Cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Việt Nam-Đức và Việt Nam-Slovakia liên quan đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, một cựu quan chức ngành dầu khí vẫn đang tiếp diễn.
Bộ trưởng ngoại giao Slovakia Miroslav Lajcak và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh có cuộc gặp bên lề cuộc họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 73 ở New York ngày 237/09/2018.
Hôm 27/9/2018, trong cuộc họp giữa Bộ trưởng Ngoại giao Slovakia Miroslav Lajcak và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh bên lề cuộc họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 73 ở New York thì phía Slovakia đã "mạnh mẽ lên án" hành động bắt cóc này và nói rằng đây là hành động "vi phạm nền tảng luật pháp quốc tế và lạm dụng trắng trợn hệ thống khối Schengen, gây tác động tiêu cực lên quan hệ Việt Nam-Slovakia" (1).
Trong buổi kỷ niệm quốc khánh Việt Nam tại Đức (hôm 18/9/2018) thì phía Đức chỉ cử một quan chức cấp thấp là bà Ina Lepel, Vụ trưởng châu Á-Thái Bình Dương của Bộ Ngoại giao Đức đến dự và câu kết thúc bài phát biểu, đại diện phía Đức đã nhấn mạnh : "Tôi hy vọng trong thời gian tới sẽ mang lại nhiều cơ hội để cho nhân dân hai nước gặp gỡ và để cho quan hệ song phương được phục hồi và phát triển nhanh chóng". Bà cũng đã từ chối bắt tay đại sứ Đoàn Xuân Hưng (2).
Rất nhiều bình luận và chỉ trích hành động bắt cóc Trịnh Xuân Thanh của chính quyền Việt Nam làm ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ giữa Việt Nam và Châu Âu đã được đưa ra suốt 9 tháng qua. Thật ra thì nhiều người đã không còn lạ gì bản chất khủng bố, làm bậy, làm càn bất chấp luật pháp quốc tế của chính quyền cộng sản. Trong đó đáng nói nhất là hành động tước bỏ quyền làm người của hơn 90 triệu người dân Việt Nam.
Bản chất của chính quyền Việt Nam xưa này vẫn thế và không hề thay đổi. Câu hỏi đặt ra là tại sao lần này Châu Âu mà cụ thể là Đức và Slovakia lại làm lớn chuyện vụ Trịnh Xuân Thanh ? Các vụ scandal liên quan đến ngành ngoại giao của Việt Nam vẫn xảy ra thường xuyên từ trước đến nay nhưng có sao đâu ? Ví dụ việc nhân viên đại sứ quán Việt Nam buôn lậu sừng tê giác ở Nam Phi, ô tô ở Ấn Độ hay vi cá mập ở Chi-lê ?…
Có ba lý do khiến Mỹ và các nước dân chủ luôn đối xử mềm mỏng, nếu không muốn nói là nhân nhượng rất nhiều cho chính quyền Việt Nam thời gian qua :
- Mỹ luôn muốn cô lập Trung Quốc vì vậy không thể mạnh tay trừng phạt Việt Nam vì không muốn Việt Nam ngả hẳn vào vòng tay của Trung Quốc. Họ thừa biết Việt Nam "đu dây" nhưng họ vẫn mặc kệ và chấp nhận điều đó.
- Bài học can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam vẫn còn đó với sự ‘thất bại’ của Mỹ, dù đã rất tốn kém về người lẫn tiền của. Từ sau 1975, Mỹ (và phương Tây) thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận với Việt Nam. Họ sẽ không bao giờ can thiệp quân sự nữa.
- Sau khi khối xã hội chủ nghĩa tại Nga và Đông Âu sụp đổ thì Mỹ không còn ‘quan tâm’ đến Việt Nam. Họ sẵn sàng đối đầu với Nga và Trung Quốc chứ không đối đầu với một nước nhỏ và trọng lượng không đáng kể như Việt Nam. Trước đây Mỹ can thiệp vào Việt Nam là muốn chặt đứt một mắt xích trong khối cộng sản, nay họ không còn nhu cầu đó.
Như chúng tôi đã phân tích trong các bài viết trước. Sau khi khối xã hội chủ nghĩa sụp đổ tại Nga và Đông Âu thì Mỹ và các nước dân chủ cho rằng chủ nghĩa cộng sản đã kết thúc, phe dân chủ đã toàn thắng. Vấn đề đối đầu giữa hai khối tự do dân chủ và độc tài cộng sản không cần đặt ra nữa, từ nay chỉ lo tập trung làm kinh tế. Tuy nhiên sau 40 năm hợp tác và chung sống với các nước độc tài thì Mỹ và các nước dân chủ đã nhận ra rằng thay vì mang lại sự cởi mở về dân chủ cho các nước độc tài trong quá trình phát triển kinh tế thì kết quả hoàn toàn ngược lại. Trung Quốc, Nga, Việt Nam… càng phát triển và có tiền thì họ càng đàn áp dân chúng mạnh hơn và càng ngày càng lộng hành, và "đe dọa" Mỹ và khối dân chủ.
Tất nhiên là sẽ như thế vì ý thức hệ cộng sản (độc tài) và dân chủ (tự do) như nước với lửa, chúng không thể nào chung sống với nhau. Thời gian "sống thử" giữa độc tài và dân chủ đã kết thúc.
Cuộc li dị lần này sẽ rất dứt khoát và không thể đảo ngược. Bắt đầu từ sự kiện Putin dùng vũ lực cưỡng chiếm bán đảo Crimea và hai tỉnh vùng Donbass của Ukraine. Mỹ và Châu Âu giật mình choàng tỉnh và đồng thuận lấy quyết định áp đặt cấm vận Nga từ đấy đến giờ. Quan hệ giữa Châu Âu và Nga không thể hàn gắn dù Putin đã dịu giọng đi rất nhiều. Trong vụ đầu độc một cựu sĩ quan Nga ở Anh, Mỹ và khối dân chủ đã trục xuất hơn 150 nhà ngoại giao Nga trên toàn thế giới, trước đó Obama cũng đã trục xuất 35 nhà ngoại giao Nga và đóng cửa hai cơ sở ngoại giao của Nga ở Mỹ… đây là những hành động chưa từng xảy ra suốt bốn thập niên qua, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Sự "trỗi dậy không hòa bình" của Trung Quốc với việc chiếm đóng và quân sự hóa Biển Đông, vung tiền cho dự án khổng lồ "một vành đai, một con đường" để gây ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới và cuối cùng là tham vọng không cần che giấu là sẽ thay thế Mỹ để trở thành siêu cường vào năm 2025… đã làm giọt nước tràn ly. Hiệp ước đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) ra đời là vì thế. Sự ngập ngừng và chậm chạp trong việc triển khai hiệp ước này của Obama đã được tiếp tục bằng các biện pháp dứt khoát và vỗ mặt của tổng thống dân túy Donald Trump. Trump đã vứt bỏ mọi nghi thức ngoại giao và phong cách cổ điển của các chính trị gia truyền thống để "đánh" trực diện Trung Quốc bằng việc áp thuế lên hàng hóa của Trung Quốc vào thị trường Mỹ.
Việc Trump "đánh" Trung Quốc là do trào lưu chống lại "sự bành trướng" của các nước độc tài mà Nga và Trung Quốc là đại diện đã đến lúc chín mùi chứ không phải vì Trump ghét Trung Quốc và Nga. Đừng quên là Trump đã tìm mọi cách xích lại gần với Putin nhưng đã bị quốc hội và tư pháp Mỹ ngăn cản và chống đối quyết liệt.
Trong bài phát biểu mới đây trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Trump đã công khai lên án các nước cộng sản và phe xã hội chủ nghĩa còn sót lại đồng thời kêu gọi "tất cả các quốc gia trên thế giới cần chống lại chủ nghĩa xã hội và sự bần cùng mà nó mang lại cho tất cả mọi người". Đây là lập trường chung của chính quyền Mỹ và các nước dân chủ mà Trump chỉ là người đại diện và phát ngôn.
Đường lối chung này đang được Châu Âu áp dụng với Việt Nam. Việt Nam là một nước độc tài nên cũng sẽ bị khối dân chủ "tấn công" mà cuộc khủng hoảng ngoại giao liên quan vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là "phát súng" mở màn. Đức đã chọn đúng thời điểm để biến một chuyện "nhỏ như con thỏ" thành một con voi. Chính quyền Việt Nam bị động hoàn toàn và không thể làm gì được trong vụ này. Nếu Việt Nam thừa nhận là đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và sẽ trả Thanh về Đức thì bộ mặt khủng bố của chính quyền cộng sản sẽ được cả thế giới và nhân dân Việt Nam biết đến và lên án. Khi đó quan hệ giữa Việt Nam và Châu Âu có thể càng khó khăn hơn.
Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục im lặng và lảng tránh thì Đức và Slovakia sẽ tiếp tục gây sức ép lên Việt Nam. Ông Bộ trưởng ngoại giao Slovakia đã tăng nhiệt khi đưa ra câu hỏi là nếu Việt Nam không đưa Trịnh Xuân Thanh về nước bằng máy bay mượn của Slovakia thì Thanh về Việt Nam bằng cách nào ? Ông công khai đe dọa : "Chúng tôi đang và đã sẵn sàng thực hiện các bước hạn chế theo quy định của Liên Hiệp Châu Âu". Như vậy đây không chỉ là quan hệ giữa Việt Nam và Slovakia mà là giữa Việt Nam với Liên Hiệp Châu Âu (EU). Đức đã chuyền bóng để Slovakia đá phạt 11m. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU có lẽ chỉ là một giấc mơ xa ngoài tầm tay và mọi việc không dừng ở đó. Hàng hóa của Việt Nam nhập vào EU sẽ gặp rất nhiều rào cản mà thủy hải sản là một ví dụ nhãn tiền sau khi bị "thẻ vàng" về nguồn gốc đánh bắt được cho là bất hợp pháp.
Thời gian ân hạn cho các chế độ độc tài đã kết thúc. Venezuela vừa bị 6 nước hàng xóm (Châu Mỹ) đệ đơn lên Tòa án Hình sự Quốc tế của Liên Hợp Quốc yêu cầu điều tra chính quyền Maduro về tội ác chống lại nhân loại. Bắc Triều Tiên sau khi bị Trung Quốc bỏ rơi đã nhanh tay bám lấy người anh em Hàn Quốc, hứa hẹn đủ điều để mong thoát nạn không bị thế giới trừng phạt…
Làn sóng dân chủ thứ ba bị khựng lại sau khi Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ đã chuyển mình thành làn sóng dân chủ thứ tư. Làn sóng này đang dần tích tụ thành một cơn cuồng phong và sẽ quét đi các nước độc tài còn sót lại trên thế giới dù đó là Trung Quốc, Nga hay Việt Nam.
"Làn sóng dân chủ thứ tư, bắt đầu từ năm 2010, nhắm vào các chế độ độc tài mở cửa về mặt kinh tế. Các chế độ này không thể tồn tại lâu hơn ; chúng không dựa trên một tư tưởng chính trị nào cả, ngay cả nếu đôi khi những khẩu hiệu nhàm chán, như "xây dựng chủ nghĩa xã hội", được nhắc lại một cách gượng gạo. Chúng thuần túy là những chế độ cướp bóc không nhân danh một lý tưởng nào hay một dự án chính trị nào. Chúng không có ngay cả một ảo tưởng. Chúng hoàn toàn dựa trên đàn áp để tồn tại. Tất cả đều là những chính quyền què quặt. Trong hai vế cần thiết của quyền lực chính trị, sự chính đáng và bạo lực, chúng chỉ có bạo lực và vì thế phải tận dụng bạo lực".
"Làn sóng dân chủ mới này cũng đang xô đẩy chế độ dân chủ giả dối tại Nga và hai chế độ cộng sản còn lại tại Việt Nam và Trung Quốc, nơi mà hai đảng cộng sản đã biến thành hai giai cấp bóc lột sống tách biệt với quần chúng phẫn nộ. Ngoài ra các chính quyền Trung Quốc và Việt Nam sẽ còn gặp bối rối lớn vì chính sách kinh tế dựa trên xuất khẩu không còn phù hợp với trật tự kinh tế hậu khủng hoảng".
"Cùng với làn sóng dân chủ này thế giới đang hoàn tất một cuộc chuyển hóa trọng đại để bước vào một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên đặt nền tảng trên những giá trị đã tạo ra sức mạnh của các nước tiên tiến : hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, môi trường và liên đới. Những thành tựu văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật và kinh tế quyết định chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc, với điều kiện có thể chế dân chủ ổn vững và lành mạnh để tiếp tục tồn tại. Giáo dục và đào tạo sẽ là cuộc thế chiến mới và là mặt trận sống còn của mọi dân tộc".
Dự án Chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận định rằng các chế độ độc tài đang phải sống những ngày tháng cuối một cách khó khăn và sẽ sớm bị đào thải.
Người Việt Nam phải làm gì để đón nhận cơ hội dân chủ hóa đất nước ?
Chỉ có một con đường duy nhất là tham gia và ủng hộ cho một tổ chức chính trị dân chủ đối lập đứng đắn với một giải pháp thay thế thích hợp cho đất nước và phù hợp dòng chảy lịch sử thì người Việt chúng ta mới có thể thay đổi được số phận của dân tộc mình.
Hãy lạc quan vì :
"Lý do quan trọng nhất để chúng ta vững lòng tin là hầu như tất cả mọi vấn đề, kể cả những vấn đề nghiêm trọng nhất, đều là những vấn đề đáng lẽ không có. Chúng đều do chế độ cộng sản mà có và vì thế cũng sẽ có giải pháp nhanh chóng một khi chế độ cộng sản đã chấm dứt".
Việt Hoàng
(30/09/2018)
(1) https://thongluan2016.blogspot.com/2018/09/slovakia-canh-cao-viet-nam-ve-hau-qua.html
(2) https://thoibao.de/buc-anh-hay-nhat-nam-2018-ve-moi-quan-giua-hai-nuoc-duc-viet
Một lần nữa trong hai năm liên tiếp, cũng thêm một lần nữa sau cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt với nguồn cơn khởi phát từ vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh", có những dấu hiệu rõ rệt cho thấy chính thể độc đảng ở Việt Nam mở một chiến dịch mới, nhưng chẳng mấy có hy vọng, nhằm vận động Liên minh Châu Âu (EU) thông qua Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA).
Ông Bruno Angelet, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Liên minh Châu Âu (EU) tại Hà Nội và Phó Thủ tướng Việt Nam Vương Đình Huệ, tại Hà Nội, ngày 21/11/2017.
Truyền thống nuốt lời
Vào đầu năm 2018, một quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam là Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ lại tiến hành một chuyến vận động EVFTA tại cuộc gặp song phương bên lề Hội nghị WEF Davos 2018 diễn ra tại Thuỵ Sĩ. Vào lần này, ông Huệ chỉ gặp được một quan chức bậc trung là Ủy viên Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ Johann Ammann. Kết quả cuộc vận động này vẫn chỉ là vài lời hứa hẹn chung chung.
Vào năm 2017, ông Vương Đình Huệ cũng đã có một chuyến "dân vận" ở Tây Âu và Đông Âu nhằm thuyết phục các nước Châu Âu mau chóng chấp thuận cho Việt Nam được tham gia vào EVFTA - một hiệp định mà lẽ ra Việt Nam sẽ có cơ hội được tham gia chính thức vào giữa năm 2018, nhưng vụ "bắt cóc Trịnh Xuân Thanh" dẫn đến cuộc khủng hoảng ngoại giao Đức - Việt đã khiến tương lai ấy trở nên quá bất định.
Tuy nhiên, các cuộc gặp của ông Vương Đình Huệ với giới chức Bỉ, Slovakia, Thụy Sĩ đều chỉ mang lại một kết quả chung chung : không có bất kỳ hứa hẹn, và càng không có bất kỳ cam kết miệng hay cam kết bằng văn bản nào từ giới chức các nước Châu Âu về việc sẽ hỗ trợ Việt Nam vận động nhằm sớm thông qua EVFTA.
Sau khi TPP đổ vỡ lần đầu vào đầu năm 2017 do Mỹ chính thức rút khỏi hiệp định này, chính thể Việt Nam chỉ còn EVFTA là hiệp định thương mại mang lại lợi lộc nhiều nhất ứng với đà xuất siêu của Việt Nam sang Châu Âu lên đến 25 tỷ USD mỗi năm - gần bằng giá trị nhập siêu lên đến 30 tỷ USD hàng năm (chỉ tính theo đường chính ngạch, chưa kể khoảng 20 tỷ USD nhập siêu theo đường tiểu ngạch) của Việt Nam từ Trung Quốc.
EVFTA, mặc dù đã được hoàn tất đàm phán từ cuối năm 2015, nhưng còn phải trải qua thủ tục ký và bỏ phiếu, phê chuẩn ở nghị viện các nước Châu Âu. Có đến 27 nước như vậy, mà chỉ cần một nước không đồng ý thì EVFTA coi như không thành và Việt Nam cũng "mất cả chì lẫn chài".
Lẽ tất nhiên, chính thể độc đảng ở Việt Nam đang hết sức muốn rằng EVFTA sẽ được Nghị viện Châu Âu thông qua ngay trong năm 2018, chứ chẳng bị kéo dài và cuối cùng chẳng đi đến đâu như số phận của Hiệp định TPP trước đây.
Vào tháng 11 năm 2017, giới quan chức ngoại giao Tây Âu - những người vốn đã từng tỏ ra dĩ hòa vi quý với Việt Nam trong không khí xã giao bất tận vô nghĩa và những cuộc đối thoại nhân quyền EU - Việt Nam chỉ nghe hứa không thấy làm - dường như một lần nữa "chiều" Việt Nam bằng những chuyến thăm nước này. Những gương mặt quan chức ngoại giao cao cấp của một số nước Tây Âu - Bộ Ngoại giao Thụy Điển Margot Wallström và Thứ trưởng ngoại giao Bỉ Dirk Achten - đã đến Việt Nam.
Nhưng ngay trước ngày diễn ra cuộc đối thoại nhân quyền thường kỳ của EU với chính quyền Việt Nam vào đầu tháng 12/2017, trong cuộc gặp tại Hà Nội với Đại sứ Bruno Angelet - Trưởng phái đoàn của EU tại Việt Nam, ông Vương Đình Huệ đã chứng tỏ một bài học nuốt lời từ giới chóp bu Việt Nam khi đưa ra yêu cầu "không nên đưa các lĩnh vực khác như nhân quyền vào EVFTA". Thêm một lần nữa, những quan chức Tây Âu theo chủ trương đối thoại mềm dẻo mà thiếu hẳn độ cứng rắn cần thiết đã phải nhận một bài học "đời đổi - não không đổi" từ phía giới quan chức Việt Nam.
Vào năm 2017, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã "tiến bộ" đến mức tống giam đến ít nhất 25 nhà hoạt động nhân quyền và xử tù blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh - người được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh tặng danh hiệu "Người phụ nữ can đảm quốc tế" đến 10 năm tù giam, chỉ vì Quỳnh viết bài phản đối và tố cáo nạn xả thải gây ra thảm họa ô nhiễm của Nhà máy Formosa cùng sự bao che quá trắng trợn của giới quan chức cao cấp Việt Nam.
Trong khi đó, hoạt động của Phong trào Lao Động Việt - một tổ chức xã hội dân sự độic lập đấu tranh cho quyền tự do thành lập công đoàn độc lập của công nhân ở Việt Nam, phù hợp với tiêu chí về lao động và quyền tự do nghiệp đoàn trong TPP lẫn EVFTA - vẫn bị chính quyền và công an cấm đoán nghiệt ngã. Trong năm 2017, Hoàng Bình - Phó chủ tịch của tổ chức này, đã bị công an Nghệ An bắt giam và xử tù nặng nề vào đầu năm 2018.
Trong bối cảnh không những không có bất kỳ cải thiện nào về nhân quyền mà còn khiến tình trạng này tồi tệ kinh khủng, chính quyền Việt Nam quả là khó mong đợi EVFTA sẽ được thông qua, hoặc được thông qua vào năm 2018 này.
2019 hay vô định ?
Vào thời gian này, đang diễn ra hai quan điểm khá trái ngược về kết cục của EVFTA trong năm 2018.
Trong buổi họp báo với phó chủ tịch Ngân hàng Đầu tư Châu Âu ngày 10/1/2018, Đại sứ Bruno Angelet - Trưởng phái đoàn EU tại Việt Nam - xác nhận việc Việt Nam bị EU cảnh cáo "thẻ vàng" về hoạt động đánh bắt cá trái phép là một thách thức. Tuy nhiên ông cho rằng "Việc có ký hay không ký hiệp định tự do thương mại không phụ thuộc vấn đề này có được giải quyết và thẻ vàng có được gỡ hay không. Nó có thể được ký dù thẻ vàng chưa được gỡ".
"EU đã có một lộ trình trong năm 2018 để EVFTA được ký kết và phê chuẩn", và "Đại sứ Bruno Angelet bày tỏ hy vọng đến đầu mùa hè năm nay, việc ký kết sẽ được thực thi để hiệp định được chuyển cho Nghị viện Châu Âu xem xét phê chuẩn" - theo tường thuật của báo chí nhà nước Việt Nam, nhưng lại rất cần xem xet tính khách quan của lối tường thuật này bởi không ít lần báo đảng đã "nhét chữ vào miệng" giới quan chức quốc tế.
Trong khi đó, "Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam có thể không được thông qua" là tựa đề của Bike, Europe, ngày 23/01/2018, dẫn nguồn từEU-Vietnam Free Trade Agreement Threatened (người dịch : Vũ Quốc Ngữ, Việt Nam Thời Báo). Theo đó, việc phê chuẩn EVFTA đang gặp khó khăn khi Quốc hội Châu Âu đặt câu hỏi về cách mà Việt Nam như một nhà nước cộng sản độc đảng đang đối xử công nhân của mình. Đặc biệt khi Việt Nam có với 93 triệu dân, được coi là một trong những con hổ Châu Á mà Nghị sĩ Bernd Lange nói rằng "Nếu không có tiến bộ về nhân quyền và đặc biệt là về quyền lao động thì thỏa thuận này không được Quốc hội Châu Âu phê chuẩn".
Ngay cả Đại sứ Bruno Angelet, nếu quả thật ông dự đoán rằng Nghị viện Châu Âu sẽ thông qua EVFTA vào mùa hè năm nay, cũng nói rằng ông chỉ là đại diện cho Chính phủ EU chứ không phải cho Nghị viện EU, và vì thế không thể chắc chắn được điều gì.
Sau tháng 11 và đầu tháng 12 năm 2017 ồn ào lẫn khoa trương với sự kiện Hội nghị thượng đỉnh APEC Đà Nẵng cùng một chiến dịch tuyên truyền "EVFTA sẽ thông qua vào đầu năm 2018", đến nay cả chính phủ Nguyễn Xuân Phúc lẫn hệ thống báo đảng đã im bặt.
Và sau một chuyến làm việc của Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh ở Bỉ vào cuối năm 2017 mà chẳng nghe hứa hẹn gì cụ thể, giới chóp bu Việt Nam đành phác ra một dự báo mới : tương lai thông qua EVFTA là vào năm… 2019.
Kết quả hầu như là con số 0 của Đối thoại nhân quyền EU - Việt Nam vào tháng 12/2017 cùng bản nghị quyết nhân quyền đầy sắc thái cứng rắn của Quốc hội EU trong cùng tháng đó đã cho thấy Châu Âu không còn chấp nhận tư thế dễ bị "ăn hiếp" bởi giới chóp bu Việt Nam quá quen mặc cả nhân quyền đổi lấy lợi ích thương mại, đồng thời dựng lên một bức tường đủ cao trước Hà Nội nếu muốn đạt được EVFTA.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 05/02/2018