Nhà văn Nam Cao bằng truyện ngắn "Đôi mắt" nổi tiếng đã phê phán tầng lớp trí thức "trùm chăn" thờ ơ với thời cuộc, không đi theo kháng chiến.
Xã hội Việt Nam đang có vấn đề thừa học hàm học vị nhưng thiếu trí thức
Giáo sư toán học Hoàng Tuỵ, khi trở thành một Trí thức nhận xét : "Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức Việt Nam".
Có lẽ không chỉ đối với Nam Cao, Giáo sư Hoàng Tuỵ, mà còn với đa số người Việt nam, trí thức chỉ giản dị là những người có một trình độ học vấn nhất định và vì thế có trí thức tích cực, thì cũng có trí thức "trùm chăn", có trí thức chạy theo danh hão, theo quyền lực.
Đây là một sự ngộ nhận đã góp phần quan trọng gây không ít trở ngại cho sự hình thành tầng lớp Trí thức tại Việt Nam. Trí thức không chỉ là một danh từ, mà còn là
Chỉ những ai, bên cạnh các điều khác, không hề biết đến "trùm chăn", không chạy theo danh hão, theo quyền lực... mới có thể trở thành Trí thức. Không phải cứ tốt nghiệp đại học, được công nhận là nhà văn, nghệ sĩ thì đã là trí thức. Người ta chỉ có thể trở thành một Trí thức bằng những hoạt động dấn thân.
Đòi công lý cho người bị oan
Năm 1895 Tòa án nước Pháp tuyên án sĩ quan pháp binh Alfred Dreyfus tội phản quốc và phạt ông tù chung thân, dù không có chứng cứ, không chỉ ra được động cơ làm gián điệp của ông. Mặc dù vậy, đa số công chúng Pháp vẫn coi Dreyfus có tội. Sau đó người ta tìm ra tên gián điệp thực sự là Thiếu tá Esterhazy, nhưng lại được Tòa án tuyên vô tội.
Khi đó, Emile Zola - nhà văn, nhà báo và họa sĩ - đã viết thư ngỏ với tiêu đề "Tôi buộc tội" (J'accuse), lên án mạnh mẽ quân đội và chính phủ về mặt đạo đức, phê phán sắc bén những sai phạm về thủ tục tố tụng và đòi hỏi công lý cho Dreyfus.
Vụ Dreyfus với sĩ quan gốc do thái Alfred Dreyfus (1859-1935) ra trước tòa ở Rennes, đã làm bùng lên phong trào phản đối của trí thức Pháp bảo vệ ông.
Thư ngỏ của Emile Zola có tiếng vang lớn và thu hút hơn 2000 nhà khoa học, nhà văn, nghệ sĩ, người làm nghề tự do, ký tên vào danh sách những người yêu cầu trả tự do cho Dreyfus. Clemenceau cho công bố danh sách này trên tờ "Le Journal" ngày 23/01/1898 và lần đầu tiên ông đặt tên cho danh sách ấy là " Sự Phản đối của các Trí thức".
Sự phản đối của các Trí thức đã thúc đẩy một cuộc thảo luận toàn dân về những giá trị trừu tượng như Sự thật và Công lý, mà sau cùng đã dẫn đến ân xá và trả tự do cho Dreyfus.
Từ đó đến nay, ở rất nhiều quốc gia, khi đề cập đến vai trò của cá nhân trong sự tồn vong của dân tộc, đối với sự phát triển quốc gia, Trí thức đã trở thành một danh hiệu để chỉ những người có khả năng và sự dấn thân như những người trong danh sách "Sự phản đối của các Trí thức".
Họ là những người có khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, biết dấn thân cho điều mình tin là đúng vì lợi ích cộng đồng và sự phát triển đất nước. Trí thức chính là nguồn hình thành tầng lớp ưu tú của xã hội, gồm những người được xã hội kính trọng, có ảnh hưởng rộng lớn và quan trọng mang tính định hướng cho sự hình thành các giá trị cốt lõi của xã hội, đến sự phát triển đất nước.
Nhưng cũng có nơi Trí thức được xem như tiếng chửi rủa, miệt thị. Trong chế độ quốc xã của Adolf Hitler, Trí thức được dùng để chỉ những ai chống lại Chủ nghĩa và Đảng Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa, phải bị cô lập và loại bỏ ra khỏi xã hội.
Thông thường, để có khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, người ta phải được đào tạo để có một trình độ học vấn nhất định. Nhưng không hiếm người có được khả năng đó qua kinh nghiệm sống, qua tự học, Ngược lại, nhiều người được đào tạo có bằng cấp, mà không có khả năng phân biệt ấy.
Nền giáo dục Việt Nam hiện đại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà đặc biệt là do mục tiêu và triết lý giáo dục không đúng, khó có thể trang bị cho học sinh, sinh viên khả năng suy nghĩ độc lập, biết tự chủ phân biệt đúng sai, tốt xấu, mà không phụ thuộc vào ý thức hệ tư tưởng, vào các giá trị đạo đức, cũng như quan điểm chính trị chính thống.
Trí thức ra đời cùng thay đổi công nghệ và thời cuộc
Vì vậy, hầu như không có tiền đề cho sự hình thành Trí thức. Tuy nhiên, cùng với sự bùng nổ thông tin qua mạng Internet, cơ hội tự học, tự hoàn thiện bản thân ngày càng nhiều, cũng góp phần hình thành những cá nhân có khả năng phân biệt của một Trí thức.
Trí thức phân tích, đặt câu hỏi, bình luận và phê phán các sự kiện, hoạt động của xã hội trong các buổi bàn luận, tranh luận công khai để người dân biết và có thể đánh giá. Không có các buổi này, cũng không thể hình thành Trí thức.
Một đặc trưng quan trọng của Trí thức, là họ tranh luận, nói về các sự kiện, các hoạt động về cơ bản là không đụng chạm đến quyền lợi cá nhân mình. Quan điểm, cách nhìn và thái độ của Trí thức độc lập với chính quyền. Chúng có thể phù hợp, hoặc ngược lại với chính quyền.
Giới trẻ Việt Nam ngày nay đã có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với kiến thức của nhân loại
Nếu phù hợp, đó sẽ là một động lực quan trọng cho sự phát triển đất nước một cách sáng tạo. Nếu không, và khi bị chính quyền theo dõi, trấp áp, Trí thức sẽ trở thành những nhà đối lập.
Nói một cách khác, Trí thức vừa là người tạo ra các giá trị tư tưởng, vừa là người phê phán chúng ; vừa là người ủng hộ chính quyền, vừa là người đối lập.
Nhưng, tự bản chất của mình, Trí thức thực thụ không bao giờ là mối nguy hiểm cho xã hội, không bao giờ là người phản bội tổ quốc.
Những Trí thức có thể hình thành một mối quan hệ đặc biệt và không chính thức với nhau để hình thành một nhóm, một cộng đồng Trí thức.
Nhưng đó là phải là một cộng đồng hình thành trên cơ sở tuyệt đối tự do, tự nguyện và không ràng buộc.
Các tổ chức, Hiệp hội đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền, của chính quyền, hoặc có lãnh đạo là các cán bộ đảng, chính quyền về hưu, không thể là cộng đồng có thể hình thành Trí thức, hay bảo đảm được sự hoạt động của Trí thức.
Sự dấn thân của Trí thức thể hiện trước hết ở lòng dũng cảm và bằng mọi cách nói lên những vấn đề xã hội quan tâm hoặc cần phải quan tâm, dù có thể nghịch tai nhà cầm quyền.
Khi truyền thông chính thức không có chỗ cho những buổi tranh luận công khai, khi phải trình bày ý kiến của mình trong khuôn khổ một tổ chức chính thống, theo một gợi ý bắt buộc về nội dung, người Trí thức chắc chắn sẽ tìm đến những khả năng khác.
Ngày nay, sự kết nối dễ dàng - và không thể ngăn chặn - với các trang mạng xã hội, các tổ chức truyền thông quốc tế, đã tạo ra những diễn đàn thuận lợi cho hoạt động của Trí thức ở bất kỳ quốc gia nào.
Chúng ta gọi các sinh viên mới tốt nghiệp, nhà văn, nghệ sĩ trẻ,...là trí thức, trong khi họ chưa thể là Trí thức ; gọi các nhà khoa học trưởng thành, văn nghệ sĩ "cây đa, cây đề" là trí thức, trong khi thiếu hẳn các điều kiện xã hội, các buổi tranh luận tự do, công khai, để họ có thể trở thành Trí thức.
Nhưng lại trông đợi, hy vọng và đòi hỏi họ phải có đầy đủ những giá trị và tác động tích cực của một Trí thức đúng nghĩa. Đó là một nghịch lý không thể chấp nhận, không thể tiếp tục dung dưỡng.
Muốn xây dựng được một xã hội văn minh dân sự, một đất nước phát triển mạnh mẽ bằng sức sáng tạo, chúng ta sẽ phải cần Trí thức. Nhưng, người ta không thể đào tạo Trí thức, mà chỉ có thể tạo điều kiện để hình thành Trí thức.
Ở Việt Nam, ngoài việc phải cải tổ một cách căn bản hệ thống giáo dục và quan niệm đúng đắn về Trí thức, có lẽ chỉ cần loại bỏ những rào cản, trở ngại, hiện đang không khuyến khích sự xuất hiện Trí thức, đồng thời cần minh định rõ : Trí thức không phải là nguyên nhân gây bất ổn xã hội, là mối nguy hiểm cho chế độ.
Nguyễn Vân Nam
Nguồn : BBC, 02/09/2019
Luật sư Nguyễn Vân Nam, giáo sư đại học Humboldt, Cộng hòa Liên bang Đức. Hiện ông đang sống và làm việc ở Thành phố Hồ Chí Mịnh.
Sự việc Đại học Đông Đô tại Hà Nội buôn bán văn bằng giả hiện đang gây xôn xao dư luận những ngày gần đây.
Trường Đại học Đông Đô. Nguồn : vietnamnet.vn
Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an đã quyết đinh khởi tố bị can, bắt tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú và khám xét chỗ ở của 4 thành viên trường Đại học Đông Đô về tội ‘Giả mạo trong công tác’. Những người này bao gồm Hiệu trưởng Dương Văn Hòa ; Phó trưởng phòng đào tạo và quản lý sinh viên - ông Trần Ngọc Quang ; cùng 2 cán bộ là bà Lê Thị Lương và Phạm Vân Thùy.
Theo truyền thông trong nước, bốn người nêu trên đã cung cấp bằng đại học chính quy nhưng không cần tham gia học cho những người cần văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ để hoàn thiện hồ sơ cán bộ như nâng lương, nâng ngạch, thăng hạng, thi vào biên chế…
Đáng tiếc là hàng ngàn người đang sử dụng những tấm bằng giả của Đại học Đông Đô lại đang có mặt đâu đó trong hệ thống công quyền Việt Nam. Và không chừng, ngay trong bộ máy quan chức hiện nay cũng có thể có những tiến sĩ, giáo sư được thăng hàm nhờ những bằng cấp giả đó. Trong khi đó, tại Hội nghị tổng kết năm học 2018/2019, triển khai nhiệm vụ năm học 2019/2020 của ngành giáo dục vừa được diễn ra hôm 6 tháng 8, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu : "Muốn chuyển biến đất nước, phát triển ngành, địa phương một cách bền vững thì giáo dục và đào tạo phải đi trước".
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, thầy giáo Đỗ Việt Khoa nói rằng, không riêng gì trường Đông Đô mà nhiều trường khác cũng có hình thức liên kết đào tạo đại học tại chức, cấp phát bằng hết sức dễ dãi, đại bộ phận là văn bằng 2, văn bằng tại chức, thậm chí đi học qua loa vài buổi rồi cấp bằng. Tình trạng này rất nghiêm trọng ở Việt Nam, ảnh hưởng nhiều đến nền giáo dục, xã hội.
Còn theo Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, người đứng đầu trường đại học đã có những việc làm phi pháp như vậy thì giáo dục còn gì để bàn. Ông giải thích, sự việc trường Đại học Đông Đô bị phanh phui không phải là mới, nhưng đã phản ảnh phần nào đến tình trạng lạm dụng bằng cấp, được xem là rất cần thiết trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
"Ở Việt Nam quá chuộng bằng cấp nên người ta bằng mọi giá phải có được bằng cấp mà không có thước đo chuẩn mực năng lực thật sự liên quan đến bằng cấp ấy. Gần như cơ quan nào cũng muốn đánh giá cán bộ của mình chủ yếu thông qua hệ thống bằng cấp, mà không quan trọng năng lực phục vụ xã hội thế nào. Vấn đề này nằm trong bộ máy công chức".
Theo thông tin đăng tải trên trang điện tử của báo Công an nhân dân, hiện những người đang sử dụng văn bằng 2 của trường Đại học Đông Đô có 5 trường hợp nộp vào các đơn vị đào tạo như Học viện Báo chí – Tuyên truyền, Học Viện Khoa học Xã hội, có những người là cán bộ chủ chốt trong các cơ quan ở Hà Nội… Hầu hết những người này đều có học vị thạc sĩ và nghiên cứu sinh.
Đáng chú ý, nhiều người còn làm trong bộ máy nhân sự của trung ương, nơi cung cấp các nhân viên cho hệ thống lãnh đạo cấp phường, xã...
Từ góc nhìn của một người dân, anh Minh hiện đang sống ở Sài Gòn nói với truyền thống rằng, cứ theo kiểu ‘cha truyền con nối’, ‘con ông cháu cha’ và sử dụng các mối quan hệ để thăng tiến trong bộ máy nhà nước như hiện nay thì cán bộ chẳng dại gì tốn công ngồi trong lớp học như những người chính quy đàng hoàng. Họ chỉ cần lo lót bằng giả là xong, và nghiễm nhiên vị trí lãnh đạo sẽ thuộc về họ. Dù biết thực trạng như vậy, nhưng anh vẫn bày tỏ sự thất vọng :
"Chính những người không có bằng cấp lãnh đạo như vậy nên Việt Nam biết bao nhiêu vụ giờ phanh phui ra nhiều. Nói chung kể về vấn đề này rất dài dòng, bức xúc. Nói tóm lại anh thấy những ông chủ chốt ở Việt Nam toàn nhờ gì đâu đi lên, chứ thực tài ít người, hiếm, cũng có nhưng chỉ đếm trên đầu ngón tay, nên phát biểu gì đa số bị (dân) chửi".
Xác nhận thực tế này, thầy Đỗ Việt Khoa nói rõ :
Một tấm văn bằng 2 ngôn ngữ bị cơ quan công an thu giữ - Nguồn : Công an cung cấp
"Nhiều lãnh đạo tại các địa phương đa số là đại học tại chức hoặc sau đó đi học thêm bằng lý luận chính trị cao cấp xong rồi làm lãnh đạo. Còn những người giỏi thật sự đã không vào được cấp đó. Không thấy Chủ tịch tỉnh, Bí thư tỉnh nào ở nước này có bằng chính quy, có trình độ đại học. Đây là một thực trạng ở Việt Nam, mua bán bằng, hợp pháp hóa bằng.
Nghiêm trọng nhất là gần đây chính phủ có những chính sách công nhận bằng tại chức và bằng chính quy có giá trị như nhau, bổ túc và trung học phổ thông cũng có giá trị bằng nhau. Đấy là một cách có lẽ những đối tượng quan chức được hưởng lợi sẽ có lợi vô cùng để họ hợp pháp hóa. Tình hình cho thấy trình độ lãnh đạo của Việt Nam thấp, không thể chối cãi được".
Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc lý giải việc để cho những người không có thực tài đứng đầu cơ quan công quyền sẽ gây ra phản ứng dây chuyền :
"Những người lãnh đạo không những trình độ thấp mà phẩm chất đạo đức xấu thì tất nhiên người ta sẽ sử dụng những loại người như thế. Dẫn đến phản ứng dây chuyền tạo ra một chuỗi các tác động tiêu cực trong xã hội".
Dân trí cao là vấn đề hãnh diện của một đất nước nhưng tại Việt Nam theo thống kê mới được công bố hôm 6 tháng 8 thì tỉ lệ người học đại học ở Việt Nam là 28,3%, thấp hơn nhiều so với Thái Lan (49,3%) ; Nhật Bản (63,3%), Hàn Quốc (93,8%) hay Mỹ (88,8%).
Đối với những sai phạm trong việc cung cấp văn bằng giả của trường Đại học Đông Đô, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chú tịch Hội Luật gia thành phố Hồ Chí Minh nhận định cần phải xử lý nghiêm các cán bộ quan chức có hành vi vi phạm pháp luật mua bằng giả của trường đại học này.
Với kinh nghiệm luật sư lâu năm, ông Hậu cho rằng 4 nhân viên trường Đại học Đông Đô sẽ bị xử phạt từ 10 năm trở xuống, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội :
"Làm giả tài liệu và con dấu của cơ quan tổ chức bị phạt 100 triệu và phạt từ từ 6 tháng – 2 năm. Đó là khung thứ nhất. Nếu hoạt động có tổ chức thì khung hình phạt có thể từ 2-5 năm tù. Riêng với các đồng phạm cũng có thể bị xử lý về mặt hình sự với vai trò như một người giúp sức để thực hiện hành vi đó thì pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Bộ Luật hình sự cũng xử phạt tương ứng với mức hình phạt như vậy".
Bên cạnh đó, những người mua bằng giả nếu bị bắt thì cũng bị xử lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay :
"Nếu lừa dối các cơ quan, tổ chức khác, làm giả tài liệu, con dấu, với vai trò của họ thì thấp nhất là 6 tháng – 3 năm tù, mức thứ hai là từ 2-5 năm tù. Người phạm tội này sẽ bị cấm đảm nhiệm chức vụ trong lĩnh vực họ làm, tịch thu toàn bộ tang vật, phương tiện nếu vi phạm hành chính, bị cấm làm nhiệm vụ từ 1-5 năm".
Theo Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, việc tuyển chọn nhân sự tại Việt Nam rất dễ gặp vấn đề với văn bằng giả. Ví dụ trường hợp những nghề không cần đến ngoại ngữ nhưng người ta đưa ra yếu tố phải có ngoại ngữ, hay những bằng cấp liên quan đến ngành nghề mang tính thực tiễn rất thấp như lý luận… tạo ra một nhu cầu giả, dẫn đến chất lượng giả.
"Bên cạnh việc rà soát hệ thống giáo dục, cần xây dựng hệ thống giá trị tuyển chọn, thường xuyên giám sát kiểm tra, thẩm tra chất lượng xem những đầu tư vào việc học ấy có cần thiết phục vụ trực tiếp mà người đó đảm nhận hay không, nhất là hệ thống công chức".
Do đó, ông Dương Trung Quốc cho rằng các cơ quan tuyển dụng cần lấy thực tiễn làm thước đo, không nên quá chú tâm vào bằng cấp. Vì để kéo đủ tiêu chuẩn theo quy định, người ta sẵn sàng đi mua bằng hoặc bằng giả, chất lượng không có. Cuối cùng, Việt Nam có một đội ngũ có rất nhiều học hàm, học vị, bằng cấp nhưng chất lượng phục vụ, chất lượng thực hành rất kém.
Nguồn : RFA, 07/08/2019
Đảng cộng sản Việt Nam dù rất bối rối và đang gặp khủng hoảng một cách trầm trọng, thời cơ dân chủ hóa đất nước rất gần, dù vậy phong trào dân chủ Việt Nam vẫn không đạt được tầm vóc và tiếng nói đáng ra phải có. Vì sao lại như vậy ?
Có nhiều lý do. Lý do quan trọng nhất đó là trí thức Việt Nam vẫn chưa ủng hộ cho dân chủ, cụ thể là chưa tham gia hoặc lên tiếng ủng hộ cho các tổ chức đối lập.
Anh em chúng tôi còn một mong muốn nữa đó là cố gắng khơi nguồn cảm hứng cho một "Giấc mơ Việt Nam".
Tất cả vấn đề nghiêm trọng nhất tại Việt Nam hiện nay (ví dụ việc cưỡng chế đất đai của người dân tại Thủ Thiêm, Lộc Hưng, các BOT bẩn…) đều xuất phát từ thể chế chính trị. Muốn thay đổi thì phải có các "giải pháp chính trị" và các giải pháp đó chỉ có thể đến từ các tổ chức chính trị khác ngoài đảng cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam còn độc quyền thì họ sẽ không thay đổi mà muốn họ thay đổi thì phải có sức ép và cạnh tranh từ các tổ chức đối lập.
Phải có cạnh tranh chính trị thì mới có công bằng, minh bạch và lẽ phải. Trí thức Việt Nam chắn chắn hiểu điều đó nhưng tại sao họ không ủng hộ cho các tổ chức chính trị đối lập ?
Lý do đầu tiên mà ai cũng rõ đó là Sợ. Sợ là đương nhiên và đôi lúc cũng phải biết sợ. Vấn đề ở đây là sợ cái gì và sợ khi nào ? Nên sợ cái đúng và lẽ phải, không nên sợ cái sai trái và bất công. Bản thân tôi không bao giờ uống rượi khi lái xe vì tôi sợ vi phạm luật pháp và sợ gây ra tai nạn. Nhưng lên tiếng chống lại sự bảo thủ, lạc hậu và độc tài của cộng sản tôi lại không sợ vì tôi biết việc mình làm là đúng. Trong khi đó với đa số đàn ông Việt Nam thì lái xe nhưng vẫn uống rượu (nhiều ít tùy từng người, từng lúc) nhưng khi đụng đến việc phê phán chính quyền là họ tránh ngay lập tức.
Đáng nói hơn nữa là có những người không sợ. Họ vẫn lên tiếng, thậm chí gay gắt chỉ trích chính quyền và bị chính quyền bỏ tù nhưng sau đó họ vẫn quay lại vuốt ve, tâng bốc chính quyền những điều không hề có và nói những điều không nên nói hoặc năn nỉ những điều mà họ thừa biết là không bao giờ nhận được...
Lý do mà chúng ta thường nghe nhiều trí thức Việt Nam thanh minh cho việc chọn lối hoạt động nhân sĩ là vì họ muốn "độc lập" vì như thế mới là "khách quan". Điều này hoàn toàn ngụy biện. Tôi tin là phần đông trong số họ nếu được vời ra làm quan thì họ sẽ nhận lời ngay lập tức. Từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Hồ Chí Minh… đều đã thế thì giờ cũng sẽ vậy thôi. Thực tế là đa số họ ngồi chờ, đánh bóng tên tuổi, hy vọng một lúc nào đó, hay một chế độ mới sẽ mời họ ra làm quan chứ không hẳn hoàn toàn "khách quan" như họ nói.
Tâm lý chờ thời, giấc mộng "phò chính thống" của đa số trí thức Việt Nam rất nhỏ mọn và tầm thường vì chỉ nghĩ đến bản thân mình mà sẵn sàng hy sinh danh dự, lương tâm lẫn trí tuệ. Đây là thái độ hèn nhát, trốn tránh trách nhiệm, bất lương cần phải nhận diện và lên án. Nên nhớ rằng trí thức luôn là đại diện cho tiếng nói, tâm hồn và trí tuệ của mỗi dân tộc. Người dân Việt Nam không ngẩng mặt lên được vì trí thức Việt Nam luôn cúi đầu.
Tư duy của trí thức Việt Nam ảnh hưởng rất lớn bởi văn hóa nô lệ của Khổng giáo. Mộng ước của trí thức Việt Nam ngày nay (cũng như tầng lớp sĩ phu ngày xưa) vẫn là có được bằng cấp cao, được chính quyền trọng dụng… Ước mơ này đồng nghĩa với việc được làm công cụ cho chính quyền, cho kẻ cai trị để được "ăn trên ngồi trước" thậm chí là ngồi lên đầu nhân dân. Nhiều người về hưu rồi vẫn giương ra những chức vụ mình từng có, từng giữ như là niềm tự hào vì từng được làm… nô tài cho đảng. Đây là một "di sản" độc hại từ lịch sử, từ văn hóa Nho giáo mà trí thức Việt Nam được thừa hưởng từ Trung Quốc.
Xuất phát từ tâm thế nô lệ đó, trí thức Việt Nam không hề có bất cứ một ước mơ gì cao đẹp ngoài những thứ tầm thường như nói ở trên. Chính vì lẽ đó mà dân tộc Việt Nam cũng không có ước mơ gì lớn lao. Một dân tộc không có ước mơ là một dân tộc không có tương lai và không thể nào vươn lên được. Nếu không mơ về một chân trời tươi sáng và tự do, không tin vào những điều tốt đẹp của tương lai thì làm sao mỗi người, mỗi dân tộc có được động cơ để cống hiến và làm việc ?
Chúng ta đều nghe nói đến "Giấc mơ Mỹ" (American dream). "Giấc mơ Mỹ" đã mang lại một niềm tin mãnh liệt về một tương lai tự do và tươi sáng ở phía trước cho tất cả người Mỹ và những ai muốn tìm đến đây lập nghiệp và sinh sống. Chính nhờ "giấc mơ" này mà nước Mỹ, đất nước của những người di dân, của những người đi tìm "giấc mơ" đã phát triển rực rỡ và bỏ qua tất cả các phần còn lại trên thế giới. Không phải người dân Mỹ nào cũng đạt được giấc mơ của mình nhưng nếu không có giấc mơ đó thì họ không thể nào giàu có và thành công như bây giờ. Tập Cận Bình cũng đang kêu gọi và hứa hẹn về một "giấc mơ Trung Hoa" để động viên và gắn kết người dân Trung Quốc.
"Giấc mơ" của người Việt Nam thật buồn. Gần 100 năm trước, Chế Lan Viên viết :
Chúng con ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con…
100 năm sau, "giấc mơ con" đó vẫn không thay đổi bao nhiêu. Trên trường quốc tế, Việt Nam đứng cuối cùng trong danh sách các quốc gia có đóng góp cho nhân loại. Trong nước, giấc mơ của đa số người Việt chỉ là "mơ về ngôi nhà và những đứa trẻ", tiếp đến là làm giàu, ăn nhậu và du lịch. Tất nhiên đây chỉ là nói về số đông, cần ghi nhận sự chia sẻ và dấn thân của các nhóm và tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam thời gian qua, những việc làm của họ là vết son và điểm sáng thắp lên hy vọng cho xã hội Việt Nam.
Chim bồ câu tung cánh : Biểu tượng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
Sự ra đời và có mặt của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) cho đến giờ, ngoài nhiệm vụ tranh đấu dân chủ hóa đất nước thì anh em chúng tôi còn một mong muốn nữa đó là cố gắng khơi nguồn cảm hứng cho một "giấc mơ Việt Nam". Đó là giấc mơ chung cho tất cả 90 triệu người dân Việt Nam mà chúng tôi gửi gắm trong Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, chương 8 : "Chung một giấc mơ Việt Nam" (2). Bản thân Dự án chính trị này cũng là một "giấc mơ" và "giấc mơ giữa ban ngày" đó hoàn toàn có thể trở thành sự thật nếu được đa số người Việt Nam chia sẻ và ủng hộ.
Anh em trong Tập Hợp khác với nhiều trí thức Việt Nam vì chúng tôi đã "chọn phe" đứng về phía người dân Việt Nam, xác định cho mình một vị thế rất rõ ràng đó là đối lập với Đảng cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi không chơi trò "đu dây" hay "đi hàng hai" như một số trí thức "bất đồng chính kiến". Nhiều người trong số họ vẫn đang chơi trò "đu dây" như Đảng cộng sản, Đảng đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ (Phương Tây) còn trí thức Việt Nam đu dây giữa chính quyền và người dân. Một mặt tỏ ra đứng về phía người dân, mặt kia vẫn muốn van xin, năn nỉ và vuốt ve chính quyền. Trong khi ngay cả bản thân Đảng cộng sản Việt Nam đang ngày càng kiên quyết "thanh lọc đội ngũ" bằng cách khai trừ những đảng viên khác biệt chính kiến mà vụ khai trừ đảng ông Chu Hảo hay nhà nghiên cứu về Biển Đông Trần Đức Anh Sơn là ví dụ.
Đảng cộng sản Việt Nam buộc các đảng viên phải chọn phe, hoặc là phe đảng hoặc là phe dân. Trong giai đoạn 2011-2017 đã có 50.938 đảng viên bị xóa tên và khai trừ khỏi đảng (1). Mới đây ông Nguyễn Phú Trọng cũng tuyên bố rất rõ rằng "Không cho phép ai làm trái cương lĩnh, quan điểm, chủ trương và đường lối của đảng". Đã đến lúc vạch ra một ranh giới rõ ràng : Họ là họ mà ta là ta. Họ làm việc của họ, ta làm việc của ta. Không nên mất thời giờ và quan tâm đến những việc vô ích như viết kiến nghị, xin xỏ, năn nỉ hay vuốt ve chính quyền.
Trí thức Việt Nam phải ủng hộ hoặc tham gia vào việc xây dựng một lực lượng chính trị cho chính mình. Đúng là việc này không dễ nhưng vẫn có thể làm được nếu có quyết tâm và thiện chí. Một cách dễ nhất là nên tìm hiểu kỹ các tổ chức đối lập đã có sẵn và ủng hộ cho tổ chức đó. Tuy nhiên trí thức Việt Nam với tâm thế "nô lệ" nên một mặt, không dám tự mình đứng ra thành lập các chính đảng mới hoặc cũng có thể vì họ nhận ra rằng xây dựng một tổ chức chính trị dân chủ là không hề dễ dàng. Mặt khác, vì văn hóa nhỏ mọn và ích kỷ thừa hưởng từ Khổng giáo khiến họ không muốn ủng hộ cho các tổ chức chính trị sẵn có vì họ cho rằng nếu tham gia vào một tổ chức như vậy thì họ sẽ mất đi vai trò và tiếng nói của mình. Họ thà làm một "bại tướng" nhưng được nhiều người biết đến còn hơn là làm một "sĩ tốt" trong một tổ chức nào đó. Họ làm ngược lại câu nói "thà làm một người lính trong đoàn quân thắng trận còn hơn làm một viên tướng trong đoàn quân bại trận".
Một lý do nữa khiến trí thức Việt Nam không ủng hộ cho các tổ chức đối lập hiện nay có lẽ là vì các tổ chức đối lập không thể ban phát cho họ quyền lợi và danh vọng chăng ? Có người hỏi chúng tôi tại sao không thấy Tập Hợp đặt ra các ban bệ và chức vụ như các tổ chức chống cộng khác ở hải ngoại ? Đúng là có những tổ chức không chỉ hải ngoại mà cả trong nước, chưa có người, chưa có bất cứ một sự chuẩn bị hay phương tiện gì nhưng việc đầu tiên họ làm là đặt ra các chức danh. Ở Mỹ có những tổ chức "hữu danh vô thực" không làm gì nhưng lãnh tụ tự phong cho mình làm "tổng thống Đệ tam Việt Nam Cộng hòa" như ông Đào Minh Quân…
Sở dĩ Tập Hợp không đặt ra các chức danh là vì chúng tôi quan niệm rằng "tham gia vào một tổ chức chính trị là để cống hiến và hy sinh cho một lý tưởng cao đẹp" chứ không phải để mưu cầu danh lợi như nhiều trí thức Việt Nam nghĩ. Sau này nếu tình hình bắt buộc phải đảm nhận một công việc cụ thể nào đó, khi đó chúng tôi sẽ phân công nhau để làm việc và chúng tôi cũng chỉ xem đó là một bổn phận, một nghĩa vụ thay vì là đặc ân. Hơn nữa, một tổ chức đối lập chỉ là con số không cho đến khi được người dân bầu chọn làm đảng cầm quyền. Là con số không thì có gì để bày ra các chức vụ ảo rồi tranh dành nhau và dẫn đến đỗ vỡ.
Cách đây ba năm một nhóm nhỏ thành viên của Tập Hợp tiến hành một cuộc "đảo chính" nội bộ, họ cũng chất vấn như vậy, đại loại là sao không đặt ra các ban bệ, chức danh hay "hành động" này nọ ?… Có người lầm tưởng họ là quan trọng nhưng thực sự là không phải như vậy. Cũng có người có tham vọng cá nhân quá lớn, họ không ý thức được rằng làm chính trị là để cống hiến cho một lý tưởng quảng đại. Muốn thành công cá nhân thì nên kinh doanh. Sau một thời gian những người còn lương tri chấp nhận bỏ cuộc và rút lui lặng lẽ, một số người thì không chịu chấp nhận sự thật, họ cay cú và đổ lỗi thất bại của họ cho người này người kia và rồi chính họ làm khổ họ. Khi tâm trí bất an thì còn làm gì được nữa.
Điều lo lắng thầm kín của những người cho rằng mình sẽ không được trọng dụng trong một tổ chức đối lập chứng tỏ sự thiếu tự tin của họ vào chính bản thân. Lo lắng lớn nhất của Tập Hợp trong tương lai, khi lịch sử sang trang là không có người để làm việc. Một tổ chức chính trị đúng nghĩa chỉ có thể hình thành và phát triển trong lúc khó khăn, khi chưa trở thành đảng cầm quyền. Giả sử Tập Hợp trở thành đảng cầm quyền thì sẽ có hàng trăm hàng, ngàn người mong muốn được tham gia nhưng khi đó khó khăn cho chúng tôi là không biết ai thật lòng, ai cơ hội. Ngày xưa ông Ngô Đình Diệm phải dùng những người quen biết để làm việc vì ông được đưa lên cầm quyền, ông không có tổ chức và đội ngũ nên không biết tin ai, dùng ai. Chính phủ của ông Trần Trọng Kim cũng vậy, dù tất cả các thành viên chính phủ đều là những trí thức hàng đầu Việt Nam lúc đó nhưng họ không phải người cùng một tổ chức, họ chưa từng sinh hoạt với nhau nên họ không hiểu nhau, không biết phải làm gì và làm như thế nào, cuối cùng họ bị một tổ chức khủng bố… có tổ chức cướp mất chính quyền.
Thiếu kiến thức về chính trị, vô lễ với chính trị khiến trí thức Việt Nam không nhận thấy rằng lịch sử đang sang trang. Vai trò lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam đang sắp chấm dứt. Đất nước cần được tổ chức và sắp xếp lại một cách hợp lý và đúng đắn để những người có khả năng được đặt vào đúng vị trí của mình. Đất nước rồi sẽ hồi sinh và vươn lên. Trí thức Việt Nam nên tham gia vào tiến trình dân chủ hóa đất nước một cách chủ động và thật lòng thay vì ngồi đợi và mơ về những thứ phù du và nhảm nhí như công danh, quyền lực...
Việt Hoàng
(14/03/2019)
-------------------
2. Chung một giấc mơ Việt Nam
Nước ta có khả năng trở thành một nước lớn và giàu mạnh nếu động viên được mọi trái tim, mọi khối óc, mọi bàn tay trong sự nghiệp xây dựng tương lai chung. Tuy vậy thực tế đáng buồn là ngày hôm nay chúng ta vẫn còn đang phải đấu tranh cam go để có được điều mà hầu hết các dân tộc đã có : dân chủ.
Cuộc đấu tranh đã dài hơn chúng ta mong muốn vì ngoài những khó khăn đã được nhận diện còn thêm một lý do khác : đây là cuộc đấu tranh hoàn toàn mới trong lịch sử nước ta. Từ trước đến nay chúng ta đã chỉ có những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực thống trị, hay những cuộc chiến chống ngoại xâm mà mục đích, xét cho cùng, cũng chỉ là để đổi một ách nô lệ ngoại bang lấy một ách nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là một dân tộc tự do. Lần này chúng ta chiến đấu để mở ra cả một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thứ hai của lịch sử nước ta, kỷ nguyên của những con người Việt Nam tự do và của một nước Việt Nam dân chủ.
Đó là cuộc chiến đấu để đưa người Việt Nam và đất nước Việt Nam từ bóng đêm của nô lệ và nghèo khổ sang ánh sáng của tự do và phồn vinh. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc chiến đấu thực sự xứng đáng để chiến đấu. Như vậy những con người Việt Nam hôm nay cần ý thức rằng họ đang đứng trước cơ hội để tạo ra biến cố lịch sử lớn nhất và vinh quang nhất, cơ hội mà các thế hệ mai sau sẽ không thể có.
Thử thách trước mặt chúng ta tuy rất lớn, nhưng hy vọng thôi thúc chúng ta còn lớn hơn bởi vì cuộc chiến đấu này không chỉ xứng đáng và vinh quang mà còn tất thắng. Chúng ta được chuyên chở và thúc đẩy bởi cả một làn sóng dân chủ toàn cầu và bởi nguyện ước chung của một dân tộc đã dần dần hồi phục sau những thương tích. Chúng ta đang được tiếp viện của cả một thế hệ mới đã tự khai phóng và quyết tâm làm những con người tự do. Đằng sau những trở ngại là cả một tương lai rực sáng.
Chúng ta nhất định thành công. Dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh sau khi đã phải trả giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, cho óc độc quyền lẽ phải, cho sự cuồng tín và tôn thờ bạo lực. Chúng ta đã hiểu bằng máu và nước mắt và đã chấp nhận trong da thịt những giá trị giản dị nhưng mầu nhiệm như tự do, dân chủ, hòa bình, công lý, bao dung, cố gắng. Chúng ta đã nhuần thấm tình dân tộc nghĩa đồng bào trong sự tủi nhục chung vì thua kém. Chúng ta đã nhận ra rằng tất cả mọi người Việt Nam đều ràng buộc với nhau trong một số phận chung. Chúng ta đang có một đồng thuận dân tộc lớn nhất kể từ ngày ông cha mở nước. Đồng thuận ấy sẽ là vũ khí vô địch giúp chúng ta vượt mọi trở ngại.
Bài học lớn nhất của lịch sử thế giới là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần ba yếu tố: một xã hội tự do, những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc. Chúng ta là một dân tộc cần mẫn đã có đồng thuận dân tộc và sắp có tự do. Chúng ta sẽ vươn lên. Chúng ta có quyền lạc quan trong cuộc hành trình về tương lai.
Lạc quan và hãnh diện vì cuộc đấu tranh của ta trong sáng. Nó không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, nó là cuộc đấu tranh để tôn vinh mọi người, tôn vinh quyền làm người và quyền được hưởng hạnh phúc như một dân tộc lớn mà dân tộc ta rất xứng đáng để có.
Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài cuối cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó chúng ta sẽ vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do, dân chủ, bao dung, đùm bọc, kỷ nguyên vinh quang của những cố gắng chung và của thành công chung.
Chúng ta hãy nắm tay nhau cùng cất cao một lời nguyền :
Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.
Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát.
Đó là lý tưởng của thời đại chúng ta. Đó là di sản mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ mai sau. Đó là giấc mơ Việt Nam mà các chí hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cùng theo đuổi và muốn chia sẻ với mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, hôm nay và ngày mai !
Trích Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai
(Dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)
Sự kiện kỷ luật ông Sơn hay cách ứng xử của thời đại Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với giới trí thức thực sự đã cho thấy một phản ứng ngược mà bản thân ông Trọng không nhận ra.
Ông Trần Đức Anh Sơn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Ảnh Thanh Niên
Kỷ luật trong Đảng cộng sản Việt Nam có nhiều mức độ, và càng ngày nó càng khiến người dân biểu lộ những cảm xúc đầy tính liên quan.
Có những kỷ luật khiến người dân phẫn nộ, vì mức độ kỷ luật nhẹ trong khi vi phạm nặng, có những kỷ luật khiến người dân càng tôn trọng người bị kỷ luật hơn. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, ông Trần Đức Anh Sơn, người vào ngày 8/03/2019 đã bị Ủy ban thường vụ thành ủy ra quyết định kỷ luật vì "đã viết, đăng tin, bài sai sự thật, không đúng với quan điểm của Đảng… trên mạng xã hội".
Trong bình luận của mình, ông Nguyễn Lương Thịnh, người là bạn với ông Trần Đức Anh Sơn chia sẻ trên Facebook cá nhân rằng, ông Sơn "chọn vị trí là Nhà Khoa học để bảo vệ và phát triển các thành quả nghiên cứu, thay vì nhận các chức danh do Đảng phân công, trong đó phải chấp hành nghị quyết của tổ chức về đề tài và biên độ nghiên cứu". Và ông Sơn "đã chủ động" thông báo quyết định của ông trước khi cơ quan báo chí của Đảng loan tin. Và thực tế cho thấy, ngày ông "về với Nhân dân" được đăng tải trên Facebook là ngày 18/02/2019.
Bị kỷ luật nhưng được hoan nghênh : vì sao ?
Càng ngày, những bản án kỷ luật nhắm vào những người trí thức thực sự (những người đang làm đảng viên những phát ngôn hoặc hành vi trái với quan điểm và chủ trương của đảng) lại được người dân hoan nghênh. Bởi câu chuyện của ông Sơn khá giống ông Chu Hảo, khi cả hai dám lên tiếng chỉ ra cái "sai của Đảng", và đánh giá về các sự kiện - hiện tượng trong xã hội theo quan điểm thẳng thắn của một sĩ phu đau lòng trước thời cuộc.
Trên Facebook ông Sơn, có những bài đăng tải lại có liên quan đến Biển Đông, và chủ quyền bị giành giật bởi Trung Quốc, về vấn đề Trung Quốc "thọc gậy" thượng đỉnh Mỹ - Triều… Ông cũng từng chia sẻ thẳng thắn trên Facebook về vấn đề chiến tranh Biên giới 1979 bằng luận điểm : Lịch sử muốn phản ánh đúng sự thật, chính trị chỉ muốn sự thật được phản ánh đúng lúc. Đáng buồn là chính trị luôn thắng lịch sử.
Nhà báo, Facebooker Chu Vĩnh Hảo cũng đón nhận tin ông Sơn bị khai trừ bằng cảm giác "rất vui", bởi ông tin rằng, "là một học giả, Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn nhất thiết phải coi trọng tính độc lập của các tiểu luận và các công trình nghiên cứu, và để đạt được tính độc lập ấy, anh cũng như các học giả khác cần phải độc lập với sự bảo hộ của bất cứ đảng phải nào".
Sự kiện kỷ luật - khai trừ đảng đối với ông Trần Đức Anh Sơn đã cho thấy, Đảng cộng sản Việt Nam đang tự rút đi những nhân tố tích cực và bền vững cho sự trường tồn của mình ra khỏi tổ chức. Tại sao ? Bởi phản biện và dám lên tiếng sẽ tạo nên nội lực trong một đảng phải, làm sạch đảng phái chứ không phải là sự tuân lệnh 100% đối với những chủ trương, điều lệ, nghị quyết sai của đảng. Đảng cộng sản Việt Nam đang suy thoái, muốn cứu vãn bằng phương pháp "hồng hơn chuyên", nhưng vô tình, những yếu tố này khiến cho đảng trở thành một tập hợp của những con sâu đục phá và dàn lợi ích nhóm chằng chịt, sẵn sàng không trái quan điểm của đảng để hoàn toàn tư lợi cá nhân.
Bởi, hình thức kỷ luật đảng bằng cách khai trừ là điều nên làm, nhưng sự lớn mạnh trong đảng chỉ có thể diễn ra khi hình thức kỷ luật này áp dụng cho chính những đối tượng tham nhũng và tham vọng quyền lực tập trung, thay vì tập trung đánh giới trí thức trong đảng (vốn là những nhân tố luôn nhấn mạnh sự độc lập, tự chủ phản biện).
Bởi, kỷ luật lần này không khác gì đảng đang trương cao quan điểm của Lenin trong thời điểm hiện nay : Các lực lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức - đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt. Mà một quan điểm khinh thị trí thức như thế càng đẩy nhanh tiến trình khủng hoảng trong đảng. Và có vẻ, "Trí thức là cứt" nên "không phải muốn nói gì là nói", ngay cả khi là con cháu "công thần" được quán triệt trong đảng một cách tuyệt đối dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng.
Mặt khác, sự ra đi của giới trí thức thực sự ra khỏi Đảng cộng sản Việt Nam cho thấy, trong đảng luôn tồn tại "vòng kim cô" siết chặt sự tự do học thuật và tự do phản biện (điều làm nên tính chất chân chính của nền khoa học nhân bản, khai phóng). Và kỷ luật khai trừ lần này cùng một lúc hai vấn đề : giới trí thức ngày càng không chất nhận sự cưỡng chiếm tư tưởng, và Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng không chấp nhận giới trí thức là đảng viên được mở rộng quyền tự do tư tưởng của mình. Có lẽ chính vì vậy, mà Facebooker Huy Truong đã chúc mừng ông Sơn trên Facebook cá nhân bằng luận điểm : Thầy Sơn là nhà khoa học chứ không phải là nhà chính trị, nên khi ra khỏi Đảng sẽ có nhiều thời gian và "không gian" để làm khoa học hơn. Chúc mừng thầy.
Sự kiện kỷ luật ông Sơn hay cách ứng xử của thời đại Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với giới trí thức thực sự đã cho thấy một phản ứng ngược mà bản thân ông Trọng không nhận ra. Bởi sự ra đi của ông Chu Hảo hay Trần Đức Anh Sơn không làm mất đi tính danh giá của cá nhân họ, mà ngược lại nó càng gia cố thêm sự danh giá cá nhân của họ, và được hoan nghênh, ca tụng là "sự trở về với nhân dân". Và bằng quyết định kỷ luật lần này của Đảng cộng sản Việt Nam áp dụng đối với ông Sơn, câu hỏi đặt ra là : Những người có tài có tâm huyết đều ra đi, vậy trong đảng còn lại những ai ?
Hoa Nghi
Nguồn : VNTB, 09/03/2019
Mỗi người Việt Nam hiện nay, không loại trừ một ai, đều là di sản hiện đại nhất, sống động nhất, của tổ tiên người Việt Nam. Dù lịch sử Việt Nam là bốn ngàn năm hay hai ngàn năm, là bộ tộc ở sông Dương tử hay ở Mã Lai (Biên khảo của Bình Nguyên Lộc), con người Việt Nam năm 2019 vẫn là phiên bản chính thống của tiền nhân Việt Nam.
Mỗi người Việt Nam hiện nay, không loại trừ một ai, đều là di sản hiện đại nhất, sống động nhất, của tổ tiên người Việt Nam.
Đã là di sản, không cần phải cắt tay đếm công thức máu, chắc chắn mỗi người Việt Nam đều có những đặc tính di truyền từ tổ tiên trong DNA. Di sản này nhìn thấy được trên mặt thể lý và cả tinh thần.
Về mặt thể lý, nhân dạng người Việt Nam đã không ngừng tiến hóa để trở nên đẹp đẽ như hôm nay. Đã có quan chức cao cấp cộng sản Việt Nam biết ca ngợi nét đẹp của con gái Việt Nam làm cho nhân dân tự hào. Những lễ hội tổ chức thi hoa hậu được khuyến khích tổ chức rình rang trên khắp nước, tại mỗi thành phố trực thuộc trung ương, ở mọi tỉnh thành và trong mọi ngành nghề, dịch vụ và tại các trường đại học. Chỉ còn thiếu hoa hậu khu công nghiệp Bô-xít Tây nguyên, vùng Vũng án Formosa, các đặc khu kinh tế là bức tranh nhan sắc của con gái Việt Nam thành toàn hảo.
Thật là tự hào vì hôm nay dân tộc ta đã vượt qua giai đoạn tiến hóa chuyển tiếp khi hai ngón chân cái không còn giao vào nhau (giao chỉ), cũng hết rồi thời răng hô và mã tấu.
Về mặt tinh thần, những đặc tính di truyền từ tổ tiên cũng sáng tỏ. Những đặc tính tuyệt vời như cần cù, nhẫn nại, an phận thủ thường… có tiềm năng làm cho sức lao động của người Việt Nam trở nên vô địch. Thật vậy, lực lượng lao động xuất khẩu hàng chục ngàn người/hàng năm đã chứng minh người Việt Nam có khả năng làm việc miệt mài nhiều giờ liên tục nhưng vẫn bằng lòng với giá tiền công bèo nhất trên thế giới. Lực lượng lao động Việt Nam nghiễm nhiên trở thành nguồn nhân lực rẻ rúng nhất được những công ty nước ngoài ở Đài Loan, Hàn quốc hay các công ty đa quốc gia trên thế giới ưa chuộng khai thác. Có ai tự hào hay ai tủi hổ vì lợi thế này của dân tộc thì cũng như nhau, hai từ cũng một vần ‘t’, ‘h’ như nhau.
Những đặc tính cốt lõi trong văn hóa và tâm lý của tiền nhân cũng được người Việt Nam thừa hưởng. Người Việt Nam biết ưu tiên sử dùng bạo lực để giải quyết xung đột cá nhân, tập thể, xã hội và trên đất nước. Người Việt Nam được cái não trạng bất dung, được làm vua thua làm giặc, hoặc mày sống hoặc tao chết, không bao giờ chịu hòa giải để hai ta cùng sống, không may, đã đưa đến hậu quả như hôm nay.
Đảng cộng sản Việt Nam, hiện thân tuyệt đối của bạo lực và sự bất dung, đã nắm được quyền cai trị Việt Nam. Người Việt Nam đang oằn oại rên xiết dưới ách cai trị bạo tàn của người bản xứ. Ai cũng mong ước được thoát khỏi ách cộng sản, nhưng không nhiều người ý thức được rằng khi văn hóa và tâm lý của người Việt Nam chưa thay đổi, Đảng cộng sản Việt Nam không thể thay đổi. Ách cộng sản là một trong những cái gen di truyền hư hỏng của tiền nhân Việt Nam.
Một ưu điểm khác nữa được thừa hưởng từ tiền nhân là người Việt Nam có niềm hy vọng vô biên về một tương lai xán lạn. Có người còn diễn cảm ấn tượng hơn nữa là khát vọng. Người Việt Nam luôn luôn lạc quan bất chấp mọi hoàn cảnh phải chịu đựng. Có vẻ càng bị đè đầu cỡi cổ trong hoàn cảnh cực kỳ khốn khổ, niềm hy vọng càng bùng lên mãnh liệt. Chắc chắn đây là một đặc tính độc đáo đã khiến người Việt Nam được xếp hạng tốp ten trong một cuộc thống kê thổ tả về người sống hạnh phúc nhất trên thế gian.
Nhưng khi hy vọng mà không bắt tay hành động thực hiện hy vọng, nó chỉ là trò chơi của cái tâm lý bất lực. Nó giúp người ta tự lừa bịp mình để chấp nhận, chịu đựng khổ nạn lâu dài hơn. Niềm hy vọng chỉ có ý nghĩa đáng nuôi dưỡng khi nó là một tố chất kích thích người ta phải hành động để thực hiện hy vọng. Chỉ hy vọng mà không đầu tư công sức thực hiện hy vọng chắc chắn sẽ đưa đến những cái ‘vọng’ không mong muốn khác như thất vọng, tuyệt vọng và ảo vọng. Không thể nào khác.
Mọi cuộc cách mạng xã hội nào cũng phải bắt nguồn từ hành động của giới trí thức. Khi giai cấp trí thức cũng chỉ biết hy vọng mà không hành động, xã hội ấy cầm chắc chỉ có thể sống thoi thóp bằng những tuyên xưng khát vọng. Đảng cộng sản Việt Nam đã cho người Việt Nam ăn no những khát vọng đổi đời như độc lập, tự do, tiến bộ, phát triển, dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh bắt kịp bạn bè năm châu.
Giới có bằng cấp to đùng ở Việt Nam hiện nay đông đảo chưa từng có trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Giai cấp có bằng cử nhân, cao học, tiến sĩ, phó giáo sư… cộng cả bằng thiệt, bằng giả, bằng mua, bằng dởm như bằng tiến sĩ xây dựng đảng, đông gấp bội Lực Lượng 47 hay dư luận viên. Nhưng, không may, có vẻ lực lượng này cũng chỉ biết hy vọng/khát vọng rằng đảng cộng sản Việt Nam sẽ thay đổi, sẽ cải thiện, sẽ cho người Việt Nam được hưởng quyền con người, được hưởng tự do và được quyền làm chủ đời mình.
Giới có bằng cấp to đùng ở Việt Nam hiện nay đông đảo chưa từng có trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Ảnh minh họa
Trong suốt hơn 40 năm kể từ khi đảng cộng sản đã cưỡng đoạt được miền Nam, giới có bằng cấp Việt Nam đã viết nhiều văn thư, kiến nghị, khuyến cáo, thỉnh nguyện, yêu cầu… rất ư là đanh thép để buộc đảng cộng sản phải cải thiện nhân quyền, phải cởi mở chính trị, phải chấm dứt chế độ độc tài đảng trị. Những văn kiện lịch sử này không biết đã đi về đâu vì chẳng thấy đảng cộng sản đá động tới, nhưng trong số người ký tên vào văn tự đã có người vào tù, người đang ở tù và còn nữa những người sắp vào tù.
Thời sự mới nhất để nói lên não trạng của lực lượng xung phong này là nhân cơ hội Tổng thống Mỹ Donald Trump và lãnh tụ kính yêu Kim Jong-un của Bắc Cao Ly đến Hà Nội dự hội nghị Giải trừ nguyên tử và Cấm vận kinh tế chẳng liên can gì đến Việt Nam, 100 người tự nhận là trí thức và nhân sĩ Việt Nam đã viết thư cho Tổng thống Mỹ đặt mọi hy vọng vào tài năng thương lượng của Trump để giúp Việt Nam được độc lập tự do và dân chủ. Giời cao ngó xuống mà coi, niềm hy vọng di truyền của người Việt Nam đã được xuất cảng sang đến Hoa kỳ.
Người ta thường nói kẻ thù truyền kiếp, mối thù truyền kiếp nhưng không ai nói hy vọng truyền kiếp nghe nghịch thường. Nhưng nếu chỉ quyết tâm hy vọng mà không bắt tay thực hiện, có mọi khả năng niềm hy vọng vô biên sẽ trở thành di sản quý báu của thế hệ người Việt Nam hôm nay truyền lại cho thế hệ mai sau. Nó trở thành niềm hy vọng truyền kiếp.
Không cần phải có bằng cấp to đùng hoặc đọc cả một nhà sách, ai cũng biết đấu tranh với Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, thực tiễn chỉ có thể hữu hiệu bằng cách xây dựng cho được một lực lượng không cộng sản làm đối trọng với đảng cộng sản.
Nếu hàng ngàn người đã ký tên vào các văn kiện đanh thép, 2000 người và 10 tổ chức đã ký tên vào ‘Yêu sách 8 điểm năm 2019’ và 100 trí thức và nhân sĩ ký tên đặt hy vọng vào tổng thống Hoa Kỳ biết đoàn ngũ hóa, biết tổ chức, dám đứng lên thành lập một tổ chức chính trị nghiêm chỉnh để thực hiện những yêu sách của mình, niềm hy vọng di truyền từ tổ tiên Việt Nam biến thành hành động, chế độ cộng sản Việt Nam ác ôn phải cáo chung. Bất chấp có Donald Trump hay Tập Cận Bình hay không.
Một tổ chức chính trị Việt Nam nghiêm chỉnh và có trách nhiệm cũng dễ nhận thấy. Tổ chức phải tuyên xưng những giá trị nền tảng làm kim chỉ nam cho hoạt động chính trị. Tổ chức phải có phương pháp để thực hiện mục đích chính trị của đảng và phương pháp để giải quyết những khó khăn, bất cập trên quốc gia. Cuối cùng, tổ chức phải có một dự án chính trị khả thi nêu lên được những mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục… cần phải thực hiện ưu tiên để chấn chỉnh lại một xã hội đã bị biến dạng méo mó dưới chế độ cộng sản. Mọi tổ chức chính trị không đầu tư vào những bước căn bản để xây dựng tổ chức nghiêm chỉnh không có tiềm năng lãnh đạo.
Hy vọng của người Việt Nam chỉ thành hiện thực khi giới trí thức Việt Nam thoát ra được thảm cảnh ‘sĩ khí rụt rè, gà phải cáo’ hiện nay. Trí thức Việt Nam dám dấn thân vào làm công việc chung là làm chính trị, thành lập tổ chức chính trị hoặc tham gia tăng cường sức mạnh cho một tổ chức chính trị đã thành lập, học tập và hoạt động trong tổ chức và áp dụng kỹ năng tổ chức quần chúng để làm áp lực tối đa buộc chế độ cộng sản vào thế phải điều đình với lực lượng dân chủ Việt Nam để tìm một cách hạ cánh an toàn cho Đảng cộng sản Việt Nam.
Viễn ảnh này không còn xa nữa vì đã có trí thức lên đường và đã có tổ chức chính trị mời bạn tham gia.
Sơn Dương
(02/03/2019)
Khi Tập Cận Bình trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc thì một trong những việc đầu tiên ông ấy làm là mở rộng thêm hàng trăm Viện Khổng Tử trên khắp thế giới. Ước lượng có khoảng 500 Viện Khổng Tử ở 142 quốc gia.
Ước lượng có khoảng 500 Viện Khổng Tử ở 142 quốc gia.
Khổng Tử tức là Khổng Khâu hay Khổng Khưu, sinh năm 551 trước Công nguyên. Ông được xem là người khai sáng Nho giáo. Ông được tôn vinh như là một triết gia vĩ đại nhất của Trung Quốc và ông chính là người đặt nền móng văn hóa và trật tự cho các chế độ phong kiến Trung Quốc trong hơn 2500 năm qua.
Vì sao Tập Cận Bình tôn vinh và đề cao các giá trị của Khổng Tử ? Lý do rất giản dị vì văn hóa của Khổng Tử chính là văn hóa nô lệ và cam chịu. Hậu thế không thể trách Khổng Tử vì ông sống cách đây đã 2500 năm, ở thời kỳ tăm tối đó mà suy nghĩ và nói, viết ra được những điều như ông thì đã là rất vĩ đại và ông xứng đáng được tôn vinh. Tuy nhiên trong thời đại ngày nay mà vẫn còn đề cao những văn hóa của Khổng Tử thì quả thật là có vấn đề. Đừng quên rằng trong 100 năm qua, nhân loại đã đạt được những thành tựu vĩ đại trong mọi lĩnh vực còn hơn cả 4000 năm lịch sử trước đó cộng lại.
Văn hóa Khổng giáo đã được các chế độ phong Trung Quốc trước đây và giờ là Tập Cận Bình lợi dụng và dùng để trói chặt người dân Trung Quốc vào một trật tự "ổn định" có lợi cho những kẻ cai trị. Văn hóa Khổng giáo hoàn toàn mâu thuẫn và chống đối văn hóa dân chủ. Văn hóa Khổng giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất lâu và có ảnh hưởng lớn đến văn hóa, chính trị và xã hội của nước ta. Cũng vì thế mà Việt Nam cùng với Trung Quốc hiện vẫn đang là những quốc gia cuối cùng trên trái đất chưa có dân chủ.
Để tìm hiểu về tác hại và ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo trong tiến trình dân chủ hóa đất nước thì độc giả nên tìm đọc cuốn "Tổ Quốc Ăn Năn" của ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông Nguyễn Gia Kiểng là một nhà tư tưởng chính trị nên cách phân tích và mổ xẻ vấn đề của ông rất khoa học và thuyết phục.
Hiện nay, đa số trí thức Việt Nam, nhất là các trí thức trẻ đã nhận ra được sự lạc hậu của văn hóa Khổng giáo và muốn đoạn tuyệt với chúng nhưng không phải dễ và ai cũng có thể làm được. Văn hóa là thứ đã ăn sâu vào tiềm thức trong mỗi con người chúng ta. Có thể chúng ta thấy nó là sai, muốn đoạn tuyệt với nó nhưng khi hành động thì chúng ta vẫn bị thứ văn hóa đó chi phối và dẫn dắt một cách vô thức.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là tổ chức chính trị nói nhiều nhất về tác hại của văn hóa Khổng giáo, để làm gì ? Câu trả lời cũng đơn giản, nếu chúng ta không khai thông được tư tưởng và đoạn tuyệt với thứ văn hóa nô lệ đó thì đất nước sẽ không bao giờ có dân chủ. Sĩ phu ngày trước (tức là trí thức bây giờ) trong văn hóa Khổng giáo được mặc định là làm "nô lệ" cho một ông vua nào đó chứ không phải làm chủ đời mình càng không phải là tầng lớp tiên phong đảm nhận trách nhiệm hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng.
Hiện tại rất nhiều trí thức Việt Nam đã lên tiếng phản bác các sai trái của chính quyền, mặc dù lời lẽ hay văn phong có lúc rất gay gắt nhưng thâm tâm vẫn là sẵn sàng "qui phục" chính quyền khi chính quyền thỏa mãn một phần nghìn những mong muốn của họ. Đảng cộng sản Việt Nam đã cầm quyền tuyệt đối trong hơn 70 năm qua và thực tế chứng minh rõ ràng là họ thất bại hoàn toàn trong mọi lĩnh vực. Dù thế trí thức Việt Nam vẫn đặt hy vọng và mong chờ vào sự thay đổi của Đảng cộng sản. Họ biết là vô ích nhưng họ vẫn làm vì họ bế tắc do bị ảnh hưởng bởi văn hóa nô lệ của Khổng giáo.
Phần lớn trí thức Việt Nam vẫn không tin vào chính mình, không tin vào thành quả trí tuệ của nhân loại về dân chủ, không tin vào tương lai nên họ vẫn loay hoay không biết làm gì để góp phần dân chủ hóa đất nước. Họ không tin là phong trào dân chủ có thể đánh bại được Đảng cộng sản nên thay vì tìm hiểu để ủng hộ cho một tổ chức chính trị dân chủ (hoặc tự thành lập một tổ chức chính trị nếu thấy không có tổ chức nào ưng ý) thì họ chỉ tìm cách năn nỉ và thuyết phục chính quyền.
Văn hóa nô lệ vẫn còn chi phối và dẫn dắt trí thức Việt Nam một cách vô thức nhưng rất mạnh mẽ.
Phần lớn trí thức Việt Nam chọn cách hoạt động nhân sĩ, tức là độc lập, một mình, không tham gia một tổ chức hay hội đoàn nào và thậm chí không ít người còn tự hào về điều đó. Kết quả là họ vẫn bị chính quyền bỏ tù và sau khi ra tù, thì họ, hoặc là bỏ cuộc hoặc là tiếp tục "góp ý" với chính quyền, mong chính quyền lắng nghe và thay đổi. Họ không biết rằng hoạt động và đấu tranh chính trị là giữa các tổ chức chính trị với nhau chứ không phải là giữa các cá nhân. Cũng có thể họ biết như vậy nhưng họ không tin là có thể kết hợp được với nhau trong một tổ chức và không chắc là thành công.
Tóm lại văn hóa nô lệ vẫn còn chi phối và dẫn dắt họ một cách vô thức nhưng rất mạnh mẽ. Thực tế, đấu tranh chính trị mà không có tư tưởng và tổ chức thì sớm muộn gì cũng bỏ cuộc. Những người không bỏ cuộc thì sau một thời gian dài thấy không thay đổi được gì bèn quay lại... năn nỉ chính quyền. Một vòng tròn khép kín, một cuộc hành trình dài và kết thúc bằng việc quay về... vị trí xuất phát ban đầu. Rất nhiều nhân sĩ, trí thức Việt Nam, kể cả những người đã từng ở tù hoặc là những cây bút bất đồng chính kiến nổi tiếng đã rơi vào vòng tròn luẩn quẩn này.
Cuốn sách "Tổ Quốc Ăn Năn" mà tôi đề cập ở trên hiện nay có lẽ đạt được 5 triệu lượt người đọc và tải về, tài liệu chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai không bằng nhưng cũng được nhiều người tìm đọc. Tôi tin là đa số những người đã đọc hai cuốn sách này đều thấy hay, thấy đúng và nhất là thấy có tương lai và hy vọng về đất nước, nhưng rồi sau đó thì sao ? Thực tế là đa số đọc rồi để đấy thay vì lên tiếng ủng hộ hay tham gia cùng chúng tôi. Có thể họ cũng tin rằng chúng tôi nói đúng và có tương lai nhưng họ thay vì nhập cuộc cùng chúng tôi thì họ…ngồi chờ. Có những ý kiến rằng : khi nào các bạn (tức Tập Hợp) mạnh lên và qui tụ được vài ngàn người thì tôi sẽ tham gia…Tại sao phải chờ, chờ ai và chờ cái gì ?
Cuốn sách "Tổ Quốc Ăn Năn" mà tôi đề cập ở trên hiện nay có lẽ đạt được 5 triệu lượt người đọc và tải về
Nhiều ý kiến cho rằng Tập Hợp kém, không làm được gì suốt hơn 30 năm qua… Kém thì có lẽ không sai nhưng bảo "Tập Hợp không làm được gì…" là không chính xác. Thực tế là đã có tổ chức nào làm được gì đâu ? Cũng nên nhớ rằng các tổ chức đối lập (như Tập Hợp) không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào cho đến khi cầm quyền. Các tổ chức đối lập cũng không có phương tiện và công cụ gì để giúp dân oan hay cải thiện đời sống người dân về giáo dục, y tế… Các tổ chức đối lập chỉ đưa ra các chính sách và đề nghị cho tương lai, nếu thấy đúng thì người dân ủng hộ để tổ chức đối lập đó trở thành đảng cầm quyền và khi đó chúng tôi mới có cơ hội và phương tiện để thực thi các đề nghị của mình trước đó.
Sở dĩ trí thức Việt Nam vẫn chưa ủng hộ cho các tổ chức đối lập là vì họ không (hoặc chưa) hiểu, thế nào là một tổ chức chính trị, cứu cánh của hoạt động và đấu tranh chính trị là gì ? Họ không biết vì họ không muốn biết chứ không phải vì chúng quá khó hay vì chúng chưa được khám phá. Họ không muốn biết vì tâm thế của họ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tâm thế nô lệ từ văn hóa Khổng giáo. Cuộc vận động dân chủ mà Tập Hợp khởi xướng và đề nghị không tiến nhanh như nhiều người mong muốn là vì đụng phải bức tường văn hóa đó. Chúng tôi biết rõ điều này nên trong Dự án Chính trị có viết rằng để xây dựng được một tổ chức chính trị đúng nghĩa phải mất vài thập niên… Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước của Tập Hợp cũng là cuộc "cách mạng văn hóa" nên không thể nào nhanh được.
Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước của Tập Hợp cũng là cuộc "cách mạng văn hóa" nên không thể nào nhanh được.
Trong cuộc hành trình đó chúng tôi khá cô đơn, các nhân sĩ trí thức Việt Nam thay vì ủng hộ chúng tôi thì họ còn làm nhiều hành động "phản chính trị" như việc xin xỏ chính quyền, viết các loại thư ngỏ, kiến nghị hay chạy theo các sự kiện do Ban tuyên giáo nặn ra. Ví dụ Bản Yêu sách 8 điểm mới đây của các nhân sĩ. Có ba điểm đáng thảo luận.
Thứ nhất, tại sao phải "ăn theo" bản yêu sách 8 điểm của Nguyễn Ái Quấc cách đây 100 năm ? Đảng cộng sản suốt ngày ra rả "học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh" chưa đủ hay sao mà giờ cả các nhân sĩ đối lập cũng "học theo tấm gương" này ? Tại sao không phải là chính mình ? Sao không tự nghĩ ra, viết rồi ký tên một cách đàng hoàng ?
Thứ hai, sao lại có thể viết "Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, việc Nhà nước Việt Nam thực hiện Yêu Sách Tám Điểm về các quyền căn bản nói trên của người dân là con đường duy nhất đưa nước Việt Nam thoát khỏi thực trạng lạc hậu về kinh tế, thối nát về chính trị xã hội, và nguy cơ đánh mất chủ quyền quốc gia vào tay ngoại bang…" ? Sau 73 năm Đảng cộng sản đập phá đất nước mà vẫn còn "hoàn toàn tin tưởng" vào họ là thế nào ? Tại sao lại là "con đường duy nhất" ? Nếu họ không thực hiện (mà 100% là họ không thực hiện) thì phải chấp nhận sự cai trị vĩnh viễn của họ sao ?
Thứ ba, yêu sách viết "Chúng tôi kêu gọi mọi người dân Việt Nam hãy thực hiện các quyền hiến định của mình mà không đợi ai cho phép". Vậy là các nhân sĩ thừa nhận bản Hiến pháp 2013 ? Đây là một hiến pháp áp đặt và phản dân chủ mà rất nhiều nhân sĩ trên cũng đã từng ký tên phản đối, sao giờ lại kêu gọi người dân nhìn nhận nó ? Tại sao không viết là "…thực hiện các quyền căn bản được viết trong bản Tuyên ngôn Phổ cập về Quyền Con người của Liên Hợp Quốc ?"…
Các nhân sĩ sẽ lập luận rằng "cần phải thực tế, phải chấp nhận chế độ hiện hành vì chính quyền có nhà tù và dùi cui, phải đòi (xin) từ từ chứ không thể ngay một lúc, hoàn cảnh chỉ cho phép làm đến thế…" Những điều này không sai. Điều đáng nói ở đây là tinh thần, thái độ và cách nói. Đúng là kẻ yếu thì không làm gì được kẻ mạnh nhưng không vì thế mà phải khen ngợi và ve vuốt chính quyền, ca tụng những điều không có, sai và nhảm nhí. Không nên nói những điều không đáng nói vì chúng sẽ làm hạ thấp nhân cách của người nói, người viết. Chúng tôi cũng thường xuyên đưa ra những khuyến cáo cho Đảng cộng sản, phân tích cho họ những điều nên làm và không nên làm vì tương lai của chính họ và đất nước nhưng không bao giờ chúng tôi hạ thấp mình bằng những câu như "chỉ có đảng mới có thể làm được điều đó", "chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào chính quyền"…
Một ví dụ nữa xung quanh vụ lùm xùm liên quan đến việc dùng xe công đón vợ bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh. Đối với quan chức Đảng cộng sản thì đây là chuyện "rất bình thường", ông Trần Tuấn Anh bị "tấn công" là do tranh chấp nội bộ và phe nhóm, các thông tin được báo chí chính thống tung ra kèm theo các văn bản mà chỉ nội bộ mới có. Chúng ta chỉ cần nhân cơ hội này để phơi bày rõ hơn sự lạm quyền của giới quan chức cộng sản là đủ. Không nên viết những câu như "phải mạnh tay để lấy lại uy tín của đảng", "nhân cơ hội này, chính quyền cần dẹp bỏ việc dùng xe công tùy tiện"… Nghe rất vô duyên và nịnh bợ.
Vụ dân oan Thủ Thiêm chưa giải quyết xong thì lại đến vụ Vườn rau Lộc Hưng. Bản chất của Đảng cộng sản có gì thay đổi đâu ? Người dân có lương tâm ai cũng đau lòng và phẫn nộ nhưng chúng ta có thể làm được gì ? Vấn đề "sở hữu đất đai" thuộc về chính sách nhà nước, là một vấn đề hoàn toàn thuộc về chính trị. Phải có những giải pháp chính trị từ thượng tầng, từ thể chế chính trị. Cái gốc của mọi bất công và oan trái mà người dân đang phải gánh chịu đều xuất phát từ thể chế chính trị độc quyền và độc tài của Đảng cộng sản. Không thay đổi được cái gốc đó thì không thể thay đổi được điều gì. Chỉ có các tổ chức chính trị có tầm vóc mới gây áp lực buộc Đảng cộng sản Việt Nam thay đổi. Vì thế việc làm cấp thiết nhất bây giờ là tìm hiểu và ủng hộ cho các tổ chức chính trị chứ không phải việc lên án, chỉ trích hay "khuyên nhủ và van xin" chính quyền.
Khi chúng tôi thảo luận các vấn đề này với anh em thân hữu thì có người khuyên là không nên "gây mất đoàn kết", các nhân sĩ cũng là người tốt và có tấm lòng…Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng ta tránh né thảo luận các vấn đề nền tảng thì làm sao đoàn kết và hiểu nhau ? Đất nước đang lâm nguy mà chúng ta cứ "lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau" liệu có tốt và có nên không ? Chúng tôi sẽ và luôn thảo luận trên tinh thần xây dựng và tương kính chứ không có mục đích gì khác. Chúng ta là "đồng minh" trên con đường dân chủ hóa đất nước nên cần thẳng thắn thảo luận với nhau về mọi vấn đề khúc mắc. Giải tỏa được chúng thì phong trào dân chủ mới tiến nhanh được.
Trí thức Việt Nam phải nỗ lực rất lớn mới có thể rũ bỏ tâm thế nô lệ của văn hóa Khổng giáo. Cần tìm hiểu và học hỏi nghiêm túc về chính trị để tham gia, ủng hộ và xây dựng nên các tổ chức chính trị hùng mạnh và có tầm vóc. Đây mới là con đường đúng đắn và duy nhất để mang lại dân chủ cho Việt Nam.
Việt Hoàng
(10/1/2019)
Lần đầu tiên trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nói rất rõ ràng trong một cuộc họp báo (hôm 15/10/2018 tại Áo) rằng "Việt Nam là một nước dân chủ và chúng tôi lên án chế độ độc tài". Ai cũng hiểu là ông Phúc chỉ "nổ" vậy thôi chứ thực tế thì Việt Nam vẫn là một nước độc tài, tuy nhiên ông Phúc và Đảng cộng sản Việt Nam trong sâu thẳm, họ vẫn hiểu là họ không thể đi theo con đường cũ được nữa, họ đang bơi ngược dòng lịch sử. Ông Tổng-Chủ Nguyễn Phú Trọng cũng từng nói là : "Đến hết thế kỷ này không biết đã có xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hay chưa ?".
Mọi thay đổi tại Việt Nam phải đảm bảo quyền lợi cho các đảng viên cộng sản, nhất là các đảng viên từ Ủy viên trung ương trở lên.
Đảng cộng sản Việt Nam có muốn thay đổi cho hợp với thời đại không ? Tôi nghĩ là có. Nhưng thay đổi thế nào lại là một chuyện đáng bàn. Dư luận Việt Nam cho rằng đảng "thà mất nước còn hơn mất đảng", nghe thì có vẻ quá lời nhưng không có gì là lạ vì đảng gắn liền với quyền lợi. Mọi thay đổi tại Việt Nam phải đảm bảo quyền lợi cho các đảng viên cộng sản, nhất là các đảng viên từ Ủy viên trung ương trở lên.
Trong bài viết trước tôi có đặt vấn đề "Đảng cộng sản Việt Nam phải làm gì để thoát hiểm ?" (1). Theo tôi thì chỉ có một cách duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam chủ động dân chủ hóa đất nước, là tác nhân của sự thay đổi, thay vì không làm gì để trở thành nạn nhân của sự thay đổi. Muốn thế Đảng cộng sản Việt Nam phải nghĩ đến chuyện "đối thoại" với một vài tổ chức dân chủ đối lập của Việt Nam để cùng bàn bạc và tìm ra hướng đi và cách thức chuyển đổi Việt Nam về hướng dân chủ trong điều kiện tốt đẹp nhất cho đất nước và cho cả Đảng cộng sản Việt Nam.
Việc "đối thoại" với tổ chức nào, khi nào và trong hoàn cảnh nào là việc của Đảng cộng sản Việt Nam, họ sẽ làm việc đó khi thấy cần thiết và "không thể không làm". Tuy nhiên trước mắt thì chuyện đó chưa thể xảy ra. Không phải vì Đảng cộng sản Việt Nam không muốn mà là do các tổ chức dân chủ đối lập chưa đủ tầm vóc và trọng lượng.
Một kẻ mạnh (hoặc tưởng mình mạnh) không bao giờ hạ mình để "nói chuyện" với một kẻ quá yếu, đó là qui luật của cuộc sống. Tất nhiên là các tổ chức dân chủ đối lập của Việt Nam sẽ không bao giờ có được sức mạnh và tầm vóc "ngang hàng" với Đảng cộng sản Việt Nam vì họ đã lãnh đạo độc quyền Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và có trong tay mọi nguồn lực của đất nước. Tuy nhiên các tổ chức đối lập dân chủ lại có trong tay một sức mạnh phi thường đó là lẽ phải, sự thật và đại diện cho một tương lai bắt buộc phải đến.
Làm thế nào để giải quyết được bài toán hóc búa là vừa đảm bảo mọi quyền lợi cho các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam vừa dân chủ hóa được đất nước ? Với một dân tộc bị chia rẽ gay gắt và bị chấn thương tâm lý nặng nề như Việt Nam thì mọi giải pháp dù đúng đắn đến đâu cũng sẽ bị phản đối gay gắt lúc ban đầu. Nếu không có bản lĩnh và một tư tưởng chính trị đứng đắn dẫn đường thì bất cứ ai cũng rất dễ bị dư luận và những kẻ quá khích lung lạc và thao túng.
Việc đảm bảo quyền lợi cho Đảng cộng sản Việt Nam không khó. Với đại đa số đảng viên cấp trung và cấp thấp thì rất dễ giải quyết khi mọi công việc, chính sách và lương bổng của họ vẫn được giữ nguyên như cũ. Điều này thì dù bất cứ trong hoàn cảnh nào và với bất cứ chế độ nào thì cũng phải làm như vậy, không thể khác được. Khó hơn cả là những đảng viên cao cấp có tài sản rất lớn từ tham nhũng. Họ là những người bảo vệ chế độ với quyết tâm hơn ai hết vì họ sợ mất đảng là mất tất cả.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã đưa ra đề nghị và phương án giải quyết vấn đề này rất đầy đủ trong Dự án Chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2, đặc biệt là chương 8 nói về quá trình chuyển tiếp từ chế độ cộng sản sang chế độ dân chủ (2). Có thể vắn tắt là "sẽ không có ai bị truy tố vì bất cứ điều gì đã làm trong quá khứ. Sẽ không có các vụ án chính trị. Nhà nước tương lai sẽ không đứng ra truy tố bất kỳ ai". Tuy nhiên công lý sẽ phải thực thi khi có người tố cao đích danh ai đó vì những sai phạm họ đã làm trong quá khứ. Ví dụ một người dân có quyền tố cáo một người cảnh sát đã vô cớ đánh đập họ. Khi đó các tòa án dân sự độc lập sẽ thụ lý vụ án và xét xử một cách minh bạch theo đúng pháp luật. Nhà nước sẽ không can thiệp vào những vụ án đó.
Một vấn đề tranh cãi trong tương lai là việc thu hồi các tài sản bị cho là tham nhũng của các quan chức cộng sản. Cho dù cố gắng đến đâu thì cũng rất khó khăn để thu hồi toàn bộ tài sản này và thật ra chúng cũng không quá nhiều. Đây không phải là ưu tư hàng đầu của chính quyền tương lai. Nếu biết sắp xếp lại và quản trị quốc gia tốt thì chúng ta sẽ tạo ra một nguồn của cải vô cùng lớn khi giải phóng được sức người và trí tuệ của gần 100 triệu người Việt Nam. Đó mới là điều đáng làm và đáng nói.
Vấn đề mà mỗi trí thức Việt Nam và những ai quan tâm đến vận mệnh đất nước cần quan tâm và thao thức là làm sao để Đảng cộng sản Việt Nam chịu ngồi vào bàn đàm phán với các lực lượng dân chủ ? Giải pháp chỉ có một và chúng tôi đã trình bày nhiều lần, chúng ta chỉ có thể làm được điều đó khi cùng nhau tham gia hoặc ủng hộ cho một vài tổ chức đối lập dân chủ đứng đắn để tổ chức đó trở nên hùng mạnh và có tầm vóc. Khi đó dù không muốn Đảng cộng sản Việt Nam cũng phải tìm cách thỏa hiệp để cùng tồn tại và hạ cánh an toàn.
Sỡ dĩ cho đến giờ Việt Nam vẫn chưa có được một tổ chức chính trị đối lập có tầm vóc như mong muốn là do văn hóa của chúng ta cản trở chứ không phải vì Đảng cộng sản Việt Nam giỏi đàn áp. Ngay cả hải ngoại, nơi mà chúng ta hoàn toàn tự do, người Việt cũng chưa làm được việc đó.
Văn hóa Khổng giáo rất tai hại khi cổ xúy và tạo nên tính cam chịu trong mỗi người. Ai cũng sợ nói khác, làm khác với mọi người xung quanh. Tất cả những hành động hay suy nghĩ khác với "thông thường" đều bị dè bỉu, xa lánh và chỉ trích. Đây là một nét tương đồng giữa văn hóa Khổng giáo và chủ nghĩa cộng sản khi luôn đề cao văn hóa "đồng phục tư tưởng" như thời Trung cổ Châu Âu. Thời đó những ai nói khác với nhà thờ đều là "dị giáo" và cần phải xử tử. Nhà bác học Galilê bị giam cầm đến lúc chết vì khẳng định trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ và trái đất quay quanh mặt trời.
Trong khi đó, ở các nước dân chủ Phương Tây thì ngược lại, mọi suy nghĩ mới lạ đều được tôn trọng và thảo luận một cách nghiêm túc. Sự khác biệt tạo lên tính cách, sự văn minh, giàu có và nổi tiếng cho người tạo ra nó. Sáng kiến và ý kiến luôn được nuôi dưỡng, khuyến khích và trân trọng vì thế xã hội của họ ngày càng phát triển và văn minh. Chỉ có duy nhất trong lĩnh vực thời trang thì có lẽ người Việt đã bắt kịp với thế giới khi luôn cố gắng tìm tòi, sáng tạo và tôn vinh sự khác biệt. Các ngôi sao luôn cố gắng tạo ra một phong cách, một gu thời trang riêng cho mình và rất tối kỵ khi bị "đụng hàng" với người khác. Thế nhưng trong lĩnh vực tư tưởng thì người Việt không được như thế. Chỉ cần một ý kiến mới lạ hay một "góc nhìn khác" là bị tấn công ngay lập tức bằng những niềm tin sẵn có, bằng những xác quyết mơ hồ không căn cứ dựa trên sự mơ mộng hão huyền thay vì lý luận một cách khoa học và có lý trí.
Ngoài lý do đến từ văn hóa Khổng giáo thì việc bị chấn thương tâm lý tập thể sau hàng trăm năm nội chiến, nhất cả cuộc nội chiến 1954-1975 đã làm cho tâm lý người Việt bị tổn thương nặng nề. Nhiều người không còn biết đến lý lẽ là gì, họ chỉ hành động theo cảm tính bất chấp việc đó có lợi hay có hại. Trong đó có không ít người thuộc thành phần trí thức. Cứ nhìn vào cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tại Mỹ hôm 6/11/2018 là rõ. Dù các cuộc thăm dò trước đó đã dự đoán là đảng Dân chủ sẽ thắng ở Hạ viện và đảng Cộng hòa của Trump chỉ còn nắm Thượng viện, và dù kết quả đúng như vậy nhưng 2/3 người Việt tại Mỹ vẫn ủng hộ Trump cuồng nhiệt. Họ mạ lỵ và tấn công những người nói khác về Trump mà không cần đến lý lẽ và bất chấp sự thật. Họ tin và xem Trump như là vị Thánh có thể đánh bại Trung Quốc và sau đó là Đảng cộng sản Việt Nam. Niềm tin của họ như là niềm tin vào tôn giáo nên không cần lý lẽ và lô-gic.
Nếu bây giờ Việt Nam diễn ra một cuộc bầu cử tự do thì một ứng cử viên bạt mạng và vô đạo đức như kiểu Trump hoàn toàn có thể chiến thắng trước những người có viễn kiến và đạo đức. Đây cũng là một lý do để người Việt Nam đoạn tuyệt với mô hình chính trị "tổng thống chế".
Những người Việt ủng hộ Trump cho rằng đạo đức không quan trọng miễn là làm được việc ? Như vậy chẳng lẽ chúng ta lại dạy con cháu rằng cứ việc dối trá, lừa lọc, phản bội, thô lỗ, không coi ai ra gì…miễn là làm ra nhiều tiền ? Đây là một tâm lý và suy nghĩ hồ đồ, nông cạn và nguy hiểm. Những kẻ không tôn trọng các giá trị đạo đức là những kẻ dám làm tất cả. Hit-le, Mao Trạch Đông, Lênin, Ponpot…đều thế cả. Làm sao có thể ủng hộ những người như vậy được ?
Đảng cộng sản Việt Nam muốn hạ cánh an toàn trong tương lai thì nên tạo điều kiện để các tổ chức chính trị và các tiếng nói ôn hòa có đất sống và phát triển để đến một lúc nào đó còn có thể ngồi lại với nhau và đàm phán về tương lai của đất nước và của chính họ. Nếu những tiếng nói ôn hòa bị tiêu diệt thì đến một lúc nào đó Đảng cộng sản Việt Nam sẽ phải đối đầu với những kẻ cực đoan, là những kẻ không cần biết và quan tâm đến lý lẽ mà chỉ hành động theo bản năng. Đổ vỡ sẽ rất kinh hoàng.
Trí thức Việt Nam còn ưu tư với đất nước nên tìm đến với nhau và chung tay xây dựng một vài tổ chức chính trị dân chủ đối lập có tầm vóc, trước tiên là để tạo ra một tiếng nói mạnh mẽ và thống nhất nhằm áp đảo các khuynh hướng bạo động và cực đoan trong tâm thức người Việt, đề cao các giá trị đạo đức và tinh thần bao dung, hòa giải dân tộc và sau cùng là làm đối trọng để đàm phán với Đảng cộng sản Việt Nam.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã can đảm, bao dung và mạnh mẽ trong suốt nhiều thập niên, nhiều lúc chấp nhận mọi búa rìu của dư luận để xiển dương phương pháp đấu tranh bất bạo động trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để thiết lập một nền dân chủ đa nguyên thật sự cho Việt Nam. Chúng tôi cần được ủng hộ và sự tiếp tay của trí thức Việt Nam. Việc những người như ông Chu Hảo chia tay với Đảng cộng sản là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong lúc này. Tuy nhiên vẫn chưa đủ. Họ cần tiến thêm một bước nữa, hoặc là lên tiếng ủng hộ cho một tổ chức chính trị dân chủ sẵn có hoặc là cùng nhau thành lập ra một chính đảng mới bởi vì đấu tranh chính trị luôn là đấu tranh có tổ chức chứ không bao giờ là đấu tranh cá nhân. Trong tình hình đất nước hiện nay thì chúng ta cần nhìn nhận và tôn vinh những người có đóng góp thiết thực cho quá trình xây dựng các chính đảng dân chủ đối lập của Việt Nam thay vì tung hô những người trí thức độc lập, tranh đấu cá nhân theo kiểu nhân sĩ.
Muốn đất nước có dân chủ thì phải có đa đảng mà muốn đa đảng thì phải thành lập các chính đảng. Việc thành lập và duy trì một tổ chức chính trị dân chủ rất là khó khăn và gian nan. Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập và hậu thuẫn mọi thứ, từ tiền bạc vũ khí đến lý luận và thậm chí là cả con người bởi Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc. Chúng ta không có ai ủng hộ như Đảng cộng sản trước đây và nếu có cũng không nên nhận vì ai chi tiền kẻ đó có quyền ra lệnh, khi đó chúng ta sẽ là con tin trong tay những thế lực mờ ám. Chúng ta có lẽ phải và sự ủng hộ tinh thần to lớn của thế giới văn minh và hậu thuẫn mạnh mẽ của chính người dân Việt Nam. Bấy nhiêu đó là đủ nếu chúng ta có một tổ chức đủ mạnh để người dân đặt niềm tin.
Xây dựng một tổ chức không hề đơn giản, hàng trăm tổ chức vội vã ra đời và vội vã ra đi chỉ trong một thời gian ngắn, từ trong nước đến ngoài nước. Sự hời hợt và vụng về của những người "vội vã" đó làm mất đi một thứ rất lớn là "niềm tin" của dân chúng. Không còn ai dám tin vào tương lai của đất nước, không còn ai tin vào nội lực của người Việt. Chính vì thế mà không ít người phải đặt niềm tin vào những thứ viển vông như tin rằng Trump sẽ đánh gục Trung Quốc và mang lại dân chủ cho Việt Nam.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là một tổ chức chính trị dân chủ đã ra đời và tồn tại 35 năm qua, dù trải qua nhiều sóng gió và thậm chí là chia ly nhưng rồi chúng tôi vẫn vượt qua được tất cả và luôn tiến về phía trước. Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho bất cứ ai quan tâm và trong thực tế chúng tôi vẫn luôn nhắc đến những vấn đề nan giải đó để cảnh báo mọi người. Hai vấn đề quan trọng nhất mà một tổ chức không thể thiếu đó là một tư tưởng chính trị trong sáng, rõ ràng và khả thi để làm kim chỉ nam dẫn đường cho các thành viên của tổ chức. Tư tưởng chính trị đó đồng thời cũng phải được trình bày cho người dân được rõ thông qua một Dự án Chính trị nghiêm túc để người dân biết được tổ chức đó đề nghị những gì, muốn gì và sẽ làm gì trong hiện tại lẫn tương lai. Vấn đề thứ hai mà một tổ chức không thể thiếu được đó là một đội ngũ cán bộ nòng cốt, là những người nắm rõ tư tưởng đường lối của tổ chức, thống nhất trong lập trường và trong mọi hành động của tổ chức. Vấn đề hình thức không nên đặt nặng trong thời gian đầu như các chức danh và ban bệ trong khi thực lực chưa có…
Không có các tổ chức chính trị hùng mạnh thì sẽ không có thế lực nào có thể buộc Đảng cộng sản ngồi vào bàn đàm phán và như thế Việt Nam sẽ không bao giờ có dân chủ. Đã đến lúc phong trào dân chủ Việt Nam nên ý thức được tầm quan trọng của các tổ chức chính trị dân chủ và cần bắt tay ngay vào việc ủng hộ, tham gia hoặc thành lập các tổ chức chính trị như vậy.
Giai đoạn chuyển tiếp đất nước thời kỳ hậu cộng sản sẽ vô cùng phức tạp và có nhiều việc cần làm tuy nhiên tất cả những vấn đề này đã được Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nghiên cứu, dự liệu và trình bày đầy đủ, rõ ràng trong Dự án Chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ 2. Xin giới thiệu cùng độc giả chương 8 : Chuyển tiếp thành công về dân chủ.
Việt Hoàng
(10/11/2018)
1. Bài toán chuyển tiếp
Sau khi chế độ độc tài đảng trị chấm dứt chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn chuyển tiếp cực kỳ khó khăn. Trong một khoảng thời gian chừng năm năm, nước ta sẽ phải làm những cố gắng rất phi thường để vượt qua những thử thách vô cùng cam go trước khi có thể trở thành một quốc gia bình thường và hội nhập thực sự vào cộng đồng quốc tế.
Chúng ta sẽ phải chuyển đổi từ một hệ thống nhất nguyên, tập trung, chuyên quyền sang một chế độ đa nguyên, tản quyền và phân quyền.
Chúng ta sẽ phải thay thế một kinh tế hoạch định đặt nền tảng trên các xí nghiệp quốc doanh bằng một kinh tế thị trường lấy các xí nghiệp tư làm sức mạnh.
Chúng ta sẽ phải biến một guồng máy chính quyền tham nhũng, quan liêu, bàn giấy, công cụ của một đảng thành một nhà nước hữu hiệu, trách nhiệm, lành mạnh, phục vụ cho công ích.
Chúng ta sẽ phải chấm dứt lối quản lý tùy tiện bằng nghị quyết và chỉ thị để thiết lập một nhà nước dân chủ pháp trị đúng nghĩa.
Chúng ta sẽ phải thay thế bộ máy công an được quan niệm và tổ chức như một dụng cụ đàn áp của Đảng Cộng Sản bằng một bộ máy công an bảo vệ trật tự an ninh và dân quyền ; thay thế các tòa án được coi như cánh tay nối dài của công an bằng những tòa án độc lập chỉ có sứ mạng thể hiện luật pháp.
Chúng ta sẽ phải thay thế một nền giáo dục tuyên truyền, nhồi sọ và thiếu phẩm chất bằng một nền giáo dục khách quan, khai phóng và phẩm chất cao. Chúng ta coi giáo dục và đào tạo là cuộc đấu sống còn của đất nước.
Chúng ta kế thừa một đất nước suy kiệt toàn diện, trộm cướp lộng hành, tham nhũng đã thành định chế, dối trá và gian lận đã thành một phản xạ quốc gia, các bệnh truyền nhiễm lan tràn một cách không kiểm soát, tuổi trẻ thất học và bỏ học, con người suy nhược, bi quan và chán nản, chênh lệch giầu nghèo lộ liễu và thách đố, hàng chục triệu người sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực, hàng triệu dân oan sống trong tức tưởi từ nhiều năm nay sau khi bị truất hữu đất và chỉ được bồi thường với giá cưỡng đoạt, môi trường sinh thái bị hủy hoại và ô nhiễm, chủ quyền và ngay cả đất đai đã mất nhiều về tay người ngoại quốc. Chúng ta sẽ phải biến đất nước đó thành một đất nước lương thiện và lành sạch, có kỷ cương, có đầy đủ chủ quyền, có lòng tin, có liên đới, có sức bật kinh tế và có sức thu hút đầu tư nước ngoài.
Chúng ta kế thừa một đất nước chồng chất hận thù do chiến tranh và các chính sách phân biệt đối xử để lại. Chúng ta sẽ phải hàn gắn những đổ vỡ mà không gây ra những đổ vỡ mới. Chúng ta sẽ phải phục hồi danh dự cho những người đã bị xúc phạm mà không xúc phạm những người khác, phải bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân mà không tạo ra những nạn nhân mới.
Xã hội Việt Nam đang khủng hoảng niềm tin trầm trọng. Người dân, với lý do chính đáng, đồng hóa chính trị với thống trị, kinh doanh với móc ngoặc trục lợi. Giai đoạn chuyển tiếp phải là bước đầu quả quyết và thuyết phục của một cố gắng liên tục hòa giải quần chúng với chính trị và kinh doanh. Nó phải mở đầu một triết lý hoạt động chính trị mới và một cách kinh doanh mới, với những chính trị gia là những người đã chọn phục vụ xã hội thay vì làm giầu, những doanh nhân là những người hiểu biết, sáng tạo, dám và biết chấp nhận rủi ro.
Chúng ta cần minh định : vấn đề đặt ra không phải là đi tìm một công thức mầu nhiệm nào có thể biến đất nước thành giàu mạnh, không làm gì có một công thức như vậy. Vấn đề là từ những thực tại của đất nước và bối cảnh thế giới nhận diện những vấn đề cần được giải quyết ưu tiên và đề ra những giải đáp.
Mục tiêu của giai đoạn chuyển tiếp này là đặt nền tảng cho một chính quyền dân chủ lương thiện và trách nhiệm, tăng sản lượng quốc gia lên gấp đôi trong khoảng thời gian năm năm, đồng thời cải thiện được môi trường và giềng mối xã hội, hóa giải mọi hận thù và hiềm khích, giải tỏa những bế tắc tâm lý, thực sự đưa một Việt Nam hòa hợp vào quỹ đạo tiến bộ. Mục tiêu này có thể đạt được, và sẽ phải đạt được, bằng những chính sách và biện pháp không mâu thuẫn với những định hướng lớn đã vạch ra.
Chúng ta có quá nhiều vấn đề văn hóa xã hội trầm trọng và cấp bách cần giải quyết nhưng lại chỉ có những tài nguyên rất eo hẹp. Nếu chúng ta dành quá nhiều tài nguyên cho các vấn đề ấy thì chúng ta sẽ không còn tài nguyên để phát triển kinh tế và sẽ dẫm chân tại chỗ trong cảnh đói khổ. Ngược lại có những vấn đề văn hóa xã hội gay gắt đến độ nếu không được giải quyết sẽ triệt tiêu mọi cố gắng kinh tế. Phải nhìn nhận một thực tế phũ phàng là chúng ta sẽ còn phải chung sống với sự nghèo khổ cơ cực nhiều năm nữa. Trong hoàn cảnh ngân sách eo hẹp chúng ta sẽ phải thiết lập một thứ tự ưu tiên cho các vấn đề. Tinh thần chỉ đạo là giải quyết cấp bách những vấn đề tối cần thiết cho hòa giải dân tộc, an ninh xã hội và phát triển kinh tế, các vấn đề khác sẽ được giải quyết theo một thứ tự ưu tiên khác ngay khi khả năng kinh tế cho phép.
2. Những biện pháp chính trị
2.1. Trả chính quyền về cho nhân dân
Mọi người Việt Nam yêu nước và sáng suốt đều phải mong muốn cuộc chuyển hóa về dân chủ diễn ra trong hòa bình và trật tự, trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc. Chúng ta sẽ làm mọi cố gắng để Đảng Cộng Sản tham gia vào tiến trình dân chủ hóa. Nhưng trong mọi trường hợp giai đoạn chuyển tiếp sẽ bắt đầu với một Hiến Ước Lâm Thời của Cộng Hòa Việt Nam trả lại chính quyền về cho nhân dân đồng thời long trọng xác nhận những quyền tự do căn bản kể cả quyền tự do ngôn luận và báo chí, quyền tự do thành lập và tham gia các tổ chức, quyền tự do bầu cử và ứng cử, quyền sở hữu đất. Hiến Ước Lâm Thời này sẽ tóm lược những nguyên tắc chứa đựng trong các định hướng lớn để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ đa nguyên và sẽ hướng dẫn mọi hành động của chính phủ chuyển tiếp cho đến khi hiến pháp mới của Cộng Hòa Việt Nam đã được biểu quyết và đi vào áp dụng.
Việc cụ thể đầu tiên phải làm là phi chính trị hóa guồng máy chính quyền, quân đội và công an. Công chức và quân nhân có quyền gia nhập các tổ chức chính trị nhưng không được có hoạt động chính trị. Mọi sinh hoạt đảng phái trong mọi cơ quan hành chính, an ninh và quân sự của nhà nước sẽ bị nghiêm cấm. Bộ máy hành chính, quân đội và công an phải là những công cụ phi chính trị, hoàn toàn độc lập với mọi chính đảng, tuyệt đối tôn trọng hiến pháp, tuyệt đối phục tùng mọi chính quyền dân cử. Quân đội và công an sẽ trở lại với sứ mạng cao cả là bảo vệ đất nước, giữ gìn trật tự an ninh, và do đó cần được tách rời hẳn khỏi mọi hoạt động kinh doanh. Các công ty hiện do quân đội và công an làm chủ sẽ được giải tư. Những người đang làm việc tại các công ty đó nếu muốn có thể được giải ngũ để tiếp tục công việc.
Quân đội sẽ được hiện đại hóa về trang bị và huấn luyện, đồng thời cũng sẽ được tinh giản quân số. Ngân sách quốc phòng sẽ chủ yếu ưu tiên tăng cường hải quân và không quân.
Các tổ chức ngoại vi do Đảng Cộng Sản lập ra để mạo danh và khống chế xã hội dân sự -dù dưới danh xưng mặt trận, công đoàn hay hiệp hội- sẽ mất tất cả mọi vai trò cũng như quyền lợi chính thức và nếu tiếp tục tồn tại sẽ chỉ là những hiệp hội bình thường ngang hàng trước pháp luật với mọi tổ chức xã hội dân sự khác.
2.2. Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc
Một cố gắng phải bắt đầu ngay và tiếp tục trong nhiều năm là thực hiện đường lối hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là một quốc sách của giai đoạn chuyển tiếp và sẽ là triết lý chính trị của Việt Nam sau đó. Hòa giải và hòa hợp dân tộc đòi hỏi phải sòng phẳng với quá khứ và trân trọng đối với tương lai.
Mọi chính trị phạm sẽ được trả tự do và phục hồi quyền công dân ngay tức khắc.
Mọi người vì lý do chính trị, vì các chính sách đánh tư sản, cải cách ruộng đất, hay vì đã từng là công chức quân nhân của miền Nam mà đã bị giam cầm, hạ nhục sẽ được phục hồi danh dự và sẽ được bồi thường thiệt hại ít nhất là một cách tượng trưng.
Nhà nước sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia nhận lỗi về những sai lầm trong quá khứ, nhất là đối với những người đã chết oan dù ở trong hàng ngũ nào và trong giai đoạn nào.
Những người đã bị tịch thu tài sản vì lý do chính trị sẽ được nhà nước nhận bồi hoàn, sự bồi hoàn thực sự sẽ được thi hành dần dần với thời gian theo khả năng kinh tế của nhà nước.
Mọi công dân có quyền đòi hỏi nhà nước xét lại những bản án mà họ hoặc thân nhân đã là nạn nhân nếu có bằng chứng rằng họ đã bị xử oan. Các thẩm phán bị chứng minh đã phản bội luật pháp và lương tâm chức nghiệp để cố ý xử án oan theo mệnh lệnh sẽ không được hành nghề thẩm phán nữa, trong trường hợp nghiêm trọng có thể bị truy tố.
Mọi công dân bị truất hữu đất có quyền yêu cầu chính quyền xét lại trường hợp của mình để hoặc được trả lại đất hoặc được bồi thường xứng đáng hơn ; họ cũng có quyền tố giác những vụ cưỡng ép bán đất với giá thấp để trục lợi lạm dụng danh nghĩa lợi ích công cộng.
Người Việt hải ngoại, nếu muốn, được nhìn nhận quốc tịch Việt Nam, cho họ cũng như cho con cái sinh ra tại nước ngoài.
Một cơ quan đặc biệt, cấp bộ, sẽ được thành lập để thực hiện chính sách hòa giải dân tộc, đặc biệt là để nhận và giải quyết những hồ sơ khiếu nại và đòi bồi thường của dân chúng. Một ủy ban của quốc hội sẽ có trách nhiệm đảm bảo rằng mọi luật lệ và quy định không đi ngược với quốc sách hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc, độc lập với chính quyền và gồm đại diện của các chính đảng, đại diện các tôn giáo, đại diện các sắc tộc và các nhân vật có uy tín thuộc xã hội dân sự sẽ được thành lập để giám sát việc thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Nhà nước sẽ nghiêm cấm mọi hành động trả thù báo oán và phân biệt đối xử. Mọi người Việt Nam dù có quá khứ nào đều được đối xử bình đẳng trong nghĩa vụ cũng như trong quyền lợi. Mọi công chức, quân nhân trên nguyên tắc sẽ được duy trì ở lại chức vụ đang giữ. Mọi thay đổi nhân sự đều sẽ phải có lý do khách quan và chính đáng.
Việc thực thi hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ cần một thời gian rất dài. Mọi biện pháp của nhà nước phải luôn luôn chứng tỏ thiện chí muốn thực sự hàn gắn những đổ vỡ do quá khứ để lại, để mọi người Việt Nam hài lòng bắt tay nhau xây dựng đất nước.
Để chính sách hòa giải và hòa hợp dân tộc có nền tảng chính đáng và thêm sức mạnh, một đạo luật về hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ được soạn thảo để toàn dân biểu quyết qua trưng cầu dân ý.
2.3. Ban hành một hiến pháp mới cho Cộng Hòa Việt Nam và tu chỉnh luật pháp
Hiến pháp này sẽ do một quốc hội lập hiến, cơ chế đầu tiên được bầu ra, biểu quyết. Hiến pháp này phù hợp với chế độ chính trị đa nguyên, đại nghị và tản quyền đã được chọn lựa và trình bày, và sẽ không được mang bất cứ một quy chiếu nào về một chủ nghĩa, một tôn giáo hay một chính đảng nào. Nó cũng sẽ khẳng định sự hội nhập dứt khoát và trọn vẹn của Việt Nam vào cộng đồng thế giới ; Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập của Liên Hiệp Quốc và các công ước đính kèm sẽ được coi là thành phần khăng khít của hiến pháp Việt Nam. Án tử hình sẽ được bãi bỏ vì nó phản văn minh và thực ra nó cũng không có cái hiệu lực mà sự dã man của nó có thể làm ta lầm tưởng. Tội "phản quốc" sẽ được xóa bỏ trong ngôn ngữ luật pháp Việt Nam. Sau khi hiến pháp mới đã biểu quyết xong, quốc hội lập pháp -có thể là ngay chính quốc hội lập hiến biểu quyết tự biến thành quốc hội lập pháp nếu hoàn cảnh cho phép- sẽ biểu quyết các bộ luật căn bản. Tinh thần chỉ đạo cho việc soạn thảo các bộ luật căn bản này là giản dị, sáng sủa, dễ hiểu và dễ tôn trọng trong bối cảnh đất nước. Các đạo luật đầu tiên không nhất thiết phải hoàn chỉnh. Điều quan trọng là đặt những nền tảng lành mạnh cho sinh hoạt quốc gia, các đạo luật sau đó sẽ được bổ túc thêm để càng ngày càng đầy đủ và hoàn chỉnh. Các đạo luật hiện hành sẽ được rà soát lại ; một số đạo luật mới có thể xuất phát từ các đạo luật hiện hành, sau khi đã loại bỏ các quy chiếu về chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng Sản, và các điều khoản phản dân chủ hay trái ngược với các quyền tự do hiến định.
2.4. Bắt đầu đem tản quyền vào thực tế
Ngay sau đó cần đem tản quyền vào sinh hoạt chính trị. Điều này có nghĩa là cần một đạo luật tổ chức lãnh thổ quy định quyền hạn của các vùng, số vùng, ranh giới của từng vùng và một lịch trình bầu cử và thành lập các chính quyền địa phương. Nguyên tắc chỉ đạo là các vùng sẽ gồm tỉnh sẵn có giáp ranh với nhau và phải khá thuần nhất về mặt địa lý, giao thông, cấu tạo sắc tộc, chức năng kinh tế, và phải có diện tích và dân số đầy đủ để có thể là những thực thể tồn tại và phát triển được. Một mục tiêu quan trọng mà chính quyền dân chủ tìm kiếm và dồn cố gắng để đạt tới qua chính sách tản quyền là giảm một cách đáng kể sự tập trung dân số quá đáng hiện nay tại hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn.
2.5. Giữ đất nước Việt Nam cho người Việt Nam
Từ nhiều năm nay, chính quyền cộng sản đã làm ngơ, thậm chí cố tình, để nhiều vùng đất có giá trị chiến lược lọt vào tay người ngoại quốc. Việc mua bán đất này, nhiều khi được thực hiện qua trung gian của những người Việt cho mượn tên đứng làm chủ, là một mất mát lớn cho đất nước. Nhiều khu rừng đầu nguồn có tầm quan trọng chiến lược cao đã bị chính quyền cho nước ngoài thuê dài hạn và đã gần như trở thành những khu của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Nhiều khu sinh sống gần như của riêng người nước ngoài cũng đã hình thành trên thực tế. Tình trạng này không thể dung túng. Cần duyệt xét lại những sang nhượng đất để chặn đứng vụ bán đất mờ ám cho người ngoại quốc. Những khu đất chuyển nhượng bất chính sẽ bị thu hồi, trong trường hợp nghiêm trọng có thể bị tịch thu không bồi hoàn.
Một biện pháp vừa dung hòa được nhu cầu thu hút tư bản vừa giữ được đất Việt cho người Việt là không những cho phép mà còn khuyến khích người Việt định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam mua nhà và đất. Đó cũng là biện pháp để gắn bó người Việt hải ngoại với quê hương.
Quan trọng hơn nữa là rà soát lại các hiệp ước mà đảng và nhà nước cộng sản đã ký với nước ngoài, nhất là những hiệp ước mà nội dung chưa được công bố. Những hiệp ước chỉ do Đảng Cộng Sản Việt Nam ký kết với nước ngoài sẽ bị tuyên bố tức khắc là vô giá trị ; những hiệp ước do đại diện nhà nước cộng sản ký nhưng không được quốc hội thông qua hay không được công bố trước nhân dân cũng sẽ bị phủ nhận. Chỉ những hiệp ước phù hợp với quyền lợi dân tộc mới được duy trì, sau khi đã thương thuyết lại nếu cần.
3. Những biện pháp văn hóa xã hội
Những vấn đề gay gắt nhất và cấp bách nhất đang đặt ra cho đất nước không phải là những vấn đề kinh tế mà là những vấn đề văn hóa xã hội.
3.1. Tăng cường trật tự an ninh
Mặc dù không có nội chiến và nội loạn, Việt Nam ngày hôm nay trên thực tế đang dần dần trở thành một trong những nước thiếu an ninh nhất thế giới. Mối đe dọa an ninh đầu tiên chính là đảng và nhà nước cộng sản. Bắt người trái phép, giam cầm và đánh đập dã man đã trở thành thông lệ. Tình trạng thiếu an ninh cũng do những thành phần bất hảo ngày càng đông đảo và ngày càng lộng hành, trong nhiều trường hợp với sự bao che của công an. Dĩ nhiên những tệ đoan xã hội là sản phẩm tự nhiên của xã hội bế tắc hiện nay và chắc chắn sẽ giảm sút với sự trở lại của hy vọng và niềm tin, nhưng dầu sao đi nữa thì đất nước ta cũng sẽ còn bất ổn trong một thời gian khá lâu và an ninh trật tự sẽ là một vấn đề nhức nhối cho một chính quyền dân chủ vừa được thành lập. Bảo đảm trật tự an ninh không có nghĩa là giới hạn tự do mà còn là một điều kiện bắt buộc để có tự do thực sự.
Luật pháp cần nghiêm minh chứ không cần phải khe khắt, và nhất là không cần phải hung bạo.
Mọi người Việt Nam đến tuổi trưởng thành đều được cấp thẻ căn cước và giấy thông hành, có quyền ở bất cứ nơi nào mình muốn và di chuyển tự do trên lãnh thổ hay ra nước ngoài.
Luật pháp không rõ ràng cũng là một nguyên nhân đưa đến phạm pháp. Trong tương lai đất nước ta cần một luật pháp thật giản dị, thật dễ hiểu và dễ tôn trọng nhưng cũng rất nghiêm khắc với những sai phạm.
Chính quyền hiện nay có rất nhiều công an, nhưng công an được sử dụng trước hết vào việc bảo vệ độc quyền chính trị của Đảng Cộng Sản thay vì bảo vệ trật tự an ninh, để đàn áp những khát vọng tự do dân chủ hơn là để ngăn chặn những tệ đoan xã hội. Bởi vậy ngay trong giai đoạn chuyển tiếp một phần lớn các cơ quan công an tình báo, bảo vệ chính trị sẽ được chuyển qua lực lượng bảo vệ trật tự an ninh và môi trường. Việc tăng cường trật tự an ninh như vậy chủ yếu là một sự cải tổ guồng máy an ninh. Sự cải tổ này không những không tốn kém mà còn có thể tiết kiệm rất nhiều cho ngân sách. Một chính quyền Việt Nam thực sự dân chủ, không có nhu cầu đàn áp đối lập có thể giảm ngân sách an ninh và đồng thời tăng cường đáng kể trật tự xã hội.
3.2. Khắc phục tham nhũng và các tệ nạn xã hội
Chúng ta hiện đang chứng kiến một quan hệ nhập nhằng giữa chính quyền cộng sản và các băng nhóm làm ăn bất chính được sự bao che của quan chức nhà nước. Buôn lậu, trốn thuế, kinh doanh bất hợp pháp trở thành bình thường. Tệ trạng này phải chấm dứt vì nó là một thách thức đối với quốc gia, một mất mát lớn cho ngân sách và một cản trở nguy hiểm cho kinh doanh đúng đắn.
Chống tham nhũng sẽ được dành ưu tiên cao nhất của giai đoạn chuyển tiếp bởi vì nếu không đẩy lùi được tham nhũng thì bất cứ chính sách quốc gia nào, dù hoàn chỉnh đến đâu cũng sẽ thất bại. Tệ tham nhũng ngày nay đã đạt tới một mức độ ngạt thở. Nguyên nhân chính của tham nhũng trước hết là chính bản chất của chế độ độc tài toàn trị trong đó việc bổ nhiệm và thay thế các quan chức hoàn toàn không tùy thuộc vào quần chúng và dư luận. Thêm vào đó là guồng máy nhà nước áp đảo và kềnh càng, là luật lệ rườm rà, mâu thuẫn cho phép những giải thích chủ quan, thiên vị và tùy tiện đồng thời khuyến khích sự câu kết thành băng đảng để bao che lẫn nhau giữa các quan chức.
Chính quyền cộng sản là nguyên nhân của tham nhũng, do đó một giai đoạn thuận lợi để chống tham nhũng sẽ mở ra ngay khi một chính quyền dân chủ đã thay thế chính quyền cộng sản. Vấn đề của chính quyền chuyển tiếp là giáng cho tham nhũng một đòn chí tử và không cho nó gượng dậy sau đó. Tham nhũng là lợi dụng công quyền, do đó muốn chống tham nhũng trước hết phải giảm trọng lượng của quyền lực nhà nước, nghĩa là phải thay thế guồng máy nhà nước nặng nề và toàn quyền bằng một nhà nước nhẹ và quyền lực giới hạn. Sau đó cần một luật pháp giản dị, minh bạch khiến người dân biết chắc chắn những gì mình có thể làm và những gì mình không được làm và không còn là những con tin của các quan chức nhà nước. Để đánh dấu một giai đoạn mới chính quyền dân chủ sẽ phải có những biện pháp gây ấn tượng mạnh như cấm tuyệt đối công chức không được nhận quà cáp trong bất cứ trường hợp nào, buộc mọi công chức phải kê khai tài sản hàng năm, buộc mọi cơ quan kiểm điểm định kỳ kết quả của cố gắng chống và ngăn ngừa tham nhũng, v.v.
Chính quyền dân chủ sẽ thẳng tay tiêu diệt các băng đảng xã hội đen. Chúng sẽ không được hưởng bất cứ một sự khoan dung nào trong bất cứ trường hợp nào vì bất cứ lý do nào.
Chống tham nhũng cũng như chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác cần phải có quyết tâm nhưng cũng cần có lòng tin và hậu thuẫn của toàn dân. Một trong những đồng minh của ta trong trận chiến cam go này là tự do ngôn luận. Trong một chế độ thực sự tự do, nạn tham nhũng và hà hiếp dân chúng nếu không bị dẹp hẳn thì cũng phải rút xuống ở một mức độ thấp. Sự tố cáo của những người công dân tự do biết rõ mọi quyền của mình là vũ khí chống tham nhũng hiệu lực nhất.
Mọi sáng kiến sẽ được hoan nghênh để tranh thủ sự hưởng ứng tích cực của toàn dân vào cố gắng lành mạnh hóa quốc gia này.
3.3. Bãi bỏ hoàn toàn mọi chính sách và biện pháp kiểm duyệt
Hiến Ước Lâm Thời cũng như hiến pháp mới sau đó sẽ long trọng nhìn nhận quyền tự do sáng tác và phát hành sách báo và văn hóa phẩm, đồng thời cấm chỉ mọi đạo luật theo chiều hướng kiểm duyệt. Trong nước Việt Nam tương lai sẽ không thể có một sự giới hạn nào về tự do phát biểu. Luật pháp sẽ chỉ chế tài những phát biểu trắng trợn kêu gọi bạo lực, xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của các công dân hay các đoàn thể công dân và bị chính các cá nhân hay đoàn thể này khởi kiện. Các hiệp hội công dân như vậy sẽ nắm một vai trò then chốt trong việc bảo vệ sự lành mạnh của văn hóa. Chúng ta đừng quên rằng xã hội dân sự là nền tảng của thể chế dân chủ đa nguyên.
3.4. Bảo đảm sự khách quan của giáo dục và một trình độ văn hóa tối thiểu cho mọi công dân
Sẽ không có vấn đề nhà nước áp đặt sách giáo khoa chính thức. Quyền sáng tác sách giáo khoa sẽ không bị giới hạn và quyền chọn sách giáo khoa hoàn toàn thuộc các nhà giáo. Một định chế độc lập với chính quyền, xuất phát từ các nhà giáo, sẽ soạn thảo ra những sách giáo khoa đầu tiên, và sau đó có thẩm quyền giới thiệu, nhưng không áp đặt, với các nhà giáo những sách nào có phẩm chất đầy đủ để có thể được dùng làm sách giảng dạy. Giáo dục là một đầu tư chiến lược rất tốn kém của đất nước vì vậy nó phải thuần túy hướng về mục tiêu truyền bá kiến thức và mở mang trí tuệ chứ không thể bị lợi dụng cho những tuyên truyền một chiều.
Một chú trọng đặc biệt dành cho việc giảng dạy Việt văn. Đó là điều mà ta không thể tiết kiệm được bởi vì một trình độ văn hóa tối thiểu và một khả năng truyền thông tối thiểu vừa là điều kiện không có không được cho phát triển kinh tế, vừa là một điều kiện cần thiết cho sự ổn vững của xã hội, cho hòa bình giữa những con người.
Từ nhiều năm nay chính quyền cộng sản hầu như đã bỏ rơi hoàn toàn mọi cố gắng về giáo dục. Chúng ta đã mất đi rất nhiều học sinh, sinh viên và phẩm chất của giáo dục ở mọi cấp đã sút giảm trầm trọng, nhất là từ khi chế độ cộng sản thực hiện chính sách kinh tế thị trường hoang dại. Phải thi hành cưỡng bách giáo dục và giáo dục miễn phí ít nhất tới hết lớp 9. Rất có thể là ngân sách sẽ không cho phép tuyển dụng đủ số giáo chức cần có, trong trường hợp này chúng ta cần phát động một phong trào liên đới quốc gia về văn hóa, sinh viên tiếp tay dạy học sinh, lớp trên tiếp tay dạy lớp dưới trong tinh thần tình nguyện hay với thù lao tượng trưng. Cũng cần lưu ý rằng tình trạng bi đát của ngành giáo dục hiện nay không khó khắc phục. Sự xuống cấp của giáo dục hiện nay phần chính do chính sách của nhà nước cộng sản. Giáo dục bị xem là dịch vụ kiếm tiền cho nhà nước thay vì một đầu tư vào tương lai. Nhà nước cộng sản cũng không phân biệt giáo dục với tuyên truyền. Học sinh bị nhồi sọ những kiến thức mà cả người dạy lẫn người học đều biết là sai và vô ích. Thêm vào đó sự bế tắc của kinh tế cũng như sự băng hoại của xã hội khiến cho thanh thiếu niên và phụ huynh không biết học để làm gì. Tất cả những nguyên nhân đó sẽ tan biến dưới một chế độ tôn trọng tự do, tôn trọng con người và coi giáo dục và đào tạo là cuộc chiến đấu sống còn của dân tộc.
3.5. Cải thiện môi trường và tổ chức đất nước như một thành phố lớn
Chúng ta là một quốc gia đã bị quá nhiều tàn phá, do đó chúng ta phải gìn giữ và bảo trì cẩn trọng các di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh. Đó là những tài sản quý báu, những nguồn tự hào và là những gạch nối gắn bó người Việt Nam với nhau. Việc trùng tu các di tích này sẽ không tốn kém lắm vì số lượng ít ỏi, và cũng có thể không tốn kém gì hết cho nhà nước. Chúng ta sẽ cho đấu thầu quyền khai thác và nghĩa vụ bảo trì một số di tích và thắng cảnh có giá trị du lịch cho các công ty tư nhân Việt Nam, sẽ giao phó một số di tích có tính tôn giáo cho các giáo hội.
Nước ta đất hẹp người đông nên phải được quan niệm và tổ chức như một thành phố lớn, nghĩa là sạch, đẹp và an ninh, với cơ sở hạ tầng, các cơ quan hành chính, pháp luật, văn hóa, giáo dục, y tế trải đều trên khắp lãnh thổ thay vì tập trung vào những thành phố lớn -nhất là Hà Nội và Sài Gòn - như hiện nay, với các khu rừng được săn sóc như những công viên, những nơi gặp gỡ và tiêu khiển của các công dân bình đẳng.
Cần quy định và thực hiện nghiêm minh những tiêu chuẩn về xây dựng để ngăn chặn việc xây cất thiếu an toàn hoặc xô bồ làm hại cảnh quan. Du lịch sẽ là một sinh hoạt kinh tế quan trọng và chúng ta khó hình dung kỹ nghệ du lịch có thể thành công nếu đất nước ta không đẹp.
Chính sách đánh bắt vô tổ chức hiện nay đã làm suy giảm trầm trọng nguồn hải sản của ta. Chúng ta cần có ngay những quy định giản dị, minh bạch và được áp dụng triệt để nhằm cứu vùng biển và cứu nguồn hải sản. Phong trào phá rừng bán gỗ bừa bãi -vẫn còn tiếp tục- đang có cơ nguy biến nước ta thành cằn cỗi ; phong trào này phải được chặn đứng ngay tức khắc. Việc phục hồi lại cây rừng vừa cần nhiều vốn lại vừa cần sự bảo vệ và chăm sóc đều đặn cho nên có thể ngân sách nhà nước không cáng đáng nổi. Cần nghiên cứu giải pháp giao khoán từng vùng rừng, từng khu rừng cho các công ty tư nhân Việt Nam phục hồi và khai thác, với những quyền lợi và những cam kết rõ rệt.
Song song với cố gắng phát triển công nghiệp cũng phải có những quy định rõ ràng về cách xử lý các loại phế liệu.
Đình chỉ tức khắc và vĩnh viễn dự án khai thác bô-xít tại Tây Nguyên.
Đình chỉ các dự án xây dựng các nhà máy điện nguyên tử chừng nào các kỹ thuật xử lý an toàn chất thải vẫn chưa được tìm ra và Việt Nam chưa đủ khả năng bảo đảm an ninh tuyệt đối trong việc điều hành các nhà máy.
4. Những biện pháp kinh tế
Về mặt kinh tế việc đầu tiên mà một chính quyền dân chủ phải làm là chấm dứt lối cai trị bằng nghị quyết, thông cáo, quyết định, chỉ thị và thay vào đó bằng những luật lệ rõ ràng, minh bạch và ổn vững. Một bộ luật kinh doanh mới là điều không thể thiếu và cũng không thể đợi. Đồng thời chúng ta cần tập trung cố gắng quốc gia vào những vấn đề cấp bách.
4.1. Giải tư đại bộ phận các xí nghiệp quốc doanh và tư hữu hóa ruộng đất
Nhà nước không có chức năng sản xuất xe, bán quần áo, mở công ty du lịch và cửa hàng ăn uống, quản lý khách sạn và vũ trường. Những công ty quốc doanh, nông trường quốc doanh làm mất tinh thần chấp nhận rủi ro, làm trì trệ các sáng kiến và làm mất tinh thần trách nhiệm. Chúng ta coi tư doanh là nền tảng của kinh tế quốc gia, do đó giải tư các xí nghiệp quốc doanh và tư hữu hóa ruộng đất là một chính sách cốt lõi của giai đoạn chuyển tiếp. Kinh nghiệm của các nước chuyển hóa về kinh tế thị trường cho thấy việc giải tư phải được thực hiện với tất cả cảnh giác để tránh tệ nạn đầu cơ, tẩu tán tài sản quốc gia, làm xuống cấp các xí nghiệp cần giải tư.
Chúng ta sẽ giải tư tức khắc tất cả mọi công ty, xí nghiệp quốc doanh có thể giải tư được, nghĩa là đang hoạt động một cách bình thường trong một ngành không có bí mật quốc phòng, để đem lại cho kinh tế một sinh lực mới.
Chúng ta sẽ xúc tiến ngay việc tư hữu hóa ruộng đất theo nguyên tắc trả quyền sở hữu lại cho những người đang canh tác trên đất của mình, tùy trường hợp cấp không hoặc bán lại cho nông dân những đất đai đang được nhà nước giao phó. Dứt khoát bãi bỏ chủ trương nhà nước thống nhất quản lý đất.
Nguyên tắc chỉ đạo của chính sách giải tư và tư hữu hóa ruộng đất là những gì tư nhân có thể làm được nhà nước sẽ không làm. Chính sách này sẽ phải hoàn tất về cơ bản sau năm năm.
4.2. Khuyến khích tối đa đầu tư kể cả đầu tư từ nước ngoài
Bãi bỏ từng bước các luật đầu tư và doanh nghiệp hiện nay vì chúng còn quá gò bó và vì chúng dành cho người ngoại quốc những quyền mà người Việt Nam không có, chúng còn chia rẽ người trong nước với người sống ở nước ngoài. Trong tương lai người đầu tư nước ngoài sẽ có tất cả mọi quyền mà họ đang có và sẽ có nhiều tự do hơn hẳn hiện nay nhưng sẽ không thể có những quyền mà người Việt Nam không có. Thời gian để hoàn tất mọi thủ tục thành lập công ty sẽ không thể quá một tuần lễ. Cần nhận thức giá trị rất tương đối của các bộ luật nâng đỡ đầu tư. Nếu những đặc quyền chỉ có hiệu lực ngắn hạn thì luật đầu tư chỉ lôi kéo được những đầu tư hời hợt, còn nếu những đặc quyền về đầu tư có hiệu lực dài hạn thì luật đầu tư sẽ có khuynh hướng trở thành luật lệ bình thường. Vả lại, quyết định đầu tư chỉ tùy thuộc rất ít vào những biện pháp khuyến khích và tùy thuộc rất nhiều vào bối cảnh chính trị và kinh tế.
4.3. Dồn cố gắng cho hai công trình giao thông chiến lược
Trong cố gắng tăng cường và cải thiện cơ sở hạ tầng, hai công trình lớn mà chúng ta phải bắt đầu ngay và phải tiếp tục trong nhiều năm, qua nhiều giai đoạn, là công trình hiện đại hóa và mở rộng theo đúng tiêu chuẩn quốc tế đường xe lửa Thống Nhất và công trình xa lộ hóa quốc lộ Xuyên Việt nối liền Hà Nội và Sài Gòn. Đây là những công trình vừa tối cần thiết cho các hoạt động kinh tế, vừa cụ thể hóa sự thống nhất của đất nước, lại vừa tạo nhiều công ăn việc làm trên khắp lãnh thổ. Những dự kiến hiện nay cho hai công trình này còn ở mức rất thấp so với nhu cầu của nước ta mà phần lớn sinh hoạt tập trung dọc theo trục giao thông này. Mở rộng và hiện đại hóa hai công trình này cũng là điều cần thiết cho dự án xây dựng và khai thác cảng Cam Ranh, một dự án trọng điểm mà ta sẽ tiến hành mạnh mẽ trong nhiều năm để đem lại sức mạnh kinh tế cho cả nước và cho miền Trung, miền nhiều triển vọng nhất của đất nước do vị trí bờ biển nhưng hiện nay là vùng kém mở mang nhất.
Với hình thể rất đặc biệt của nước ta cũng như với giai đoạn lịch sử khó khăn gần đây xa lộ Xuyên Việt phải vừa là trục giao thông chính vừa là một thắng cảnh vĩ đại làm biểu tượng cho sự thống nhất tốt đẹp và bền vững của đất nước.
5. Những nguồn tài chính của cố gắng phục hưng
Một chương trình phục hưng dù khiêm nhường đến đâu cũng đòi hỏi rất nhiều chi phí. Những mục tiêu cho giai đoạn chuyển tiếp cũng rất tham vọng. Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng sẽ có những nguồn tài trợ.
Trước hết là chấm dứt những phí phạm do chính quyền cộng sản tạo ra mà phí phạm lớn nhất là do chính Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiện nay hàng trăm ngàn người được trả lương chỉ để làm việc cho bộ máy của Đảng Cộng Sản. Hàng ngàn nhà và phòng ốc bị chiếm dụng trái phép làm trụ sở, văn phòng cho các chi bộ đảng. Cán bộ, đảng viên tham nhũng lợi dụng quyền thế biển thủ một phần quan trọng tổng sản lượng quốc gia. Trong tương lai khi Đảng Cộng Sản phải chấp nhận một chỗ đứng bình thường ngang hàng với các chính đảng khác, nhà nước sẽ tiết kiệm được một khoản ngân sách lớn, giải tỏa một nguồn nhân lực lớn và thu hồi một số tài sản lớn.
Nguồn tài trợ thứ hai là do sự tiết giảm ngân sách an ninh quốc phòng. Chúng ta không có ý đồ chinh phục nước nào và ngược lại cũng không còn lo ngại bị chinh phục bằng quân sự. Sự phòng vệ các vùng biên giới, biển và hải đảo cũng không cần đến một lực lượng bộ binh đông đảo như hiện nay mà cần một quân đội cơ giới tinh nhuệ, chủ yếu là không quân và hải quân. Guồng máy công an -chính thức và phụ trợ- hiện nay của nhà nước cộng sản có thể gồm trên hai triệu người nhưng trước hết nhằm bảo vệ Đảng Cộng Sản và đàn áp những nguyện vọng dân chủ. Một nhà nước dân chủ thực sự có thể giảm không những một phần quan trọng chi phí mà còn tăng cường hẳn khả năng bảo vệ lãnh thổ và duy trì trật tự an ninh.
Nguồn tài trợ thứ ba là do sự giải tư các xí nghiệp quốc doanh. Như đã trình bày ở phần trên, mục đích chính của chính sách giải tư là hợp lý hóa và lành mạnh hóa sinh hoạt kinh tế. Tuy vậy chương trình giải tư cũng sẽ đem lại một tài nguyên quan trọng.
Nguồn tài trợ thứ tư do sự đóng góp tích cực hơn của cộng đồng Việt Nam hải ngoại sau khi một chế độ dân chủ thực sự, phù hợp với nguyện vọng sâu xa của đồng bào hải ngoại đã được thiết lập. Khối người Việt hải ngoại, với trên ba triệu người, phần lớn định cư tại các nước phát triển và một thu nhập thường niên trên 50 tỷ USD có khả năng tiết kiệm 10 tỷ USD mỗi năm. Nhưng cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ là một nguồn đầu tư mà còn có thể có những đóng góp quan trọng khác về văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Một khi quan hệ với trong nước đã được bình thường hóa, cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ là một đòn bẩy lớn cho cố gắng phát triển đất nước.
Nhưng nguồn tài trợ quan trọng nhất và càng ngày càng dồi dào hơn là do chính sự phát triển của kinh tế. Hiện nay rất nhiều ngành nghề bị tê liệt, rất nhiều tài năng bị triệt tiêu do bị cấm cản hay sách nhiễu. Trả lại tự do kinh doanh thực sự cho dân chúng với những bảo đảm của một chế độ dân chủ pháp trị chân chính là ta đã khai thông được nhiều sinh lực mới và có thể chờ đợi những đóng góp mới. Chính sách kinh tế đúng đắn và lương thiện này cũng sẽ có khả năng động viên nguồn tài chính còn lại trong nhân dân. Không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh mà chúng ta sẽ có nhờ giải tỏa và động viên sinh lực của một dân tộc gần 100 triệu người cần mẫn. Chúng ta có quyền chờ đợi những thành quả nhanh chóng và to lớn. Mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản lượng quốc gia trong vòng năm năm của giai đoạn chuyển tiếp đòi hỏi một tỷ lệ tăng trưởng 15% mỗi năm nhưng đó là một mục tiêu trong tầm tay vì chúng ta là một nước bờ biển với một vị trí thuận lợi và một dân tộc cần mẫn, khả năng lôi kéo đầu tư nước ngoài rất lớn. Đó là tỷ lệ mà ngay cả các tỉnh duyên hải của Trung Quốc cũng đã đạt được dù dưới chế độ cộng sản. Hơn nữa nước ta còn rất nhiều tiềm năng chưa khai thác. Chúng ta tụt hậu không phải vì khó khăn khách quan mà vì sự tồi dở và tham nhũng của chính quyền cộng sản.
6. Chuyển tiếp về dân chủ sẽ thành công, đất nước sẽ vươn lên
Chúng ta có quyền hy vọng và lạc quan. Đất nước ta tuy có vấp ngã nhưng vẫn còn khả năng đứng dậy và đi tới.
Chúng ta không cần trông đợi ở một phép mầu hay một ân huệ nào cả. Phép mầu ấy chúng ta có thể tự tạo ra cho mình, ân huệ ấy chúng ta có thể tự ban cho mình một cách giản dị.
Bình thường hóa quan hệ giữa người Việt Nam với nhau. Long trọng xác nhận đất nước là của mọi người chứ không phải là của riêng một đảng hay một chủ nghĩa nào. Nhìn nhận chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người. Cởi bỏ những xiềng xích của hận thù và bất dung để nhìn nhau như anh em. Đem lại lạc quan và niềm tin ở một nhà nước thành tín và lương thiện. Đem lại những đảm bảo rõ rệt, chắc chắn cho quyền tư hữu và quyền kinh doanh. Thi hành triệt để những đạo luật được thảo luận và quy định một cách lương thiện. Quyết tâm bài trừ tham nhũng và những tệ đoan xã hội đang phá hoại cơ thể quốc gia. Tất cả những điều này chúng ta đều có thể làm được và có thể làm ngay được. Rồi chúng ta sẽ thấy đất nước này thay da đổi thịt, rồi chúng ta sẽ thấy dân tộc này vùng dậy chồm tới chinh phục tương lai. Chúng ta sẽ khám phá ra sự mầu nhiệm của những giá trị rất đơn giản như tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc. Chúng ta sẽ thấy là một chế độ dân chủ pháp trị thành công ngay cả trong những điều kiện kỹ thuật, văn hóa, xã hội và nhân sự khó khăn vì có khả năng tự điều chỉnh và cải tiến. Đất nước nhất định sẽ đứng dậy, đi tới và tiến lên rất mạnh mẽ.
Trích Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai
(Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)
Câu chuyện ông Trần Huỳnh Duy Thức không chỉ cho thấy vấn đề tù nhân lương tâm, tình trạng vi phạm nhân quyền hoặc thân phận trí thức dưới chế độ cộng sản, mà còn cho thấy một vấn đề lớn hơn và có tính xã hội rộng hơn : vai trò và sự chọn lựa chỗ đứng của người trí thức.
Mạnh Kim
Tại sao báo chí chính thống không có một dòng nào về chuyện Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực ?
Trang Dân Luận vừa đăng tải một bài viết ngắn ("Tại sao báo chí chính thống không có một dòng nào về chuyện Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực") của nhà báo Nguyễn Công Khế, với phần kết luận – như sau :
"Còn một việc nữa, mấy hôm nay, râm rang trên mạng xã hội, và các cơ quan báo chí nước ngoài đang nói chuyện tù nhân chính trị Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực 27 ngày có nguy cơ dẫn đến nguy hiểm tính mạng. Trần Huỳnh Duy Thức cũng được trên mạng xã hội và truyền thông nước ngoài đánh giá là một người có trí tuệ trong giới bất đồng chính kiến. Thế thì tại sao trước một tin tức như vậy, phía Nhà nước và báo chí chính thống không hề có một dòng nào, hoặc có việc đó, hay không có ?
Tôi luôn nghĩ rằng, và luôn nhắc lại rằng, bài toán minh bạch thông tin sẽ giải quyết được rất nhiều vấn nạn trong xã hội ta, và từ đó mới loại được những tin giả, tin ‘bịa như thật’ trên mạng xã hội.
Và tôi cũng tin rằng, hai nhân vật chủ yếu nắm công tác tư tưởng hiện nay làm được việc này. Đó là ông Võ Văn Thưởng và ông Nguyễn Mạnh Hùng".
Ngay bên dưới bài viết này là phản hồi của hai vị độc giả vô cùng nhanh nhảu :
- Nguyễn Phương : Sao nó tuyệt thực lâu vậy mà chưa chết nhỉ ?
- Đức Cường : Nó có dám tuyệt thực đéo đâu, nó lừa cho mấy thằng ngu hải ngoại tin để cho tiền nó mà.
Hai ông Nguyễn Phương và Đức Cường đã giúp cho người đọc lý giải được, phần nào, nỗi băn khoăn (Tại sao báo chí chính thống không có một dòng nào về chuyện Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực) của nhà báo Nguyễn Công Khế. Ngoài những phản ứng kịp thời (thượng dẫn) còn có rất nhiều trang trang mạng, với vô số những bài viết có liên quan đến Trần Huỳnh Duy Thức :
- Diễn Đàn Dân Chủ : Màn tuyệt thực làm hàng của Trần Huỳnh Duy Thức
- Tre Làng : Trần Huỳnh Duy Thức bị tố tuyệt thực đểu
- Nền Dân Chủ : Tuyên bố tuyệt thực đến chết – Có phải Trần Huỳnh Duy Thức đang muốn đi Mỹ ?
- Mõ Làng : Đám ăn theo trò tuyệt thực của Trần Huỳnh Duy Thức
- Việt Nam Mới : Trần Huỳnh Duy Thức tung tin tuyệt thực để làm gì ?
- Người Con Yêu Nước : Trần Huỳnh Duy Thức "tuyệt thực" và trò tung hứng của các nhà rận chủ
- Chống Luận Điệu Xuyên Tạc : Về vụ Trần Huỳnh Duy Thức tung tin tuyệt thực ...
- Loa Phường : Trần Huỳnh Duy Thức có thực sự nhịn đói ?
Giọng điệu, cũng như lời lẽ, của những cái "loa phường" kể trên (nghe) quen lắm, cũng y như cách ăn nói của đám dư luận viên thuộc Binh Đoàn 47 vậy thôi. Bởi vậy, hai ông ông Võ Văn Thưởng và Nguyễn Mạnh Hùng khó mà chối được rằng mình (hoàn toàn) vô can với cái thứ ngôn từ "đầu đường xó chợ" này.
Trong nhiều "trường hợp nhậy cảm", nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn thường dùng "quần chúng tự phát" (hay đám dân phòng) vào việc "trị an", thay vì lực lượng công an sắc phục. Tương tự, Ban Tuyên giáo và Bộ Thông tin đang sử dụng đám dân phòng trên mạng – thế cho báo chí chính thống – là điều hoàn nhất quán với đường lối và chính sách của Đảng hiện nay.
Có thể vì bận rộn công việc gia đình (vì phải xuất ngoại thường xuyên) ông Khế đã không nắm vững tình hình nên đặt vấn đề trật (lất). Trong khi Nguyễn Công Khế chất vấn "hai nhân vật chủ yếu nắm công tác tư tưởng hiện nay" thì dưới bài viết (thượng dẫn) của ông, cũng có vị độc giả nêu câu hỏi như sau :
- Xuan Nguyen Van : Nguyễn công khế từ thằng chiêu hồi đến kẻ cơ hội nay trở thành kẻ biên chất. Không đủ tuổi và tư cách để chém gió về vấn đề dân chủ và minh bạch chính hắn môi giơi để Thằng Phước tặng sách cho nguyên chủ tịch nước rồi tung lên mang thực hiện cáo mượn oai hùm bị cựu chủ tịch nước nổi giận yêu cầu rỡ xuống không hiểu ông khế có thấy sấu hổ không ?
Tôi hoàn toàn không biết chi về những chuyện lùm xùm ("tặng sách cho nguyên chủ tịch nước, cáo mượn oai hùm") vừa dẫn. Lời than phiền của ông Nguyễn Văn Xuân chỉ khiến tôi chợt nhớ đến một trường hợp khác, một nghi vấn khác, theo như cách nhìn (khe khắt) của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn :
"Thế tại sao Nguyễn Khải lại viết Đi tìm cái Tôi đã mất ? Theo tôi, trường hợp này cũng giống như Chế Lan Viên viết Di cảo thơ, và Tố Hữu tâm sự với Nhật Hoa Khanh. Thực chất cái việc các ông ‘cố ý làm nhòe khuôn mặt của mình’ như thế này là cốt để xếp hàng cả hai cửa.
Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng)".
Tôi chả có sống "ở Hà Nội thời bao cấp" ngày nào cả nhưng vẫn thông cảm được cái "tâm trạng" xếp hàng hai cửa, nếu đúng, của một người ở hoàn cảnh (chân trong/chân ngoài) như ông Nguyễn Công Khế. Tôi cũng hoàn toàn chia sẻ mọi nỗi khó khăn, với hai ông Võ Văn Thưởng và Nguyễn Mạnh Hùng, nơi chốn quan trường của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nói một đằng làm một nẻo là chủ trương xuyên suốt của Đảng cầm quyền. Do đó, tuy tuyên bố là "tổ chức đối thoại" nhưng ông Trưởng ban Tuyên giáo và ông Bộ trưởng Thông tin tuyên truyền vẫn thản nhiên xua đám lâu la ra "đối thụi" bằng cái thứ ngôn ngữ của bọn đầu đường xó chợ.
Ảnh : FB Huỳnh Thục Vy
Trong một xã hội mà không có nhân cách người ta vẫn sống, thậm chí còn sống béo tốt hơn nên qúi ông Võ Văn Thưởng, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Công Khế ... có thể dùng mọi phương tiện để biện minh cho cứu cánh của mình. Điều an ủi là giữa lúc nhiễu nhương như hiện cảnh tổ quốc vẫn còn có những người từ chối sống béo tốt, và sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì lẽ phải như ông Trần Huỳnh Duy Thức.
Nhà báo Mạnh Kim nhận xét : "Ông Trần Huỳnh Duy Thức sẳn sàng chấp nhận cái chết đến, vì biết khó mà thuyết phục một nhà cầm quyền như Việt Nam biết thượng tôn pháp luật một cách đơn giản theo lẽ nhân loại văn minh".
Nếu chả may mà sự việc có xẩy ra bi thảm như vậy chăng nữa thì cái chết của ông cũng khiến cho đám thường dân đỡ phần tủi hổ. Chúng tôi cảm thấy vô cùng yên ủi khi biết rằng dù quê hương rơi vào hoàn cảnh bi đát đến thế nào chăng nữa thì đất nước này vẫn còn có những vị nhân sĩ đáng kính, hết lòng vì dân tộc, chứ không chỉ thuần là một lũ trí thức trùm chăn hay một đám cơ hội ăn theo.
Tưởng Năng Tiến
Nguồn : RFA, 13/09/20148 (tuongnangtien's blog)
Người Việt Nam có lẽ ai cũng biết câu "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Câu này có nghĩa là khi đất nước hưng thịnh hay suy vong, dù là một người dân bình thường cũng phải có trách nhiệm. Câu này càng đúng nếu chúng ta xem đất nước là của chung của tất cả mọi người Việt Nam.
Hãy lên tiếng trước những bất công và cảnh báo các nguy cơ đang đe dọa người dân và đất nước
Nếu một người "thất phu" cũng đáng trách khi đất nước lâm nguy thì những người được xem là "trí thức" càng đáng trách hơn rất nhiều lần vì trí thức luôn là đại diện, là tiếng nói phản ánh tâm hồn và trí tuệ của dân tộc Việt Nam.
Thật ra, người dân thường (thất phu) không đáng trách vì họ mải lo kiếm sống, họ không đủ thời gian và nhận thức để lo việc nước. Trí thức phải làm việc đó. Đáng buồn là trí thức Việt Nam đã không đảm đương và làm tròn bổn phận của mình đó là ‘hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng’. Sỡ dĩ cho đến bây giờ, Việt Nam vẫn chưa có dân chủ là vì trí thức Việt Nam vẫn im lặng và vô cảm trước bất công. Theo báo chí Việt Nam thì :
"Nếu như năm 2000, đội ngũ trí thức cả nước chỉ có 1.322.691 người (từ cao đẳng trở lên) thì đến năm 2013, con số này đã tăng lên là 6.550.234 (gấp 4,95 lần) ; số thạc sĩ từ 10.000 lên 118.653 người (tăng 11,86 lần), còn số tiến sĩ thì tăng từ 12,691 lên đến 24.667 người (tăng 1.94 lần). Ngoài trí thức trong nước, còn có khoảng hơn 400.000 người trí thức Việt kiều (trong đó có hơn 6.000 tiến sĩ và hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao) trên tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ" (1).
Như vậy, những người có trình độ trên cao đẳng tại Việt Nam là gần 10 triệu, chiếm 10% dân số.
Có kiến thức (cao) không có nghĩa là người đó được xem là trí thức vì ‘Trí thức là những người có kiến thức, có hiểu biết, có quan tâm đến xã hội và dám nói dám làm những điều đúng đắn’. Trong gần 10 triệu người ‘có học’ (trên cao đẳng) nêu trên có bao nhiêu người thực sự quan tâm đến đất nước ? Chắc không đến 0,1% ! Nhiều người tham gia phong trào dân chủ Việt Nam không thuộc thành phần ‘có học’ trên.
Trước một xã hội bất công và một đất nước tụt hậu như Việt Nam ngày hôm nay thì trí thức có một trách nhiệm vô cùng lớn. Họ phải làm gì ? Có ba nấc để đánh giá một người trí thức có trách nhiệm với dân tộc :
1. Lên tiếng trước những bất công và cảnh báo các nguy cơ đang đe dọa người dân và đất nước. Có nhiều trí thức Việt Nam đã và đang làm điều này.
2. Lên tiếng chỉ trích sự yếu kém và bất lực của chính quyền. Đây là việc làm khó khăn đòi hỏi sự dũng cảm của mỗi người. Cũng có khá nhiều người làm được việc này.
3. Hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng đứng dậy đấu tranh. Đây là tiêu chí và nhiệm vụ quan trọng nhất của tầng lớp trí thức, tiếc thay trí thức Việt Nam chưa làm được.
Ai cũng thấy sự thối nát của chính quyền Việt Nam đã đạt đến tột đỉnh, ngay cả đến Đinh La Thăng, một trong các ông ‘vua tập thể’, đến khi ra tòa, vẫn không được đối xử như một con người. Thử hỏi gần 100 triệu người Việt Nam sẽ bị đối xử ra sao dưới chế độ này ?
Đành rằng di sản lịch sử và văn hóa Khổng giáo đã khiến tầng lớp sĩ phu (ngày trước) và trí thức Việt Nam (ngày nay) sinh ra chỉ để làm nô bộc cho vua chúa và cường quyền, tuy nhiên đã bước sang thế kỷ 21 mà thứ văn hóa đó của trí thức Việt Nam vẫn không thay đổi. Có ý kiến cho rằng trí thức Việt Nam không yêu nước và không yêu người Việt Nam nên họ không có trái tim để cùng đau, cùng chia sẻ với những bất hạnh của dân tộc.
Rất nhiều trí thức Việt Nam ‘hồn nhiên như cô tiên’ tuyên bố rằng họ ‘không làm chính trị’, họ ‘không quan tâm đến chính trị’ vì chính trị là nhơ bẩn và xấu xa. Không những thế, có kẻ còn lên tiếng bài bác và chỉ trích nnhững tổ chức chính trị đứng đắn như Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên dù họ chẳng làm được gì. Càng có tí hiểu biết và kiến thức thì họ càng không ưa nhau, thậm chí thù ghét nhau. Tầng lớp khó đoàn kết và khó tìm được tiếng nói chung nhất chính là tầng lớp trí thức Việt Nam.
‘Chính trị’ tức là việc chung của đất nước, của mọi người vì vậy ‘làm chính trị’ là một phần quan trọng thuộc về trách nhiệm của công dân. Đa số trí thức Việt Nam khi nói rằng ‘tôi không quan tâm chính trị’ tức là họ đã chối bỏ trách nhiệm của mình đối với đất nước, xã hội, gia đình và bản thân. Họ cho rằng chỉ cần lo cho gia đình nhỏ của họ là đủ và tốt rồi, tuy nhiên dù họ không quan tâm đến chính trị nhưng chính trị lại tác động đến mọi mặt của đời sống, từ giá cả của cân gạo, cân thịt, lít xăng đến giá trông trẻ hay giữ xe đều do chính trị quyết định.
‘Không quan tâm đến chính trị’ không chỉ vô trách nhiệm với chính mình và gia đình mình mà còn là biểu hiện của sự hèn nhát và không lương thiện nếu không muốn nói là gián tiếp gây ra tội ác. Chúng ta đều biết ở các nước văn minh, không ngăn cản tội ác hay không cứu giúp người mắc nạn là một tội hình sự. Giữa kẻ phạm tội ác và kẻ biết đó là tội ác mà không ngăn cản thì nhiều lúc kẻ biết mà không ngăn cản tộc ác đáng bị lên án nghiêm khắc hơn. Trong nhiều trường hợp, có những người ‘phạm tội ác’ vì họ không ý thức được việc mình làm, có thể do khả năng hiểu biết có vấn đề hoặc do tâm thần. Trong những trường hợp này kẻ gây ra tội ác có thể ‘thông cảm và tha thứ’ nhưng những người biết rõ đó là tội ác mà không ngăn cản thì đáng trách và đáng bị lên án hơn nhiều lần. Tổng giám mục Desmond Tutu người Nam Phi, Nobel Hòa Bình 1984 có nói rằng ‘Trong trường hợp có bất công mà bạn không chọn đứng về phe nào, thì thực chất là bạn đã chọn đứng về phía áp bức’.
Câu hỏi quan trọng nhất lúc này cần đặt ra cho trí thức Việt Nam đó là : Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay những người "không làm chính trị" có lương thiện không? Trách nhiệm của người trí thức là gì ?
Có lẽ không thừa khi nhắc lại câu nói của Mục sư Martin Luther King rằng ‘cuộc đời chúng ta bắt đầu kết thúc kể từ khi chúng ta im lặng cho những điều mà đáng ra phải lên tiếng’ hay câu nói của Napoleon Bonaparte ‘thế giới chìm trong đau khổ không phải vì cái xấu, mà là bởi sự im lặng của những người tốt’.
Khi người tốt và tử tế quay lưng lại với chính trị thì kẻ xấu sẽ thao túng chính trị và đày đọa cả dân tộc. 73 năm cầm quyền của đảng cộng sản đã chứng minh cho điều đó. Và như đã nói ở trên đảng cộng sản không chỉ đày đọa dân tộc Việt Nam mà nó còn hành hạ tất cả thành viên của nó mà ông Đinh La Thăng là một ví dụ. Không một ai trong ban lãnh đạo đảng cộng sản dám lên tiếng bênh vực ông ta một lời, ngay cả ông Nguyễn Tấn Dũng. Có bao nhiêu đảng viên cộng sản và công chức nhà nước cảm thấy yên tâm và thoải mái dưới chế độ này ?
Trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, trí thức Việt Nam luôn đứng bên lề của thời cuộc. Các ông vua lập nên các triều đại mới như Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh), Lê Đại Hành (Lê Hoàn), Lý Thái Tổ (Lê Công Uẩn), Trần Thủ Độ (người dựng lên nhà Trần), Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Quang Trung (Nguyễn Huệ), Gia Long (nhà Nguyễn) đều là quan võ, anh hùng hảo hán chứ không phải quan văn hay xuất thân từ giới sĩ phu.
Suốt trong 80 năm đô hộ của thực dân Pháp thì trí thức Việt Nam dù được tiếp cận với văn minh của Châu Âu mà người Pháp mang đến cũng không khá hơn bao nhiêu. Đảng cộng sản (Việt Minh) một chi nhánh của Đệ tam quốc tế cộng sản, với chủ thuyết xóa bỏ biên giới quốc gia lại được trí thức và người dân ủng hộ nhiều nhất. Lý do dẫn đến thắng lợi của đảng cộng sản năm 1945 là vì sự hời hợt và vô cảm của giới trí thức Việt Nam lúc đó. Xin mời độc giả đọc lại bài viết ‘Nhìn lại Cách mạng tháng Tám’ của ông Nguyễn Gia Kiểng viết từ năm 1991 để hiểu thêm về các tổ chức chính trị và đảng phái thời đó (2).
Ngày hôm nay, có vẻ lịch sử năm 1945 đang lặp lại. Đất nước đang lâm nguy và đứng bên bờ vực thẳm nhưng tầng lớp trí thức Việt Nam vẫn tiếp tục đứng bên lề của thời cuộc. Họ thờ ơ và không quan tâm đến vận nước. Không ai nghĩ đến chuyện tham gia hay thành lập các tổ chức chính trị để tranh đấu một cách bài bản hay có một lộ trình cụ thể để thay đổi Việt Nam về hướng dân chủ.
Trí thức Việt Nam không chịu hiểu rằng đấu tranh chính trị là đấu tranh giữa các tổ chức chứ không phải đấu tranh cá nhân. Họ không thể nào kêu gọi người dân Việt Nam đoàn kết khi bản thân họ không tham gia hay ủng hộ cho bất cứ tổ chức chính trị dân chủ đối lập nào. Cũng không có một tổ chức nào ngoài Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đưa ra được một Dự Án chính trị cho đất nước. Ngay cả Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cũng gặp phải sự thờ ơ của tầng lớp trí thức Việt Nam. Không mấy ai lên tiếng phản đối hay ủng hộ cho dự án chính trị đó ngoài các bạn trẻ, là thế hệ sinh ra sau biến cố 30/4/1975.
Đừng quên rằng, từ xưa đến nay, tất cả các cuộc cách mạng đổi đời đều phải do giới trí thức lãnh đạo và dẫn dắt. Việt Nam tụt hậu và thua kém các dân tộc khác vì trong suốt dòng lịch sử, trí thức Việt Nam chưa bao giờ xây dựng được cho mình và đất nước một tổ chức chính trị thật sự với một đội ngũ nhân sự chính trị có hiểu biết và một tư tưởng chính trị trong sáng, lành mạnh chuyên chở các giá trị của thời đại. Trí thức Việt Nam phải biết rằng không có ‘tư tưởng chính trị’ thì không thể có các tổ chức chính trị. Không có Kinh thì không thể có Đạo. Có những tổ chức ra đời nhưng vì không có tư tưởng chính trị nên không thể phát triển hoặc sớm tan rã.
Các chế độ độc tài trên thế giới đang co cụm lại để tự vệ nhưng dù cố gắng đến đâu chúng cũng sẽ bị làn sóng dân chủ thứ Tư tràn tới và quét đi. Các nước độc tài như Nga, Trung Quốc... đang chuyển từ chế độ tài đảng trị sang chế độ độc tài cá nhân trị với sự phong đế suốt đời cho Putin hay Tập Cận Bình và đây là quá trình tất yếu dẫn đến sự sụp đổ của các chế độ độc tài. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Việt Nam đang đứng trước một khúc quanh trọng đại của lịch sử, một kỷ nguyên mới đang đến với dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của tự do và dân chủ. Trí thức Việt Nam cần ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình trước vận mệnh và tương lai của đất nước. Việc làm cần nhất trong lúc này là tìm hiểu các dự án chính trị của các tổ chức dân chủ đối lập để rồi ủng hộ cho một tổ chức tâm đắc nhất. Không có các tổ chức chính trị dân chủ thì không thể có dân chủ cho Việt Nam.
Việt Hoàng
(03/04/2018)
----------------
(1). http://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/tong-quan-ve-doi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-3317714/
(2). https://thongluan2016.blogspot.com/2017/08/nhin-lai-cach-mang-thang-tam-nguyen-gia.html
Ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì ngày đó nhân dân Việt Nam còn đau khổ và còn nhiều lầm than. Trí thức Việt Nam hãy mạnh dạn thoát ra khỏi cái bóng của kẻ sĩ, xin các vị hãy đảm nhiệm đúng vai trò và trách nhiệm của mình trước quốc gia và dân tộc. Mong các vị hãy nhớ rằng không có triều đại nào, không có chế độ chính trị nào là vĩnh cữu, tất cả chỉ là nhất thời, chỉ có đất nước và dân tộc mới trường tồn.
Không có chế độ chính trị nào là vĩnh cữu, tất cả chỉ là nhất thời, chỉ có đất nước và dân tộc mới trường tồn.
Dẫu biết là đất nước có lúc hưng thịnh có lúc suy vong, trách nhiệm đều thuộc về tất cả mọi người. Thế nhưng dù ở xã hội nào và giai đoạn lịch sử nào thì những mối quan tâm và ưu tư về đất nước, xã hội, luôn luôn chỉ là của một thiểu số nhỏ, là tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc, còn lại đại đa số bộ phận quần chúng họ có những mối quan tâm riêng của mình như phải lo lắng về đời sống của cá nhân và gia đình.
Con người đã xuất hiện và sinh sống trên trái đất này hàng triệu năm, từ thuở hoang dại cho đến văn minh ngày nay, và trong dòng lịch sử đó thì tất cả các cuộc hành trình của mọi dân tộc trên thế giới này đều là những cuộc hành trình tìm về tự do và dân chủ. Những cuộc hành trình này đều luôn được khởi xướng và được lãnh đạo bởi tầng lớp trí thức. Mọi đất nước, mọi dân tộc đều ở trong cuộc hành trình này và không loại trừ nước Việt Nam chúng ta.
Đất nước chúng ta có một chiều dài lịch sử dài hàng ngàn năm nhưng trong những năm tháng đó chúng ta là dân nô lệ, trong cả hàng ngàn năm đó thì đến giữa thế kỷ XX tự do và dân chủ đã chỉ mới ló dạng tại miền Nam và sau đó vụt tắt đi nhanh chóng. Chúng ta có chủ quyền và có độc lập dân tộc nhưng chúng ta chỉ là nô lệ của một dòng vua nào đó. Người Việt cũng thường hay tự hào là ông cha của mình đã đánh đuổi quân ngoại xâm, quân Hán, quân Mông, quân Minh... nhưng nhiều người không biết rằng chúng ta chỉ đổi một ách nô lệ ngoại bang lấy một ách nô lệ bản xứ.
Giai đoạn hiện nay rất quan trọng vì dòng lịch sử sắp thay đổi, đất nước chúng ta đang và sắp chuyển mình về kỷ nguyên của dân chủ. Một trang sử mới đang được mở ra, tuy nhiên có một điều bất bình thường và cũng rất đáng buồn là tầng lớp trí thức Việt Nam không đảm nhiệm đúng vai trò cũng như trách nhiệm của mình trong mọi giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước.
Tầng lớp trí thức luôn luôn là thành phần quyết định cho mọi hành trình của dân tộc vì những cuộc hành trình này phải được họ khởi xướng, cũng như lãnh đạo và dẫn dắt. Nhưng thật thất vọng để nói rằng đất nước chúng ta chưa có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa như vậy. Đó chính là lý do tại sao chúng ta có một bề dài lịch sử nhưng đến nay dân tộc chúng ta vẫn là một dân tộc bị tước đoạt và chưa có những quyền con người cơ bản nhất. Và đó cũng chính là lý do tại sao ách độc tài này còn đè đầu cưỡi cổ và cai trị chúng ta dù nó là một chế độ tội ác và gây đổ vỡ nhiều nhất nhất trong lịch sử. Chỉ có thể khẳng định rằng đất nước Việt Nam không có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa vì văn hóa của chúng ta không thể đào tạo ra các trí thức mẫu mực.
1. Tầng lớp trí thức Việt Nam là ai ?
Sẽ có ích khi làm rõ khái niệm và định nghĩa đúng người trí thức là người như thế nào, vì danh từ này rất hay bị lạm dụng cho nên chúng ta phải làm rõ trước khi đi sâu vào vấn đề. Nhiều người Việt Nam thường hay hiểu trí thức là người có học vị cao, có nhiều bằng cấp, có một địa vị xã hội… nhưng thực tế không hề đúng như vậy, vì rõ ràng có nhiều người không lên đại học, họ tự học và họ giỏi hơn những người có học đại học rất nhiều. Nếu dùng bằng cấp để định nghĩa người trí thức thì hoàn toàn không đúng, và cũng có nhiều người không giữ một chức vụ nào nhưng nhân cách và đạo đức của họ còn đáng kính hơn vạn lần so với nhiều quan chức.
Trong từ điển tiếng Anh thì từ intellectual (trí thức) có nghĩa là người có công việc não bộ, tức là lao động trí óc, đó là định nghĩa thông thường trong các loại từ điển. Còn văn hóa của Trung Hoa dùng những danh xưng như : sĩ, nho, thánh hiền, văn nhân (hay thu nhân) tức là người thích đọc sách bởi vì họ cho rằng người trí thức là người thích đọc sách, tìm hiểu những sự cần thiết trong sách vở tức là người thông thái. Ở Hy lạp, La Mã cổ đại trí thức được định nghĩa là những triết gia hay những nhà hiền triết ưa thích sự tranh luận (philosopher). Một học giả người Trung Hoa định nghĩa trí thức là người hiểu biết, biết trước và tiên liệu được tương lai và dùng những điều đó đóng góp cho đất nước và dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam trong nghị quyết 27 NQ/TW năm 2008 định nghĩa trí thức là những người lao động trí óc có năng lực tư duy độc lập.
Vậy thế nào là người trí thức ?
Xin được chia sẻ nhận định của ông Nguyễn Gia Kiểng (nhà tư tưởng, nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XXI) định nghĩa người trí thức là :
Những người do được đào tạo hay tự học đã đạt tới một trình độ hiểu biết và lý luận trên trung bình, quan tâm tới những vấn đề chính trị và xã hội, suy nghĩ một cách lương thiện, biết tự đặt cho mình những câu hỏi và tìm câu trả lời của mình cho những câu hỏi đó và sẵn sàng thách thức mọi thế lực để bảo vệ quan điểm của mình. Người trí thức phải suy nghĩ một cách độc lập và do đó không thể chấp nhân một sự chỉ đạo tư tưởng nào cả.
Nhận định này được xem là đúng đắn nhất và được chia sẻ bởi các học giả và các trí thức trên thế giới.
Sau khi đã định nghĩa và phác họa chân dung của một người trí thức thì chúng ta thấy rằng Việt Nam hiện nay không phải là không có trí thức nhưng đây là một thiểu số rất nhỏ và chưa đủ đề hình thành lên một tầng lớp trí thức.
Một câu hỏi nhức nhối được đặt ra sau đó là tại sao dân tộc chúng ta có một bề dài lịch sử, có một nền văn hiến lâu đời nhưng chúng ta không có nổi một tầng lớp trí thức đúng đắn ? Chỉ có thể trả lời rằng văn hóa của chúng ta tồi, văn hóa của Việt Nam không thể đào tạo ra các trí thức mẫu mực mà chỉ có thể đạo ra những con người mà mộng đời là được làm tay sai không điều kiện cho các bạo quyền để hà hiếp và bóc lột những người dân cùng khổ. Họ dành cả cuộc đời để học những kinh điển cũ kỹ không liên quan gì tới thực tế và được bổ nhiệm làm quan cai trị sau khi đậu những khóa thi thơ phú vớ vẩn.
Nhân loại từ thời thượng cổ cho đến những thế kỷ gần đây đều theo đuổi và chịu ảnh hưởng cùng một triết lý duy nhất của thế giới là nhất nguyên, và ngay cả bây giờ tư tưởng nhất nguyên vẫn còn rất mạnh. Tư tưởng nhất nguyên hiện diện và thống trị trong mọi sinh hoạt của xã hội con người, từ chính trị cho đến văn hoá. Dân tộc chúng ta cũng đã chịu đựng và nuôi dưỡng một triết lý nhất nguyên đó là Nho giáo. Trong giai đoạn đầu của một ngàn năm bắc thuộc chúng ta được người phương bắc đến giáo hóa và bắt đầu kể từ giai đoạn này nước ta chính thức hấp thụ Nho giáo và coi nó như một chân lý.
Nho giáo (còn được gọi là Khổng giáo mà theo tiếng Anh gọi là Confucianism) là một hệ tư tưởng lấy Nho gia hoặc Nho sĩ làm căn bản cho mình, bao gồm các chuẩn mực về đạo đức, triết lý và tôn giáo, được thực hành nhằm bảo tồn một nền chuyên chế bền vững, theo đó cả ba quyền lực khác nhau : lập pháp, hành pháp và tư pháp, đều được tập trung vĩnh viễn vào một cá nhân duy nhất được gọi là Vua hoặc Thiên tử.
Theo Hán tự, chữ "Nho" (儒) được tạo thành bởi chữ "Nhân" (亻, tức là Người) ghép với chữ "Nhu" (需, tức là Cần thiết hoặc Nhu cầu). Chuyển dịch đầy đủ, "Nho" có nghĩa là người cần thiết cho việc gì đó hoặc người cần được dùng vào việc nào đó. Từ đó suy ra rằng, "Nho" có nghĩa là con người công cụ hoặc con người được dùng làm phương tiện (cho người khác sử dụng). Quả thật, thực tế xã hội đã chứng thực rằng, nho sĩ (hoặc "nhà nho" theo Việt ngữ) chẳng qua chỉ là người cần thiết để các vua chúa trị nước mà thôi, tức là tầng lớp được đào tạo để làm tay sai hoặc đầu sai cho vua chúa cai trị tất cả các tầng lớp dưới. Vậy Nho giáo (儒 教) chính là một hệ tư tưởng vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị đánh mất mình.
Khổng Tử chỉ là một trong nhiều người đã tham gia phát triển Nho giáo nhưng ông là người đã đóng góp nhiều nhất khiến Nho giáo được hiểu thành Khổng giáo như đã thấy về thuật ngữ ở trên.
Nho giáo rất phát triển ở Đông Á châu, bao gồm nước Tàu, Việt nam, Triều tiên, và Nhật bản. Ở đó, những người chuyên thực hành các chuẩn mực tín điều được xác lập bởi Nho giáo được gọi là Nho sĩ, hoặc nhà Nho theo Việt ngữ.
Một triết lý được thể hiện nhiều lần trong Luận ngữ mà Khổng Tử dạy các học trò của mình : "Nước nguy thì chớ vào, nước loạn thì chớ ở, hoàn cảnh tốt thì ra làm quan, hoàn cảnh xấu thì ẩn mình". Triết lý này của Khổng Tử rõ ràng là triết lý vô tổ quốc, nó chối bỏ cái trách nhiệm trước cộng đồng và quốc gia, rõ ràng ông không nhìn nhận bất cứ một bổn phận nào đối với đất nước cả, ông chỉ coi nước là của một chủ, kẻ sĩ thấy phục vụ ông chủ đó có lợi thì làm không có lợi thì thôi.
Cái triết lý ở ẩn mà Khổng Tử nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Luận Ngữ và sau này đã trở thành cả một đạo sống của nho sĩ, thái độ của kẻ sĩ rất rõ rệt : Chỉ mưu lợi cho mình và sống trung thành với nghề sĩ, nghĩa là nghề đi học và làm quan của mình. Phải nói rằng các nho sĩ rất có đạo lý nghề nghiệp. Họ trung thành tuyệt đối với người chủ đã dùng họ và dù được làm quan hay thất nghiệp họ vẫn hãnh diện với nghề của mình và tôn trọng những giá trị của nó. Những nhà nho không có tổ quốc, họ chỉ biết tới các tổ nghề, nghĩa là các thánh hiền của họ, và người chủ tuyển dụng họ, nghĩa là nhà vua.
Nguy hiểm hơn nữa là hệ tư tưởng này coi đất nước là của riêng một dòng vua, trong xã hội Khổng giáo thì đất nước chỉ là một tài sản, một vùng sở hữu của riêng vua, những con người sống trên đất nước đó thì chỉ là nô lệ của vua. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt mà chúng ta coi là một bài thơ yêu nước cũng chỉ nhắc lại quan niệm đó : Nam quốc sơn hà Nam đế cư (núi sông nước Nam là của vua nước Nam).
2. Sự khủng hoảng của tầng lớp trí thức Việt Nam
Giải pháp của Việt Nam hiện nay khó lòng có thể trông mong gì ở tầng lớp "trí thức" hiện tại, chỉ khi nào họ ý thức được số phận của mình gắn liền với vận mệnh đất nước…
Rõ ràng là chúng ta đã thấy sự khủng hoảng này kéo dài từ trong lịch sử cho tới tận đến ngày hôm nay, không phải là một vấn đề mới xuất hiện gần đây mà nó đã là một nỗi đau trường tồn, một nỗi nhục của trí tuệ và con người Việt Nam trong hàng ngàn năm. Đó là sự khủng hoảng của nhân cách, của trí tuệ, của vai trò cũng như trách nhiệm của tầng lớp trí thức Việt Nam.
Tình hình đất nước hiện nay rất nguy ngập, những bất công và sự lạm quyền của tầng lớp cai trị nó phá hoại và gây đỗ vỡ trong tất cả mọi địa hạt. Những vấn nạn của xã hội, con người, văn hóa, đạo đức, chủ quyền, giáo dục, y tế, môi trường, thực phẩm v.v. đều đã hạ cấp một cách trầm trọng, và quan trọng hơn nữa chúng ta là một đất nước đã mất chủ quyền, chúng ta mất chủ quyền ngay trên chính đất nước mình.
Chúng ta mất quyền làm chủ đất nước mình vì chúng ta bị tước đoạt những quyền con người cơ bản nhất và đảng cộng sản Việt Nam hành xử như một lực lượng chiếm đóng và còn ngang nhiên tuyên bố tự cho mình cái quyền cai trị đất nước một cách vô thời hạn. Đây là một thái độ xấc xược và đảng cộng sản đang thách đố toàn thể nhân dân Việt Nam. Chúng ta cũng mất những mảnh đất thiêng liêng mà ông cha của mình đã phải bỏ xương máu ra để gìn giữ và xác lập chủ quyền. Thác Bản Giốc, Nam Quan, Lão Sơn, Hoàng Sa, Trường Sa đều đã được đảng cộng sản dâng cho Trung cộng.
Phải nói là đảng cộng sản đã là một tai họa cho đất nước chúng ta. Sẽ không thể có một giải pháp nào cho Việt Nam hiện nay nếu chế độ độc tài cộng sản còn tồn tại, mọi hy vọng về cải tổ chế độ từ bên trong hay chờ đợi sự sụp đổ về kinh tế hoàn toàn sai lầm mà thậm chí còn tai hại.
Đảng cộng sản đã quá phân hóa đến nỗi không thể lấy được một quyết định chung. Và cũng không một ai trong đảng có đủ khả năng và đạo đức để chuyển biến tình hình, các nhóm quyền lực, lợi ích đang mâu thuẫn và xử lý lẫn nhau qua chiêu bài chống tham nhũng.
Đảng cộng sản đang có xu hướng chuyển từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Và đáng buồn thay là "cá nhân độc tài" này lại là một ông lão 73 tuổi và nổi tiếng là "lú". Tương lai của đảng cộng sản cứ nhìn vào ông ta thì rõ.
Theo các thống kê hiện nay thì Việt Nam có khoảng 60.000 ngàn thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư. Những con người này họ là các giảng viên trong các trường đại học, hoặc là những chuyên viên có trình độ và họ hiểu biết hơn quần chúng. Trong 60.000 ngàn người thì có một con số lạc quan là khoảng 50% trong số họ là người có thực học và có năng lực còn lại là những người mua bằng cấp và sử dụng những tấm bằng này để mưu cầu địa vị xã hội của riêng mình.
Những người này và nhiều người khác là hậu duệ của giai cấp sĩ ngày trước, như đã giải thích ở trên, những người mà mộng đời chỉ là được làm quan, nghĩa là làm công cụ, tay sai cho các vua chúa để thống trị dân chúng. Và tâm lý kẻ sĩ vẫn còn rất mạnh, đại đa số những người này vẫn còn coi chính trị là dơ bẩn và tìm cách xa lánh chính trị. Những người này không khác gì tầng lớp sĩ phu trước đây, có hơn là sự hiểu biết của họ đã dồi dào hơn thế hệ trước. Ngày hôm nay họ vẫn chấp nhận và cúi đầu trước bạo quyền và còn mong muốn được nhận sự ân sủng của nó và thậm chí họ còn đàn áp và chống lại nguyện vọng của nhân dân hiện nay.
Phải nói rằng trí thức Việt Nam đã thiếu trái tim để đau, thiếu tinh thần dân tộc để thấy nhục và họ cũng thiếu nhân cách để nhìn nhận và đảm lãnh vai trò của mình. Thật không quá đáng khi nói họ và tầng lớp sĩ phu trước đây là một nỗi nhục của trí tuệ và con người Việt Nam.
Trước tất cả những nỗi đau đã xảy ra trên đất nước này thì xin hỏi là trí thức Việt Nam đã làm gì để sống xứng đáng với vai trò của mình ?
Trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam ngày hôm nay là đưa đất nước ra khỏi hoàn cảnh bế tắc hiện tại và mau chóng thiết lập một nền dân chủ. Nhưng giải pháp của Việt Nam hiện nay khó lòng có thể trông mong gì ở tầng lớp "trí thức" hiện tại, chỉ khi nào họ ý thức được số phận của mình gắn liền với vận mệnh đất nước và họ kết hợp được với nhau trong một tổ chức cũng như đồng thuận trên một dự án chính trị thì nước Việt Nam mới có tương lai.
Cái cây Khổng giáo đã chết đứng nhưng cái rễ của nó vẫn còn ăn sâu và ngự trị trong văn hóa của Việt Nam. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể lạc quan về tương lai, vì trong một, hai thập niên gần đây đất nước chúng ta đã hình thành lên một lớp người mới. Lớp người này chưa từng xuất hiện và chưa từng có trong lịch sử Việt Nam đó là tầng lớp trí thức chính trị, những người này đại đa số họ đều là những người trẻ, là những sinh viên trong trường đại học, là những người trẻ có tấm lòng với đất nước. Họ dứt khoát đấu tranh và đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam ngay tức khắc, và họ cũng nhất quyết bác bỏ thứ văn hóa nô lệ Khổng giáo, những người trẻ này chính là sức sống và niềm tự hào của Việt Nam trong tương lai.
Trên đây chỉ là đôi điều suy nghĩ của một công dân, tôi chỉ nói sự thật và mong quý vị đón nhận. Vị thuốc cay đắng nhất cũng là vị thuốc bổ nhất vì nó giúp chúng ta chữa được chứng bệnh của bản thân mình.
Việt Tuệ
(11/01/2018)