Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

"Vào năm giảm tô, ông nội bị bắt giam. Ông bị treo lên, đầu dọng xuống đất. Sao lại dọng đầu ông xuống đất, sau này tôi hỏi mẹ. Mẹ bảo, để cho ông có nuốt vàng vào trong bụng thì nhả ra. Họ dọng đầu ông như thế từ sáng đế trưa, từ trưa đến tối. Cho đến lúc không tra khảo gì nữa thì tống vào tù".

manro1

Hai tựa sách của Phan Thúy Hà, vừa được Hội Nhà Văn xuất bản ở Hà Nội, ghi lại lời kể của những nhân chứng còn sống sót thời Cải cách ruộng đất kinh hoàng, đẫm máu ở miền Bắc, từ 1953 tới 1956.

Đó là một cảnh đấu tố trong cuốn "Gia đình" của Phan Thúy Hà (Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam) ra mắt năm 2020. Tác giả đi gặp, ghi lại lời kể của những nhân chứng còn sống sót thời Cải cách ruộng đất kinh hoàng, đẫm máu ở miền Bắc, từ 1953 tới 1956.

"Đoạn đời niên thiếu", là cuốn thứ hai, cùng một đề tài, vừa được Hội Nhà Văn xuất bản ở Hà Nội (2023).

Người đọc, dù đã biết, đã đọc những chuyện tàn khốc, man rợ về những cuộc đấu tố, sẽ sững sờ trước những sự kiện, những kỷ niệm sống, vượt xa sức tưởng tượng của những nhà văn giầu tưởng tương nhất.

Hơn cả cái tàn ác, cái làm cho người đọc kinh hoàng là sự hủy hoại tình người, mà Tô Thùy Yên gọi là cái "thương tổn nặng nề cho nhân phẩm".

Gấp sách lại, người đọc tự hỏi : Tại sao con người có thể độc ác, tàn tệ với nhau đền như vậy ? Nhất là đây không phải là nghĩa vụ "uống máu quân thù". Đối tượng không phải là giặc Pháp, cũng chưa có "Mỹ Ngụy".

Đối tượng là những người láng giềng, cha mẹ, anh em, chiến hữu đã cùng nhau vào sinh ra tử, những người cùng đổ máu để xây dựng thiên đường xã hội chủ nghĩa, hôm trước là chiến sĩ gương mẫu, hôm sau bị quy là địa chủ bóc lột, vì có vài sào ruộng, một con trâu, một đàn gà. Hay chỉ vì một chút hận thù, ganh ghét cá nhân.

manro2

Người đọc, dù đã biết, đã đọc những chuyện tàn khốc, man rợ về những cuộc đấu tố, sẽ sững sờ trước những sự kiện, những kỷ niệm sống, vượt xa sức tưởng tượng của những nhà văn giầu tưởng tương nhất.

39 gia đình tan nát

"Mẹ tôi nói : cha đấy con. Cha con là người vừa bị bịt mắt giải khăn đen kia. Cha giật giải khăn đen ra : Tôi không có tội gì cả. Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm. Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm (…). Buổi chiều trước ngày cha bị bắn, mẹ đưa cơm cho cha. Cha ăn cơm xong, người ta trả cái giỏ đựng nồi cơm cho mẹ. Mẹ thấy ở dưới đáy nồi mẩu giấy nhắn của cha : Ai ngờ vô tội mà chết oan. Âu cũng là số kiếp. Gắng mà nuôi con. Sau này Đảng có hỏi thì trình bày tới nơi tới chốn" (Gia đình, tr.171).

Đây không phải là một cuốn sách hư cấu.

Dưới hai cái tựa hiền lành, gần như lạnh lùng, tác giả ghi lại lời kể của các nhân chứng, không một lời bình luận. Những dự kiện trần truồng, không gói ghém, càng khiến cái man rợ man rợ hơn.

Sự thực, cũng chẳng cần bình luận. Sự kiện, tự nó nó nói. Khi cái man rợ lên tới tột độ, lời bình luận trở thành thừa thãi.

Gia đình (274 trang) là chuyện của 19 người, Đoạn đời niên thiếu (250 trang) là chuyện của 20 người, tổng cộng 49 nhân chứng, 39 gia đình tan nát.

Mỗi trang là một thảm kịch.

"Mỗi câu chuyện trong hai cuốn sách có cái tựa mang tên người kể chuyện : Lê Xuân Đài, Đặng Thị Dung, Đặng Văn Chương, v.v.

Đoạn trích trên đầu bài là lời kể của nhân chứng Võ Tá Tạo" (Gia đình, trang 49-53).

Ngoài ông nội, bị treo ngược đầu, sau đó chết vì bệnh, "Bác Võ Tá Cảnh, con trai cả của ông bà, chết trong trại giam. Có người nói bác tự vẫn (…). Anh chết, em phải thế mạng. Cha tôi, Võ Tá Tân, phải đền tội thay Võ Tá Cảnh. Cha về làng để nhận án tử hình thay thế bác Cảnh (…). Trên quả đồi trọc, những bó đuốc giơ lên. "Cho mi nói một lời cuối cùng với bà con nông dân". Cha nói : Con thưa bà con nông dân, con là một thằng phản dân, phản đảng, phản nước, con xin ông bà nông dân tha tội bắn cho con… Ba phát súng. Ở nhà chúng tôi nghe rõ. Cha tôi gục xuống".

Trước khi xử tử, người ta quy tội.

"Có người bị hành hạ vì tội đã học tiếng Pháp, chắc chắn là để làm mật thám cho Tây. Có người bị kết án vì lý do ngớ ngẩn : Thằng Bản (địa chủ bị gọi là thằng, xưng con, bất chấp tuổi tác) chặt cây ngụy trang chỉ điểm cho giặc. Bởi vì có lần bà ta đi ngang ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cây, tỉa bớt cành lá" (Gia đình, tr.27)

Tội trạng như vậy, đủ để bị trói, bị quỳ trên sỏi đá, cho dân làng nhục mạ. "Buổi chiều, tôi gấp một chiếc giẻ may vào phần đầu gối chiếc quần cho cha quỳ đỡ đau buốt. Đứa nào may thêm vải này cho mày ? Dạ thưa, con tự may. Lớp giẻ độn sau chiếc quần bị tháo ra. Đêm đó cha bị quỳ lâu hơn, đá nhọn dồn lên đầu gối sắc hơn hôm qua" (Gia đình, tr.28).

Cái đói, cái dã man hơn cả thú vật giữa người với người, cái nhục mạ, hành hạ thân xác, tinh thần những nạn nhân vô tội, và cái chết bi thảm, rùng rợn, của những người bị đạp ra khỏi xã hội hiện diện trên mỗi trang giấy.

Một xã hội chỉ có nhu cầu ăn cho no, sẵn sàng đạp lên xác người khác để có bát gạo. Trò giải trí duy nhất là đi coi, hay tham dự đấu tố, cái vui duy nhất là nhục mạ, giết người trước đó là anh em, láng giềng hay ruột thịt.

Cái tàn ác man rợ

Con đi bộ đội, một bà mẹ hiến đất, hiến của cho cách mạng :

"Chum, vại, đàn trâu bò mẹ bán hết để mua công trái quốc gia, đóng thuế nông nghiệp (…). Mẹ được tặng bằng "Gia đình vẻ vang". Con nhà người ta bị bắt đi tù, bị mang ra bắn, con mình được bằng khen. Mẹ bảo tôi tìm cho mẹ một cái ống tre khô, cuộn tròn tấm bằng khen, cất vào ống tre, để lên đầu giường. Một đêm, mẹ đang ngủ, dân quân gọi ra hội quán. Hôm sau tôi mang cho mẹ mấy củ khoai, thấy hai chân mẹ bị cùm, mẹ khóc. Hơn tháng sau, dân quân giải mẹ về, gọi tôi ra quỳ cùng với mẹ. Họ ra lệnh gì mẹ tôi cũng dạ" (Đoạn đời niên thiếu, tr.35-36).

"Ngoài sân như hội trường. Tiếng quát tháo, tiếng giành nhau đồ đạc. Cờ quạt dựng lên từ ngõ vào. Mẹ và bà nội bị bắt đi đâu không ai biết (…). Em tôi đói. Tôi cũng đói. Em lả dần và chết bên cạnh tôi. Người đấm đá vào lưng, vào gáy mẹ. Người ta lấy báng súng tọng lên lưng mẹ" (Gia đình, tr.39).

Cái cướp giựt

Đó là một xã hội cướp bóc, từ trên xuống dưới, công khai.

Nhà nước cướp : "Lúa chưa kịp phơi khô. Phải nộp hết. Gọi là thuế nông nghiệp" (Đoạn đời niên thiếu, tr.18). Thuế nông nghiệp, thuế khả năng và hàng chục thứ thuế khác. Nhiều người bị kết án tử hình sau khi đã cống hiến tất cả, nhưng vẫn chưa đủ.

"Cha bị bắt đi quản huấn. Ở nhà, thỉnh thoảng mẹ tôi bị bắt đến nhà một cố nông để khai báo còn cất bao nhiêu vàng bạc, lúa gạo. Còn gì mà khai báo. Vàng bạc đã cúng hiến cho kháng chiến trong "tuần lễ vàng", lúa gạo đã cúng hiến cho chiến dịch ba tháng "góp gạo nuôi quân", mùa lúa cuối cùng đã nộp hết cho thuế nông nghiệp" (Gia đình, tr.55).

Mặc dầu vậy, "mẹ tôi bị trói cổ tay bằng sợi dây xỏ mũi trâu bò, treo lên cành cây bưởi ở mé sân, chân không chạm đất. Đàn con ngồi trước mặt mẹ, chứng kiến mẹ bị treo lơ lửng" (Gia đình, Tr. 56)

Bị nhà nước cướp sách, dân đói, cướp lẫn nhau.

Mang nhau ra sỉ vả, tra tấn, hành hạ hay chém giết chỉ để cướp một cái chiếu sạch, một cái nồi đồng.

"Mẹ dậy nhóm bếp, bẻ nửa nải chuối cho vào niêu luộc. Ánh lửa hất ra đường, cốt cán Hoe Năng đi tuần phát hiện, vào kiểm tra đang nấu gì. Chuối ở đâu ra (…). Tịch thu, của ni không phải của mi. Hoe Vinh bê niêu chuối trên bếp lẫn nửa nải chuối chưa luộc, mang đi" (Đoạn đời niên thiếu, tr.34).

Cái cảnh cướp giựt, từ một miếng cơm, không biết nên cười hay nên khóc :

"Cả nhà ăn bữa cơm đầu tiên. Đang ăn, dân quân đứng ngoài nhìn vào. Mẹ nhanh trí làm đông tác như đang húp cháo. Nghĩ là ăn cháo, dân quân bỏ đi" (Đoạn đời niên thiếu, tr.50)

"Trước khi đi ngủ, tôi xếp mười chiếc nón vào hai cái thúng. Sáng dậy gánh đi chợ hạ. Ra đầu ngõ bị dân quân tịch thu". Đây là âm mưu của địa chủ phân tán tài sản. Từng là chiến sĩ thi đua, được cả trường tôn trọng, nay gặp những chuyện vô lý như thế, tôi uất ức, khó chịu. Nhiều đêm không ngủ được, tôi nghĩ đến chuyện tự tử" (Đoạn đời niên thiếu, tr.70).

Một người cha đi tù, chuyển lời về nhà :

"Các con cứ để cho họ lấy hết. Một cái vung cũng không được giấu. Các con cố giữ lại thứ gì, tội cha to thêm thứ đó. Các con giữ thêm một đồ vật, cha bị kết tù thêm một năm" (Gia đình, tr.34).

Cái đói

Cái đói là một ám ảnh lớn. Trang sách nào cũng có chuyện ăn vỏ khoai, ăn lá cây, dành giựt nhau một nắm cơm, một bát cháo.

"Bán 10 viên (kẹo vừng), lời 4 viên. Các cháu đói quá, ăn vụng mất của o, đang lời thành lỗ. Chị dâu làm bánh tẻ, bánh ít đem ra chợ. Người ta xúm lại bóc bánh ăn rồi đi, không trả tiền…" (Đoạn đời niên thiếu, tr.18).

"Làm việc cả ngày, được nghỉ trưa một tiếng để ăn cháo. Chị nấu ăn hôm đó dùng thùng thuốc trừ sâu đựng cháo. Thùng chưa vệ sinh sạch. Mấy người ăn bị ngộ độc. Họ nghi tôi, con địa chủ, bỏ thuốc độc vào nồi cháo. Không ai ăn cùng mâm, không nói chuyện với tôi" (Đoạn đời niên thiếu, tr.20).

Đôi khi người đọc mỉm cười : "Mẹ bị tố, cả nhà đói, người anh đi bộ đội gởi về tặng em một… trái mìn, để đánh cá. Mìn nổ trên mặt nước, chỉ chết vài con cá mương" (Đoạn đời niên thiếu, tr.36).

Cái sợ

Cai trị bằng cái sợ là một chính sách, một lý thuyết chính trị của Lenin, được Stalin, Mao, Pol Pot và những đệ tử Việt Nam trung thành áp dụng triệt để.

Sợ từ khi còn ngồi ghế nhà trường : "Lúc nào cũng mang nỗi sợ. Sợ mà không biết sợ gì" (Gia đình, tr.42).

"Văn đệ tứ, phải chọn giữa 3 đề, đề 2 : bình luận một câu của Trường Chinh, đề 3 : phương pháp tả người của Nguyễn Du. Cả lớp làm đề 3. Dại chi làm đề kia, viết hớ hênh một câu mất lập trường là nguy" (Đoạn đời niên thiếu, tr.21).

Cái sợ bám vào nạn nhân suốt đời, như một người cao tuổi, trong Gia đình, tới nay vẫn không dám thắc mắc một chuyện gì :

"Quá nửa đêm, dân quân không canh nữa, tôi vẫn sợ. Tôi đã tiểu ra quần. Nỗi khiếp sợ năm mười lăm tuổi. Nay tám mươi hai, tôi vẫn là một ông già sợ hãi. Tôi không dám thắc mắc một chuyện gì. Muốn viết đôi điều cho con cháu biết về cha ông mình, cầm bút lên tôi lại run".

Cái chết

Hậu quả của sự tàn bạo là cái chết.

Chết vì bị treo cổ, treo đầu nón chân, bị đánh đập, tra tấn, vì đói, vì tự tử.

"Chị ngồi tựa lưng vào gốc cây dối, dải yếm trễ xuống, thằng con như con nhái bén vẫn đang nhay vú mẹ. Lúc đó chị đã chết rồi mà tôi không biết" (Đoạn đời niên thiếu, tr.41).

"Bà nội chết vì rét hay vì đói. Từ hôm bị trúng viên gạch thằng Kỷ, bà nẳm một chỗ. Ba năm sau bốc mộ bà, thấy hai chiếc xương sườn bị gẫy" (Gia đình).

Huấn luyện viên căm thù

Người ta tự hỏi : tại sao những người nông dân, vốn hiền lành, đã trở thành ác quỷ ?

Con người có thể trở thành thánh, hay thú vật, tùy môi trường sống, tùy giáo dục. Lịch sử đã chứng minh điều đó, với xã hội Đức dưới thời Hitler, Nga dưới Stalin, Tàu dưới Mao, Cao Miên dưới Pol Pot. Việt Nam không phải là một ngoại lệ, nếu điều đó có thể an ủi người Việt.

Tất cả trò đấu tố đều học của Tàu, cố vấn Tàu sang dạy cách xử án, quy định tỷ số địa chủ phải mang ra làm thịt.

Đó là một xã hội xây dựng trên sự căm thù, được dạy dỗ, tập luyện từ nhỏ, từ ghế nhà trường :

"Thầy giáo nói hôm nay nghỉ học để tối đi đấu tố địa chủ… Xen vào những buổi đi học bình thường là những buổi nghỉ học để tối đi dự đấu tố. Học sinh đến trường tập trung. Mỗi em một bó đuốc, vừa đi vừa hô. Tôi cũng hô to không thua gì các bạn" (Đoạn đời niên thiếu, tr.64).

"Tấm biển "Địa chủ" dựng trước sân. Tôi hất đi thì hôm sau thằng bạn học cùng trương đến dựng lên. Trước đây nó cùng đội thiếu niên, tôi liên đội trưởng, nó liên đội phó" (Đoạn đời niên thiếu, tr.49).

Được dạy dỗ như vậy, bọn trẻ thơ ngây trở thành ác quỷ. Có lẽ cái giết sự ngây thơ, trong trắng của tuổi thơ, nó còn ghê rợn hơn cả chuyện giết người.

"Bị đuổi dạy, thầy giáo Banh nấu nước chè xanh đi bán ở các làng khác, khi về đến đầu làng bị nhóm trẻ con xúm vào đập vỡ hết bát, ném xuống sông, thầy ngồi khóc trên cầu" (Đoạn đời niên thiếu, tr.87).

"Ê, con địa chủ, con địa chủ. Mấy đứa lao vào tôi. Bọn con gái không đánh được thì giật tóc gõ, đầu, cấu véo. Tan học là tôi chạy. Cả đám rượt đuổi. Đuổi theo về đến nhà. Đánh chết thằng con địa chủ này" (Gia đình, tr.41).

Nhục mạ

Giết người chưa đủ, đánh tan nát gia đình nạn nhân chưa đủ, chia nhau từng cái chổi cùn chưa đủ, còn phải nhục mạ người sống, người chết.

"Vườn của bác đã là vườn của nộng dân. Không được chôn địa chủ trong vườn nông dân" (Gia đình, tr.23).

Có lẽ cái nhục mạ nạn nhân, cái thú man rợ khi tước đoạt luôn nhân phẩm con người chỉ có dưới chế độ cộng sản, đặc biệt là cộng sản Tàu và đàn em.

Dưới những chế độ độc tài khác, thường thường chỉ có cái ác.

Sửa sai

Năm 1957, Đảng nhận lỗi, sửa sai. Nhưng lỗi là lỗi của những phần tử quá khích. Đảng không thể có lỗi. Tại trường học, những ông hiệu trưởng, giáo viên trước đây được khen ngợi đã thành công trong việc giúp học sinh đấu tố nhau, bị kết tội do địch gài vào để phá hoại.

Nhà nước xin lỗi, thế là xong, yên chuyện, ai về nhà nấy, như không có chuyện gì xẩy ra. Như có người vô tình chạm vào tôi ngoài đường, xin lỗi. Dạ, không có chi.

Dù sao, chuyện Đảng công khai xin lỗi cũng cho phép gia đình nạn nhân được khóc công khai những người đã bỏ mạng. Và cho phép rất nhiều tác phẩm về cải cách ruông đất ra đời mà tác giả không đi tù hay mất mạng.

Mặc dù vậy, cái sợ hình như vẫn đâu đó.

Đại tá nhà văn Phan Kế Toại, đề tựa cho cuốn Gia đình, đề cao việc làm của tác giả, coi trọng việc đi tìm sự thực, không quên thoòng một câu, cho chắc ăn : "Mọi người cần chung tay cố gắng trân trọng sự đổi mới, gìn giữ thành quả dân chủ để đất nước không bao giờ trở lại thời kỳ ấu trĩ như thế nữa".

"Thành quả dân chủ" ! Câu kết luận politically correct không khỏi khiến người đọc mỉm cười, khi nghĩ đến thực trạng Việt Nam ngày nay về nhân quyền, về tự do báo chí, tự do tín ngưỡng…

Trong cùng một bài tựa, ông Toại kể : "Trong gia đình tôi (…), nhiều người đã bị quy địa chủ, phú nông hoặc phản động. Người bị tịch thu tài sản, người tự vẫn, người bị bắt giam, bị cùm chân, người bị xử tử". Dùng chữ "ấu trĩ" cho một xã hội lở lói khủng khiếp như vậy, có lẽ hơi nhẹ.

Bao nhiêu người là nạn nhân của "cách mạng" ?

Theo BBC, nhà nghiên cứu Mông Cổ Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Đông Âu và Liên Xô, đưa ra con số 7,7 triệu người dân và hàng trăm ngàn gia đình "buộc phải tham gia và chịu hệ lụy" chỉ trong đợt giảm tô. Trong đợt chính thức Cải cách ruông đất, 4 triệu người "chịu tác động". Tác giả Hoàng Minh Chính đưa ra con số nửa triệu người (5% dân số miền Bắc) bị chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa giết.

Riêng Cải cách ruộng đất, theo Bernard Fall, 50.000 bị xử tử, ít nhất gấp đôi bị tù cải tạo (BBC 3/2/2022) (2).

Le Livre noir du cmmunisme (Sách đen của chủ nghĩa cộng sản) do sử gia Stéphane Courtois chủ biên, cũng đưa ra con số 50.000 người bị xử tử, từ 50.000 tới 100.000 người bị đưa đi tù cải tạo (3).

Le Livre noir là một cuốn sách dày 662 trang, do các sử gia, ký giả, giáo sư Pháp biên soạn, tố cáo những tội ác của cộng sản quốc tế, với 100 triệu nạn nhân đã bỏ mạng để xây dựng "xã hội chủ nghĩa".

Svetlana Alexievich

Đọc Phan Thúy Hà, người ta nghĩ tới nhà văn Nga Svetlana Alexievich.

manro3

Nhà văn Nga Svetlana Alexievich

Sinh năm 1948, cha người Belarus, mẹ người Ukraine, Alexievich, trong gần 40 năm, với cây bút và máy ghi âm, đi gặp và ghi lại lời kể, tâm trạng của người Nga sau tại nạn Chernobyl, sau ngày Nga Xô Viết sụp đổ, trong cuộc tham chiến của Nga ở Afghanistan (1).

Trong Les Cercueils de zinc (Những quan tài bằng kẽm, 1990), bà ghi lại tâm trạng của những bà mẹ, bà vợ, có chồng con chết ở Afghanistan, để thỏa mãn tham vọng của các lãnh tụ. Những xác chết từ mặt trận được chở về trong những chiếc quan tài bằng kẽm (zinc).

Bà viết : "Cái can đảm chiến đấu của người cộng sản chỉ là huyền thoại.

Chẳng có anh hùng gì cả, chỉ có những người lính trẻ bị lường gạt, đưa đi làm mồi cho đại bác, bị khủng bố, phải tiếp tục vì sợ".

Ngày tàn của người đỏ

Cuốn sách nổi tiếng nhất của Alexievich, "La Fin de l’homme rouge. Le temps du désenchantement" (Ngày tàn của người đỏ. Thời gian của vỡ mộng), được nhiều nhà phê bình coi là cuốn sách hay nhất, quan trong nhất trong năm (2013), vạch rõ thực chất của người cộng sản (người đỏ), cái ảo tưởng xây dựng xã hội đại đồng, sự thực chỉ là một cuộc lừa gạt đẫm máu để nắm quyền.

Sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ trong 3 ngày, như đã lên nắm chính quyền trong 3 ngày, để viết La fin de l’homme rouge, Svetlana Alexievich, đã đi khắp nước Nga, nghe tâm sự của những người vỡ mộng về ảo tưởng thế giới đại đồng, lạc lõng trong một thế giới mới, xa lạ.

Bà nói : "Có lẽ cái thành công duy nhất của người cộng sản là đã hủy hoại nhân tính, để tạo những người Nga mới, không còn nhân phẩm".

Alexievich nói, trong một cuộc phỏng vấn, dụng ý của bà là qua những nhân chứng thực để tạo những tác phẩm văn chương.

"Mục đích của tôi không phải làm điên đầu người đọc với những chuyện kinh hoàng, mà là rút tỉa ý nghĩa từ những cái kinh hoàng đó. Để giúp con người tiếp tục còn là con người. Làm thay đổi con người, đó có lẽ là cái duy nhất mà họ đã làm được" (ở Liên bang Xô Viết). (Mon objectif n’est pas d’assommer (les lecteurs) par toutes les horreurs que j’écris, mais d’en extraire du sens. Et de permettre à l’humain de rester humain. Transformer l’homme. C’est peut-être la seule chose qui ait marché).

Alexievich đoạt giải Nobel Văn chương năm 2015 cho toàn bộ tác phẩm của bà.

Phan Thúy Hà không có tham vọng đó.

Bà chỉ ghi lại lời kể chuyện của những nạn nhân còn sống sót.

Tác giả Đoạn đời niên thiếu viết trong lời tựa : "Sáu năm qua, viết sách, tôi được gặp nhiều tuổi quê Nghệ Tĩnh. Các ông bà đều tuổi trên tám mươi, chín mươi. Họ là con của những người yêu nước, tham gia cách mạng, bị Pháp bắt tù đày vào năm 1930-31, lớn lên trong những năm kháng chiến (…). Với những gì họ trải qua, nếu không ghi lại thì tiếc quá".

Gia đình, Đoạn đời niên thiếu là những cuốn sách nên dịch ra ngoại ngữ, để những người ngoại quốc hay thế hệ người Việt trẻ hiểu rõ thực trạng Việt Nam, hơn là những cuốn sách của những người chưa bao giờ đặt chân tới xứ này, hay chưa hề sống trong hỏa ngục.

Cũng như những tác phẩm của Alexievich nên dịch ra tiếng Việt, để thức tỉnh những người, ở thế kỷ 21, vẫn còn là những ông già ngồi đan rổ, mơ nước Nga, như trong thơ Tố Hữu.

Cũng hy vọng sẽ có nhiều cuốn sách tương tự, ghi lại chuyện thực, của những người di cư 1954, những nạn nhân tết Mậu Thân, của boat people, hay những ngày miền Nam, trước và sau 1975.

Chuyện cần làm

Đã có rất nhiều sách báo về những chuyện này, nhưng vẫn chưa đủ. Cần một tài liệu đồ sộ ghi lại các nhân chứng.

manro4

Nhà địa chủ, hình ảnh tại triển lãm Cải cách Ruộng đất tháng 9/2014 ở Hà Nội 

Tôi nghĩ tới chuyện này, khi viếng thăm, cách đây mấy chục năm, một thư viện ở Do Thái, nơi tập trung hàng trăm ngàn sách, băng nhạc, ghi âm lời kể của những nạn nhân, hay gia đình nạn nhân Shoah còn sống sót. Người Do Thái coi trọng việc ghi lại ký ức cho thế hệ mai sau.

Ngày nay, nhiều người Việt đã thành công ở hải ngoại, dư tài chánh, có dư khả năng làm việc đó, thay vì làm những chuyện tào lao. Thí dụ tài trợ cho những nhóm trẻ đi phỏng vấn, thu thập dữ kiện tại tất cả những nơi người Việt tỵ nạn cư trú.

Đó là chuyện khẩn cấp. Bởi vì nhiều nhân chứng cao niên đang lần lượt ra đi.

Việc làm của Phan Thúy Hà, hay những việc làm tương tự, sẽ là những chất liệu quý cho những người sau này muốn viết văn, viết sử hay nghiên cứu về Việt Nam cận đại.

Nếu không, thế hệ sau này sẽ không biết gì về quá khứ. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử đất nước chỉ có sách vở của những người muốn viết lại lịch sử, hay những người ngoại quốc, nói chuyện Việt Nam dưới lăng kính chính trị hay bác học, không có chất liệu sống.

"Không ghi lại thì tiếc quá".

Paris, tháng 9/2023

Từ Thức

(tuthuc-paris-blog.com)

(1) Tên người, tên tác phẩm, địa danh ngoại quốc trong bài này viết theo kiểu Pháp (Từ Thức), nhưng Thông Luận đã chuyển sang tiếng Anh để thống nhất với chủ trương của tòa soạn (đại đa số độc giả của Thông Luận sống ngoài khu vực Pháp thoại).

(2) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-59896978

(3) Le Livre noir du communisme, Ed Robert Laffont. Paris 1997

Published in Diễn đàn

Được mô phỏng theo kinh nghiệm của Trung Quốc, cải cách ruộng đất do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện giai đoạn 1953–1956 có lẽ là chính sách đối nội quan trọng nhất của cách mạng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, vì sự khan hiếm của các nguồn tài liệu chính, có rất ít thông tin về ảnh hưởng của các cố vấn Trung Quốc đối với chính sách này. Khuyến nghị của La Quý Ba về việc phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất là một trong số rất ít tài liệu được biết đến do một cố vấn hàng đầu của Trung Quốc soạn thảo cho giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Việc cung cấp tài liệu này giúp bạn đọc có một cái nhìn rõ hơn về quan điểm và sự đánh giá của Trung Quốc về tình hình Việt Nam vào đầu những năm 1950. Nó cũng làm sáng tỏ khía cạnh về vai trò và ảnh hưởng của các cố vấn Trung Quốc trong quan hệ Trung - Việt vào thập kỷ đó, cũng như đối với những quyết định của Hồ Chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giới lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong chương trình cải cách ruộng đất, vốn đã gây nhiều tranh cãi hơn nửa thế kỷ qua.

Vào ngày 9/10/1952, một tài liệu dài 7 trang, viết bằng tiếng Việt với tựa "Ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng năm 1953" đã được chuyển đến Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trực tiếp và có kế hoạch, bản khuyến nghị đã vạch ra các bước vận động quần chúng. Có thể lập luận bản khuyến nghị này là khuôn mẫu cho cuộc vận động quần chúng và cải cách ruộng đất do Đảng Lao động Việt Nam thực hiện từ năm 1953 đến năm 1956. Cuộc vận động đã thúc đẩy sự ủng hộ của nông dân với chính quyền, điều vô cùng cần thiết cho việc đánh bại quân Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954 và tạo điều kiện cho Đảng Lao động củng cố quyền lực của mình ở miền Bắc. Cuộc vận động quần chúng cũng là một chiến dịch bạo lực mang lại sự thay đổi "long trời lở đất" mà hầu hết người Việt Nam ở nông thôn miền Bắc đã trải qua trong những năm 1950.

ccrd1

Hình ảnh một vụ đấu tố trong thời cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam - File photo

Bản khuyến nghị gởi đến Hồ Chí Minh tầm đầu tháng 10, được ký vào ngày 3 tháng 9 năm 1952 bởi "Quý" - viết tắt của La Quý Ba, trưởng đoàn Cố vấn Chính trị Trung Quốc tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1951 đến năm 1954, và là đại sứ đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc từ năm 1954 đến năm 1957.

Số lượng nghiên cứu lịch sử về các cuộc chiến ở Việt Nam trong thế kỷ XX rất lớn và đang phát triển, nhưng rất ít bài viết về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954) và Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1959–1975). Một số ít nghiên cứu được xuất bản có xu hướng nhấn mạnh mối quan hệ giữa và quá trình ra quyết định, chính sách của các nhà lãnh đạo tầm quốc gia, những chủ đề như tình đồng chí giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh hay ảnh hưởng ngoại giao của Chu Ân Lai đối với việc đàm phán Hiệp định Geneva 1954. Một số tài liệu thảo luận về sự hiện diện của các cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam, và đặc biệt là ảnh hưởng của họ trong trận Điện Biên Phủ và chiến dịch cải cách ruộng đất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trong số này thường chỉ phân nhóm các nhân sự Trung Quốc được cử sang Việt Nam một cách mơ hồ với cụm từ "cố vấn Trung Quốc" nhưng rất ít nỗ lực để giải thích những cố vấn này là ai, họ đóng vai trò cụ thể nào trong việc ảnh hưởng giới lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhấn mạnh bản ý kiến của La Quý Ba gởi cho giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam và đặc biệt là Hồ Chí Minh, tôi lập luận về sự cần thiết nên phổ biến và nghiên cứu bản tài liệu lịch sử quan trọng này. Lý do vì nó làm sáng tỏ vai trò và ảnh hưởng của các cố vấn Trung Quốc trong quan hệ Việt - Trung trong những năm 1950, đặc biệt là về chiến dịch cải cách ruộng đất gây tranh cãi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tài liệu này quan trọng vì một số lý do. Thứ nhất, nó bối cảnh hóa mối quan hệ giữa cộng sản Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đặc biệt khi mối quan hệ đó liên quan đến việc tiếp thu kinh nghiệm và thực hành mô hình của Trung Quốc vào Việt Nam thông qua các cố vấn Trung Quốc và các khuyến nghị của họ. Thứ hai, nó mô tả vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp của các cố vấn Trung Quốc trong việc hình thành và thực hiện chính sách cải cách ruộng đất ở Việt Nam từ 1953 đến 1956.

Sự hiện diện của La Quý Ba và các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam

La Quý Ba đã chuẩn bị bản "Ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng năm 1953" vào thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đang cần nhất sự viện trợ của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc dưới hình thức vũ khí, vật chất cũng như những cố vấn chính trị và quân sự. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần củng cố quyền lực và giành được sự ủng hộ của số đông quần chúng để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ba năm trước, vào năm 1949, Đảng Lao động dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã sa lầy vào cuộc chiến tranh du kích kéo dài với người Pháp. Liên Xô, ngọn hải đăng của chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã quan tâm đến Châu Âu hơn là với những diễn biến cách mạng ở Đông Nam Á. Cùng lúc, Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản Trung Quốc thì lại bận rộn với cuộc nội chiến dữ dội chống lại chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Mãi đến khi Mao Trạch Đông chiến thắng và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc vào ngày 1/10/1949, hy vọng cách mạng của Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam mới được hồi sinh. Tháng 12/1949, Hồ Chí Minh cử hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy sang Bắc Kinh để đề nghị Trung Quốc hỗ trợ và công nhận ngoại giao đối với chính phủ của ông.

Khi nhận được yêu cầu của Hồ Chí Minh, quyền chủ tịch của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ đã triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc vào ngày 24/12 nhằm xem xét tình hình Đông Dương. Bốn ngày sau, Lưu Thiếu Kỳ thay mặt cho Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc gọi điện cho Hồ Chí Minh để nêu rõ rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sẽ đồng ý thành lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rằng Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sẽ cử một nhóm đại diện sang Việt Nam nhằm đánh giá các nhu cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến đầu năm 1950, Trung Quốc đã mở cửa liên lạc với Việt Nam. Lưu Thiếu Kỳ, được sự ủy quyền của Mao Trạch Đông khi ông ấy đang trên đường thăm Moskva, đã chọn La Quý Ba làm lãnh đạo đại diện liên lạc của Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. La Quý Ba được chọn bởi kinh nghiệm cách mạng và lãnh đạo du kích của mình. Ngày 16/1/1950, La Quý Ba chính thức lên đường sang Việt Nam.

ccrd2

Văn bản ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng của chuyên gia Trung Quốc La Quý Ba. Hình tư liệu do tác giả cung cấp

Sinh ngày 14/7/1908 tại huyện Nam Khang - tỉnh Giang Tây, La Quý Ba trở thành đảng viên của Đảng cộng sản Trung Quốc vào tháng 1/1927. Từ năm 1927 đến năm 1934, ông là một chỉ huy quân sự và là một trong những thành viên sáng lập của Căn cứ Cách mạng Xô viết Nam Giang Tây. Từ tháng 11/1930 đến tháng 5/1931, ông tham gia vào cuộc phản công của Hồng quân Công nhân và Nông dân Trung Quốc chống lại chiến dịch bao vây lần thứ nhất và thứ hai của chính phủ Quốc dân đảng ở Giang Tây. Sau sự sụp đổ của căn cứ Nam Giang Tây, La Quý Ba tham gia cuộc vạn lý trường chinh dài một năm đến Diên An từ tháng 10/1934 đến tháng 10/1935, và ông nằm trong số tám nghìn người ước tính còn sống sót sau cuộc rút lui lịch sử này. Trong chiến dịch quân sự ngày 20/8 đến ngày 5/12/1940 chống lại lực lượng Nhật Bản ở miền Trung Trung Quốc, được gọi là "Đại chiến Bách Đoàn," La Quý Ba giữ chức Tư lệnh Mặt trận quân Nam của Khu vực biên giới Sơn Tây – Tuy Viễn. Trước khi được bổ nhiệm làm đại diện liên lạc của Trung Quốc tại Việt Nam, La Quý Ba từng là tổng đốc của Tổng văn phòng Ủy ban Quân sự Trung ương của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.

Với tư cách là đại diện liên lạc của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhiệm vụ của La Quý Ba bao gồm thiết lập liên lạc với lãnh đạo cộng sản Việt Nam, điều tra tình hình chung ở Việt Nam và báo cáo những phát hiện của ông cho Bắc Kinh để các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đưa ra quyết định hỗ trợ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước chuyến đi, La Quý Ba đã gặp gỡ các đại biểu Việt Nam tại Bắc Kinh để làm quen với các phong tục và tập quán Việt Nam. Tháp tùng La Quý Ba trong chuyến đi Việt Nam có 8 nhân viên, bao gồm nhân viên điện báo, thư ký và bảo vệ. La Quý Ba cùng cộng sự đến Việt Nam vào ngày 26/2/1950. Đến nơi, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam Trường Chinh đón tiếp. Chuyến đi tưởng chỉ chừng ba tháng của La Quý Ba đã kéo dài thành bảy năm.

Trong những năm đầu ở Việt Nam, La Quý Ba đã giúp thành lập Nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc và Nhóm cố vấn chính trị Trung Quốc. Với tư cách là người đứng đầu Nhóm cố vấn chính trị Trung Quốc, La Quý Ba lãnh đạo hơn một trăm cố vấn có chuyên môn về tài chính, ngân hàng và cung cấp ngũ cốc để tư vấn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về các vấn đề quân sự, tài chính và kinh tế, an ninh công cộng, văn hóa và giáo dục, và các vấn đề như hoạt động của mặt trận thống nhất, hợp nhất đảng và pháp luật cải cách. Công việc của họ bao gồm giới thiệu kinh nghiệm của Trung Quốc cho Việt Nam ; phát triển các chiến lược cấp vĩ mô và các thủ tục hoạch định chính sách ; đưa ra khuyến nghị về các vấn đề liên quan đến các quy tắc, quy định và chỉ thị ; và giúp giới lãnh đạo Việt Nam thực hiện các chương trình. Đến năm 1952, những cố vấn này đã trở thành công cụ giúp Hồ Chí Minh và chính phủ của ông thành lập các bộ máy pháp lý và các chính sách để củng cố quyền lực quân sự và chính trị xã hội.

ccrd3

Một trang trong ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng của chuyên gia Trung Quốc La Quý Ba. Hình do tác giả cung cấp

Xem kế hoạch của La Quý Ba về huy động quần chúng và thực hiện giai đoạn thử nghiệm của cải cách ruộng đất năm 1953 sẽ cho thấy ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại thời điểm này. Sau khi ký bản ý kiến sơ bộ của mình vào ngày 3/9/1952, La Quý Ba đã gởi cho "Thận" – tức Lê Văn Thận, một tên khác của Trường Chinh, người sau này làm trưởng ban chỉ đạo Ủy ban chỉ đạo Cải cách ruộng đất. Không rõ bản ký kiến này được chuyển cho Trường Chinh trong hoàn cảnh nào, nhưng rất có thể nó đã được chuyển đến tay tổng bí thư Đảng Lao động trước hoặc trong dịp La Quý Ba được mời tham dự cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Lao động vào đầu-giữa tháng 9/1952. Ngày 9/10/1952, Trường Chinh ra lệnh cho nhân viên văn phòng của mình chuyển bản ý kiến của La Quý Ba cho Hồ Chí Minh, ngay lúc ông Hồ đang trên một chuyến thăm bí mật đến Bắc Kinh và Moskva. Hồ Chí Minh đã rời Việt Nam vào giữa tháng 9 và đến Bắc Kinh vào ngày 29/9. Thời gian ở lại Bắc Kinh của ông chủ yếu là để thảo luận với các nhà lãnh đạo Trung Quốc về Chiến dịch Tây-Bắc và các kế hoạch chiến lược khác, bao gồm cả cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam có thể đã sắp xếp chuyến đi để kịp thời cho ông tham gia đi cùng trong phái đoàn của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sang tham dự Đại hội lần thứ 19 của Đảng cộng sản Liên Xô.

Do đó, bản ý kiến của La Quý Ba có thể đã đến tay Hồ Chí Minh khi ông đang ở Moskva tham dự đại hội (từ ngày 5 đến ngày 14/10/1952) và gặp trực tiếp Joseph Stalin - lãnh tụ tối cao của Liên bang Xô Viết, để thông báo cho ông ấy về tình hình Việt Nam, bao gồm mục tiêu cách mạng ở Việt Nam và vấn đề cải cách ruộng đất. Sau cuộc gặp với Stalin vào ngày 28/10, Hồ Chí Minh đã gửi hai bức thư cho Stalin vào ngày 30 và 31/10, để thông báo về tiến độ của chương trình cải cách ruộng đất của Việt Nam và kêu gọi sự trợ giúp của ông ta. Trong bức thư đầu tiên, Hồ Chí Minh nói rằng ông đã bắt đầu phát triển chương trình cải cách ruộng đất ở Việt Nam và ông sẽ trình bày nó với Stalin. Trong bức thư thứ hai, Hồ Chí Minh vạch ra chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam và yêu cầu Stalin xem xét và cho chỉ thị. Hồ Chí Minh cho biết ông đã lên kế hoạch cho chương trình với sự giúp đỡ của Lưu Thiếu Kỳ và Vương Giá Tường, đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc tại Liên Xô từ năm 1949 đến 1951. Trong các cuộc trao đổi này, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu Stalin cử các quan chức Liên Xô sang Việt Nam để khảo sát điều kiện và yêu cầu bổ sung 10 tấn thuốc trị sốt rét, vũ khí và cho phép Việt Nam gửi từ 50 đến một trăm sinh viên Việt Nam sang Liên Xô để huấn luyện quân sự và tư tưởng. Ngày 29/11, trong thư từ biệt Stalin, Hồ Chí Minh viết rằng ông sẽ làm việc siêng năng để thực hiện cải cách ruộng đất và tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp. Ông bày tỏ hy vọng sẽ trở lại Moskva sau hai hoặc ba năm để báo cáo về kết quả của những nỗ lực đó.

ccrd4

Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam 1953 – 1956 - File photo

Khuyến nghị sơ bộ

La Quý Ba trình bày đề xuất của mình vào thời điểm Đảng Lao Động Việt Nam đã thu hút được sự ủng hộ của cả Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, những quốc gia cộng sản hùng mạnh nhất thế giới. Sự hỗ trợ này làm giảm bớt nhu cầu của Đảng Lao động Việt Nam phải dựa vào giới địa chủ và nông dân khá giả để có nguồn lực chống lại Pháp. Nó đã tạo cho Đảng Lao động Việt Nam sự ủng hộ để thực hiện cải cách ruộng đất như một chiến lược xã hội, kinh tế và chính trị hầu củng cố quyền lực địa lý và chính trị ở nông thôn. Đề xuất này cũng được đưa ra hai năm sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc bắt đầu thực hiện chương trình cải cách ruộng đất của riêng họ vào mùa hè năm 1950. Do đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và các cố vấn được cử sang Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm liên quan. Chưa kể trước đấy, La Quý Ba cũng đã có được kinh nghiệm của riêng mình khi thực hiện cải cách ruộng đất ở Giang Tây và Diên An trong những năm 1930. Kinh nghiệm này cho La Quý Ba đủ điều kiện để đề xuất với giới lãnh đạo Việt Nam đường lối vận động quần chúng và tiến hành cải cách ruộng đất.

Được chia thành sáu phần, bản khuyến nghị của La Quý Ba nêu ra mục đích, yêu cầu và các bước cần thiết để lãnh đạo phong trào vận động quần chúng, tổ chức lại hệ thống làng-xã và giành ưu thế chính trị ở nông thôn. Mục tiêu cơ bản được đề ra là kích động quần chúng tấn công lật đổ tầng lớp địa chủ, giành quyền kiểm soát chính trị ở nông thôn, xoa dịu nông dân, tăng gia sản xuất nông nghiệp và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp. Mục tiêu rộng hơn của đề xuất này là phác thảo các bước cần thiết nhằm tích lũy tài nguyên và sự ủng hộ của số đông để Đảng Lao động Việt Nam củng cố vị trí của mình. Nó được viết ra (đặc biệt là các nguyên tắc cơ bản được đặt ra trong phân đoạn thứ tư) dựa trên quan điểm của cố vấn Trung Quốc nhằm thúc giục lãnh đạo Việt Nam áp dụng "lập trường vững" và "thái độ rõ rệt" để vượt qua nỗi sợ hãi rằng việc huy động quần chúng sẽ làm cho mặt trận thống nhất bị hoang mang và chia rẽ, dẫn đến những phản ứng không lành từ giai cấp địa chủ.

Sự khuyến khích này từ La Quý Ba dường như đã đóng một vai trò trong việc khởi xướng động thái của Đảng Lao động Việt Nam từ mục tiêu "kéo địa chủ về phe kháng chiến" sang nhấn mạnh vào việc "trung lập một số địa chủ, đánh đuổi đế quốc và đại địa chủ phong kiến phản động". Nó cũng thể hiện sự trấn an của cố vấn Trung Quốc đối với ban lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam rằng việc đổi mặt đối các tầng lớp giàu có và đặc quyền đã từng ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cuộc kháng chiến trước đây sẽ không gây ra rủi ro quá đáng, vì Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (cũng như Liên Xô) sẽ thay thế các nhóm này làm hậu thuẫn về mặt quân sự và tài chính chính cho cuộc cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam.

So sánh nội dung đề xuất của La Quý Ba với các chính sách vận động quần chúng ở nông thôn của Đảng Lao động Việt Nam trước và sau đó cho thấy rõ ảnh hưởng đáng kể của cố vấn Trung Quốc đối với việc phát triển cấu trúc phương pháp luận cho chiến dịch vận động quần chúng của Đảng Lao động Việt Nam - từ ý tưởng đến thực hành. Nội dung và ngôn ngữ của năm phần đầu tiên trong bản đề xuất của La Quý Ba đã trở thành khuôn mẫu để lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam phát huy rõ định hướng chính sách cũng như lý luận của mình, chủ yếu trong các chỉ thị, nghị định, thông tư, báo cáo, thông báo, cũng như những tập huấn luyện được lưu hành nội bộ. Ảnh hưởng này được thể hiện rõ nhất trong Chỉ thị 37/CT/TW do Tổng bí thư Trường Chinh ban hành ngày 24/4/1953, đêm trước đợt thi hành chiến dịch thí nghiệm phát động quần chúng, vì nó đã dùng giọng điệu và nội dung của La Quý Ba để xây dựng khuôn mẫu phát động quần chúng.

Hơn nữa, phần thứ sáu của đề xuất cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của La Quý Ba đối với sự chuẩn bị của Đảng Lao động Việt Nam cho việc bắt đầu chiến dịch cải cách ruộng đất. Để chuẩn bị cho một chiến dịch thử nghiệm mà các chiến dịch trong tương lai có thể sử dụng làm hình mẫu, La Quý Ba khuyến nghị nên cẩn thận đặt nền tảng cho việc huy động quần chúng để "thu được kết quả mong muốn, không xảy ra hoặc ít xảy ra lệch lạc". Công việc này bao gồm khảo sát vùng nông thôn, tuyên truyền các chính sách của Đảng Lao động Việt Nam, đào tạo cán bộ và lựa chọn các khu vực để thực hiện cải cách ruộng đất. Cụ thể hơn, ông ta đã khuyên Đảng Lao động Việt Nam phân công và đào tạo hai trăm cán bộ để thực hiện chiến dịch này tại hai mươi xã trong Liên khu I - hay Việt Bắc - và Liên khu IV, hai khu vực này từ lâu đã là thành trì của Đảng Lao động Việt Nam.

ccrd5

ccrd6

ccrd7

ccrd8

ccrd9

ccrd10

Văn bản Ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng của cố vấn Trung Quốc La Quý Ba. Hình do tác giả cung cấp

Đã xin được sự chấp thuận và hậu thuẫn của Stalin và Mao, sau khi trở về từ Bắc Kinh và Moskva, Hồ Chí Minh đã làm việc cùng với các thành viên còn lại của ban lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam để bắt đầu thực hiện đề xuất của La Quý Ba về vận động quần chúng. Họ đã thực hiện các bước để thay đổi lập trường trước đây của họ về cải cách ruộng đất. Họ bắt đầu bằng cách yêu cầu một cuộc điều tra sâu hơn về các điều kiện ở nông thôn. Từ ngày 25 đến ngày 30/1/1953, họ đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ tư của đảng để bắt đầu đưa ra các mục tiêu và đặt nền móng cho một chiến dịch cải cách ruộng đất rộng lớn. Nền tảng này bao gồm việc xây dựng nhiều khía cạnh trong đề xuất của La Quý Ba và đưa chúng vào chính sách của họ. Tại Hội nghị Trung ương, Hồ Chí Minh đọc báo cáo nêu rõ hai nhiệm vụ chính cần chú trọng trong năm 1953 để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Những nhiệm vụ này bao gồm : lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và đưa ra các chính sách quân sự liên quan, vận động quần chúng giảm địa tô hơn nữa và thực hiện cải cách ruộng đất. Về chính sách ruộng đất, Hồ Chí Minh cho rằng, vì "hoàn cảnh đặc biệt," chỉ thực hiện giảm địa tô và giảm lãi suất trong những năm trước năm 1953. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đã thay đổi nên hiện nay cần thiết cho cuộc cách mạng mở rộng chính sách ruộng đất và "nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân" bằng cách thực thi cải cách ruộng đất một cách triệt để hơn. Những cải cách này sẽ bao gồm việc phân phối lại ruộng đất cho nông dân. Khi mục đích này thành công, Đảng Lao động Việt Nam sẽ có thể huy động đầy đủ nhân lực cần thiết từ giai cấp nông dân để tiến hành cuộc chiến kéo dài và giành thắng lợi tuyệt đối.

Để hiểu rõ quyết định đẩy mạnh cải cách ruộng đất triệt để hơn vào thời điểm này, cần phải chấp nhận một thực tế rằng cải cách ruộng đất đã là một mục tiêu cách mạng hàng đầu của Đảng cộng sản kể từ khi thành lập năm 1930. Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên của cuộc chiến Đông Dương với Pháp, các chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp chỉ giới hạn trong việc giảm tô và thuế. Lý do vì giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam sợ rằng cải cách nông nghiệp triệt để hơn sẽ làm suy yếu sự thống nhất của mặt trận thống nhất chống Pháp bằng cách tạo sự chia rẽ với giai cấp địa chủ cũng như phú nông. Trong bối cảnh này, điều quan trọng cần lưu ý là các chủ đất và những người có tài sản là những người ủng hộ kinh tế chính cho nỗ lực chiến tranh, vì cho đến năm 1950 Đảng Lao động Việt Nam vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ từ các đồng minh cộng sản. Do đó, đảng chỉ có thể giới hạn việc thúc đẩy các chính sách cấp tiến hơn ở các khu vực do quân đội trực tiếp kiểm soát, chẳng hạn như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, khi Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành công trong cuộc chiến chống lại Chính phủ Quốc dân đảng, bắt đầu cử cố vấn sang Việt Nam, trực tiếp hỗ trợ quân sự và tài chính qua biên giới phía Nam của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam tin rằng đã đến thời điểm thích hợp để thực hiện toàn bộ cuộc vận động nông dân xóa bỏ "giai cấp thống trị" ở nông thôn miền Bắc và tập hợp nhân lực cần thiết để kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong một báo cáo dài sau bài phát biểu của Hồ Chí Minh, Trường Chinh cho rằng cần tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc để lật đổ đế quốc Pháp và phong kiến. Theo sát các khuyến nghị của La Quý Ba, Trường Chinh xác định mục đích, ý nghĩa, phương châm và phương pháp cụ thể của các chính sách cải cách ruộng đất và đề ra kế hoạch thực hiện chúng. Báo cáo của Trường Chinh phản ánh sự thay đổi lập trường của đảng đối với tầng lớp địa chủ khi cho rằng lý do mà các chính sách cấp tiến về đất đai không được thực hiện trong những năm trước năm 1953 là do đảng này đã đánh giá quá cao mức độ hợp tác của giai cấp địa chủ. Trường Chinh tiếp tục cáo buộc các thành viên của tầng lớp này là những kẻ phản động phong kiến ​​bt hp tác, nhng người đã làm vic chng lại các chính sách của đảng và các nỗ lực chiến tranh. Do đó, ông đã mạnh mẽ kêu gọi "phóng tay phát động quần chúng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức ; chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng ở vùng tự do". Chỉ khi các chính sách này được thực thi đầy đủ thì Đảng Lao động Việt Nam mới "động viên nông dân hăng hái hy sinh cho kháng chiến, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, củng cố được chính quyền nông thôn".

Trên cơ sở các mục tiêu mà Hồ Chí Minh và Trường Chính đã vạch ra, Hội nghị Trung ương lần thư tư đã đề ra nghị quyết kêu gọi phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất ở những vùng do đảng trực tiếp kiểm soát. Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam bắt đầu ban hành một loạt đạo luật và quy định để mở đường cho việc thực hiện đề xuất của La Quý Ba. Để hỗ trợ cho giai đoạn quan trọng này của chiến dịch, vào mùa xuân năm 1953, Đảng cộng sản Trung Quốc đã bổ nhiệm Kiều Hiểu Quang sang Việt Nam để đứng đầu Ban Cải cách ruộng đất và Hợp nhất Đảng thuộc Nhóm cố vấn chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam. Bắc Kinh đã cử thêm 42 chuyên gia cải cách ruộng đất trong cùng năm đó để củng cố đội ngũ của Kiều Hiểu Quang. Theo đề xuất của La Quý Ba, các cố vấn này đã dạy các cán bộ Việt Nam, vốn đã được giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam chọn, cách khảo sát, phân tích và phân loại các điều kiện kinh tế xã hội và giai cấp của các làng xã. Sau khi các cán bộ cải cách ruộng đất được đào tạo, Đảng Lao động Việt Nam phát động đợt thí nghiệm phát động quần chúng vào ngày 15/4/1953. Chiến dịch kéo dài đến tháng 8/1953, được thực hiện ở 23 xã - nhiều hơn ba xã so với bản khuyến nghị của La Quý Ba - ở Việt Bắc và Liên Khu IV.

Chiến dịch vận động quần chúng thực nghiệm được thực hiện theo một quy trình phức tạp bao gồm nhiều bước để kích động đấu tranh giai cấp. Nó bắt đầu bằng việc cử một đoàn cán bộ phát động quần chúng được đào tạo đặc biệt đến một địa điểm được chọn, thường là một xã, để khảo sát các mối quan hệ giữa các tầng lớp của người dân trong xã và phân loại họ thành các tầng lớp xã hội khác nhau. Cải trang thành nông dân, những cán bộ này thâm nhập vào xã bằng cách tiếp xúc với những nông dân và bần cố nông nghèo nhất. Họ làm quen với điều kiện của nông dân bằng cách áp dụng chiến lược "ba cùng" : cùng ăn, cùng ở, cùng làm. Thông qua quá trình "thăm nghèo hỏi khổ," các cán bộ gieo vào lòng nông dân sự căm thù đối với tầng lớp địa chủ (và sau này là phú nông và trung nông) bằng cách so sánh sự nghèo khổ của họ với sự sung túc của địa chủ. Các cán bộ phát động xúi giục giới nông dân phát động, nổi dậy chống lại địa chủ. Khi lòng căm thù đã dấy lên và điều kiện đấu tranh giai cấp đã chín muồi, cán bộ vận động tập hợp các địa chủ trong xã và đưa họ ra xét xử trước một "Tòa án Nhân dân đặc biệt," trong đó họ khích những người từ giới nông dân và bần cố nông tố cáo những "tội ác" và sự lộng hành của địa chủ. Sau phiên đấu tố, các tòa án đưa ra quyết định về số phận của các địa chủ, gia đình và tài sản của họ. Quá trình phát động này đã trở thành khuôn mẫu cho phần còn lại của chiến dịch cải cách ruộng đất từ ​​tháng 4/1953 đến tháng 7/1956. Tr trêu thay, mt trong những người đầu tiên bị đưa ra xét xử và hành quyết là Nguyễn Thị Năm, một địa chủ yêu nước được mệnh danh là "mẹ kháng chiến," người đã ủng hộ cuộc chiến chống thực dân và nhiều lãnh đạo của Việt Minh, bao gồm Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng.

ccrd11

La Quý Ba - Nguyễn : Tân Hoa Xã

Bản ý kiến sơ bộ của La Quý Ba có thể không phải là bản khuyến nghị duy nhất hoặc cuối cùng đã dẫn Đảng Lao động Việt Nam đến việc thi hành chương trình cải cách ruộng đất. Nhưng bối cảnh lịch sử La Quý Ba đưa ra những khuyến nghị đó và mức độ giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam tuân theo lời khuyên của người đại diện Đảng cộng sản Trung Quốc cho thấy cố vấn Trung Quốc và những góp ý của họ đóng vai trò vô cùng quan trọng, có thể nói là khung sườn cho chiến dịch vận động quần chúng và cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam từ tháng 4/1953 đến tháng 7/1956. Nó không phải là một bản thiết kế từng bước cho nỗ lực cải cách ruộng đất lâu dài, phức tạp và nhiều bạo lực, nhưng nó vừa là khuôn khổ để Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam xây dựng và phát triển, vừa là phương tiện để các cố vấn Trung Quốc tiếp tục gây ảnh hưởng đến nỗ lực đó. Quan trọng hơn, đề xuất này cho thấy chính xác những gì các cố vấn Trung Quốc đã thực sự trao đổi với các lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, điều chưa nghiên cứu nào về cải cách ruộng đất đề cập trước đây. Tài liệu có thể giúp chúng ta hiểu cách các cố vấn đó đã định khung các khuyến nghị của họ và mức độ mà phía Việt Nam chấp nhận chúng. Nó cho phép chúng ta hiểu cách lãnh đạo Việt Nam vàT rung Quốc quan hệ với nhau như thế nào khi họ xử lý tình hình xã hội, kinh tế và chính trị ở Việt Nam. Đó là bản khuyến nghị cho thấy niềm tin của giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc rằng một chương trình cải cách ruộng đất nghiêm ngặt, thậm chí đầy bạo lực là cần thiết nếu Đảng Lao động Việt Nam muốn giành được không gian địa chính trị, nhân lực và tài lực cần thiết để tiến hành cuộc chiến toàn diện đối với Pháp.

Alex-Thái Đình Võ

Nguồn : RFA, 08/10/2022

___________________

Bài nghiên cứu này được đăng trên tạp chí khoa học SOJOURN vào năm 2016, nay nhân dịp 70 năm việc khởi xướng chiến dịch cải cách ruộng đất ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xin dịch sang tiếng Việt và đăng lại cùng với bản photo của bản tài liệu gốc để độc giả rộng đường tham khảo.

Giáo sư Alex-Thái Đình Võ hiện công tác tại Viện Việt Nam và Lưu Trữ, Đại học Texas Tech, Hoa Kỳ. Ông nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Cornell, và chuyên về lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á.

Published in Diễn đàn

Dân oan là danh từ quá quen thuộc đối với người Việt trong thế kỷ 21 này. Nó dùng để chỉ những nạn nhân của sự cướp đất từ phía nhà cầm quyền, như dân oan Dương Nội, dân oan Cồn Dầu, dân oan Tiền Giang, dân oan Văn Giang.v.v.

Từ "dân oan" không phải là từ mới, nhưng khi áp dụng cho những trường hợp trên thì nó sai căn bản.

danoan1

Dân Cồn Dầu không phải là dân oan, họ là nạn nhân của sự cướp đất, bạo quyền thành phố Đà Nẵng chính là quân ăn cướp !

Không có sự oan ức hay nhầm lẫn gì trong những trường hợp trên. Nguyễn Bá Thanh đã bất chấp nhân tâm, bất chấp sinh mạng con người để lấy bằng được Cồn Dầu. Tay chân của Nguyễn Bá Thanh đã đánh đập tra tấn dã man nhiều người và khiến một người chết, đẩy hàng chục người từ trẻ thơ 3 tuổi đến ông già 80 phải tha hương tới Thái Lan và còn tiếp tục săn đuổi họ. Không phải ông Thanh và nhà cầm quyền Đà Nẵng có ý định lấy Cồn Cỏ hay Cồn Hến, rồi bị thằng đánh máy đánh nhầm thành Cồn Dầu ! Họ quyết lấy đích danh Cồn Dầu. Đó là hành vi ăn cướp có vũ trang, giết người. Dân Cồn Dầu không phải là dân oan, họ là nạn nhân của sự cướp đất, bạo quyền thành phố Đà Nẵng chính là quân ăn cướp !

Tôi không biết ai đã sáng tác ra cụm từ này dành cho những người bị cướp đất. Chỉ có thể giả định người đó muốn đưa sự việc ra công luận nên đã uốn éo chữ nghĩa để làm giảm tính nghiêm trọng sự việc. Điều đáng tiếc là chúng ta mặc nhiên sử dụng thiếu suy nghĩ mà tiếp tay cho sự trí trá. Khi viết những dòng này, tôi khá buồn khi một bài hát ở hải ngoại liên tục nhắc đến từ "dân oan" trong buổi họp báo của Mục sư Nguyễn Công Chính : "Từ miền Tây đoàn dân oan tiến về Sài Gòn, từ miền Nam đoàn dân oan tiến về Hà Nội" v.v. Mong rằng những người làm việc với con chữ, đặc biệt trong văn hóa văn nghệ hãy khắt khe hơn, tránh vô tình tiếp tay cho nhà cầm quyền.

Đã đến lúc chúng ta cần đoạn tuyệt với những cái tên "dân oan Tiền Giang, dân oan Văn Giang, dân oan Dương Nội" mà phải gọi là : nạn nhân bị cướp đất ở Dương Nội, nạn nhân bị cướp đất ở Tiền Giang, nạn nhân bị cướp đất ở Văn Giang.

danoan2

Người dân Dương Nội phản đối chính quyền địa phương cướp đất và ruộng vườn

Vậy kẻ cướp là những ai ? Những người dân phòng với dùi cui rệu rã kẻ đứng người ngồi, những cảnh sát cơ động được trang bị từ chân tới đầu ? những người chỉ huy ? Không ! Không phải là họ, họ cũng là nạn nhân theo một cách khác của bạo quyền cộng sản. Sự đói rách bần cùng khiến cho một vài triệu đồng cũng đủ để nhân cách bị lu mờ. Kẻ cướp không xuất hiện trong các vụ cướp. Chúng dùng nạn nhân đi cướp từ những nạn nhân khác cho chúng.

Sự việc đã lặp đi lặp lại hàng chục năm, đẩy hàng trăm ngàn người ra khỏi mảnh đất mà họ đã gắn bó. Kẻ cướp trực tiếp trong từng trường hợp là nhà cầm quyền xã, huyện, tỉnh và cả trung ương. Đứng sau đám cướp luôn là đám tài phiệt với lòng tham vô đáy. Trong tất cả mọi trường hợp, việc cướp bóc giết người không thể thiếu được sự đồng lõa hay làm ngơ của nhà cầm quyền cộng sản. Kẻ cướp chính là bạo quyền cộng sản các cấp. Vì vậy mọi sự kêu cứu : "Quốc hội ơi cứu dân", "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ơi cứu dân", "Đảng ơi cứu dân"… đều là kêu nhầm địa chỉ.

Tôi hoàn toàn cảm thông hoàn cảnh của những người khiếu kiện màn trời chiếu đất không biết bấu víu vào đâu nên đành ôm hình Hồ Chí Minh, ôm cờ, cầu cứu các chóp bu cộng sản, nhưng họ cũng nên hiểu rằng cách đó hoàn toàn vô vọng. Thực tế vụ Đoàn Văn Vươn là bài học, Nguyễn Tấn Dũng đã lên tiếng, cá tôm vẫn bị cướp trắng trợn, anh em nhà Vươn vẫn đi tù. Tôi tin rằng mỗi người dân khiếu kiện nhiều năm đều có những kinh nghiệm thực tế rõ hơn tôi. Hãy đoạn tuyệt với hy vọng mơ hồ đảng hay Nguyễn Phú Trọng sẽ ra tay cứu xét. Phải nhìn nhận họ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Đầu não của kẻ cướp chính là đảng cộng sản Việt Nam. Việc cầu cứu họ không làm thay đổi, mà lại còn đem cho Đảng một chút chính danh nào đó.

danoan3

Cải cách ruộng đất là một sự cướp bóc và giết người tàn bạo.

Phải nhìn nhận cướp bóc, bạo lực, khủng bố là một hằng số xuyên suốt từ tháng 8 năm 1945 đến nay. Cải cách ruộng đất là một sự cướp bóc và giết người tàn bạo. Tước đoạt quyền sở hữu đất của toàn dân bằng chính sách hợp tác xã. Thanh trừng các đồng chí, bịt miệng giới văn nghệ sỹ qua vụ án Xét Lại Chống Đảng và Nhân Văn Giai Phẩm. Kể sao cho hết những hành động dã man của nhà cầm quyền cộng sản, họ gieo rắc sự sợ hãi lên toàn bộ trí thức. Một mặt họ bưng bít thông tin, mặt khác khoác lên trên tội ác của mình một tấm áo mỹ miều vì sự nghiệp cách mạng, vì nhân dân. Cả một guồng máy tuyên truyền khổng lồ, ngày đêm đầu độc từ khi sinh ra, khiến cả dân tộc hoang mang, bị cướp mà vẫn không nhận diện ra kẻ cướp là ai. Vẫn mơ màng Hồ Chí Minh vĩ đại, vẫn đảng anh minh !

4444444444444

Nhưng dù hiền lành đến mấy, chúng ta cũng không thể gọi kẻ cướp là ân nhân và kêu gọi lòng từ bi của kẻ cướp.

Đã đến lúc chúng ta rũ bỏ ảo giác để nhận diện đúng bản chất, thực trạng nghèo đói đau khổ, đạo đức băng hoại, kẻ có quyền, có tiền mặc sức cướp bóc, môi trường bị hủy hoại… chính là do Đảng cộng sản Việt Nam. Cần có sự minh định thẳng thắn giữa kẻ cướp và nạn nhân, đồng lòng xóa đi sự mơ hồ, chỉ đích danh kẻ cướp, như thế sẽ đặt nhà cầm quyền cộng sản trong mối tương quan mới.

Nói lên tất cả những điều này không phải để khơi dậy niềm uất hận nuôi dưỡng lòng căm thù. Chúng ta không thay đổi được quá khứ đau thương, nhưng có thể thay đổi được tương lai. Không vì bất cứ lý do gì để chúng ta tự cho mình quyền tiêu diệt ai và làm tổn thương dân tộc đã quá đau khổ này. Nhưng dù hiền lành đến mấy, chúng ta cũng không thể gọi kẻ cướp là ân nhân và kêu gọi lòng từ bi của kẻ cướp.

Cần minh định rõ rằng chúng ta đều là nạn nhân, chúng ta bị cướp từ đất đai đến quyền làm người. Thậm chí việc lên tiếng về những nỗi thống khổ của mình cũng không được phép. Kẻ gây ra những oan trái ngút ngàn đó, kẻ cướp đi của chúng ta tất cả…chính là đảng cộng sản Việt Nam.

Đỗ Xuân Cang

(22/08/2018)

Published in Quan điểm

Với sự chỉ đạo của Trung Quốc, năm 1953 Việt Nam tiến hành cải cách ruộng đất. Chiến dịch này có cố vấn Trung Quốc trực tiếp sang Việt Nam tư vấn chỉ đạo làm theo mô hình "thổ địa cải cách" mà Trung Quốc đã làm.

Tỷ lệ được đặt ra trong dân chúng phải có 5% là diện địa chủ, cường hào, bóc lột nhân dân.

dlt1

Di ảnh bà Nguyễn Thị Năm

Địa chủ Nguyễn Thị Năm là người đầu tiên bị xét xử tử hình, một bài báo của tác giả cộng sản với tiêu đề Địa Chủ Ác Ghê nội dung lên án bà Cát Hanh Long Nguyễn Thi Năm bằng những con số tội ác như làm chết 32 gia đình gồm 200 người vì đưa họ đi khai phá đồn điền, bệnh tật, ốm đói. Đồng thời trực tiếp giết chết 14 nông dân, 15 trẻ con... tổng cộng gia đình địa chủ Nguyễn Thị Năm đã giết 240 người dân.

dlt2

Một bài báo với tiêu đề Địa Chủ Ác Ghê nội dung lên án bà Cát Hanh Long Nguyễn Thi Năm

Kể lại về vụ xử địa chủ Nguyễn Thị Năm, ông Trần Đĩnh viết trong hồi ký của mình như sau :

Để có phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo Nhân Dân tường thuật vụ đấu Nguyễn Thị Năm-Cát Hanh Long. Tôi nhận nhiệm vụ. Trường Chinh nói phân công tôi vì cần một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh động của cuộc đấu tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội ác thì tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội. 

Lời kể trên của Trần Đĩnh khái quát được thủ đoạn sử dụng truyền thông, gây sự căm phẫn của đám đông vốn mù thông tin trong cải cách ruộng đất của chế độ cộng sản Việt Nam hồi đó.

Hơn nửa thế kỷ sau, Trung Quốc lại đẻ ra mô hình Đả Hổ Diệt Ruồi, đối tượng của chiến dịch lần này ngược lại với Thổ Địa Cải Cách là nằm trong đám quan chức của đảng cộng sản. Mục tiêu của nó phải có ủy viên bộ chính trị đảng CS là đối tượng bị xử lý. Sau một thời gian triển khai ở Trung Quốc  , mô hình này được áp dụng tại Việt Nam. Những cố vấn Trung Quốc chỉ đạo Việt Nam thực hiện chương trình này qua họp hành, hợp tác của ủy ban kiểm tra trung đảng hai bên. 

Cũng như hồi cải cách ruộng đất, cuộc chiến đả hổ diệt ruồi được áp dụng vào Việt Nam cũng có những thủ đoạn truyền thông như Trần Đĩnh đã từng kể. Nếu trong cải cách ruộng đất một số văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà văn góp miệng ca ngợi chiến dịch này và lên án địa chủ cường hào, thì ngày nay chả có gì thay đổi, cũng một đống nhà báo, nghệ sĩ, văn sĩ hùa theo ca lên án những đối tượng mà đảng cộng sản Việt Nam chọn ra làm mục tiêu. Y những luận điệu cách đây hơn nửa thế kỳ về tội ác của địa chủ Nguyễn Thị Năm.

Đối tượng của chiến dịch này là Đinh La Thăng. Tại sao là ông ta ?

Nói về sai phạm và tham nhũng, tiêu cực tất cả dư luận đều đồng tình cán bộ cộng sản cấp cao không ai là không có tham nhũng và tiêu cực, bản thân tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng dính đến sai phạm áp giá đất rẻ cho doanh nghiệp ở dự án Ciputra làm thiệt hại cho nhà nước hàng ngàn tỷ đồng hồi ông ta làm bí thư Hà Nội , hồ sơ vụ việc này đang nằm trong tay thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhưng chiến dịch do đảng phát động, ông Trọng đứng đầu đảng cho nên ông Phúc không thể đưa ra.

Vấn đề ở đây là những chuyên gia, cố vấn Trung Quốc chỉ đạo vụ việc này qua ủy ban kiểm tra trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Ông Trần Quốc Vượng trưởng ban này đã được ông Trọng giới thiệu và cho tiếp xúc với lãnh đạo Trung Quốc xin chỉ thị chỉ đạo chương trình đả hổ diệt ruồi ở Việt Nam. Các đối tượng đưa ra xử lý đều phải được Trung Quốc chấp nhận, có khi còn phải là những đối tượng mà Trung Quốc chỉ đích danh.

Đinh La Thăng là người dính đến những thất thoát ở PVN, từng lớn tiếng chửi nhà thầu Trung Quốc và mong muốn thân với Hoa Kỳ.

Thăng đã đủ hai tiêu chuẩn đầu tiên để làm nhân vật bị xử lý đó là dính đến thất thoát và bị Trung Quốc ghét. Tuy nhiên muốn đưa Thăng ra xử lý còn phải cần đến một vấn đề thứ ba nữa, đó là phải được sự đồng ý những phe cánh lớn trong đảng cộng sản Việt Nam. Phe tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng muốn đưa Thăng ra xử là điều tất nhiên, nhưng nếu không có sự đồng tình của một phe lớn khác là cánh Trương Hòa Bình, Trương Tấn Sang, Lê Thanh Hải thì Trọng khó đưa được Thăng ra. Những hành động của Thăng khi về làm bí thư thành phố Hồ Chí Minh đã động chạm đến những doanh nghiệp sân sau của nhóm Bình, Sang, Hải một cách vỗ mặt công khai, chẳng hạn như không tổ chức sự kiện, họp hành của thành phố tại những cơ sở của nhóm Bình, Hải, Sang... mà phần lớn những cơ sở này là do nhóm Hoa kiều nắm giữ. 

Nhóm quyền lực chính trị Trương Hòa Bình, Lê Thanh Hải, Trương Tấn Sang trước đây đã từng không ưa Đinh La Thăng, nay thấy Thăng không những không biết thân phận mà còn dám động đến lợi ích của họ, khiến họ quyết định đưa Đinh La Thăng làm mục tiêu cho Nguyễn Phú Trọng thịt. Chưa kể đến nhóm Nguyễn Xuân Phúc đang muốn đục nước béo cò.

Chú ý theo dõi sẽ thấy, bên trong nội bộ phó thủ tướng Trương Hòa Bình dành hết cả một năm trời chỉ để tìm hồ sơ buộc tội Đinh La Thăng, chính Trương Hòa Bình liên tiếp đưa hồ sơ cáo buộc Thăng ra các buổi họp Trung ương và Bộ Chính Trị. Bên ngoài dư luận những đám nghệ sĩ, báo chí được nhóm lợi ích này nuôi dưỡng bấy lâu cũng liên tục tung ra những luận điệu nhằm vào Thăng để tạo dư luận ủng hộ.

Cuối cùng thì Đinh La Thăng hội tụ cả ba yếu tố hàng đầu, trong đó hai yếu tố quan trọng nhất khiến Thăng bị nạn, là có thái độ chống Tàu thân Mỹ và yếu tố đụng đến nhóm lợi ích ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu chỉ là yếu tố làm thất thoát tiền bạc hàng ngàn tỷ, chắc chắn Đinh La Thăng không hề sứt mẻ, vì trong quan chức chóp bu cộng sản ai mà không dính quản lý thua lỗ. Làm thất thoát thế thường thì bị đồng bọn lôi ra chỉ trích để hạn chế bước thăng tiến, không thể đến mức cách chức, bỏ tù như hôm nay.

dlt3

Đinh La Thăng hội tụ cả ba yếu tố hàng đầu, trong đó hai yếu tố quan trọng nhất khiến Thăng bị nạn, là có thái độ chống Tàu thân Mỹ và yếu tố đụng đến nhóm lợi ích ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì thế nên những thất thoát ở PVN xảy ra cách đây đến cả chục năm,  trước đây thỉnh thoảng Đinh La Thăng bị chỉ trích liên quan đến nhưng Thăng vẫn không hề sao và còn thăng tiến lên cao hơn mấy nấc. Nhưng từ khi chửi Tàu, tỏ thái độ thân Mỹ và đặc biệt khi về làm bí thư Hồ Chí Minh đụng đến nhóm lợi ích kia, cuộc tấn công bỗng trở thành dồn dập và quyết liệt. Những chuyện cũ được khơi lại thành hồ sơ khởi tố, không phải là những chỉ trích đe dọa như những năm trước nữa, mà là những đòn thực thụ để tiêu diệt Đinh La Thăng. 

Cả hai sự kiện cách nhau nửa thế kỷ của cộng sản Trung Quốc và cộng sản Việt Nam lặp lại với mô hình, cách thức y chang nhau. Địa chủ Nguyễn Thị Năm ngày ấy cũng bị dân chúng sôi sục căm thù bởi tác động những bài báo như Trần Đĩnh đã kể. 

Bây giờ số phận Đinh La Thăng cũng vậy.

Người Buôn Gió

Nguồn : nguoibuongio1972, 16/12/2017

Published in Diễn đàn