mấy ngàn năm" là mấy ngàn năm ? Hiến pháp 1992 của chế độ nói rõ hơn (và lố bịch hơn) : "Trải hơn bốn ngàn năm lịch sử…". Một câu nói của ông Hồ Chí Minh được chế độ ca tụng như một danh ngôn là "các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước". Đảng Cộng Sản và ông Hồ Chí Minh đã chỉ lập lại những huyền thoại ở cửa miệng dân gian. Hầu hết mọi dân tộc đều có những huyền thoại tương tự, có điều họ không coi đó là lịch sử. Họ rất thận trọng ngay cả khi có những sử liệu chắc chắn. Thí dụ như nước Pháp còn những bằng chứng rất đồ sộ và thẩm mỹ về sinh hoạt có tổ chức của những cộng đồng người tiền sử từ hơn 30.000 năm trước nhưng họ không tự hào là có "hơn ba mươi nghìn năm lịch sử". Phải nhìn nhận rằng chúng ta đã chỉ huênh hoang chứ không cố gắng tìm hiểu một cách chính xác quá trình hình thành của đất nước mình như những dân tộc lớn. Có lẽ vì vậy mà chúng ta chưa là một dân tộc lớn.

Cố gắng đó một số sử gia đã làm nhưng Lê Mạnh Hùng, với quyển 1 của bộ Nhìn Lại Sử Việt này, đã làm một cách chu đáo và thành công nhất, có lẽ vì ông có những điều kiện phù hợp nhất. Ông giúp cho mọi người Việt Nam đọc kỹ cuốn sách này hiểu đất nước mình đã hình thành như thế nào và do đó chính mình là ai bởi vì dù muốn hay không mỗi con người đều ít nhiều là sản phẩm của một quá khứ nào đó.

Lê Mạnh Hùng đã kiểm điểm các bằng chứng khảo cổ, ngôn ngữ, sử liệu và truyện tích dân gian mà chúng ta có thể có để tìm hiểu thời kỳ lập quốc. Ông cũng cống hiến những lập luận xác đáng và chuyên nghiệp dựa trên những phương tiện đó. Ông giúp người đọc nhận ra một cách khá chắc chắn là từ thế kỷ 5 trước Công Nguyên (trước Công nguyên) trên nửa phần đất phía Bắc của nước ta đã có những nhóm người phần lớn thuộc giống Nam Á (Austroasiatic), một phần nhỏ thuộc giống Nam Đảo, chung sống với nhau từ một thời rất xa xưa, không biết từ bao giờ nhưng đã hòa nhập với nhau. Họ ở một mức độ tiến hóa tương đương với các nhóm người khác trong vùng Đông Nam Á, kể cả nửa phía Nam của nước ta, cũng thuộc hai chủng tộc Nam Á và Nam Đảo. Đó chính là tổ tiên chúng ta. Nền văn minh này thể hiện qua các trống đồng và nhiều dụng cụ bằng đồng khác được tìm thấy khắp nơi, đặc biệt là ở Đông Sơn (Thanh Hóa).

Vào đầu thế kỷ 2 trước Công nguyên các bộ lạc này thực sự được tiếp xúc với một nền văn minh vượt trội hơn hẳn, nền văn minh Trung Hoa, với cuộc chinh phục của Triệu Đà. Trước đó số người phiêu lưu từ Trung Quốc xuống phía Nam rất hiếm hoi. Các vua Hùng và Thục Phán (An Dương Vương) có mọi triển vọng thuộc số những con người ít ỏi này. Họ trở thành những thủ lãnh nhưng đồng thời cũng lập tức bị đồng hóa. Trong hai thế kỷ kế tiếp, dưới sự thần phục nhà Triệu rồi nhà Tây Hán các tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa tăng lên nhưng về bản chất vẫn là trao đổi chứ không áp đặt. Các bộ lạc Lạc (tên gọi của nước ta và dân ta thời tiền sử) quy thuận Bắc triều nhưng vẫn tự trị và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách tự nguyện theo nhịp độ của mình, những người Hán rất ít ỏi xuống miền Nam, kể cả những đại diện cho quyền lực Bắc triều, nhanh chóng trở thành người địa phương sau khi đã đóng góp khai hóa dân Lạc. Tình hình chỉ thay đổi vào đầu Công Nguyên khi nhà Đông Hán áp đặt sự thống trị trực tiếp và mô hình xã hội Trung Quốc. Chính sách Hán hóa dứt khoát này đã làm nổ ra một cuộc nổi dậy lớn của giai cấp quyền thế địa phương còn mang nặng truyền thống Lạc do hai Hai Bà Trưng lãnh đạo. Cuộc nổi dậy này đã đuổi được quân Hán và khiến Hai Bà Trưng cầm quyền trong ba năm trước khi bị quân Hán của Mã Viện đánh bại năm 43. Nó không chỉ giới hạn tại miền Bắc nước ta mà là một phần của một cuộc tổng nổi dậy của nhiều sắc tộc ở phía Nam Trung Quốc bao gồm cả hai tỉnh Quang Đông và Quảng Tây hiện nay. Sau cuộc đàn áp của Mã Viện xã hội Lạc kể như hoàn toàn bị khuất phục và tiến trình Hán hóa liên tục về mặt chính trị và văn hóa bắt đầu. Mãi hai thế kỷ sau mới có một cuộc nổi dậy nhỏ ít nhiều mang mầu sắc Lạc và nhanh chóng bị dập tắt của anh em Triệu Quốc Đạt, Triệu Thị Trinh. Từ đó việc khôi phục lại xã hội Lạc không đặt ra nữa và một nước Việt mới dần dần hình thành theo dòng thời gian cho đến khi đã đủ sức mạnh để trút bỏ sự lệ thuộc Trung Quốc. Đó là năm 939 khi Ngô Quyền đánh thắng quan Nam Hán và xưng vương.

Lê Mạnh Hùng kể lại giai đoạn lập quốc này đầy đủ và rõ hơn mọi cuốn sử từ trước đến nay, với phần về thời kỳ tiền sử đặc biệt xuất sắc. Ông cho chúng ta nhìn rõ hơn vai trò quan trọng của những quan cai trị đã dẫn dắt dân ta từ nếp sống thô sơ vào nền văn minh Trung Hoa, những Nhâm Diên, Tích Quang v.v., nhất là Sĩ Nhiếp, người được một số sử gia đầu tiên của Việt Nam gọi là vua. Ông cũng giúp chúng ta khám phá ra những nhân vật lịch sử từ trước tới nay ít được nói đến, thậm chí không được nhắc đến, như Đào Hoàng, Lương Thạc, Đỗ Tuệ Độ, Lý Trường Nhân, Lý Tự Tiên, Đinh Kiên, Vô Ngôn Thông, Tăng Cổn v.v. Những nhân vật lịch sử này, mỗi người với cương vị và chủ đích khác nhau đã góp phần quyết định vào tiến trình lập quốc của chúng ta không kém những Hùng Vương, Thục Phán, Lý Nam Đế, Lý Phật Tử, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng. Ông cũng đã cập nhật nhiều tài liệu quan trọng kèm theo những nhận định giúp chúng ta nhìn rõ hơn lịch sử. Một thí dụ : Nhà Ngô thời Tam Quốc chưa bao giờ là một triều đại của toàn thể Trung Quốc và cũng chỉ cai trị nước ta khoảng 70 năm vào thế kỷ thứ 3 nhưng tại sao người Việt Nam lại có thói quen gọi Trung Quốc là nước Ngô ("giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng") ? Vì sao Nguyễn Trãi đặt tựa cho bản tuyên ngôn độc lập sau khi đuổi được quân Minh là "Bình Ngô đại cáo" ? Đọc cuốn sách này người ta có thể hiểu tầm quan trọng của nhà Ngô. Những hành động thô bạo –tàn sát toàn bộ những người Hoa mới tới- của Lương Thạc (năm 332) và Lý Trường Nhân (468) cũng đóng góp giúp chúng ta ý thức rằng những người gốc Hoa luôn luôn chỉ là một thiểu số ngay trong giai cấp quyền lực trong một giai đoạn lập quốc kéo dài gần một ngàn năm và nhanh chóng trở thành người Việt dù đã đóng một vai trò quyết định.

*****************

Phải nhìn nhận đóng góp rất lớn của Lê Mạnh Hùng về sử liệu và lý luận trong việc soi sáng giai đoạn lập quốc, nhưng cũng phải hiểu rằng có những ý kiến ông chỉ đưa ra để thảo luận.

Thí dụ như, có lẽ do tinh thần dân tộc mạnh, Lê Mạnh Hùng tạo cảm giác là ông nắm lấy mọi sự kiện có thể vận dụng được để khẳng định tinh thần bất khuất và ý chí dựng nước của dân tộc Việt Nam trong khi chính những sự kiện ấy cũng có thể khiến người ta nghĩ rằng điều mà chúng ta thường gọi là lịch sử dựng nước thực ra chỉ là sự hình thành chậm chạp của một quyền lực thống trị địa phương trong tay một thiểu số rất nhỏ gồm những người từ phương Bắc tới và những người địa phương đã hấp thụ văn hóa Hán. Thành phần quyền thế này, mà Lê Mạnh Hùng và nhiều sử gia khác gọi là "môn phiệt" tuy đại đa số gốc Lạc nhưng không tỏ ra gắn bó với quần chúng Lạc. Họ đấu tranh chủ yếu để đòi hỏi cho chính họ một mức độ tự trị lớn hơn đối với một Bắc triều xa xôi không giúp gì cho họ mà chỉ đòi phục tùng và triều cống. Các cuộc nổi dậy của Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Diên Nghệ đều nằm trong logic này.

Chỉ có một ngoại lệ kỳ lạ mà có lẽ Lê Mạnh Hùng là sử gia đầu tiên nhìn thấy tầm quan trọng là cuộc nổi dậy của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến. Lý Tự Tiên bị giết nhưng Đinh Kiến tiếp tục chiến đấu, rồi chiếm được kinh thành và cầm quyền vài năm trước khi bị tiêu diệt. Không hề thấy Đinh Kiến xưng một tước hiệu hay chức vụ nào cả. Ông được sử Trung Quốc nói là thuộc thành phần dân gian. Có mọi triển vọng đây là cuộc nổi dậy xuất phát từ quần chúng. Đinh Kiến đã không nhận được một sự hưởng ứng nào từ lớp môn phiệt. Ý thức dân tộc -hiểu theo nghĩa một tình cảm liên đới giữa những con người cảm thấy cùng là thành viên của một cộng đồng- hầu như không có trong giai đoạn lập quốc này. Tình trạng này không thay đổi bao nhiêu cho đến khi Ngô Quyền thiết lập nền tự chủ lâu dài và cũng không thay đổi bao nhiêu trong năm thế kỷ kế tiếp.

Một đặc tính cũng cần được lưu ý là sự thiếu vắng của tư tưởng chính trị trong suốt quá trình hình thành của đất nước Việt Nam. Không hề có dấu vết tư tưởng nào cả. Như vậy đất nước Việt Nam đã hình thành với hai đặc tính, một là sự vắng mặt của tư tưởng chính trị ngay cả ở mức độ sơ sài, hai là sự tách biệt giữa thành phần môn phiệt –thành phần khá giả và quyền thế- với quần chúng. Chúng ta không có tư tưởng và chỉ có ít tình đồng bào. Đó là tật nguyền bẩm sinh -ngay trong gen- của đất nước ta và có thể đóng góp giải thích nhiều nghịch lý lịch sử sau này. Thí dụ như sau Thế Chiến II một kỷ nguyên độc lập và dân chủ mở ra nhưng lực lượng được nhân dân ủng hộ nhất lúc đó lại là Đảng Cộng Sản, một đảng theo đuổi một chủ nghĩa mà mục đích sau cùng là xóa bỏ quốc gia. Kết quả là Cách Mạng Tháng 8, nội chiến 30 năm và thảm kịch cộng sản vẫn còn đang tiếp tục. Đó là vì một dân tộc không có tư tưởng chính trị cũng không khác một con tầu không la bàn, không đụng phải đá ngầm này thì cũng đâm vào băng đảo khác, tai nạn là không tránh khỏi. Sự thực này cho đến nay vẫn chưa được ý thức rõ rệt.

Đất nước Việt Nam không phải chỉ là miền Bắc và quá trình lập quốc của chúng ta cũng không phải chỉ diễn ra tại miền Bắc. Điều mà bộ Nhìn Lại Sử Việt, và đặc biệt là quyển 1 này, nhắc nhở là tổ tiên chúng ta trong tuyệt đại đa số không đến từ phương Bắc mà là những người thuộc chủng tộc Nam Á có pha trộn một phần Nam Đảo đã sinh sống trên đất nước này, miền Nam cũng như miền Bắc, từ một thời tiền sử rất xa xưa. Gần như cùng một lúc họ đã tiếp nhận hai nền văn minh, văn hóa Hán tại miền Bắc và văn hóa Ấn Độ tại miền Nam. Cuối cùng thì nền văn hóa gần gũi hơn về địa lý và giao thông, nghĩa là văn hóa Trung Hoa, đã giành được ưu thế. Nhưng điều căn bản phải ghi nhớ là dân tộc Việt Nam trong tuyệt đại đa số chỉ là một, dù có lúc phân chia thành Giao Châu, Lâm Ấp và Phù Nam hay Đại Việt, Chiêm Thành và Chân Lạp. Sự thống nhất đã dễ dàng và tự nhiên bởi vì dân tộc ta trong tuyệt đại đa số có cùng một nguồn gốc.

Nhìn Lại Sử Việt là một bộ sử mà mọi người Việt Nam quan tâm tới đất nước rất nên dành thì giờ để đọc. Riêng Quyển 1, Từ tiền sử đến tự chủ, thì bắt buộc phải đọc, nhất là từ nay mọi người đều có thể đọc trên mạng và tải về. Đọc để hiểu cái lịch sử đã tạo ra chúng ta, để biết chúng ta là ai và phải khắc phục những gì nếu muốn vươn tới một tương lai khác.

Nguyễn Gia Kiểng

(08/08/2018)

*******************

Đặt và mua sách

1. Đặt mua sách :

Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ và Cành Nam Publishers

2607 Military Road

Arlington, VA 22207, USA

Điện thoại và Fax : (703) 525-4538

Email : Cette adresse e-mail est protégée contre les robots spammeurs. Vous devez activer le JavaScript pour la visualiser.

2. Thể thức mua :

Ngân phiếu xin đề (libellé) : "TO HOP CANH NAM"

và gởi về địa chỉ như trên

Trong Hoa Kỳ, xin gởi cước phí hạng Book-Rate

Càng mua nhiều càng đỡ cước phí

Mua trên 100 USD khỏi trả cước phí

Để tiện việc liên lạc, xin dùng Email hay gọi điện thoại.

Đa tạ.

Published in Quan điểm

Các chính quyền dân túy chỉ có thể thất bại vì lý do hiển nhiên là không thể có những giải pháp đơn giản cho những vấn đề phức tạp... 

Chủ nghĩa dân túy đang là một vết thương lớn của thế giới. Rất đáng lo ngại, bởi vì đặc tính chung của các lực lượng dân túy là chúng bất chấp các giá trị đạo đức, bất chấp nhân quyền và bất chấp thế giới, những lý do dẫn đến xung đột, bế tắc và chiến tranh.

Đặc tính chung của các lực lượng dân túy là chúng bất chấp các giá trị đạo đức, bất chấp nhân quyền và bất chấp thế giới

Chỉ trong vòng một năm rưỡi Donald Trump đã làm được một thành tích mà phong trào cộng sản không làm nổi trong hơn 70 năm tồn tại của nó: khiến nước Mỹ bị cô lập và thù ghét, thậm chí bị khinh bỉ, như chưa bao giờ thấy.

Tai họa Donald Trump

Sau quyết định nhìn nhận Jerusalem là thủ đô của Do Thái, một quyết định chứng tỏ một sự thiếu hiểu biết lớn cả về lịch sử thế giới lẫn bối cảnh chính trị Trung Đông và bị cả thế giới lên án, Trump đã lấy một quyết định khiêu khích khác là chọn ngày 14/05/2018 để chính thức và long trọng dời sứ quán Mỹ về Jerusalem.

Người Mỹ sẽ được nhìn như là một dân tộc đã từng bầu một tổng thống như Donald Trump.

Hôm đó chính là ngày kỷ niệm 70 năm tuyên bố thành lập của nước Do Thái với cuộc thảm sát Nakba diễn ra ngay hôm sau, 15/05/1948, trong đó 15.000 người Palestine bị quân Do Thái tàn sát, 500 làng bị hủy diệt và 780.000 người phải tỵ nạn cho đến nay vẫn chưa về được quê hương. Không thể xấc xược và khiêu khích hơn. Người Palestine dĩ nhiên biểu tình phản đối và chính quyền Do Thái đã thẳng tay đàn áp vì Trump đã bật đèn xanh cho họ. Kết quả : trên 60 người đã bị bắn chết và trên 2.400 người bị thương.

Liên Hiệp Quốc và hầu hết mọi quốc gia đã lên án, kể cả các đồng minh Châu Âu của Mỹ, kể cả hai đồng minh cốt lõi của Mỹ tại Trung Đông là Ả Rập Saudi và Ai Cập. Riêng tại hai nước Iran và Thổ Nhĩ Kỳ hàng triệu người đã xuống đường gào thét những khẩu hiệu chống Mỹ với sự đồng tình của chính quyền. Thổ (800.000 km2 và 83 triệu dân) là một trong những nước có vị trí chiến lược nhất và từ một thế kỷ nay là đồng minh nhiệt tình nhất của Mỹ, nhiệt tình đến độ cho Mỹ đặt hỏa tiễn nguyên tử ngay trên lãnh thổ của mình dù nằm sát Liên Xô.

Hành động này đã đến một tuần sau khi Trump tuyên bố rút khỏi thỏa ước Iran về nguyên tử, dĩ nhiên một cách hung hăng và thô lỗ như thường lệ. Đây là một thỏa ước mà Châu Âu, Mỹ, Nga và Trung Quốc cùng ký với Iran năm 2015, theo đó Iran ngừng nghiên cứu sản xuất vũ khí nguyên tử đổi lại với việc các cường quốc chấm dứt các biện pháp phong tỏa kinh tế. Thỏa ước này được Liên Hiệp Quốc bảo trợ và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA - International Atomic Energy Agency) được trao trách nhiệm giám sát việc thi hành.

Donald Trump đã sử dụng lập luận của thủ tướng Do Thái Netanyahu theo đó Iran gian trá, vẫn tiếp tục nghiên cứu làm bom nguyên tử. Nhưng Netanyahu đã chỉ đưa ra những tài liệu cũ, trước năm 2013. Đúng là trước đây Iran có cố gắng làm bom nguyên tử nhưng từ 2015, sau khi đã ký thỏa ước, thì không có gì chứng tỏ là họ đã gian trá. Cơ quan IAEA, trong đó Mỹ là một nước thành viên, đã theo dõi rất sát Iran và luôn luôn xác nhận là Iran không còn tiếp tục chương trình chế tạo bom nguyên tử nữa. Hiện nay, vẫn theo IAEA, mức độ tinh luyện Uranium của Iran chưa tới 3,67% trong khi phải hơn 90% mới có thể làm bom.

Iran còn ở rất xa mức độ đáng lo ngại, Trump đã chỉ làm điều mà các phần tử cực đoan Do Thái muốn, bất chấp sự thực và bất chấp cả thế giới, trong mục tiêu làm suy yếu Iran mà họ coi là đối thủ đáng ngại nhất trong vùng. Đây là một quyết định thiển cận, nguy hiểm cho hòa bình và cho chính Do Thái. Trump đã bật đèn xanh cho Do Thái mặc sức khiêu khích và tấn công các nước Hồi giáo. Nhưng Do Thái, với 8 triệu dân, có thể mãi mãi thách thức khối 400 triệu người Hồi giáo Trung Đông không ?

Như cảm thấy vẫn chưa đủ, Donald Trump rút khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc sau khi hội đồng này lên án hành động tàn sát người biểu tình Palestine của Do Thái. Quyết định gần đây nhất của Trump là tuyên chiến thương mại không chỉ với Trung Quốc mà cả với các đồng minh Nhật và Châu Âu. Các cuộc chiến tranh thương mại không bao giờ có kẻ thắng, tất cả đều thua. Vấn đề chỉ là ai thua nhiều hơn thôi và đối với Châu Âu kẻ thiệt hại nhiều hơn có thể là Mỹ, ngay cả nếu không kể sự mất mát lớn về tình cảm. Sự vô học đã khiến Donald Trump không hiểu rằng nước Mỹ đã giầu mạnh như ngày nay là vì đã nhận và còn tiếp tục nhận rất nhiều của Châu Âu, đặc biệt là về nhân tài, văn hóa, tư tưởng và khoa học, kỹ thuật.

Trước đó Donald Trump đã rút khỏi thỏa ước COP21 về khí hậu mà cả thế giới đã đồng thuận, đã đòi cấm dân của năm nước Hồi giáo đặt chân lên nước Mỹ, đòi bắt Mexico trả tiền để xây tường ngăn chặn người Mexico vào nước Mỹ. Tất cả những quyết định này được công bố với thái độ xấc xược và lời lẽ thô lỗ. Có triển vọng là Trump sẽ chỉ là một ngoặc đơn bốn năm trong lịch sử nước Mỹ nhưng những đổ vỡ mà ông gây ra sẽ không bao giờ lành hẳn. Những cam kết của Hoa Kỳ sẽ không còn đáng tin. Hình ảnh của Hoa Kỳ cũng không còn như trước, người Mỹ sẽ được nhìn như là một dân tộc đã từng bầu một tổng thống như Donald Trump.

Chủ nghĩa dân túy đang hồi sinh và đe dọa thế giới

Tuy vậy Donald Trump không phải một hiện tượng của riêng nước Mỹ. Ông ta chỉ là một trường hợp đặc biệt, dù là trường hợp quan trọng và nghiêm trọng vượt trội, của một nguy cơ toàn cầu đang tái xuất hiện: chủ nghĩa dân túy (populism). Nó cũng thể hiện qua Duterte tại Philippines, Putin tại Nga, Stracher và đảng FPO tại Áo, Le Pen tại Pháp, Erdogan tại Thổ Nhĩ Kỳ, Maduro tại Venezuela, phong trào Brexit tại Anh, các mollah tại Iran v.v. Chủ nghĩa dân túy đang hồi sinh.

Tổng thống Duterte của Philippines : một gương mặt của chủ nghĩa dân túy Châu Á

Trước hết cần nhận diện chủ nghĩa dân túy : nó lợi dụng một tình trạng phẫn nộ -có thể chính đáng- và sự thiếu hiểu biết của một thành phần dân chúng để đưa ra những giải pháp mỵ dân có vẻ rất giản dị và thực tiễn nhưng trong trung hạn vừa sai vừa nguy hiểm.

Một thí dụ là phong trào cộng sản, lực lượng dân túy lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nó đã lợi dụng sự phẫn nộ của tầng lớp công nhân sau cuộc cách mạng kỹ nghệ để đưa ra "giải pháp" đấu tranh giai cấp, xóa bỏ quyền tư hữu và tiêu diệt giai cấp tư sản. 

Một thí dụ khác là Quốc xã Đức. Hitler đã lợi dụng sự phẫn nộ chính đáng của người Đức sau Thế Chiến I : nước Đức tan nát vì thua trận, bị mất đất và phải bồi thường chiến tranh trong khi một số tài phiệt Do Thái hành xử một cách vô trách nhiệm để đưa ra "giải pháp" tiêu diệt người Do Thái và tuyên chiến với các nước Châu Âu.

Chúng ta cũng có thể kể Moussolini tại Ý, Peron tại Argentina và Chavez tại Venezuela như là những thí dụ trong lịch sử. Hiện nay ngoài Donald Trump và những trường hợp đã kể còn một lực lượng dân túy đặc biệt nguy hiểm : các tổ chức khủng bố Hồi giáo.

Trong trường hợp cụ thể của nước Mỹ, sự cáo chung đột ngột của phong trào cộng sản thế giới cùng một lúc với sự phát triển của công nghệ tin học và tự động và thương mại quốc tế đã mở ra cả một kỷ nguyên mới, làm thay đổi hẳn sinh hoạt xã hội nhưng tư tưởng chính trị đã thiếu hụt và không đề nghị được một hướng đi. Trong tình huống đó Bill Clinton xuất hiện và đề nghị giải pháp "Chỉ làm kinh tế" (Economy, stupid !) và thắng cử, nhưng Clinton chỉ đưa nước Mỹ tới gần khủng hoảng hơn vì chênh lệch giầu nghèo gia tăng nhanh chóng, ngày càng có đông người cảm thấy uất ức vì bị bỏ rơi và mất chỗ đứng ngay trên đất nước mình. Tình trạng này tiếp tục dưới George W. Bush và Obama. Rồi Donald Trump xuất hiện cáo buộc giai cấp chính trị cũ và hứa hẹn phục hồi sự vĩ đại của nước Mỹ với "giải pháp" America first, chỉ biết có nước Mỹ, phục hồi kỹ nghệ than và kim loại, không cần đồng minh cũng không cần cảm tình của thế giới, từ bỏ những cam kết v.v.

Các lực lượng khủng bố Hồi giáo -Daesh, Al Qaeda, Al Nostra, Boko Haram, v.v.- khai thác một sự phẫn nộ khác, sự phẫn nộ tuyệt vọng của một thành phần trong khối hơn một tỷ người Hồi giáo trước sự suy thoái nhanh chóng của nhân sinh quan Hồi giáo mà họ mô tả như là hậu quả của cuộc xâm lược của phương Tây để kích thích sự cuồng tín và kêu gọi thánh chiến.

Tổng thống Tayip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ : một khuôn mặt dân túy Trung Cận Đông

Các lực lượng dân túy có thể theo một chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, như trường hợp Quốc xã Đức, Phát xít Ý và phần lớn các đảng dân túy hiện nay, hay một ý thức hệ xuyên quốc gia như trường hợp phong trào cộng sản và các lực lượng khủng bố Hồi giáo nhưng kịch bản của chúng bao giờ cũng giống nhau : Do thiếu hụt về tư tưởng chính trị một số vấn đề xã hội không được nhận diện và giải quyết kịp thời để thích nghi với tình huống mới và tạo ra bất mãn và phẫn nộ trong xã hội. Một lực lượng chính trị xuất hiện lên án dữ dội chính quyền đương thời, rồi đề nghị một giải pháp mỵ dân và độc hại nhưng đáp ứng được sự phẫn nộ của quần chúng.

Đặc điểm chung của các lực lượng dân túy là chúng luôn luôn tạo ảo tưởng là có một giải pháp giản đơn cho những vấn đề phức tạp. Nếu thành công và cướp được chính quyền chúng có thể tạo ra những thảm kịch rất lớn, như trường hợp phong trào cộng sản quốc tế và Đảng Quốc xã Đức. Phong trào cộng sản đã làm trên 100 triệu người chết và giam hãm nhiều dân tộc trong đói khổ và kìm kẹp trong hơn một nửa thế kỷ, Hitler và Moussolini đã gây ra Thế Chiến II và khiến chính đất nước họ tan tành. Putin đang làm nước Nga bại liệt với một tương lai rất đen tối. Trump không giải quyết được vấn đề nào mà chỉ sẽ khiến nước Mỹ chia rẽ hơn, cô lập hơn và suy giảm hơn bởi vì tuy thế giới tuy cần nước Mỹ nhưng -với một GDP bằng 22% GDP thế giới- Mỹ còn cần thế giới hơn. Các kỹ nghệ than, thép, may mặc v.v. đàng nào cũng không thể phục hồi vì đã quá lỗi thời so với tình trạng phát triển của Hoa Kỳ.

Các chính quyền dân túy chỉ có thể thất bại vì lý do hiển nhiên là không thể có những giải pháp đơn giản cho những vấn đề phức tạp. Tư tưởng chính trị là điều không thể tiết kiệm, nhất là vào những lúc lịch sử sang trang và một kỷ nguyên mới bắt đầu.

Vì đâu nên nỗi ?

Tư tưởng chính trị đó đã thiếu hụt trong cuộc cách mạng kỹ nghệ và cho phép phong trào cộng sản xuất hiện và bành trướng vì một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo cảm thấy mình bị khai thác như những dụng cụ trong khi họ không nhìn thấy một hy vọng nào. Lý luận của Marx sai cả về nền tảng lẫn phương pháp nhưng nó hứa hẹn một tương lai mà nhiều người mơ ước. Tình hình sẽ rất khác nếu vào giai đoạn đó có những nhà tư tưởng thuyết phục được dư luận rằng dân chủ có khả năng sửa sai và cải tiến.

Để nhìn rõ hơn nguyên nhân tái phát của chủ nghĩa dân túy, có lẽ cần nhìn lại trường hợp vừa thời sự nhất vừa lớn nhất của nước Mỹ. Năm 1992 một biến cố khó tưởng tượng xẩy ra, đáng ngạc nhiên nhất là ít người ngạc nhiên. George H. W. Bush, anh hùng quân lực Mỹ trong Thế Chiến II, đương kim tổng thống Mỹ với thành tích đánh sụp khối cộng sản, bị đánh bại bởi Bill Clinton, một thanh niên không có thành tích nào ngoài việc đã trốn lính.

Bill Clinton chủ yếu được bầu vì hai lý do : một là hứa sẽ nhìn nhận Jerusalem là "thủ đô không thể phân chia" của Do Thái, hai là hứa sẽ theo đuổi chủ trương "chỉ làm kinh tế" (economy, stupid !). Lời hứa đầu đã đem lại cho Clinton một số phiếu khá lớn của khối Tin Lành cực đoan nhưng Clinton đã còn chút tinh thần trách nhiệm để không thực hiện, như George W. Bush và Barack Obama sau đó, vì thừa biết nó quá sai và nguy hiểm. Nhưng lời hứa chỉ làm kinh tế -nghĩa là không quan tâm tới chính trị, dân chủ, nhân quyền- đã có tác dụng quyết định lên cuộc tranh cử tổng thống và Clinton đã thực hiện tận tình sau khi được bầu. Ông sử dụng một nhóm cố vấn xuất thân từ các ngân hàng và theo lời khuyên của họ bãi bỏ hết những qui định có mục đích kiểm soát các hoạt động tín dụng và chứng khoán, đồng thời tăng cường quan hệ thương mại với Trung Quốc mà gần như không đặt vấn đề nhân quyền. Clinton đã thắng cử nhờ khoảng trống tư tưởng lớn.

Thế giới vừa vui mừng vừa hoang mang không biết nghĩ gì khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và phong trào toàn cầu hóa bùng lên cùng lúc với các tiến bộ về kỹ thuật truyền thông và tự động. Bối cảnh thế giới thay đổi hẳn, nhất là các hoạt động kinh tế. Nhiều nhà máy với các kỹ thuật truyền thống được di chuyển từ các nước giầu sang các nước nghèo tạo ra tại các nước dân chủ phát triển một khối người ngày càng đông đảo bỗng nhiên mất việc làm và hơn thế nữa trở thành vô dụng, những người mà trước đó không lâu đã là những công dân gương mẫu. Họ cảm thấy rằng đất nước mà họ đã đóng góp xây dựng nên không còn là của họ nữa. Phong trào toàn cầu hóa cũng chất vấn và công phá ngay chính khái niệm quốc gia.

Tất cả những biến động này đòi hỏi một cố gắng tư tưởng lớn nhưng các trí thức cánh tả cũng như cánh hữu hầu như đều bặt tiếng. Cánh tả vì sau hơn nửa thế kỷ biện hộ cho chủ nghĩa cộng sản đã bị lố bịch hóa và không còn gì để nói. Cánh hữu vì đã toàn thắng và cũng không còn gì để nói thêm ngoại trừ nhắc lại một cách nhàm chán các lập luận cũ. Các thảo luận về triết lý chính trị hầu như đã dừng lại cùng với chiến tranh lạnh. Người ta cố tình làm như tin tưởng rằng bàn tay vô hình của kinh tế thị trường cuối cùng sẽ giải quyết tất cả.

Và kịch bản quen thuộc đã tái diễn. Mỹ là nước dân chủ tư bản dẫn đầu thế giới nên cũng là nước bị dao động nhất trong bối cảnh hoàn toàn mới này. Trong khoảng trống tư tưởng này khẩu hiệu chỉ làm kinh tế, chỉ biết có kinh tế của Bill Clinton đã có sức lôi cuốn đặc biệt đối với những người đang phẫn nộ vì cảm thấy bị bỏ rơi. Giai đoạn dân túy bắt đầu. Nhưng làm sao chính trị có thể chỉ thu gọn vào kinh tế ?

Clinton đã thất bại như mọi lực lượng dân túy một khi đã nắm được chính quyền bởi vì, cần nhắc lại một lần nữa, không thể có giải pháp giản dị cho những vấn đề phức tạp. Clinton đã giúp các chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam trụ được thay vì chuyển hóa về dân chủ, và cho phép Trung Quốc dần dần trở thành một đe dọa cho hòa bình. Trong chủ trương chỉ quan tâm tới kinh tế, ông cũng đã để mặc cho các lực lượng khủng bố Hồi giáo như Al Qaeda và Taliban mặc sức phát triển và trở thành một tai họa cho cả nước Mỹ lẫn thế giới.

Clinton cũng đã nhanh chóng trở thành đồng lõa của các thế lực tài phiệt, đã để cho khuynh hướng "tài chính hóa kinh tế" lộng hành và dẫn tới cuộc khủng hoảng 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất trong lịch sử thế giới. Một giai cấp quý tộc hãnh tiến mới cũng đã xuất hiện : những người thành công và trở thành giầu có, dù chỉ là nhờ may mắn trong các hoạt động đầu cơ chứng khoán và địa ốc. Những người hãnh tiến này tự coi là xứng đáng nhất. Những người không giầu, có thể chỉ vì không làm trong những ngành đang gặp thời, bị nhìn như là thiếu tài năng và nghị lực. Nghèo đồng nghĩa với nhục. Tiền trờ thành tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá con người. Xã hội bị phân hóa, những người giầu và những người nghèo sống trong những khu riêng biệt, gửi con cái tới những trường học khác nhau, dùng những thực phẩm khác nhau, du lịch và giải trí khác nhau và có những ưu tư khác nhau. Tinh thần quốc gia mất dần ý nghĩa và nội dung.

Kể từ Clinton, nghĩa là từ hơn một phần tư thế kỷ qua, nước Mỹ đã chỉ có những tổng thống tài tử không có kinh nghiệm và kiến thức chính trị đáng kể nào. George W. Bush đã chỉ lên được nhờ uy tín của cha và sự xuống cấp của môi trường chính trị Mỹ. Barack Obama thì rõ ràng là một tay mơ lên được nhờ khuynh hướng dân túy. Ông xuất hiện đột ngột và đắc cử nhờ chống đối giai cấp chính trị truyền thống, establishment, và khẩu hiệu "Yes, we can" nghĩa là : "Đúng, chúng ta có thể", có thể có ngay một nước Mỹ hùng mạnh và công bình. Ngoài ra Obama cũng chủ trương một chính sách triệt thoái và co cụm rất phù hợp với chủ nghĩa dân túy. Quyết định triệt thoái hấp tấp khỏi Iraq đã giúp lực lượng Nhà nước Hồi giáo Daesh phát triển mạnh, dìm vùng Trung Đông vào khói lửa, làm hàng trăm nghìn người thiệt mạng và khiến Châu Âu khốn khổ vì làn sóng người tỵ nạn. Trong nhiệm kỳ thứ hai Obama bắt đầu nhận ra là Mỹ cũng cần thế giới như thế giới cần Mỹ và vì thế phải đóng góp cho một trật tự dân chủ. Việc thành lập Khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) để ngăn chặn Trung Quốc phản ánh nhận thức này, nhưng nó đến quá trễ, Obama không còn thời gian để hoàn tất. Donald Trump chỉ là cao điểm của trào lưu dân túy đã bắt đầu từ 1992 với Bill Clinton.

Nhiều người tin rằng Donald Trump sẽ chỉ là một ngoặc đơn bốn năm và sẽ bị đào thải trong cuộc bầu cử sắp tới. Có thể nhưng chưa chắc. Việc Trump gây thiệt hại cho chính nước Mỹ sẽ không làm đa số những người đã bầu cho ông thay đổi lập trường, vì một lý do giản dị là họ thấy nước Mỹ không còn là của họ nữa, như vậy đối vối họ sự chao đảo của nước Mỹ này có khi còn là hy vọng để chuyển sang một nước Mỹ khác mà họ mong muốn. Nếu Donald Trump thất cử thì lý do chính là vì cuộc chiến tranh thương mại mà ông gây ra sẽ khiến cuộc sống của chính họ khó khăn hơn.

Ở một mức độ nào đó, bên cạnh những tác hại to lớn, Trump đã báo động tai họa của chủ nghĩa dân túy và báo động về nhu cầu nghĩ lại và làm lại nước Mỹ. Đó cũng là nhu cầu của thế giới vì dù muốn hay không Mỹ vẫn là nước có vai trò lãnh đạo thế giới và những gì diễn ra ở Mỹ cũng sẽ có ảnh hưởng lôi kéo với các nước khác. Tại Châu Âu các lực lượng dân túy đã phát trỉển mạnh sau Bill Clinton. Tại Pháp đảng cực hữu Mặt Trận Quốc Gia của Le Pen hai lần vào được vòng chung kết bầu cử tổng thống ; tại Áo Đảng FPO đã thắng lớn và được tham chính với một phó thủ tướng và ba bộ trưởng quan trọng ; lực lượng dân túy chiếm được 13% trong cuộc bầu cử quốc hội gần đây nhất, tháng 9/2017 và khiến việc thành lập chính phủ bị bế tắc trong gần sáu tháng. Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đang có những chính quyền dân túy, như tại Philippines và Venezuela.

Chủ nghĩa dân túy đang là một vết thương lớn của thế giới. Rất đáng lo ngại, bởi vì đặc tính của các lực lượng dân túy là chúng bất chấp các giá trị đạo đức, bất chấp nhân quyền và bất chấp thế giới, những lý do dẫn đến xung đột, bế tắc và chiến tranh.

Lối thoát nào ?

Tháng 9/2017 đã có một cuộc thảo luận hào hứng trên một đài truyền hình Canada về nguy cơ dân túy giữa hai nhà tư tưởng hàng đầu của Châu Mỹ Steve Paikin và Michael Sandel. Cuộc thảo luận này đã được một trí thức trẻ dịch và phụ đề tiếng Việt và đưa lên Youtube. Clip này rất nên xem (1).

Michael Sandel là giáo sư triết và chính trị tại Đại học Havard và từ hơn hai thập niên qua được nhiều người đánh giá là nhà tư tưởng chính trị lớn nhất của nước Mỹ. Giải pháp mà ông nhìn thấy là phải khởi động mạnh mẽ một cuộc thảo luận thẳng thắn về các giá trị nền tảng của chính trị và của hoạt động chính trị. Người ta chỉ có thể đồng ý với ông. Nhưng vấn đề là làm thế nào để có các cuộc thảo luận này. Điều đáng ngạc nhiên là Michael Sandel hình như không nhìn thấy cốt lõi của vấn đề.

Theo ông không thể trông đợi ở các chính đảng và các chính trị gia bởi vì họ đã trở thành thực tiễn ; họ tránh né tranh luận và chỉ còn một ngôn ngữ quản trị và kỹ trị. Chỉ còn cách phát động những cuộc thảo luận này trong các trường đại học, các nhóm xã hội dân sự và các kênh truyền thông. Nhưng chính Sandel cũng đã phải nhìn thấy sự vô vọng của giải pháp mà ông đề nghị. Bằng cớ là các bài giảng rất hay của ông tại Havard được đưa lên Youtube từ gần mười năm qua với sự yểm trợ tài chính của nhiều nhà hảo tâm sau gần mười năm đã chỉ được trên dưới một triệu lượt người xem, phần lớn là các sinh viên. Các bài diễn thuyết của ông ngoài Havard thì chỉ được vài chục ngàn lượt xem mỗi năm. Ngay chính clip thảo luận này giữa ông và Steve Paikin cũng chỉ được 23.000 lượt xem sau 10 tháng. Trong khi đó thì các clip của các danh ca thường được vài chục triệu, có khi vài trăm triệu, lượt xem sau khoảng mười năm. Giải pháp của Sandel như vậy rõ ràng không phải là giải pháp.

Vậy còn phải làm gì khác ? Một sắc thuế trên các chương trình truyền hình thể thao và giải trí để tài trợ cho các chương trình thảo luận về chính trị, xã hội ? Một viện hàn lâm khoa học chính trị được có tiếng nói có thẩm quyền trên sự chọn lựa các cấp lãnh đạo chính trị ? Một thủ tục để tôn vinh các nhà tư tưởng và đưa các tài tử, ca sĩ, cầu thủ, doanh nhân trở lại vị trí đúng của họ ?

Chúng ta có thể thảo luận rất nhiều, nhưng có một điều chắc chắn phải làm là nâng cao vai trò và chỗ đứng của các chính đảng. Các chính đảng chính là môi trường thảo luận chính trị, sản xuất, sàng lọc và truyền bá tư tưởng chính trị. Đó là khối hàng trăm ngàn, hàng triệu người quan tâm tới việc nước và chuyển tải tư tưởng chính trị từ các nhóm thảo luận tới quần chúng qua gia đình, bè bạn, đồng nghiệp. Không có các chính đảng mạnh thì không thể hy vọng có những cuộc thảo luận rộng khắp và trong chiều sâu.

Nhưng làm thế nào để nâng cao chức năng và trọng lượng của các chính đảng, để có những chính đảng mạnh ? Một điều kiện tiên quyết là phải bãi bỏ chế độ tổng thống. Chế độ tổng thống tập trung quyền lực vào một người và vô hiệu hóa các chính đảng. Các cuộc thảo luận chính trị trong các chính đảng xuống cấp vì mất tác dụng. Các kết luận của các cuộc thảo luận còn có tầm quan trọng nào khi quyền quyết định đàng nào cũng chỉ thuộc về một người không do đảng bầu ra? Chế độ tổng thống cũng khiến các tranh chấp nội bộ trở nên khốc liệt và làm tan vỡ các chính đảng bởi vì khó có thể thỏa hiệp khi thắng là được tất cả, thua là mất hết. Quan tâm của một ứng cử viên tổng thống là được lòng và được phiếu của thật nhiều người chứ không phải là để nêu ra những vấn đề gây tranh cãi.

Chế độ đại nghị là chọn lựa bắt buộc nếu muốn nâng cao vai trò của các chính đảng và đồng thời nâng cao dân trí. Chúng ta có thể nhận xét là các khuynh hướng dân túy đã chỉ thành công tại các nước theo chế độ tổng thống. Ở các nước theo chế độ đại nghị phong trào dân túy cùng lắm chỉ có ảnh hưởng giới hạn. Vấn đề chính đối với chế độ đại nghị là qui định một tỷ lệ vừa phải tùy theo hiện tình mỗi nước giữa số dân biểu được bầu theo thể thức đơn danh một vòng và số dân biểu bầu theo tỷ lệ để bảo đảm sự ổn vững của chính phủ mà vẫn cho phép mọi khuynh hướng chính trị đều có tiếng nói trong quốc hội để không rơi vào sự cứng chắc nghèo nàn của tình trạng lưỡng đảng (thí dụ ta có thể hình dung một quốc hội gồm 500 dân biểu trong đó 450 người được bầu theo thể thức đơn danh một vòng, 50 người được bầu theo thể thức tỷ lệ). Sau đó người ta có thể nghĩ tới các biện pháp khác.

Một lời sau cùng. Nhiều bạn có thể chất vấn : tại sao thảo luận những vấn đế lý thuyết như chủ nghĩa dân túy, chế độ tổng thống, chế độ đại nghị v.v. trong khi vấn đề trước mắt là phải tranh đấu để chấm dứt một chế độ độc tài hung bạo hành xử không khác gì một lực lượng chiếm đóng ? Có viển vông và lạc điệu không ? Xin trả lời là không. Chúng ta đã là chúng ta ngày nay bởi vì chúng ta luôn luôn hụt hẫng về mặt tư tưởng và chúng ta đang có nguy cơ hụt hẫng một lần nữa. Chúng ta đang tranh đấu cho dân chủ hiểu một cách giản dị là tam quyền phân lập và bầu cử tự do trong khi khái niệm dân chủ đang đòi hỏi những xét lại rất quan trọng và triệt để. Chúng ta có thể lại chỉ ra khỏi ngõ cụt cộng sản để đi vào một ngõ cụt khác.

Vả lại ngay trong lúc này phong trào dân chủ chỉ có thể mạnh nếu những người dân chủ hiểu rõ dân chủ là gì và những vấn đề nào đang đặt ra cho nó.

Nguyễn Gia Kiểng

(10/07/2018)

(1) Bản dịch :Sự thất bại của nền chính trị "Tự do phóng khoáng"

Youtube : Sự thất bại của nền chính trị "Tự do phóng khoáng"

Published in Quan điểm

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Rassemblement pour la Démocratie Pluraliste

Rally for Democracy and PluralismCopie de logo thdcdn-1

 

Tuyên bố của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

về dự luật thành lập các đặc khu hành chính - kinh tế

của chính quyền cộng sản

 

Trước sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, chính quyền cộng sản đã hoãn lại việc cho Quốc hội biểu quyết thông qua dự luật thành lập các đặc khu hành chính – kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Đây là một nhượng bộ lớn và đúng hướng của Đảng Cộng Sản cần được ghi nhận với cảnh giác.

Từ nhiều năm qua Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, trong các dự án chính trị liên tiếp, đã luôn luôn phản bác việc thành lập các đặc khu kinh tế. Lập trường này đã được tái khẳng định trong dự án chính trị 2015 - Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai - như sau :

"Chúng ta sẽ không thiết lập các khu kinh tế với quy chế đặc biệt như kiểu "khu chế xuất" mà sẽ dành mọi khuyến khích và dễ dãi cho các hoạt động kinh tế trên cả nước, với một luật kinh doanh chung cho toàn lãnh thổ".

Thời gian đã kiểm chứng sự đúng đắn của lập trường này. Các đặc khu kinh tế đã trở thành lỗi thời với phong trào toàn cầu hóa và sự hình thành dồn dập của các thỏa ước trao đổi thương mại tự do và các hợp tác khu vực. Chúng không còn sức thu hút đầu tư nữa trong khi những bất lợi vẫn còn nguyên vẹn. Chúng thu hẹp không gian liên đới quốc gia, làm thương tổn tình cảm dân tộc, trì hoãn những cải tổ cần thiết trong phần còn lại của đất nước và kích thích những hoạt động bất hợp pháp trong và chung quanh các đặc khu.

Trong trường hợp cụ thể của dự luật đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, nhân dân Việt Nam còn có những lý do nghiêm trọng khác để quyết liệt phản đối.

Trước hết là dự luật này quá mơ hồ và có quá nhiều sơ hở trong các quy định, cho phép những giải thích mâu thuẫn về chủ quyền quốc gia, với kết quả gần như chắc chắn là các đặc khu này sẽ nhanh chóng trở thành những nhượng địa trên thực tế, không cần đợi thời hạn 99 năm hay 70 năm. Nguy hiểm hơn, sự lỗi thời của công thức đặc khu sẽ khiến dự án này không thu hút được những nhà đầu tư chân chính. Hậu quả chắc chắn là sẽ chỉ có những đầu tư đến từ Trung Quốc do chính quyền Bắc Kinh chỉ đạo và với ý đồ chính trị.

Nguy cơ này có thể coi là tuyệt đối vì một lý do khác. Kinh phí đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho dự án này được ước lượng là trên 70 tỷ USD, tương đương với tổng chi ngân sách của Việt Nam. Hơn nữa, kinh nghiệm còn cho thấy rằng trong mọi dự án xây dựng lớn kinh phí thực đều thường cao gấp nhiều lần dự tính ban đầu của các quan chức cộng sản. Việt Nam không thể có số vốn này và trong tình trạng nợ công bi đát hiện nay - trên 200% GDP trong thực tế, phải vay nợ mới để trả nợ cũ - cũng không thể có bất cứ một quốc gia nào hay một định chế tín dụng nào cho vay cả. Nước duy nhất có thể cho vay, để đồng thời đảm nhiệm xây dựng kết cấu hạ tầng, là Trung Quốc với kịch bản chắc chắn là chi phí thực sẽ cao hơn rất nhiều so với dự tính, Việt Nam sẽ phải vay thêm, chịu thêm những áp lực và phải làm những nhượng bộ quan trọng hơn nữa về chủ quyền, kể cả biến những đặc khu này thành những nhượng địa chính thức. Trong trường hợp Vân Đồn, khả năng Trung Quốc sau đó dựa vào một lý cớ giả tạo để cưỡng chiếm và sáp nhập bất chấp công pháp quốc tế là rất cao.

Có mọi triển vọng đây chính là mục tiêu của Trung Quốc, họ đang nỗ lực tăng cường ảnh hưởng và sự hiện diện trên thế giới và đặc biệt trong khu vực bằng cách tận dụng khả năng xây dựng dư thừa qua chiến lược "một vòng đai, một con đường". Kiểm soát được Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc sẽ cho phép Trung Quốc thực hiện tham vọng làm chủ Biển Đông, trong khi đối với Việt Nam mất Biển Đông là mất tất cả tương lai.

Đảng Cộng Sản Việt Nam không thể không biết rằng dự án đặc khu này nếu được thực hiện sẽ là một thảm họa cho đất nước cả về chủ quyền lẫn kinh tế, dù thời gian cho thuê đất là bao nhiêu. Sự kiện họ đã thảo luận trong nhiều đại hội đảng mà vẫn định chính thức thông qua chứng tỏ rằng những thành phần bị mua chuộc đã có thế lực rất mạnh trong đảng. Ngược lại, việc Đảng Cộng Sản phải hoãn cho biểu quyết dự luật đặc khu đồng thời cũng chứng tỏ rằng trong Đảng Cộng Sản vẫn còn những người yêu nước. Họ cần tự xác nhận mạnh mẽ hơn nữa để nhân dân có thể nhận diện và hỗ trợ.

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cực lực phản đối và lên án dự án tệ hại này và sẽ làm mọi cố gắng để cùng với mọi người Việt Nam yêu nước đấu tranh để nó phải bị loại bỏ dứt khoát và vĩnh viễn.

Đất nước Việt Nam phải hoàn toàn là của người Việt Nam, của mọi người Việt Nam và chỉ của người Việt Nam.

Ngày 12/06/2018

Thay mặt Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nguyễn Gia Kiểng

Published in Quan điểm