Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Nhân dân không có bổn phận phải tuân theo nhà nước khi nó không còn ở trong phạm vi bảo vệ quyền sống, quyền tự do và tài sản của chúng ta.

nhanuoc1

Khi nhà nước sử dụng luật pháp để hợp pháp hóa các điều luật mang tính cướp bóc, nhiệm vụ của các công dân là thay thế một nhà nước bất hợp pháp bằng một nhà nước hợp pháp.

Khi nhà nước sử dụng luật pháp như là một công cụ để hợp pháp hóa các điều luật mang tính cướp bóc, hay xâm phạm đến các quyền tự do và tài sản của nhân dân, thì ngay chính lúc đó nó đã đặt bản thân mình vào trong trạng thái chống lại và thù địch với nhân dân. Và đương nhiên khi đó các công dân không còn một lý do nào để tuân theo nó nữa. Nhiệm vụ của các công dân lúc bấy giờ là thay thế nó, thay thế một nhà nước bất hợp pháp bằng một nhà nước hợp pháp.

1. Tính hợp pháp và sự liêm chính của một nhà nước.

Nhà nước là một tập thể, một lực lượng chung được tạo lập ra dựa trên sự đồng thuận của đa số các công dân, tính chính danh và sự hợp pháp của nó chỉ có thể đạt được thông qua một cuộc bầu cử tự do và minh bạch. Nhiệm vụ chính yếu của nhà nước là bảo vệ tính mạng, tài sản, và các quyền tự do của nhân dân, là bảo vệ những quyền hiến định bất khả xâm phạm. Nếu nhà nước vượt ra khỏi các phạm vi trên, thì nó sẽ tự đánh mất sự tín nhiệm mà nhân dân đã giao cho nó trước đây. Khi đó nó đã vi phạm và xâm phạm đến các quyền của chúng ta, và chúng ta gọi những nhà nước như này là chuyên chế, độc tài, bất hợp pháp, và cuối cùng là nó không còn đáng để tuân theo nữa.

Vậy thì lý do gì khiến cho nhà nước ra đời, và tại sao nhà nước lại có trách nhiệm bảo vệ những quyền như trên của chúng ta ?

nhanuoc2

John Locke là một trong những nhà tư tưởng Khai sáng có ảnh hưởng nhất, tư tưởng chống chủ nghĩa chuyên chế

John Locke (1632-1704) nhà tư tưởng, triết gia vĩ đại người Anh ở thế kỷ XVII. Ông là một trong những nhà tư tưởng Khai sáng có ảnh hưởng nhất, tư tưởng chống chủ nghĩa chuyên chế, khái niệm về các quyền tự nhiên, khế ước xã hội của ông đã có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn hóa và sự thịnh vượng ở Phương Tây từ hàng thế kỷ nay. Trong Khảo luận thứ hai về chính quyền, một tuyệt tác về tư tưởng chính trị, John Locke đã đưa ra lý thuyết về nguồn gốc và vai trò của nhà nước, mà ông gọi là nhà nước dân sự.

- Khởi đầu ông tìm về trạng thái tự nhiên của con người : Trạng thái tự nhiên là trạng thái tiền chính trị, là trạng thái mà con người sống trước khi họ đồng thuận tạo nên một chính quyền, là trạng thái mà tất cả mọi người đều tự do và bình đẳng về các quyền như nhau. Theo Locke thì trạng thái tự nhiên không phải trạng thái hỗn loạn hay phóng túng bừa bãi, bởi trong trạng thái tự nhiên con người vẫn bị cai trị bởi luật tự nhiên. Tức là, con người là những sinh vật duy lý và lý tính sẽ chỉ bảo rằng mọi người đều bình đẳng, độc lập, không ai có quyền làm hại đến cuộc sống, sức khỏe, tự do, và tài sản của người khác, rồi từ đó có khả năng khám phá và tuân theo các giá trị đạo đức về tốt xấu, đúng sai, và sẽ hành xử đúng đắn khi đối xử với người khác. Đặc biệt, Locke tin rằng trong trạng thái tự nhiên này, mỗi cá nhân có những quyền tự nhiên bất khả xâm phạm đối với sinh mạng, sự tự do, và tài sản. Và cuối cùng là trong trạng thái tự nhiên không một ai có thẩm quyền chính trị tự nhiên lên mỗi người chúng ta.

- Tiếp theo Locke diễn giải về các quyền tự nhiên. Mỗi người chúng ta có quyền sống, quyền sỡ hữu và các quyền tự do, đó là những quyền tự nhiên bất khả xâm phạm miễn là hành vi của chúng ta không xâm phạm đến những quyền như thế của các cá nhân khác. Chúng ta có các quyền này bởi chỉ đơn giản một điều vì chúng ta là con người. Những quyền này tồn tại trước và độc lập so với sự tồn tại của chính quyền. Mặc dù Locke không phát triển một lý thuyết về quyền tự nhiên, nhưng ông hình dung con người trong trạng thái tự nhiên là những con người tự do và bình đẳng, và các cá nhân mới là điểm tham chiếu chính, chứ không phải cộng đồng hay nhà nước, và cá nhân trao sự đồng thuận cho nhà nước rồi từ đó thẩm quyền cai trị bắt nguồn từ nhân dân. Sau đó ông bắt đầu phân chia ra hai loại tự do, tự do tự nhiên, mà con người có trong trạng thái tự nhiên trước khi hình thành nên nhà nước ; và thứ hai, tự do dân sự, mà con người có thể thụ hưởng trong xã hội chính trị dưới sự bảo vệ của chính phủ dân sự.

Locke giải thích về sự phân biệt này :

"Sự tự do tự nhiên của con người là sự tự do khỏi bất cứ quyền lực tối cao nào trên trái đất, và không nằm dưới ý chí hay thẩm quyền lập pháp của con người, nhưng chỉ có duy nhất luật tự nhiên cai trị anh ta. Sự tự do của con người trong xã hội, là không nằm dưới bất cứ quyền lực lập pháp nào ngoài quyền lực pháp lý được thiết lập trong một công quốc bởi sự đồng thuận, cũng không nằm dưới sự chi phối của bất cứ ý chí hay sự ràng buộc của bất cứ luật pháp nào, ngoài những điều mà cơ quan lập pháp ban hành theo sự ủy thác đặt vào nó".

- Luật tự nhiên : Điều này lại càng rõ ràng hơn, luật đã tồn tại từ trước khi nhà nước ra đời, nhà nước không phải chủ thể kiến tạo ra luật pháp. Nó chỉ có nhiệm vụ bảo vệ luật tự nhiên, ban hành và củng cố luật theo luật tự nhiên. Chúng ta hiểu luật tự nhiên là một bộ luật được khám phá ra bởi lý tính, như con người là những sinh vật duy lý đủ để khiến mỗi người trong chúng ta sống một cách lương thiện, để không xâm phạm đến tính mạng, tài sản và quyền tự do của người khác bởi mỗi khi chúng ta xâm phạm đến các quyền của người khác, chúng ta sẽ đặt mình vào trong trạng thái nguy hiểm và đánh mất đi các quyền như thế của mình. Tuy nhiên Locke diễn giải trong trạng thái tự nhiên khi chính quyền chưa hình thành thì các cá nhân sẽ là người thực thi luật tự nhiên, việc thực thi luật tự nhiên lúc đó đều nằm trong tay mọi người. 

Nhưng việc thực thi luật tự nhiên đầy rẫy những điều bất tiện bởi thứ nhất, luật tự nhiên là bộ luật không được viết ra, và có thể bị thiên lệch đi ở thời điểm nào đó nếu liên quan đến niềm đam mê quyền lực và sự tư lợi cá nhân của một số người. Thứ hai, nếu không có bất kì một thẩm quyền chung được thừa nhận để củng cố luật tự nhiên, con người ta có thể giải thích những luật không được viết ra này theo cách chủ quan, thiên vị, khi trở thành người phán quyết trong những trường hợp liên quan đến họ. 

- Khế ước xã hội : việc thực thi luật tự nhiên như Locke giải thích nó không phải là một bộ luật thành văn, có thể bị lờ đi và thiên lệch trong một lúc nào đó cũng như sẽ có xu hướng bị thể hiện tùy tiện, thiên vị và chủ quan. Mọi người sẽ chỉ đồng thuận tham gia vào một khế ước và trao quyền lực cho chính quyền bởi vì họ muốn cuộc sống và tài sản của họ được bảo vệ. Do đó họ từ bỏ một số sự tự do tự nhiên của mình, nhưng chính quyền mà họ tạo ra chỉ có những quyền mà họ đã trao cho nó. Sự ủy quyền này sẽ kết thúc khi chính quyền vi phạm và vượt quá ra khỏi phạm vi những quyền mà các công dân trao cho nó. Theo quan điểm của Locke, sự vi phạm này là đủ nghiêm trọng để lấy lại thẩm quyền của một chính quyền, vì lý do là chính quyền được hình thành trước hết là để đảm bảo sự bảo vệ tài sản của cá nhân (bao gồm cả "sinh mạng" và "tự do"). Phải nói là việc biện minh cho sự tồn tại của nhà nước bằng khế ước xã hội quả là một trong những ý tưởng thiên tài nhất trong triết học chính trị. 

Và cuối cùng chúng ta thấy là trong trạng thái tự nhiên con người có quyền sống, quyền tự do, quyền sỡ hữu tài sản... Là những quyền mà tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta, nó bất khả xâm phạm và rằng không một ai có thẩm quyền chính trị tự nhiên lên chúng ta. Con người trong trạng thái tự nhiên hoàn toàn tự do và bình đẳng với nhau và mỗi người đều bị cai trị bởi luật tự nhiên, tuy nhiên việc thực thi luật tư nhiên lại mang đầy yếu tố bất cập và lúc đó chính một khế ước xã hội ra đời. Đó là sự hình thành nên của một chính phủ dân sự và nhiệm vụ trước hết của nó là bảo vệ quyền sống, quyền tự do và tài sản của công dân, và tính hợp hợp của nó chỉ có thể đạt được qua một cuộc bầu cử tự do và minh bạch. Và khi nó đã vượt ra hay không còn nằm trong phạm vi được cho phép thì lúc bấy giờ nó (nhà nước) không còn đáng để tuân theo nữa.

2. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, một nhà nước bất hợp pháp

Nhà cầm quyền cộng sản dưới danh xưng Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước bất hợp pháp, một lực lượng chiếm đóng, một tổ chức mafia thuần túy cướp bóc.

Đây là một nhà nước bất hợp pháp, đối với nhân dân Việt Nam thì sự tín nhiệm và tính chính danh của nó là chưa bao giờ có, mặc dù trên cơ sở ngoại giao và trước các vấn đề quốc tế thì nó được coi là một tổ chức đại diện cho đất nước Việt Nam. Thế nhưng đối với đại đa số nhân dân Việt Nam thì nó là một lực lượng chiếm đóng, hoàn toàn bất hợp pháp. Sau khi cướp được chính quyền và áp đặt được sự thống trị của mình từ 73 năm trên miền Bắc và 43 năm ở miền Nam thì đảng cộng sản đã đưa ra rất nhiều những bộ luật, tu sửa hiến pháp để hợp pháp hóa sự cai trị bất chính của mình. Văn bản Hiến pháp 2013 của đảng cộng sản là một minh chứng cho sự tiếm đoạt, duy trì và áp đặt sự cai trị của mình lên toàn bộ nhân dân và đất nước Việt Nam. 

Điều này được cụ thể và rõ ràng nhất qua bản hiến pháp năm 2013 trong điều 4 ghi :

"Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".

Thông qua điều 4 trong Hiến pháp là một sự mở đầu cho hàng loạt những điều luật vô lý và bệnh hoạn của nhà cầm quyền cộng sản như điều 53 Hiến pháp, điều 65 Hiến pháp, điều 79 (Bộ Luật hình sự), điều 88 (Bộ Luật hình sự), điều 258 (Bộ Luật hình sự) , điều 331 (Bộ Luật hình sự) v.v..

Qua điều 4 trong Hiến pháp, Đảng cộng sản Việt Nam tự cho mình cái quyền nắm giữ quyền lực chính trị vĩnh viễn và vô điều kiện. Đối với nhân dân Việt Nam thì điều 4 Hiến pháp năm 2013 của đảng cộng sản là một sự thách đố, xấc xược, ngang nhiên và bất chấp tất cả để coi đất nước là của riêng mình, có một điều chúng ta cần lưu ý đó là các đảng cộng sản không được thành lập ra để giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử mà họ cướp chính quyền bằng khủng bố và duy trì chính quyền bằng bạo lực. Sức mạnh của họ là ở chỗ họ bất chấp tất cả mọi giá trị đạo đức cũng như sẵn sàng làm tất cả để duy trì được sự cai trị. Họ, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dưới danh xưng Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một lực lượng chiếm đóng, một nhà nước hoàn toàn bất hợp pháp.

Một tổ chức mafia thuần túy cướp bóc : Điều 53 Hiến pháp viết :

"Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý".

Một cách tổng quát, điều 53 giả định là tất cả mọi tài sản thuộc về nhân dân. Tuy nhiên nhân dân chỉ là một ý niệm trừu tượng, người quản lý (dùm cho nhân dân) là nhà nước và trong tình huống đó, nhà nước trở thành chủ nhân thật sự với tất cả mọi quyền lực thực tế. Do đó qua điều 53 và điều 4, nhà nước cộng sản Việt Nam trên thực tế là một nhà nước toàn trị, kiểm soát và làm chủ mọi tài nguyên quốc gia. 

Điều 53 đã gây ra rất nhiều hệ lụy cho xã hội Việt Nam, những vụ cướp đất của chính quyền xảy ra khắp mọi nơi trên đất nước, hàng triệu gia đình dân oan mất nhà cửa, bị ép buộc nhận bồi thường một cách rẻ mạt. Hàng loạt các khu đất có tính chiến lược bị cho nước ngoài thuê dài hạn trong hàng chục năm. Tài nguyên của quốc gia bị sử dụng, khai thác một cách tùy tiện, lãng phí, gây ra những hậu quả vô cùng tai hại. 

Tiếp theo điều 65 Hiến pháp 2013 viết :

"Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội ; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế".

Trên thực tế đã chứng minh nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam chưa bao giờ là một lực lượng, một tổ chức chính trị nhận được sự tín nhiệm của nhân dân, họ chiếm đóng và tuyên bố một cách thẳng thừng là họ cướp chính quyền. Họ cướp của người Việt Nam tất cả, từ tài sản cho đến đất đai, từ quyền con người cho tới sự sống và tương lai của mỗi người Việt Nam. 

Điều 65 chỉ làm rõ thêm một điều, họ là một lực lượng cướp bóc, một băng cướp và cũng như giống như tất cả mọi băng đảng thảo khấu khác luôn luôn có bọn tay chân để làm công cụ nhằm mục đích cho việc thực hiện cướp bóc và duy trì sự thống trị của mình lên đại bộ phận nhân dân vừa rời rạc và chia rẽ. Sỡ dĩ băng đảng này giống đảng chính trị là ở mục đích tối cùng là giành lấy quyền lực nhà nước, chấm hết. Còn lại cách giành lấy quyền lực đó là của bọn mafia, là giết chóc, là thanh trừng, là cướp lấy và muốn đoạt ngôi vĩnh viễn không nhường ai. Bằng chứng là sau khi họ đã cướp được chính quyền (Cách mạng tháng 8 năm 1945), băng đảng này đã ra tay sát hại hơn 100.000 nhân mạng trong Cải cách ruộng đất. Gây ra cuộc nội chiến đẫm máu làm chết nhiều triệu sinh mạng và sau khi "thắng cuộc" họ trả thù phía bên kia bằng cách đày ải giết chóc hàng vạn người sau ngày miền Nam thất thủ dưới tay họ, đây là bản chất thanh trừng đối thủ kiểu đuổi cùng giết tận của mafia.

Chưa hết, Điều 79, khoản 1, Bộ Luật hình sự quy định :

"Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì bị phạt như sau : Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả ngiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình".

Theo ý chí độc đoán của nhà cầm quyền cộng sản thì bất cứ một ai, một nhóm người nào đó nếu chống lại đảng cộng sản thì sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20 mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Nhưng thế nào là một chính quyền nhân dân và việc chống lại một chính quyền phi nhân dân là một việc làm tội lỗi và phải chịu đựng thứ hình phạt ngang với hành vi giết người ư ?

Trong thời gian gần đây nhà cầm quyền cộng sản đã gia tăng bắt bớ và bỏ tù những người hoàn toàn vô tội, những người này họ đã chỉ thể hiện quyền của mình một cách thẳng thắn bởi những quyền này đều được quy định rõ ràng trong chính văn bản Hiến pháp 2013 của nhà cầm quyền cộng sản như điều 14, điều 25, điều 28, họ lên tiếng chống lại những bất công và đấu tranh để xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn và rốt cuộc những gì họ nhận lại được là những bản án vô cùng nặng nề. Hơn bao giờ hết một chính quyền nhân dân không có nhu cầu phải bắt bớ, giam cầm và đàn áp những người bất đồng chính kiến nhiều đến như vậy bởi những hành động của họ hoàn toàn ôn hòa, và họ hành động dựa trên những gì mà Hiến pháp đã quy định, xét cho cùng đó chỉ có thể là việc làm của bọn mafia đội lốt đảng chính trị và sử dụng luật pháp như một công cụ để duy trì quyền lực thống trị mãi mãi. 

Điều 79 trong Bộ Luật hình sự của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không hề khác về nội dung mà bộ luật ngày 26 tháng 5 năm 1933 được tên độc tài Hittler công bố. Điều khoản được viết như sau :

"Đảng quốc gia lao động Đức (tức Đảng quốc xã) là đảng chính trị duy nhất của quốc gia Đức. Bất cứ kẻ nào nuôi dưỡng cấu trúc tổ chức một chính đảng khác, hoặc thành lập một chính đảng mới, sẽ bị án khổ sai cho đến 3 năm hoặc bỏ tù từ 6 tháng đến 3 năm, trừ khi hành vi này có thể bị những hình phạt nặng hơn do những luật khác". 

Về bản chất thì Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng quốc xã Đức trước kia đều là những đảng thuần túy khủng bố và tội ác, đều bất chấp mọi giá trị đạo đức để duy trì ách thống trị của mình lên dân tộc, tuy nhiên có một sự khác biệt đó là Đảng quốc xã Đức nắm được quyền lực chính trị thông qua một cuộc bầu cử khá tự do và minh bạch và mọi tội ác mới chỉ được thực hiện khi Hitler nắm quyền và sửa đổi luật pháp Đức lúc đó. Còn Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ đạt được điều đó. Trong giai đoạn tháng 8 năm 1945, nhờ có tổ chức và kỷ luật đấu tranh mà họ đã lợi dụng được tình thế hỗn loạn và vô chính phủ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ rồi đã nhân cơ hội này để cướp lấy chính quyền và áp đặt một thứ chủ nghĩa hoàn toàn sai lầm và tệ hại. Sau đó họ đã gây ra những tội ác vô cùng kinh hoàng như Cải cách ruộng đất và đi phát động một cuộc nội chiến ngu xuẩn nhằm thôn tính miền Nam khi chưa nằm trong quỹ đạo cộng sản. 

Trong văn bản Hiến pháp năm 2013, qua điều 14, điều 25, điều 28 cũng như hai Công ước quốc tế mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã ký kết năm 1982 về các Quyền dân sự và chính trị, ký ngày 24/9/1982 ; Công ước về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ngày 24/9/1982.

Trong Chương II : Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 2013, điều 14 viết :

"1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật".

Điều 25 viết :

"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định".

Điều 28 viết :

"1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.


2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội ; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân".

Tuy nhiên điều 14, điều 25, điều 28 lại hoàn toàn mâu thuẫn với điều 4 Hiến pháp, điều 88 (Bộ Luật hình sự), điều 258 (Bộ Luật hình sự), điều 331 (Bộ Luật hình sự) v.v.

Qua văn bản Hiến pháp 2013 và hàng loạt những điều luật vô pháp như trên chứng tỏ nhà cầm quyền cộng sản luôn luôn cai trị một cách tùy tiện, bừa bãi, sử dụng luật pháp như một công cụ để hợp pháp hóa sự cai trị bất chính của mình, họ cũng chưa bao giờ thể hiện sự thượng tôn pháp luật bởi luật pháp đối với họ chỉ công cụ, là cánh tay nối dài để đưa ra những điều khoản nhằm duy trì ách thông trị lên nhân dân. 

Hiến pháp là văn bản có giá trị luật pháp cao nhất và tất cả mọi bộ luật khác đều phải nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp, tuy nhiên Hiến pháp 2013 của nhà cầm quyền cộng sản lại chất chứa quá nhiều những điều khoản mâu thuẫn nhau, và chỉ có thể nói rằng Hiến pháp này sai trái hoàn toàn, không những sai mà còn bất chính bởi nó không được soạn thảo ra bởi những người đại biểu chân chính của nhân dân.

Nhà nước cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có một tư cách hay một sự hợp pháp nào để được phép nắm quyền lãnh đạo đất nước. Bởi :

Thứ nhất nó hoàn toàn bất chính, sự cai trị của nó là hoàn toàn tùy tiện và thuần túy dựa trên trên bạo lực cũng như áp đặt mà có, chưa bao giờ nó là một chính đảng nhận được sự tín nhiệm của nhân dân thông qua một cuộc bầu cử tự do.

Thứ hai nó đã vượt quá ra khỏi phạm vi mà một chính quyền được phép làm, nó đã tước đoạt và cướp đi quyền con người cũng như tài sản của chúng ta bởi như đã nói nó là một đảng cướp hơn là một đảng chính trị, sự ưu tư lớn nhất của băng đảng này từ trước đến nay là làm sao để có thể duy trì được ách thống trị của mình dù có phải làm gì đi chăng nữa.

Thứ ba nó ngược với lẽ phải và chắc chắn sẽ bị đào thải vì không gì có thể chống lại lẽ phải. Nó đã gây ra quá nhiều thiệt hại về sinh mạng cũng như tinh thần và cũng đã khiến đất nước quá tụt hậu vậy nên chúng ta phải chấm dứt nó càng sớm càng tốt qua hành động dấn thân của bản thân. Ngày hôm nay nhân dân Việt Nam không có và cũng không thể có bất cứ một lý do gì để tuân theo chế độ cộng sản này nữa bởi nó đã vi phạm quyền sống, quyền tự do và tài sản của chúng ta, bởi nó sử dụng luật pháp như một công cụ để hợp pháp hóa các điều luật cướp bóc, và quan trọng nhất nó là một nhà nước bất hợp pháp. 

Cuối cùng để thay lời kết xin trích đoạn cuối trong Dự án chính trị : Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên :

Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài cuối cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó chúng ta sẽ vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do, dân chủ, bao dung, đùm bọc, kỷ nguyên vinh quang của những cố gắng chung và của thành công chung.

Chúng ta hãy nắm tay nhau cùng cất cao một lời nguyền :

Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.

Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.

Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát.

Đó là lý tưởng của thời đại chúng ta. Đó là di sản mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ mai sau. Đó là giấc mơ Việt Nam mà các chí hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cùng theo đuổi và muốn chia sẻ với mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, hôm nay và ngày mai.

Việt Tuệ

(15/06/2018)

Additional Info

  • Author Việt Tuệ
Published in Quan điểm

Ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì ngày đó nhân dân Việt Nam còn đau khổ và còn nhiều lầm than. Trí thức Việt Nam hãy mạnh dạn thoát ra khỏi cái bóng của kẻ sĩ, xin các vị hãy đảm nhiệm đúng vai trò và trách nhiệm của mình trước quốc gia và dân tộc. Mong các vị hãy nhớ rằng không có triều đại nào, không có chế độ chính trị nào là vĩnh cữu, tất cả chỉ là nhất thời, chỉ có đất nước và dân tộc mới trường tồn.

quehuong1

Không có chế độ chính trị nào là vĩnh cữu, tất cả chỉ là nhất thời, chỉ có đất nước và dân tộc mới trường tồn.

Dẫu biết là đất nước có lúc hưng thịnh có lúc suy vong, trách nhiệm đều thuộc về tất cả mọi người. Thế nhưng dù ở xã hội nào và giai đoạn lịch sử nào thì những mối quan tâm và ưu tư về đất nước, xã hội, luôn luôn chỉ là của một thiểu số nhỏ, là tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc, còn lại đại đa số bộ phận quần chúng họ có những mối quan tâm riêng của mình như phải lo lắng về đời sống của cá nhân và gia đình.

Con người đã xuất hiện và sinh sống trên trái đất này hàng triệu năm, từ thuở hoang dại cho đến văn minh ngày nay, và trong dòng lịch sử đó thì tất cả các cuộc hành trình của mọi dân tộc trên thế giới này đều là những cuộc hành trình tìm về tự do và dân chủ. Những cuộc hành trình này đều luôn được khởi xướng và được lãnh đạo bởi tầng lớp trí thức. Mọi đất nước, mọi dân tộc đều ở trong cuộc hành trình này và không loại trừ nước Việt Nam chúng ta.

Đất nước chúng ta có một chiều dài lịch sử dài hàng ngàn năm nhưng trong những năm tháng đó chúng ta là dân nô lệ, trong cả hàng ngàn năm đó thì đến giữa thế kỷ XX tự do và dân chủ đã chỉ mới ló dạng tại miền Nam và sau đó vụt tắt đi nhanh chóng. Chúng ta có chủ quyền và có độc lập dân tộc nhưng chúng ta chỉ là nô lệ của một dòng vua nào đó. Người Việt cũng thường hay tự hào là ông cha của mình đã đánh đuổi quân ngoại xâm, quân Hán, quân Mông, quân Minh... nhưng nhiều người không biết rằng chúng ta chỉ đổi một ách nô lệ ngoại bang lấy một ách nô lệ bản xứ.

Giai đoạn hiện nay rất quan trọng vì dòng lịch sử sắp thay đổi, đất nước chúng ta đang và sắp chuyển mình về kỷ nguyên của dân chủ. Một trang sử mới đang được mở ra, tuy nhiên có một điều bất bình thường và cũng rất đáng buồn là tầng lớp trí thức Việt Nam không đảm nhiệm đúng vai trò cũng như trách nhiệm của mình trong mọi giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước.

Tầng lớp trí thức luôn luôn là thành phần quyết định cho mọi hành trình của dân tộc vì những cuộc hành trình này phải được họ khởi xướng, cũng như lãnh đạo và dẫn dắt. Nhưng thật thất vọng để nói rằng đất nước chúng ta chưa có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa như vậy. Đó chính là lý do tại sao chúng ta có một bề dài lịch sử nhưng đến nay dân tộc chúng ta vẫn là một dân tộc bị tước đoạt và chưa có những quyền con người cơ bản nhất. Và đó cũng chính là lý do tại sao ách độc tài này còn đè đầu cưỡi cổ và cai trị chúng ta dù nó là một chế độ tội ác và gây đổ vỡ nhiều nhất nhất trong lịch sử. Chỉ có thể khẳng định rằng đất nước Việt Nam không có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa vì văn hóa của chúng ta không thể đào tạo ra các trí thức mẫu mực.

1. Tầng lớp trí thức Việt Nam là ai ?

Sẽ có ích khi làm rõ khái niệm và định nghĩa đúng người trí thức là người như thế nào, vì danh từ này rất hay bị lạm dụng cho nên chúng ta phải làm rõ trước khi đi sâu vào vấn đề. Nhiều người Việt Nam thường hay hiểu trí thức là người có học vị cao, có nhiều bằng cấp, có một địa vị xã hội… nhưng thực tế không hề đúng như vậy, vì rõ ràng có nhiều người không lên đại học, họ tự học và họ giỏi hơn những người có học đại học rất nhiều. Nếu dùng bằng cấp để định nghĩa người trí thức thì hoàn toàn không đúng, và cũng có nhiều người không giữ một chức vụ nào nhưng nhân cách và đạo đức của họ còn đáng kính hơn vạn lần so với nhiều quan chức.

Trong từ điển tiếng Anh thì từ intellectual (trí thức) có nghĩa là người có công việc não bộ, tức là lao động trí óc, đó là định nghĩa thông thường trong các loại từ điển. Còn văn hóa của Trung Hoa dùng những danh xưng như : sĩ, nho, thánh hiền, văn nhân (hay thu nhân) tức là người thích đọc sách bởi vì họ cho rằng người trí thức là người thích đọc sách, tìm hiểu những sự cần thiết trong sách vở tức là người thông thái. Ở Hy lạp, La Mã cổ đại trí thức được định nghĩa là những triết gia hay những nhà hiền triết ưa thích sự tranh luận (philosopher). Một học giả người Trung Hoa định nghĩa trí thức là người hiểu biết, biết trước và tiên liệu được tương lai và dùng những điều đó đóng góp cho đất nước và dân tộc.

Đảng cộng sản Việt Nam trong nghị quyết 27 NQ/TW năm 2008 định nghĩa trí thức là những người lao động trí óc có năng lực tư duy độc lập.

Vậy thế nào là người trí thức ?

Xin được chia sẻ nhận định của ông Nguyễn Gia Kiểng (nhà tư tưởng, nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XXI) định nghĩa người trí thức là : 

Những người do được đào tạo hay tự học đã đạt tới một trình độ hiểu biết và lý luận trên trung bình, quan tâm tới những vấn đề chính trị và xã hội, suy nghĩ một cách lương thiện, biết tự đặt cho mình những câu hỏi và tìm câu trả lời của mình cho những câu hỏi đó và sẵn sàng thách thức mọi thế lực để bảo vệ quan điểm của mình. Người trí thức phải suy nghĩ một cách độc lập và do đó không thể chấp nhân một sự chỉ đạo tư tưởng nào cả.

Nhận định này được xem là đúng đắn nhất và được chia sẻ bởi các học giả và các trí thức trên thế giới.

Sau khi đã định nghĩa và phác họa chân dung của một người trí thức thì chúng ta thấy rằng Việt Nam hiện nay không phải là không có trí thức nhưng đây là một thiểu số rất nhỏ và chưa đủ đề hình thành lên một tầng lớp trí thức. 

Một câu hỏi nhức nhối được đặt ra sau đó là tại sao dân tộc chúng ta có một bề dài lịch sử, có một nền văn hiến lâu đời nhưng chúng ta không có nổi một tầng lớp trí thức đúng đắn ? Chỉ có thể trả lời rằng văn hóa của chúng ta tồi, văn hóa của Việt Nam không thể đào tạo ra các trí thức mẫu mực mà chỉ có thể đạo ra những con người mà mộng đời là được làm tay sai không điều kiện cho các bạo quyền để hà hiếp và bóc lột những người dân cùng khổ. Họ dành cả cuộc đời để học những kinh điển cũ kỹ không liên quan gì tới thực tế và được bổ nhiệm làm quan cai trị sau khi đậu những khóa thi thơ phú vớ vẩn.

Nhân loại từ thời thượng cổ cho đến những thế kỷ gần đây đều theo đuổi và chịu ảnh hưởng cùng một triết lý duy nhất của thế giới là nhất nguyên, và ngay cả bây giờ tư tưởng nhất nguyên vẫn còn rất mạnh. Tư tưởng nhất nguyên hiện diện và thống trị trong mọi sinh hoạt của xã hội con người, từ chính trị cho đến văn hoá. Dân tộc chúng ta cũng đã chịu đựng và nuôi dưỡng một triết lý nhất nguyên đó là Nho giáo. Trong giai đoạn đầu của một ngàn năm bắc thuộc chúng ta được người phương bắc đến giáo hóa và bắt đầu kể từ giai đoạn này nước ta chính thức hấp thụ Nho giáo và coi nó như một chân lý.

Nho giáo (còn được gọi là Khổng giáo mà theo tiếng Anh gọi là Confucianism) là một hệ tư tưởng lấy Nho gia hoặc Nho sĩ làm căn bản cho mình, bao gồm các chuẩn mực về đạo đức, triết lý và tôn giáo, được thực hành nhằm bảo tồn một nền chuyên chế bền vững, theo đó cả ba quyền lực khác nhau : lập pháp, hành pháp và tư pháp, đều được tập trung vĩnh viễn vào một cá nhân duy nhất được gọi là Vua hoặc Thiên tử.

Theo Hán tự, chữ "Nho" () được tạo thành bởi chữ "Nhân" (, tức là Người) ghép với chữ "Nhu" (, tức là Cần thiết hoặc Nhu cầu). Chuyển dịch đầy đủ, "Nho" có nghĩa là người cần thiết cho việc gì đó hoặc người cần được dùng vào việc nào đó. Từ đó suy ra rằng, "Nho" có nghĩa là con người công cụ hoặc con người được dùng làm phương tiện (cho người khác sử dụng). Quả thật, thực tế xã hội đã chứng thực rằng, nho sĩ (hoặc "nhà nho" theo Việt ngữ) chẳng qua chỉ là người cần thiết để các vua chúa trị nước mà thôi, tức là tầng lớp được đào tạo để làm tay sai hoặc đầu sai cho vua chúa cai trị tất cả các tầng lớp dưới. Vậy Nho giáo ( ) chính là một hệ tư tưởng vong thân, tức là cái hệ tư tưởng làm cho người ta bị đánh mất mình.

Khổng Tử chỉ là một trong nhiều người đã tham gia phát triển Nho giáo nhưng ông là người đã đóng góp nhiều nhất khiến Nho giáo được hiểu thành Khổng giáo như đã thấy về thuật ngữ ở trên.

Nho giáo rất phát triển ở Đông Á châu, bao gồm nước Tàu, Việt nam, Triều tiên, và Nhật bản. Ở đó, những người chuyên thực hành các chuẩn mực tín điều được xác lập bởi Nho giáo được gọi là Nho sĩ, hoặc nhà Nho theo Việt ngữ.

Một triết lý được thể hiện nhiều lần trong Luận ngữ mà Khổng Tử dạy các học trò của mình : "Nước nguy thì chớ vào, nước loạn thì chớ ở, hoàn cảnh tốt thì ra làm quan, hoàn cảnh xấu thì ẩn mình". Triết lý này của Khổng Tử rõ ràng là triết lý vô tổ quốc, nó chối bỏ cái trách nhiệm trước cộng đồng và quốc gia, rõ ràng ông không nhìn nhận bất cứ một bổn phận nào đối với đất nước cả, ông chỉ coi nước là của một chủ, kẻ sĩ thấy phục vụ ông chủ đó có lợi thì làm không có lợi thì thôi.

Cái triết lý ở ẩn mà Khổng Tử nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Luận Ngữ và sau này đã trở thành cả một đạo sống của nho sĩ, thái độ của kẻ sĩ rất rõ rệt : Chỉ mưu lợi cho mình và sống trung thành với nghề sĩ, nghĩa là nghề đi học và làm quan của mình. Phải nói rằng các nho sĩ rất có đạo lý nghề nghiệp. Họ trung thành tuyệt đối với người chủ đã dùng họ và dù được làm quan hay thất nghiệp họ vẫn hãnh diện với nghề của mình và tôn trọng những giá trị của nó. Những nhà nho không có tổ quốc, họ chỉ biết tới các tổ nghề, nghĩa là các thánh hiền của họ, và người chủ tuyển dụng họ, nghĩa là nhà vua.

Nguy hiểm hơn nữa là hệ tư tưởng này coi đất nước là của riêng một dòng vua, trong xã hội Khổng giáo thì đất nước chỉ là một tài sản, một vùng sở hữu của riêng vua, những con người sống trên đất nước đó thì chỉ là nô lệ của vua. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt mà chúng ta coi là một bài thơ yêu nước cũng chỉ nhắc lại quan niệm đó : Nam quốc sơn hà Nam đế cư (núi sông nước Nam là của vua nước Nam).

2. Sự khủng hoảng của tầng lớp trí thức Việt Nam

quehuong2

Giải pháp của Việt Nam hiện nay khó lòng có thể trông mong gì ở tầng lớp "trí thức" hiện tại, chỉ khi nào họ ý thức được số phận của mình gắn liền với vận mệnh đất nước…

Rõ ràng là chúng ta đã thấy sự khủng hoảng này kéo dài từ trong lịch sử cho tới tận đến ngày hôm nay, không phải là một vấn đề mới xuất hiện gần đây mà nó đã là một nỗi đau trường tồn, một nỗi nhục của trí tuệ và con người Việt Nam trong hàng ngàn năm. Đó là sự khủng hoảng của nhân cách, của trí tuệ, của vai trò cũng như trách nhiệm của tầng lớp trí thức Việt Nam.

Tình hình đất nước hiện nay rất nguy ngập, những bất công và sự lạm quyền của tầng lớp cai trị nó phá hoại và gây đỗ vỡ trong tất cả mọi địa hạt. Những vấn nạn của xã hội, con người, văn hóa, đạo đức, chủ quyền, giáo dục, y tế, môi trường, thực phẩm v.v. đều đã hạ cấp một cách trầm trọng, và quan trọng hơn nữa chúng ta là một đất nước đã mất chủ quyền, chúng ta mất chủ quyền ngay trên chính đất nước mình.

Chúng ta mất quyền làm chủ đất nước mình vì chúng ta bị tước đoạt những quyền con người cơ bản nhất và đảng cộng sản Việt Nam hành xử như một lực lượng chiếm đóng và còn ngang nhiên tuyên bố tự cho mình cái quyền cai trị đất nước một cách vô thời hạn. Đây là một thái độ xấc xược và đảng cộng sản đang thách đố toàn thể nhân dân Việt Nam. Chúng ta cũng mất những mảnh đất thiêng liêng mà ông cha của mình đã phải bỏ xương máu ra để gìn giữ và xác lập chủ quyền. Thác Bản Giốc, Nam Quan, Lão Sơn, Hoàng Sa, Trường Sa đều đã được đảng cộng sản dâng cho Trung cộng.

Phải nói là đảng cộng sản đã là một tai họa cho đất nước chúng ta. Sẽ không thể có một giải pháp nào cho Việt Nam hiện nay nếu chế độ độc tài cộng sản còn tồn tại, mọi hy vọng về cải tổ chế độ từ bên trong hay chờ đợi sự sụp đổ về kinh tế hoàn toàn sai lầm mà thậm chí còn tai hại.

Đảng cộng sản đã quá phân hóa đến nỗi không thể lấy được một quyết định chung. Và cũng không một ai trong đảng có đủ khả năng và đạo đức để chuyển biến tình hình, các nhóm quyền lực, lợi ích đang mâu thuẫn và xử lý lẫn nhau qua chiêu bài chống tham nhũng.

Đảng cộng sản đang có xu hướng chuyển từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Và đáng buồn thay là "cá nhân độc tài" này lại là một ông lão 73 tuổi và nổi tiếng là "lú". Tương lai của đảng cộng sản cứ nhìn vào ông ta thì rõ.

Theo các thống kê hiện nay thì Việt Nam có khoảng 60.000 ngàn thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư. Những con người này họ là các giảng viên trong các trường đại học, hoặc là những chuyên viên có trình độ và họ hiểu biết hơn quần chúng. Trong 60.000 ngàn người thì có một con số lạc quan là khoảng 50% trong số họ là người có thực học và có năng lực còn lại là những người mua bằng cấp và sử dụng những tấm bằng này để mưu cầu địa vị xã hội của riêng mình.

Những người này và nhiều người khác là hậu duệ của giai cấp sĩ ngày trước, như đã giải thích ở trên, những người mà mộng đời chỉ là được làm quan, nghĩa là làm công cụ, tay sai cho các vua chúa để thống trị dân chúng. Và tâm lý kẻ sĩ vẫn còn rất mạnh, đại đa số những người này vẫn còn coi chính trị là dơ bẩn và tìm cách xa lánh chính trị. Những người này không khác gì tầng lớp sĩ phu trước đây, có hơn là sự hiểu biết của họ đã dồi dào hơn thế hệ trước. Ngày hôm nay họ vẫn chấp nhận và cúi đầu trước bạo quyền và còn mong muốn được nhận sự ân sủng của nó và thậm chí họ còn đàn áp và chống lại nguyện vọng của nhân dân hiện nay.

Phải nói rằng trí thức Việt Nam đã thiếu trái tim để đau, thiếu tinh thần dân tộc để thấy nhục và họ cũng thiếu nhân cách để nhìn nhận và đảm lãnh vai trò của mình. Thật không quá đáng khi nói họ và tầng lớp sĩ phu trước đây là một nỗi nhục của trí tuệ và con người Việt Nam.

Trước tất cả những nỗi đau đã xảy ra trên đất nước này thì xin hỏi là trí thức Việt Nam đã làm gì để sống xứng đáng với vai trò của mình ?

Trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam ngày hôm nay là đưa đất nước ra khỏi hoàn cảnh bế tắc hiện tại và mau chóng thiết lập một nền dân chủ. Nhưng giải pháp của Việt Nam hiện nay khó lòng có thể trông mong gì ở tầng lớp "trí thức" hiện tại, chỉ khi nào họ ý thức được số phận của mình gắn liền với vận mệnh đất nước và họ kết hợp được với nhau trong một tổ chức cũng như đồng thuận trên một dự án chính trị thì nước Việt Nam mới có tương lai.

Cái cây Khổng giáo đã chết đứng nhưng cái rễ của nó vẫn còn ăn sâu và ngự trị trong văn hóa của Việt Nam. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể lạc quan về tương lai, vì trong một, hai thập niên gần đây đất nước chúng ta đã hình thành lên một lớp người mới. Lớp người này chưa từng xuất hiện và chưa từng có trong lịch sử Việt Nam đó là tầng lớp trí thức chính trị, những người này đại đa số họ đều là những người trẻ, là những sinh viên trong trường đại học, là những người trẻ có tấm lòng với đất nước. Họ dứt khoát đấu tranh và đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam ngay tức khắc, và họ cũng nhất quyết bác bỏ thứ văn hóa nô lệ Khổng giáo, những người trẻ này chính là sức sống và niềm tự hào của Việt Nam trong tương lai.

Trên đây chỉ là đôi điều suy nghĩ của một công dân, tôi chỉ nói sự thật và mong quý vị đón nhận. Vị thuốc cay đắng nhất cũng là vị thuốc bổ nhất vì nó giúp chúng ta chữa được chứng bệnh của bản thân mình.

Việt Tuệ

(11/01/2018)

Additional Info

  • Author Việt Tuệ
Published in Quan điểm

Khi trí thức Việt Nam hiểu được rằng, đấu tranh chính trị bắt buộc phải là đấu tranh có tổ chức và phải có một tư tưởng đồng thuận cũng như cần có một dự án chính trị để làm kim chỉ nam thì ngày đất nước chúng ta chuyển hóa về kỷ nguyên dân chủ không còn xa nữa.

hai1

Dự án chính trị như kim chỉ nam dẫn đường cho cuộc đấu tranh chuyển hóa về kỷ nguyên dân chủ mà đất nước đang cần

1.Đấu tranh chính trị bắt buộc phải là đấu tranh có tổ chức

Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh trọng đại để chuyển hóa lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây là một cuộc đấu tranh có ý nghĩa nhất mà những con người Việt Nam ngày hôm nay có thể tự hào và hãnh diện vì được sống, được cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc mà những thế hệ mai sau sẽ không thể có được vinh dự này. Hơn bao giờ hết đây sẽ là cuộc đổi đời quan trọng nhất từ ngày ông cha chúng ta dựng nước, để dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi bóng đêm nô lệ và áp bức, để tiến tới kỷ nguyên của những giá trị tự do và tiến bộ của loài người. Cuộc đấu tranh này là một cuộc đấu tranh chính trị nhưng trên tất cả nó còn là một cuộc cách mạng văn hóa, nó sẽ thay đổi tập tính và văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Kể từ Cách mạng Tháng 8 cho đến cuối thế kỷ 20 là một giai đoạn hết sức đen tối và tang tóc của đất nước chúng ta. Nhìn lại về giai đoạn lịch sử này sẽ không có một trái tim của một người Việt Nam lương thiện nào không cảm thấy đau đớn vì những đổ vỡ mà dân tộc chúng ta đã phải chịu đựng. Đa số những đổ vỡ này là do người cộng sản Việt Nam gây nên, họ đã xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên cái chết của hàng triệu người Việt Nam, một chủ nghĩa đã bị lên án như một tội ác chống loài người để rồi bị vứt bỏ vào sọt rác của nhân loại. Chắc chắn lịch sử sẽ không thể dành cho những người cộng sản một chỗ đứng vinh quang mà sẽ là những phán xét, những chỉ trích nặng nề mà họ xứng đáng được nhận.

Trước tất cả những đổ vỡ mà dân tộc chúng ta đã phải hứng chịu do người cộng sản gây ra thì có một điều nhức nhối là tại sao chế độ cộng sản vẫn còn tiếp tục hiện diện và cai trị chúng ta cho đến tận ngày hôm nay mặc dù nó đã mất toàn bộ căn cước của mình ? Nó cũng không hề mạnh và đã thất bại trong tất cả mọi địa hạt và trên tất cả mọi phương tiện, và chúng ta cũng đã có rất nhiều cơ hội để xóa bỏ chế độ độc tài này nhưng rốt cuộc nó đã không nhận được một chống đối đáng kể nào ? đây là một câu hỏi cho trí thức Việt Nam, những con người sẽ phải nhìn nhận và chịu trách nhiệm về tư duy và hành động của mình trước vận mệnh của đất nước.

Cũng xin đưa ra hai nhận định, một là : tất cả những đổ vỡ trong quá khứ mà chúng ta phải chịu thì đó là một sự chấn thương toàn diện, cả về thể xác lẫn trí tuệ mà dân tộc Việt Nam khó có thể gượng dậy được sau đó, điều thứ hai là do trí thức Việt Nam đã không biết kết hợp lại được với nhau để có thể gây dựng được một tổ chức đối lập có tầm vóc. Điều thứ hai có liên quan mạnh mẽ đến tập quán và văn hóa của chúng ta. Trong suốt hàng ngàn năm qua, dân tộc của chúng ta chỉ biến đến khuôn mẫu Khổng giáo, chúng ta độc tôn và thờ phụng nó, coi nó như một chân lý để rồi khi mất nước vào tay người Pháp chúng ta vẫn cứ cho rằng : đạo lý là đạo lý Khổng Mạnh.

Để thành lập và duy trì được một tổ chức (dù là tổ chức chính trị hay một tổ chức thuộc xã hội dân sự) thì phải có văn hóa tổ chức, nghĩa là văn hóa kết hợp. Tiếc thay, khái niệm kết hợp hay văn hóa tổ chức hoàn toàn vắng mặt trong hệ tư tưởng Khổng giáo. Kết hợp để tạo ra đồng thuận, đoàn kết để có sức mạnh và sẽ chấm dứt được chế độ độc tài. Phải thấy rằng đạo lý Khổng giáo không khuyến khích và nó cũng cấm đoán sự kết hợp. Tư tưởng chủ yếu của nó là chính đáng hóa bạo quyền và nâng sự chấp nhận kiếp sống nô lệ lên hàng một đạo đức tuyệt đối. Nó không dung thứ và cũng không chấp nhận cho một sự phản kháng nào, cái mà nó yêu cầu là một sự trung thành tuyệt đối, trung thành là một đạo lý của kẻ sĩ và phản kháng là một tội tày trời. Tất cả những dân tộc sống và chịu ảnh hưởng văn hóa Khổng giáo đều là những dân tộc giỏi chịu đựng, thủ cựu và ít đổi mới nhất vì khái niệm kết hợp hoàn toàn thiếu vắng trong những xã hội này.

Thực tế, người Việt chúng ta (dù ở trong hay ngoài nước) không phải là đã không thành lập được một tổ chức nào, mà ngược lại, đã có khá nhiều tổ chức ra đời, nhưng rõ ràng là vì dân tộc chúng ta thiếu văn hóa tổ chức nên những kết hợp này đều dẫn đến thất bại. Có một điều chúng ta cần lưu ý rằng, khi kết hợp và tạo thành được một tổ chức hay một tập thể nào đó thì những tập thể này đều đã trở thành những thực thể sống riêng biệt, nó có những điểm khác với những con người cấu tạo ra nó vì vậy mà nó có sự sống riêng, và những nhu cầu riêng. Điều này giải thích cho chúng ta biết rằng cần phải hy sinh cái riêng cho cái chung, cho cái tập thể thay vì cho cái tôi của mỗi người. Chính vì không hiểu được điều đó mà chúng ta đã vội vàng thành lập các tổ chức và rồi vì không hiểu nhau cũng như không có văn hóa tổ chức mà mọi kết hợp đều đã nhanh chóng tan rã.

Còn một điều cuối cũng không kém phần quan trọng là dù đã cố gắng nhắc đi nhắc lại nhiều lần mà nhiều người vẫn không chịu hiểu rằng đấu tranh chính trị bắt buộc phải là đấu tranh có tổ chức vì nếu không có tổ chức chúng ta sẽ không thể chấm dứt được chế độ độc tài. Mọi cuộc cách mạng trong lịch sử thế giới đều đã chứng minh điều này, muốn thay đổi được xã hội chúng ta phải có tổ chức, 100 triệu con người dù có đồng ý là mình bị áp bức thì cũng sẽ không đứng lên tranh đấu vì họ không hề kết hợp được với nhau để đạt được một mục tiêu chung mà thay vào đó chỉ là 100 triệu cá nhân riêng lẻ và cô đơn trong khi trước mặt họ là một tập đoàn cai trị có tổ chức.

Phải nói rằng quán lực văn hóa Khổng giáo vẫn còn nằm sâu trong tâm trí của người Việt Nam đặc biệt là những người có học vì như đã giải thích : khái niệm kết hợp và tổ chức hoàn toàn thiếu vắng trong hệ tư tưởng này cho nên dù người ta có dấn thân chính trị nhưng vẫn chỉ là với tư cách một cá nhân riêng lẻ, hoặc khá hơn là một nhóm nhỏ có vài người. Điều này phải được coi như một ngoại lệ thay vì được nhìn như một điều bình thường vì vô tình nó làm giảm sút và gây phân tán sự chú ý cho cuộc đấu tranh dân chủ, và vì đáng lẽ ra quần chúng phải quan tâm và dành tình cảm cho những tổ chức đúng đắn thay vì dành một mối quan tâm đặc biệt đến những cá nhân nào đó.

2. Tư tưởng chính trị

Không có tư tưởng hay dự án chính trị người ta sẽ không biết rằng mình muốn gì, xã hội và đất nước Việt Nam cần điều gì để theo đuổi và vì thế người ta cũng không thể kết hợp được với nhau vì muốn kết hợp trước hết phải có đồng thuận. Đồng thuận về một phương pháp hành động hoặc một mục tiêu phải đạt được. Tư tưởng chính trị cung cấp cho chúng ta điều đó, một lần nữa đấu tranh chính trị luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức vì chỉ có các tổ chức chính trị mới có phương tiện để thực hiện được những cuộc cách mạng.

Hai phương tiện quan trọng nhất là tư tưởng chính trị để phối hợp hành động và dự án chính trị để xây dựng tương lai của đất nước.

Dân tộc chúng ta là một dân tộc kém may mắn, mặc dù có bề dài lịch sử vài ngàn năm nhưng chúng ta là một dân tộc nghèo nàn về trí tuệ. Xuyên suốt trong bề dài của lịch sử chúng ta chưa hề có một sản phẩm mang tính trí tuệ nào dù là trong lĩnh vực tư tưởng hay kỹ nghệ đủ tầm vóc để đóng góp cho nhân loại. Cả hai lần tiếp xúc với văn hóa của các nước khác chúng ta đều ở trong vị thế là dân nô lệ và chịu ách cai trị của các thế lực ngoại bang. Lần đầu tiên là trong một ngàn năm Bắc thuộc. Các quan thái thú của nhà Hán đã đến và giáo hóa cho chúng ta về những kỹ năng nông nghiệp và cũng từ giai đoạn này mà nước ta bắt đầu hấp thụ Khổng giáo. Tiếp theo trong một trăm năm dưới chế độ thực dân Pháp, điều đáng nói là lần này dù mất nước nhưng cũng lại là lúc mà trí tuệ Việt Nam mở mang nhất. Chúng ta không thiếu những vị tướng kiệt xuất, cũng không thiếu những nhà thơ nhà văn tầm cỡ…mà sự thiếu vắng lớn nhất của dân tộc chúng ta là đã thiếu những nhà tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị. Sự nghèo nàn về tư tưởng chính trị đã khiến cho chúng ta không biết được điều gì là đúng đắn và cần thiết cho Việt Nam và rồi sự thiếu vắng tư tưởng đã khiến cho chúng ta tàn sát nhau chỉ vì không thể đồng ý được với nhau về một mẫu số chung nào đấy.

Cuối thế kỷ 19, là lúc mà khuôn mẫu Khổng giáo bị phá sản, chúng ta bị mất nước và lệ thuộc người Pháp, đây cũng không hẳn là một giai đoạn tiêu cực mà nó còn chứng minh cho chúng ta thấy rằng một quốc gia "bế quan tỏa cảng" là một quốc gia chết. Đây là giai đoạn mà trí tuệ Việt Nam đã tiến bộ nhất nhưng vẫn chưa có ai đạt được đến tầm của một nhà tư tưởng chính trị và vì thế sau đó chúng ta đã phải trả giá cho sự thiếu vắng tư tưởng chính trị khi người Pháp rời khỏi Việt Nam. Trước đây chúng ta sống dưới văn hóa Khổng giáo và dù là tệ hại nhưng nó cũng cho chúng ta một hệ tư tưởng chính trị và một đồng thuận chung về chế độ quân chủ chuyên chế. Nhưng sau khi ý thức hệ quân chủ nho giáo đã sụp đổ thì chúng ta đã phải tìm kiếm một chế độ mới, một đồng thuận dân tộc mới và chúng ta đã thất bại trong lần tìm kiếm này. Một bên gồm một nhóm người có tổ chức và quyết tâm để áp đặt chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa chủ trương xóa bỏ quốc gia…đã chiến thắng bên gồm những cá nhân không có tổ chức, cũng không có quyết tâm và còn thiếu cả tư tưởng chính trị để bảo vệ những giá trị mà chưa chắc là họ đã hiểu và mong muốn đón nhận.

Chủ nghĩa cộng sản không phải là một tư tưởng gì mới đối với dân tộc chúng ta, càng về sau này người ta càng phát hiện rằng nó đã có rất nhiều điểm tương đồng với Khổng giáo. Thí dụ : nó cũng cổ vũ cho một quyền lực tuyệt đối, nó cũng phân chia xã hội thành những giai cấp khác nhau, cũng chủ trương khinh bỉ và coi trọng thành phần giai cấp này hơn giai cấp kia, cũng bài xích thương mại, cũng giáo điều và xơ cứng và đặc biệt xã hội Khổng giáo là những xã hội nông nghiệp mà tầng lớp dân chúng nghèo khổ chiếm đến 90%. Chính điều đó là lý do khiến cho chủ nghĩa cộng sản đã có đất dụng võ trong những xã hội này. Không phải tự nhiên trên 4 nước cộng sản còn lại thì 3 nước là những nước có một lịch sử rất lâu đời sống dưới hệ luân lý Khổng giáo.

Hiện nay ý thức hệ Khổng giáo đã không còn, chủ nghĩa cộng sản cũng đã bị phá sản từ rất lâu rồi. Một lần nữa dân tộc của chúng ta đang ở trong tình trạng thiếu vắng tư tưởng chính trị. Nhưng có một tin vui là (có lẽ) đại đa số nhân dân Việt Nam đã đồng ý với nhau về một chế độ chính trị mới, đó là chế độ dân chủ đa nguyên, một chế độ đặt trên nền tảng của chủ nghĩa tự do cá nhân. Chủ nghĩa tự do cá nhân là một triết lý chính trị, là một thế giới quan được hình thành trên các ý tưởng về tự do và bình đẳng. Những người cổ vũ cho chủ nghĩa cá nhân xem tự do và quyền của mỗi cá nhân trong việc mưu cầu hạnh phúc theo cách riêng của mình là giá trị chính trị cao nhất. Chủ nghĩa tự do cá nhân không độc đoán, cũng không giáo điều và nhất là cũng không chủ trương tiêu diệt một thành phần nào hết, nó công nhận chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho tất cả mọi thành phần dân tộc.

Thay cho lời kết

Tất cả mọi thảm kịch mà dân tộc chúng ta đã phải chịu đựng, đều chỉ do một nguyên nhân duy nhất đó là dân tộc Việt Nam đã thiếu vắng tư tưởng chính trị, chúng ta đã tàn sát lẫn nhau vì mâu thuẫn ý thức hệ. Ngày hôm nay, chúng ta đang đứng trước một thời khắc quan trọng của đất nước, giai đoạn đau thương sắp qua đi và sẽ thuộc về lịch sử, một tương lai mới đang chờ đón chúng ta. Bài học lớn mà chúng ta cần phải rút ra sau tất cả mọi đổ vỡ là không phải tiếp tục chia rẽ mà là hòa giải dân tộc để có thể cùng chung sống với nhau. Chúng ta sẽ thấy rằng chỉ có những giá trị tự do, dân chủ đa nguyên mới đem lại hạnh phúc và hòa bình. Đó mới là những giá trị đáng để phấn đấu và bảo vệ.

Ngay từ bây giờ trở đi chúng ta hãy nắm chặt tay nhau để cùng hứa rằng sẽ xây dựng lại một nước Việt Nam trên tinh thần dân chủ đa nguyên, cùng hứa rằng sẽ tìm lại tình tự dân tộc và đối xử với nhau như những người anh em bình đẳng.

Việt Tuệ

(08/12/2017)

Additional Info

  • Author Việt Tuệ
Published in Quan điểm

Cần đánh tan ngụy biện "cần ổn định chính trị để phát triển". Những lập luận bênh vực cho lý luận này đều đưa tới một điều là cần có sự lãnh đạo lâu dài hoặc mãi mãi của một cá nhân, của một đảng, hay của một chế độ.

ondinh1

Nhà nước cộng sản Việt Nam mong muốn ổn định chính trị dưới sự lãnh đạo độc quyền của đảng cộng sản

Lý luận này cho rằng chỉ có "ổn định" mới có thể dẫn dắt xã hội tới phát triển. Với lối lý luận giản đơn này, những chế đ độc tài đã tận dụng đến mức tối đa đ ca tụng nó nhằm che mắt và lừa gạt dân chúng, và đương nhiên là đ ngồi mãi trên quyền lực. Nhưng ổn định là gì ?

Ổn định có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là ổn định dân sự, nghĩa là ổn định trong cuộc sống, ổn định trong hoạt động của pháp luật và các quyền của người dân. Nghĩa thứ hai là ổn định sự cầm quyền của tập đoàn cai trị. Khi các chế đ độc tài nói cần ổn định đ phát triển, nhiều người đồng ý với họ vì hiểu đó là ổn định dân sự trong khi họ thực hiện qua nghĩa thứ hai, nghĩa là ổn định của tập đoàn cầm quyền. Lối ngụy biện gian trá kiểu này cần phải bị tố giác.

Dự án chính trị dân chủ đa nguyên của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (2015), Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, Chương 5 có viết :

"Cũng cần chấm dứt một sự lẫn lộn gian trá về ổn định. Ổn định có hai nghĩa.

Nghĩa thứ nhất là ổn định dân sự, nghĩa là ổn định trong cuộc sống của mỗi công dân, là đảm bảo không bị bắt bớ, tịch thu tài sản, cấm kinh doanh, không là nạn nhân của những thay đổi luật pháp đột ngột và thường xuyên, hay những quyết định tùy tiện của chính quyền. Ổn định này rất cần thiết cho phát triển kinh tế, vì có như thế người dân mới có thể yên trí đ tiên liệu và hoạch định sinh hoạt của mình. Ổn định này đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và nhà nước pháp trị.

Nghĩa thứ hai là ổn định của tập đoàn cầm quyền, hay nói khác đi là sự kéo dài của một chính quyền với cùng những người cầm quyền. Sự kéo dài này, nếu không do bầu cử tự do mà là do một chế đ độc tài bạo ngược, còn rất mâu thuẫn với ổn định dân sự và do đó hoàn toàn mâu thuẫn với phát triển, bởi vì người dân luôn luôn phải sống trong sợ sệt, không dám và không thể lập những kế hoạch kinh doanh lâu dài.

Kinh nghiệm cho thấy ổn định dân sự rất cần cho phát triển, trong khi ổn định của tập đoàn cầm quyền hoàn toàn không cần thiết, thậm chí còn có ảnh hưởng xấu vì các chính quyền kéo dài quá lâu gần như chắc chắn đưa tới lạm quyền và tham nhũng. Tại Nhật, từ sau Thế Chiến II tới nay, ít có chính phủ nào kéo dài được hai năm. Tại Ý, tuổi thọ trung bình của các chính phủ còn ngắn hơn nhiều. Mặc dầu vậy kinh tế của cả hai nước này đều phát triển nhanh chóng, họ đều là thành viên của nhóm bảy nước phát triển nhất. Trong khi các nước có những chính quyền kéo dài như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên và nhiều nước thuộc Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh lại rất trì trệ và lạc hậu.

Khi các tập đoàn độc tài -như ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam- nói cần phải có ổn định đ phát triển, nhiều người đồng ý với họ vì hiểu đó là ổn định dân sự trong khi họ thực hiện ổn định theo nghĩa thứ hai, nghĩa là ổn định của tập đoàn cầm quyền. Đó là một sự gian trá cần được tố giác”.

Tại Trung Quốc và Việt Nam, sau nhiều nămổi mới" hai nước này đã có những thành tích phát triển kinh tế khá cao nhờ nới lỏng tự do, nhưng đến nay cả hai đều đã khựng lại vì đảng cộng sản muốn duy trì "ổn định chính trị", tức là đổi mới về kinh tế nhưng không đổi mới về chính trị.  Các chế đ độc tài là nguyên nhân của sự lụn bại, chúng phá hoại và gây ra những bế tắc trong sự vận hành quốc gia nhưng chúng lại logic với sự tồn tại của chế đ.

Khi những mâu thuẫn, bức xúc, bất mãn âm lâu ngày bùng nổ và do không có phương tiện hòa bình đ phản ánh, logic đầu tiên là người dân xuống đường biểu tình một cách ôn hòa đòi quyền lợi, khi quyền lợi không được đáp ứng logic thứ hai là những cuộc xuống đuờng ngày càng nhiều hơn, logic thứ ba là không một chế đ độc tài nào chấp nhận cho người dân xuống đuờng do đó phải bị đàn áp, logic cuối cùng là khi bị đàn áp, người dân phải chống trả, đương nhiên là trong thế yếu, và bị đánh đập, cầm tù.

Do bị đàn áp và bị tước mọi quyền tự do căn bản, lòng quí mến và yêu chuộng chế đ giảm dần theo thời gian. Trong những điều kiện này, người dân chỉ có hai phản ứng : một là trở nên vô cảm, dửng dưng với chế đ, hai là thù hận chế đ đ rồi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể đ thay đổi chế đ hay trả thù cá nhân. Nói cách khác, chỉ trong các chế đ độc tài mới nảy sinh ra các cuộccách mạngthay đổi cơ cấu quyền lực bằng bạo lực, gây nên bất ổn và xáo trộn xã hội nghiêm trọng. Bởi vậy đ tránh bạo loạn thì cần có cơ chế thay đổi chính quyền trong hòa bình, cách tốt nhất là dân chủ hóa chứ không phải là củng cố nền độc tài bằng ngụy biện "ổn định chính trị".

các quốc gia dân chủ không có một chính quyền nào là "ổn định" suốt đời, một chính quyền có thể bị thay thế ngay tức khắc nếu người lãnh đạo tồi dở, thông qua lá phiếu bất tín nhiệm tại quốc hội, hoặc qua các kỳ bầu cử, hay nói cách khác là thông qua lá phiếu của người dân, hoặc dư luận xã hội. Cứ mỗi 4 hay 5 năm một lần, cử tri có thể thay đổi chính quyền bằng con đường hòa bình thông qua lá phiếu của mình.

Lối ngụy biệnổn định chính trịsở dĩ đã tồn tại được vì chúng ta hiểu sai ổn định trong sinh hoạt chính trị quốc gia. Chính quyền luôn ngjuy biện rằng, trái ngược với ổn định chính trị là bạo loạn, đảo chính, lật đ. Nhưng ổn định chính trị đúng nghĩa phải là đảm bảo cho xã hội được vận hành một cách trơn tru, bảo đảm cho sự hoạt động ổn định của các cơ quan pháp luật, hành chính, an ninh, và cuối cùng là các công dân có quyền và các biện pháp ôn hòa đ thay đổi chính quyền. Đó mới là ổn định chính trị đúng nghĩa. Còn loại "ổn định chính trị " kiểu ngụy biện của các chế đ độc tài chỉ đem tới bất ổn xã hội vì, như đã nói, khi người dân không có phương tiện và cơ hội đ phát biểu nguyện vọng thì cách duy nhất là xuống đuờng đòi hỏi quyền lợi. Cho dù những cuộc xuống đuờng có chính đáng hay không, phản ứng của mọi chế đ độc tài là đàn áp, bắt bớ, bỏ tù… Hậu quả tự nhiên của phản ứng này là người dân ngày càng xa lánh chế đ, và chế đ tự co cụm lại đ trở nên hung bạo hơn.

Khi các mâu thuẫn trong xã hội dâng cao (do những bất mãn của người dân dồn nén lâu ngày) đạt đến đỉnh điểm thì cách mạng sẽ nổ ra. Càng nguy hiểm hơn khi cuộc cách mạng đó không được dẫn dắt bởi một lực lượng chính trị có viễn kiến và sự chuẩn bị. Bất cứ một cuộccách mạng đường phốnào xảy ra cũng đ lại những di chấn tinh thần vô cùng lớn cho người dân và phải mất rất nhiều năm mới có thể hàn gắn lại được những đ vỡ mà nó gây ra. Bằng chứng cho thấy, các cuộccách mạng đường phốchỉ xảy ra tại các nước độc tài, hay muốn trở thành độc tài. Venezuela là một ví dụ.

Một đặc điểm chung của các chế đ độc tài là luôn cố bám víu quyền lực đến cùng. Các chế đ độc tài thường sinh ra từ bạo lực và chỉ chấm dứt trong bạo lực. Mọi thay đổi chỉ là vụn vặt nhằm câu giờ chứ không thực tâm, các chế đ độc tài thừa hiểu rằng khi có dân chủ, nghĩa là có tự do bầu cử, họ sẽ bị loại khỏi chính quyền vì không được người dân tín nhiệm và lựa chọn.

Làm thế nào đ các chế đ độc tàihạ cánh an toàncho chính họ và sau đó là cho cả đất nước ? Có cách nào khiến các chế đ độc tài chịu nhượng bộ không ? Các nước cộng sản Đông Âu đã chuyển hóa thành công về dân chủ trong hòa bình là câu trả lời hùng hồn cho câu hỏi trên. Việt Nam cũng hoàn toàn có thể dân chủ hóa đất nước bằng con đường hòa bình.

Vậy chúng ta phải làm gì ? Chỉ có một con đường duy nhất là người dân Việt Nam, nói chung, và trí thức Việt Nam, nói riêng, phải chung tay xây dựng cho bằng được một vài tổ chức chính trị dân chủ đối lập, có tổ chức và có tầm vóc, đ làm đối trọng buộc đảng cộng sản phải ngồi vào bàn đàm phán như Ba Lan trước đây.

Nếu không làm được việc này, đối lập dân chủ Việt Nam sẽ tiếp tục yếu và không thể làm được. Mặc dù đang bị chia rẽ và suy yếu, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ nhượng bộ khi bị ép buộc, hay chưa thấy lối thoát chung. Như con thú trên bước đường cùng, họ sẽ chọn phương án đàn áp thay vì đối thoại. Các cuộc bắt bớ mới đây nhắm vào giới bất đồng chính kiến là một minh chứng.

Việt Tuệ

(05/09/2017)

Additional Info

  • Author Việt Tuệ
Published in Quan điểm